Tải bản đầy đủ (.pdf) (57 trang)

BÁO CÁO THỰC TẬP-THỰC TRẠNG NGÀNH LOGISTICS VIỆT NAM VÀ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1003.5 KB, 57 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Ý nghĩa đề tài
Ngày nay, thuật ngữ logistics được sử dụng trong lĩnh vực kinh tế như một
ngành mang lại nhiều nguồn lợi to lớn. Theo Luật Thương mại Việt Nam, logistics là
một hoạt động thương mại do các thương nhân tổ chức thực hiện một hoặc nhiều công
đoạn bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho bãi, làm thủ tục hải quan và các loại
giấy tờ, tư vấn khách hàng, đóng gói, giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên quan
đến hàng hóa để hưởng phí thù lao. Hoặc hiểu một cách đơn giản, logistics là việc
thực hiện và kiểm soát toàn bộ hàng hóa cùng những thông tin có liên quan từ nơi
hình thành nên hàng hóa cho đến điểm tiêu thụ cuối cùng.
Theo tài liệu của Hiệp hội giao nhận và kho vận Việt Nam, cả nước có hơn
1.000 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực logistics. Dịch dụ logistics tại Việt Nam
đã có bước phát triển mạnh với nhiều loại hình dịch vụ khác nhau, góp phần quan
trọng vào việc lưu thông hàng hóa ở trong nước, phát triển thị trường, gia tăng kim
ngạch xuất nhập khẩu. Dịch vụ logistics ở Việt Nam chiếm khoảng từ 15-20% GDP.
Ước tính GDP nước ta năm 2006 khoảng 57,5 tỷ USD. Như vậy, chi phí logistics
chiếm khoảng 8,6-11,1 tỷ USD. Đây là một khoản tiền rất lớn. Nếu chỉ tính riêng khâu
quan trọng nhất trong logistics là vận tải, chiếm từ 40-60% chi phí thì cũng đã là một
thị trường dịch vụ khổng lồ.
Để hiểu được rõ ràng hơn về ý nghĩa và tính cần thiết của đề tài, chúng tôi xin
được phân tích khái quát hai khía cạnh :
Quy mô doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics nhỏ, rời rạc : Theo tính toán
mới nhất của Cục Hàng hải Việt Nam, lĩnh vực quan trọng nhất trong logistics là vận
tải biển thì DOANH NGHIỆP trong nước mới chỉ đáp ứng chuyên chở được 18% tổng
lượng hàng hóa xuất nhập khẩu, phần còn lại đang bị chi phối bởi các DOANH
NGHIỆP nước ngoài. Hiện tại, trên cả nước có khoảng 800-900 doanh nghiệp kinh
doanh trong lĩnh vực logistics. Tuy nhiên, các doanh nghiệp logistics tại Việt Nam
hiện chỉ đáp ứng được 1/4 nhu cầu thị trường logistics, và mới chỉ dừng lại ở việc
cung cấp dịch vụ cho một số công đoạn của chuỗi dịch vụ khổng lồ này. Điều này
thực sự là một thua thiệt lớn cho DOANH NGHIỆP Việt Nam khi có đến 90% hàng
hóa xuất nhập khẩu được vận chuyển bằng đường biển. Năm 2006 lượng hàng qua các


cảng biển Việt Nam là 153 triệu tấn và tốc độ tăng trưởng lên đến 19,4%. Đây thực sự
một thị trường mơ ước mà các tập đoàn nước ngoài đang thèm muốn và tập trung khai
phá.
=> Ngành công nghiệp logistics của Việt Nam hiện vẫn đang ở thời kỳ phôi
thai, phần lớn của hệ thống logistics chưa được thực hiện ở một cách thức thống nhất.
Cơ sở hạ tầng logistics tại Việt Nam nói chung còn nghèo nàn, bố trí bất hợp
lý: Hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông của VIỆT NAM bao gồm trên 17.000 km đường
nhựa, hơn 3.200 km đường sắt, 42.000 km đường thuỷ, 266 cảng biển và 20 sân bay.
Tuy nhiên chất lượng của hệ thống này là không đồng đều, có những chỗ chưa đảm
bảo về mặt kỹ thuật.
Nguồn nhân lực đang thiếu một cách trầm trọng: Theo ứơc tính của VIFFAS,
nếu chỉ tính các nhân viên trong các công ty hội viên (khỏang 140 ) thì tổng số khỏang
4000 người. Ðây là lực lượng chuyên nghiệp, ngoài ra ước tính khỏang 4000-5000
người thực hiện bán chuyên nghiệp. Nguồn nhân lực được đào tạo từ nhiều nguồn
khác nhau. Từ trước tới nay, các trường đại học, cao đẳng chuyên ngành ngoại
thương, hàng hải, giao thông vận tải cũng chỉ đào tạo chung các kiến thức cơ bản về
nghiệp vụ ngoại thương, vận tải. Sách giáo khoa, tài liệu tham khảo về loại hình dịch
vụ này cũng chưa nhiều. Ngay cả như các chuyên gia được đào tạo chuyên nghiệp
trong lĩnh vực này vẫn còn quá ít so với yêu cầu phát triển.
Áp lực cạnh tranh rất lớn từ việc hội nhập quốc tế: Hạn định 2009 mở cửa lĩnh
vực logistic không còn xa. Theo cam kết gia nhập WTO, Việt Nam sẽ cho phép các
công ty dịch vụ hàng hải, logistics 100% vốn nước ngoài hoạt động bình đẳng tại Việt
Nam. Điều này đặt doanh nghiệp Việt Nam trước thách thức cạnh tranh gay gắt trên
sân nhà. Sự lớn mạnh không ngừng của thị trường cũng như những đòi hỏi ngày càng
tăng từ phía khách hàng cũng đang đặt ra những thách thức không nhỏ cho các doanh
nghiệp logistic.
Bên cạnh đó, logistics không chỉ là ngành đem lại nguồn lợi khổng lồ mà còn
có vai trò to lớn, liên quan mật thiết tới sự cạnh tranh sống còn của doanh nghiệp:
Đối với nền kinh tế quốc dân, logistics đóng một vai trò quan trọng không thể
thiếu trong sản xuất, lưu thông, phân phối.

Đối với doanh nghiệp, logistics đóng vai trò to lớn trong việc giải quyết bài
tóan đầu vào và đầu ra một cách có hiệu quả. Logistics có thể thay đổi nguồn tài
nguyên đầu vào hoặc tối ưu hóa quá trình chu chuyển nguyên vật liệu, hàng hóa, dịch
vụ…logistics còn giúp giảm chi phí, tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Từ những phân tích trên, chúng ta có thể thấy ngành Logistic ở Việt Nam tuy
còn nhiều khó khăn, nhưng cơ hội phát triển luôn rộng mở. Và để làm được điều đó,
chúng ta không chỉ cần những nỗ lực ở nội tại, mà quan trọng hơn hết, là tiếp thu và
học hỏi kinh nghiệm từ các nước có ngành Logistics phát triển trên thế giới. Từ đó
đúc kết cho mình những tinh túy tốt nhất, và đưa ra hướng đi đúng đắn và phù hợp
nhất cho Logistic nước nhà. Chính vì thế, nhóm chúng tôi đã chọn đề tài :
"Nghiên cứu về logistics và các giải pháp phát triển logistics tại Việt Nam"
Để làm đề tài nghiên cứu lần này. Hy vọng với những kiến thức của mình, sự
nỗ lực nghiên cứu, chúng tôi sẽ có thể góp phần giải quyết những khó khăn, và đưa ra
hướng đi để có thể tận dụng được những cơ hội hiện có, giúp ngành Logistics của Việt
Nam có thể hoàn thiện và phát triển hơn nữa trong tương lai.
2. Mục đích
- Nghiên cứu kinh nghiệm của nhiều nước khác nhau trên thế giới từ đó
rút ra được những thành công và thất bại trong phát triển Logistics của nước bạn.
- Phân tích thực trạng ngành Logistics Việt Nam, những ưu điểm và
khuyết điểm cũng như cơ hội và khó khăn
- Dung hòa và gạn lọc để đưa ra các giải pháp phú hợp trong việc tìm ra
hướng phát triển cho hệ thống Logistics ở Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Kinh nghiệm phát triển trung tâm logistics của một số nước trên thế giới và giải
pháp phát triển trung tâm logistics cho Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu
Kinh nghiệm phát triển các trung tâm logistics cấp quốc gia của một số nước
như: Nhật Bản, Singapore…và các giải pháp phát triển hệ thống trung tâm logistics
cấp quốc gia cho Việt Nam.


4. Phương pháp nghiên cứu
- Đề tài được thực hiện theo phương pháp nghiên cứu lý luận dựa trên
nguyên tắc quy nạp: nghiên cứu các lý thuyết, các vấn đề liên quan đến viêc quản lý
logistics tại Việt Nam cũng như trên thế giới, xác định các vấn đề và đề ra biện pháp
giải quyết.
- Các dữ liệu cần thiết được thu thập theo phương pháp nghiên cứu tại
bàn, từ nhiều nguồn khác nhau: giáo trình “Logistics những vần đề cơ bản”, sách, báo
có liên quan, internet…
5. Tính mới của đề tài
- Không thể phủ nhận vấn đề “ Phát triển logistics tại Việt Nam” đã từng
được đề cập khá nhiều trước đây, không những có trong các đề tài nghiên cứu mà còn
có cả trong sách, báo, các tài liệu khác… Tuy nhiên, bài nghiên cứu của nhóm vẫn có
những điểm mới so với các nghiên cứu trước đây:
 Đã có sự cập nhật thêm những thông tin mới: việc cập nhật thêm thông
tin giúp cho các giải pháp thực tế hơn, gắn liền với tình hình hiện tại của Việt Nam.
 Phương pháp tiếp cận thông tin đa dạng: ngoài giáo trình, nhóm còn thu
thập thông tin từ những nguồn khác như sách, báo, internet…Việc này giúp nhóm có
được nhiều thông tin hơn, có thể đưa ra những nhận định khách quan.
 Cách hệ thống, sắp xếp, nhìn nhận thông tin có những điểm khác biệt:
ngoài việc phân tích các thông tin sẵn có, nhóm còn tiến hành so sánh với các quốc gia
khác để tìm ra vấn đề.
6. Bố cục của đề tài
- Gồm 3 phần chính:
 Chương I: Cơ sở lý luận về logistics
Chương 1 chủ yếu trình bày những kiến thức tổng quát nhất về các khái niệm,
đặc điểm cơ bản cũng như lịch sử hình thành và phát triển của ngành dịch vụ logistics.
 Chương 2: Thực trạng dịch vụ logistics tại Việt Nam
Chương 2 trình bày những thông tin tổng quát về sự hình thành, phát triển của
ngành dịch vụ logistics tại Việt Nam nói chung và tình hình thực tế của ngành nói

riêng, phân tích thực trạng rồi từ đó xác định những vấn đề mà ngành đang gặp phải.
 Chương 3: Các giải pháp phát triển logistics tại Việt Nam
Chương 3 đề cập đến những giải pháp và kiến nghị để phát triển ngành dịch vụ
logistics tại Việt Nam. Thông qua việc phân tích các vấn đề mà ngành đang gặp phải
cũng như tham khảo về sự phát triển logistics ở các quốc gia khác, đề ra những giải
pháp nhằm cải thiện ngành dịch vụ logistics tại Việt Nam không những trong ngắn
hạn mà còn hướng đến sự phát triển bền vững trong tương lai.

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LOGISTICS
1. Lịch sử hình thành và phát triển ngành logistic thế giới
2. Khái niệm Logistics
3. Đặc điểm và vai trò của Logistics
4. Phân loại và các nhân tố ảnh hướng đến hoạt động Logistics
5. Chất lượng dịch vụ Logistics và các tiêu chuẩn đánh giá
CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG DỊCH VỤ LOGISTICS Ở VIỆT NAM
1. Tổng quan về ngành logistics tại Việt Nam
2. Thực trạng Logistics tại Việt Nam
CHƯƠNG III : CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN LOGISTICS TẠI VIỆT
NAM
1. Các giải pháp ngắn hạn
2. Các giải pháp dài hạn
3. Một số kiến nghị với Nhà Nước nhằm đẩy mạnh hoạt động Logistics



CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LOGISTICS
1. Lịch sử hình thành và phát triển ngành logistic thế giới:
Logistics đã đóng vai trò nền tảng quan trọng trong quá trình phát triển toàn cầu trong
suốt gần 5000 năm nay. Từ những bước tiến cơ bản của ngành Logistics: phát minh ra
tàu mái chèo, các container chở hàng ,….đã góp phần tạo nên những bước tiến xa hơn

của nhân loại trong những thập niên gần đây. Hãy cùng điểm qua vài giai đoạn nổi bật
trong quá trình hình thành và phát triển của ngành này.
Khoảng 2700 năm trước công nguyên: Công nghệ xử lý vật liệu xây dựng các kim tự tháp.
Thậm chí đến ngày nay các nhà khoa học vẫn chưa thể giải thích với những thiết bị và
phương tiện vận tải sẵn có thời đại đó, người ta có thể vận chuyển và lắp ráp các khối đá
nặng hàng tấn một cách chính xác và hoàn hảo cao đến thế.
Khoảng năm 300 trước Công nguyên: Cuộc Cách mạng của người Hy Lạp về tàu có mái
chèo đã giúp tạo nền tảng mới của nền thương mại liên lục địa.

Khoảng năm 1200: tại thành phố Hamburg, Đứa, một mạng lưới quốc tế được thành lập là
Liên đoàn Hanseatic. Hanseatic đã giúp mở rộng hoạt động thương mại từ biển Đen đến
Reval, góp phần giúp ngành vận tải biển phát triển mạnh.
Khoảng năm 1500: Theo một thỏa thuận với Philipp của Burgundy, Franz von Taxis đã
thực hiện các dịch vụ bưu chính đến một số nơi như Paris, Ghent, …với thời gian vận
chuyển đúng quy định. Đánh dấu sự tiến bộ của ngành dịch vụ bưu chính ở Châu Âu.
Vào khoảng năm 1800: Việc sử dụng động cơ hơi nước, sự phát minh ra xe, đường sắt và
tàu cũng như các phát hiện dầu thô mở ra một kỷ nguyên kinh tế mới tạo ra nhiệm vụ mới,
công cụ và cơ hội cho vận chuyển hàng hóa.
Khoảng năm 1940: Vai trò của Logistics ngày càng được khẳng định, đặc biệt là trong 2
cuộc chiến tranh thế giới. Nó không chỉ dừng lại ở vai trò hỗ trợ việc vận chuyển quân
lươn, vũ khí của 2 bên, mà còn được mở rộng và áp dụng trong lĩnh vực kinh doanh.
1956: Việc phát minh ra container biển đã đánh dấu một bước tiến hóa của thương mại thế
giới và sự bùng nổ của dòng chảy hàng hoá quốc tế.
Khoảng năm 1970 - 1980: Sự ra đời của những mô hình cung ứng dịch vụ Logistics: một
loạt các hệ thống cung cấp dịch vụ Logistics với sự đảm bảo về chất lượng, thời gian, đáp
ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng: Kanban, JIT đã được phát triển và giới thiệu tại Nhật
Bản. Ông Taiichi Ohno (CEO của Toyota) và những cộng sự đã cho ra đời mô hình Toyota
Production System (TPS), với mục đích đạt dược hiệu quả tốt nhất với mức chi phí thấp
nhất. Mô hình này đang được nhiều doanh nghiệp, công ty trên thế giới vận dụng.
Khoảng năm 1990: Mô hình QR và ECR – sự nhấn mạnh đặc biệt hiệu quả trong phân

phối. Điều này giúp các công ty đẩy nhanh thời gian phản ứng để phát triển thị trường và
thiết lập hệ thống cung cấp hàng hóa một cách hiệu quả hơn.
Cho đến hôm nay: Thuật ngữ Quản trị chuỗi cung ứng xuất hiện ngày càng nhiều, cung
cấp cho nhà quản lý một cái nhìn toàn bộ, tổng quát hơn về chuỗi logistics từ nhà cung cấp
của nhà cung cấp đến khách hàng cuối cùng. Theo đó, quản lý chuỗi cung ứng là một hệ
thống cực kỳ tương tác phức tạp đòi hỏi phải theo dõi đồng thời nhiều mục tiêu mâu thuẫn
nhau.
Cạnh tranh toàn cầu đã bắt đầu phát sinh, lan nhanh trong những năm 1970, tăng tốc vào
những năm 1990 và vẫn đang trở thành một xu hướng tất yếu trong tương lai. Logistics
hiệu quả tạo ra một lợi thế cạnh quan trọng cạnh tranh cho các công ty đang mở rộng tại
các thị trường toàn cầu. Những thành công trong dây chuyền cung ứng quốc tế có thể cung
cấp nhiên liệu cho sự phát triển của thị trường toàn cầu.

2. Khái niệm Logistics:
Logistics là quá trình lên kế hoạch, áp dụng và kiểm soát các luồng chuyển dịch của
hàng hóa hay thông tin liên quan tới nguyên nhiên liệu vật tư (đầu vào) và sản phẩm
cuối cùng (đầu ra) từ điểm xuất phát tới điểm tiêu thụ.
Có thể minh họa sự kết hợp của logistics đầu vào và đầu ra trong sơ đồ sau:

Nguồn: vlr.vn
Logistics có thể tạm dịch một cách không sát nghĩa là “hậu cần”, nhưng có lẽ đến nay
Tiếng Việt chưa có thuật ngữ tương đương. Chúng ta có thể chấp nhận từ logistics
như một từ đã được Việt hóa, cũng tương tự như nhiều từ khác trong thực tế đã chấp
nhận như container, marketing…
Khía cạnh lịch sử
Về mặt lịch sử, thuật ngữ logistics bắt nguồn từ các cuộc chiến tranh cổ đại của đế chế
Hy Lạp và La Mã. Khi đó, những chiến binh có chức danh “Logistikas” được giao
nhiệm vụ chu cấp và phân phối vũ khí và nhu yếu phẩm, đảm bảo điều kiện cho quân
sỹ hành quân an toàn từ bản doanh đến một vị trí khác. Đây là một công việc có ý
nghĩa sống còn tới cục diện của chiến tranh, khi các bên tìm mọi cách bảo vệ nguồn

cung ứng của mình và tìm cách triệt phá nguồn cung ứng của đối phương. Quá trình
tác nghiệp đó dần hình thành một hệ thống mà sau này gọi là quản lý logistics.
Trong luật Việt Nam
Thuật ngữ logistics cũng đã được sử dụng chính thức trong Luật thương mại 2005, và
được phiên âm (một cách khá “ngộ nghĩnh”) theo tiếng Việt là “lô-gi-stíc”. Điều 233
Luật thương mại nói rằng:
“Dịch vụ logistics là hoạt động thương mại, theo đó thương nhân tổ chức thực hiện
một hoặc nhiều công việc bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ
tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì, ghi ký mã
hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên quan đến hàng hóa theo thỏa thuận với
khách hàng để hưởng thù lao.”
Định nghĩa mang tính học thuật
Hiện có nhiều định nghĩa học thuật về thuật ngữ logistics. Theo Hiệp hội các nhà
chuyên nghiệp về quản trị chuỗi cung ứng (Council of Supply Chain Management
Professionals - CSCMP), thì thuật ngữ này được định nghĩa khá đầy đủ như sau:
“Quản trị logistics là một phần của quản trị chuỗi cung ứng bao gồm việc hoạch định,
thực hiện, kiểm soát việc vận chuyển và dự trữ hiệu quả hàng hóa, dịch vụ cũng như
những thông tin liên quan từ nơi xuất phát đến nơi tiêu thụ để đáp ứng yêu cầu của
khách hàng. Hoạt động của quản trị logistics cơ bản bao gồm quản trị vận tải hàng hóa
xuất và nhập, quản lý đội tàu, kho bãi, nguyên vật liệu, thực hiện đơn hàng, thiết kế
mạng lưới logistics, quản trị tồn kho, hoạch định cung/cầu, quản trị nhà cung cấp dịch
vụ thứ ba. Ở một số mức độ khác nhau, các chức năng của logistics cũng bao gồm
việc tìm nguồn đầu vào, hoạch định sản xuất, đóng gói, dịch vụ khách hàng. Quản trị
logistics là chức năng tổng hợp kết hợp và tối ưu hóa tất cả các hoạt động logistics
cũng như phối hợp hoạt động logistics với các chức năng khác như marketing, kinh
doanh, sản xuất, tài chính, công nghệ thông tin.”
Khái niệm hậu cần/logistics liên quan đến kinh doanh bắt nguồn từ những năm 1950.
Điều này chủ yếu là do sự gia tăng trong việc cung cấp, vận chuyển trong một thế giới
toàn cầu hóa đòi hỏi phải có những nhà chuyên gia trong lĩnh vực này
"Logistics là một phần của quản lý chuỗi cung ứng kế hoạch, tạo ra và giám sát lưu

lượng hiệu quả, hiệu quả chi phí và lưu trữ hàng hóa, bán thành phẩm và sản phẩm
sản xuất cũng như thông tin liên quan giữa điểm gốc và điểm tiêu thụ để đáp ứng yêu
cầu của khách hàng "(Hội đồng Chuyên gia quản lý chuỗi cung cấp | CSCMP, 2007).
Ngoài ra, có thể hiểu Logistics là một hỗn hợp của một số ngành học chuyên nghiệp,
chẳng hạn như: 1. Kế hoạch 2. Kiểm soát 3. Chỉ đạo 4. Phối hợp 5. Dự báo 6. Kho bãi
và vận chuyển 7. Cơ sở vị trí 8. Quản lý tồn kho
Theo Hội đồng Quản lý hậu cần, hậu cần đã được định nghĩa như là một phần của quá
trình của chuỗi cung ứng kế hoạch, kiểm soát và thực hiện một dòng chảy có hiệu quả
và hiệu quả cho mục đích lưu trữ hàng hóa và dịch vụ và thông tin liên quan khác từ
điểm bắt điểm của tiêu dùng cuối cùng với một mục tiêu để đáp ứng các yêu cầu của
khách hàng hiện tại và tương lai.
Logistics là môn khoa học nghiên cứu tính quy luật của các hoạt động cung ứng và
đảm bảo các yếu tố tổ chức, vật chất và kỹ thuật, để cho quá trình chính yếu được tiến
hành đúng mục tiêu. Nó được coi như một nhánh của quá trình tạo ra một hệ thống
liên quan đến nguồn lực con người hơn là một hệ thống về máy móc. Điều này chỉ rõ
nguồn lực tập trung là con người với vai trò vừa là đối tượng, vừa là công cụ tác động,
vừa là chủ thể của quá trình.
Trong kinh doanh
Trong kinh doanh, logistics có thể hiểu như việc tập trung cả nội lực lẫn ngoại lực bao
hàm cả quá trình chu chuyển từ nhà "sản xuất gốc" đến "người tiêu dùng cuối cùng".
Chức năng chính của logistic bao gồm việc quản lý việc mua bán, vận chuyển, lưu
kho cùng với các hoạt động về tổ chức cũng như lập kế hoạch cho các hoạt động đó.
Người quản lý logistics kết hợp kiến thức tổng hợp của mỗi chức năng từ đó phối hợp
các nguồn lực trong tổ chức để vận hành. Có hai khác biệt cơ bản của logistics. Một
thì đánh giá một cách lạc quan, đơn giản coi đó như là sự chu chuyển ổn định của
nguyên liệu trong mạng lưới vận chuyển và lưu trữ. Một thì coi đó là một sự kết hợp
các nguồn lực (nhân lực, vật lực ) để tiến hành quá trình.
Trong quá trình sản xuất
Thuật ngữ này ám chỉ quá trình logistics trong các ngành công nghiệp. Mục đích của
nó là đảm bảo mỗi một máy móc thiết bị hay trạm làm việc được "nạp" đủ sản phẩm

với đúng số lượng, chất lượng và đúng lúc.
Vấn đề như vậy không phải là chỉ liên quan đến việc vận chuyển, mà còn là phâm
luồng và điều chỉnh các kênh xuyên suốt quá trình gia tăng giá trị và xoá bỏ những giá
trị không gia tăng. Logistics trong quá trình sản xuất được áp dụng cho cả những nhà
máy đang tồn tại hoặc mới được thành lập. Sản xuất chế tạo là một nhà máy với quá
trình thay đổi ổn định (có thể hiểu là một nhà máy thì luôn phải hoạt động nhưng với
một công suất ổn định). Máy móc được thay đổi vày thay mới.Theo đó sẽ là cơ hội cải
thiện hệ thống logistic trong sản xuất. Ngược lại, logistics sẽ cung cấp các "phương
tiện" cho việc đạt được hiệu quả mong muốn của khách hàng và hiệu quả sử dụng vốn
3. Đặc điểm và vai trò của Logistics
a. Đặc điểm của logistics
Các chuyên gia nghiên cứu về dịch vụ logistics đã rút ra một số đặc điểm cơ bản của
ngành dịch vụ này như sau:
* Logistics là tổng hợp các hoạt động của doanh nghiệp trên 3 khía cạnh chính,
đó là logistics sinh tồn, logistics hoạt động và logistics hệ thống
-Logistics sinh tồn có liên quan tới các nhu cầu cơ bản của cuộc sống. Logistics sinh
tồn đúng như tên gọi của nói xuất phát từ bản năng sinh tồn của con người, đáp ứng
các nhu cầu thiết yếu của con người: cần gì, cần bao nhiêu, khi nào cần và cần ở đâu.
Logistics sinh tồn là bản chất và nền tảng của hoạt động logistics nói chung.
-Logistics hoạt động là bước phát triển mới của logistics sinh tồn và gắn với toàn bộ
quá trình và hệ thống sản xuất các sản phẩm của doanh nghiệp. Logistics hoạt động
liên quan tới quá trình vận động và lưu kho của nguyên liệu đầu vào vào trong, đi qua
và đi ra khỏi doanh nghiệp, thâm nhập vào các kênh phân phối trước khi đi đến tay
người tiêu dùng cuối cùng.
-Logistics hệ thống giúp ích cho việc duy trì hệ thống hoạt động. Các yếu tố của
logistics hệ thống bao gồm các máy móc thiết bị, nguồn nhân lực, công nghệ, cơ sở hạ
tầng nhà xưởng, …
Logistics sinh tồn, hoạt động và hệ thống có mối liên hệ chặt chẽ, tạo cơ sở hình
thành hệ thống logistics hoàn chỉnh.
* Logistics hỗ trợ hoạt động của các doanh nghiệp: Logistics hỗ trợ toàn bộ quá

trình hoạt động của doanh nghiệp, ngay cả khi sản phẩm đã ra khỏi dây chuyền sản
xuất của doanh nghiệp và đến tay người tiêu dùng. Một doanh nghiệp có thể kết hợp
bất cứ yếu tố nào của logistics với nhau hay tất cả các yếu tố logistics tùy theo yêu cầu
của doanh nghiệp mình. Logistics còn hỗ trợ hoạt động của doanh nghiệp thông qua
quản lý di chuyển và lưu trữ nguyên vật liệu đi vào doanh nghiệp và bán thành phẩm
di chuyển trong doanh nghiệp.
* Logistics là sự phát triển cao, hoàn chỉnh của dịch vụ vận tải giao nhận, vận tải
giao nhận gắn liền và nằm trong logistics. Cùng với quá trình phát triển của mình,
logistics đã làm đa dạng khóa khái niệm vận tải giao nhận truyền thống. Từ chỗ chỉ
thay mặt khách hàng để thực hiện các khâu rời rạc như thuê tàu, lưu cước, chuẩn bị
hàng, đóng gói hàng, tái chế, làm thủ tục thông quan, … cho tới cung cấp dịch vụ trọn
gói từ kho đến kho (Door to Door). Từ chỗ đóng vai trò đại lý, người được ủy thác trở
thành một chủ thể chính trong các hoạt động vận tải giao nhận với khách hàng, chịu
trách nhiệm trước các nguồn luật điều chỉnh. Ngày nay, để có thể thực hiện nghiệp vụ
của mình, người giao nhận phải quản lý một hệ thống đồng bộ từ giao nhận tới vận tải,
cung ứng nguyên vật liệu phục vụ sản xuất kinh doanh, bảo quản hàng hóa trong kho,
phân phối hàng hóa đúng nơi, đúng lúc, sử dụng thông tin điện tử để theo dõi, kiểm
tra, … Như vậy, người giao nhận vận tải trở thành người cung cấp dịch vụ logistics.
* Logistics là sự phát triển hoàn thiện dịch vụ vận tải đa phương thức:
Trước đây, hàng hóa đi theo hình thức hàng lẻ từ nước xuất khẩu sang nước nhập
khẩu và trải qua nhiều phương tiện vận tải khác nhau, vì vậy xác suất rủi ro mất mát
đối với hàng hóa là rất cao, và người gửi hàng phải ký nhiều hợp đồng với nhiều
người vận tải khác nhau mà trách nhiệm của họ chỉ giới hạn trong chặng đường hay
dịch vụ mà họ đảm nhiệm. Tới những năm 60-70 của thế kỷ XX, cách mạng container
trong ngành vận tải đã đảm bảo an toàn và độ tin cậy trong vận chuyển hàng hóa, là
tiền đề và cơ sở cho sự ra đời và phát triển vận tải đa phương thức. Khi vận tải đa
phương thức ra đời, chủ hàng chỉ phải ký một hợp đồng duy nhất với người kinh
doanh vận tải đa phương thức (MTO-Multimodal Transport Operator). MTO sẽ chịu
trách nhiệm tổ chức thực hiện toàn bộ việc vận chuyển hàng hóa từ khi nhận hàng cho
tới khi giao hàng bằng một chứng từ vận tải duy nhất cho dù anh ta không phải là

người chuyên chở thực tế. Như vậy, MTO ở đây chính là người cung cấp dịch vụ
logistics.
b. Vai trò của logistics
* Vai trò của logistics đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân
Logistics là một chức năng kinh tế có ảnh hưởng sâu rộng đến toàn xã hội. Ở tầm của
nền kinh tế, logistics là mối liên kết kinh tế xuyên suốt gần như toàn bộ quá trình sản
xuất, lưu thông và phân phối hàng hoá. Nghiên cứu của Viện Nomura (Nhật Bản) cho
thấy chỉ riêng hoạt động logistics đã chiếm khoảng 15% GDP của mỗi nước. Do đó,
nếu nâng cao hiệu quả hoạt động logistics thì sẽ góp phần quan trọng nâng cao hiệu
quả kinh tế - xã hội. Logistics hỗ trợ cho luồng chu chuyển các giao dịch kinh tế.
Nền kinh tế chỉ có thể phát triển nhịp nhàng, đồng bộ một khi dây chuyền logistics
hoạt động liên tục, nhịp nhàng.
Hoạt động logistics hiệu quả làm tăng tính cạnh tranh của một quốc gia trên trường
quốc tế. Trình độ phát triển và chi phí logistics của một quốc gia được xem là một
căn cứ quan trọng trong chiến lược đầu tư của các tập đoàn đa quốc gia. Những quốc
gia có hệ thống cơ sở hạ tầng bảo đảm, hệ thống cảng biển tốt…sẽ thu hút được đầu tư
từ các công ty hay tập đoàn lớn trên thế giới. Điều này tác động mạnh mẽ đến khả
năng hội nhập của nền kinh tế. Sự phát triển vượt bậc của Singapore, Hồng Kông và
gần đây là Trung Quốc đã là những minh chứng sống động cho việc thu hút đầu tư
nước ngoài nhằm tăng trưởng xuất khẩu, tăng GDP thông qua việc phát triển cơ sở hạ
tầng và dịch vụ logistics.
* Vai trò của logistics đối với doanh nghiệp
Đối với các doanh nghiệp, logistics đóng vai trò rất to lớn. Logistics giúp giải quyết
cả đầu ra lẫn đầu vào của doanh nghiệp một cách hiệu quả. Nhờ có thể thay đổi các
nguồn tài nguyên đầu vào hoặc tối ưu hoá quá trình chu chuyển nguyên vật liệu, hàng
hoá, tăng khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp. Có nhiểu doanh nghiệp thành công
lớn nhờ có được chiến lược và hoạt động logistics đúng đắn, ngược lại có không ít
doanh nghiệp gặp khó khăn, thậm chí thất bại, phá sản do có những quyết định sai lầm
trong hoạt động logistics, ví dụ: chọn sai vị trí, chọn nguồn tài nguyên cung cấp sai,
dự trữ không phù hợp, tổ chức vận chuyển không hiệu quả…Ngày nay để tìm được vị

trí tốt hơn, kinh doanh hiệu quả hơn, các tập đoàn đa quốc gia, các công ty đủ mạnh đã
và đang nỗ lực tìm kiếm trên toàn cầu nhằm tìm được nguồn nguyên liệu, nhân công,
vốn, bí quyết công nghệ, thị trường tiêu thụ, môi trường kinh doanh…tốt nhất và dẫn
tới việc hoạt động logistics mang tính toàn cầu hình thành và phát triển.
Logistics góp phần nâng cao hiệu quả quản lý, giảm thiểu chi phí, nhằm nâng cao
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Nhờ hoạt động logistics mà doanh nghiệp
giành được thế chủ động trong việc chọn nguồn cung cấp nguyên liệu, công nghệ sản
xuất, thiết kế mẫu mã, tìm kiếm thị trường tiêu thụ thông qua nhiều kênh phân phối
khác nhau…Đồng thời, có thể chủ động trong việc lên kế hoạch sản xuất cũng như
quản lý hàng tồn kho và giao hàng đúng hạn với một mức tổng chi phí là thấp nhất.
Logistics còn giúp giảm chi phí thông qua việc tiêu chuẩn hoá chứng từ. Theo các
chuyên gia ngoại thương, giấy tờ rườm rà chiếm một khoản chi phí không nhỏ trong
mậu dịch quốc tế và vận chuyển. Logistics đã cung cấp các dịch vụ đa dạng trọn gói
có tác dụng giảm rất nhiều các chi phícho giấy tờ, chứng từ trong buôn bán quốc tế.
Dịch vụ vận tải đa phương thức do người kinh doanh dịch vụ logistics cung cấp đã
loại bỏ đi rất nhiều chi phí cho giấy tờ thủ tục, chuẩn hoá và nâng cấp chứng từ cũng
như giảm khối lượng công việc văn phòng trong lưu thông hàng hoá, từ đó nâng cao
hiệu quả buôn bán quốc tế.
Sự phát triển của công nghệ thông tin đã làm tăng sự hài lòng và giá trị cung cấp cho
khách hàng của dịch vụ logistics. Đứng ở góc độ này, logistics được xem là công cụ
hiệu quả để đạt được lợi thế cạnh tranh lâu dài về sự khác biệt hoá và tập trung.
Bằng những ưu điểm vượt trội của mình, logistics đã đóng vai trò then chốt trong việc
đưa sản phẩm đến đúng nơi cần đến, vào đúng thời điểm thích hợp. Vì vậy, cũng có
thể nói rằng logistics là “trợ thủ đắc lực” cho hoạt động marketing hỗn hợp 4P
(right product, right price, proper promotion and right place - sản phẩm đúng yêu
cầu, giá cả đúng mực, quảng bá đúng độ, địa điểm đúng chỗ).
Mục đích của sản xuất kinh doanh là lợi nhuận. Muốn đạt được lợi nhuận như mong
muốn phải đưa ra được phương án sản xuất kinh doanh tối ưu. Logistics với mục tiêu
là “cung cấp hàng hoá/dịch vụ cho khách hàng với tổng chi phí nhỏ nhất” – cho phép
người quản lý kiểm soát và ra quyết định kinh doanh chính xác, nhằm đảm bảo hiệu

quả trong sản xuất kinh doanh.

4. Phân loại và các nhân tố ảnh hưởng đến họat động Logistics
4.1. Phân lọai
a. Phân loại theo hình thức logistics
Căn cứ vào phân công lao động và tính chuyên nghiệp của các doanh nghiệp có
các mô hình nhà cung cấp dịch vụ logistics (LSP – Logistics Service Provider) như
sau:
- Logistics bên thứ nhất (1PL – First Party Logistics)
Người chủ sở hữu hàng hoá tự mình tổ chức và thực hiện các hoạt động logistics để
đáp ứng nhu cầu của bản thân. Theo đó, chủ hàng phải đầu tư vào các phương tiện vận
tải, kho chứa hàng, hệ thống thông tin, nhân công để quản lý và vận hành hoạt động
logistics. First Party Logistics làm phình to quy mô của doanh nghiệp và thường làm
giảm hiệu quả kinh doanh, vì doanh nghiệp không có đủ quy mô cần thiết, kinh
nghiệm và kỹ năng chuyên môn để quản lý và vận hành hoạt động logistics.
- Logistics bên thứ hai (2PL – Second Party Logistics)
Người cung cấp dịch vụ logistics bên thứ hai là người cung cấp dịch vụ cho một
hoạt động đơn lẻ trong chuỗi các hoạt động logistics (vận tải, kho bãi, thủ tục hải
quan, thanh toán…) để đáp ứng nhu cầu của chủ hàng, chưa tích hợp hoạt động
logistics. Loại hình này bao gồm: các hãng vận tải đường biển, đường bộ, đường hàng
không, các công ty kinh doanh kho bãi, khai thuê hải quan, trung gian thanh toán…
- Logistics bên thứ ba (3PL – Third Party Logistics)
Người thay mặt cho chủ hàng quản lý và thực hiện các dịch vụ logistics cho từng
bộ phận chức năng, như: thay mặt cho người gửi hàng thực hiện thủ tục xuất khẩu và
vận chuyển nội địa hoặc thay mặt cho người nhập khẩu làm thủ tục thông quan và vận
chuyển hàng hoá tới địa điểm đến quy định. Do đó, 3PL bao gồm nhiều dịch vụ khác
nhau, kết hợp chặt chẽ việc luân chuyển, tồn trữ hàng hoá, xử lý thông tin…và có tính
tích hợp vào dây chuyền cung ứng của khách hàng.
- Logistics bên thứ tư (4PL – Fourth Party Logistics)
Người tích hợp (integrator) - người hợp nhất, gắn kết các nguồn lực tiềm năng và

cơ sở vật chất khoa học kỹ thuật của mình với các tổ chức khác để thiết kế, xây dựng
và vận hành các giải pháp chuỗi logistics. 4PL chịu trách nhiệm quản lý dòng lưu
chuyển logistics, cung cấp giải pháp dây chuyền cung ứng, hoạch định, tư vấn
logistics, quản trị vận tải…4PL hướng đến quản trị cả quá trình logistics, như nhận
hàng từ nơi sản xuất, làm thủ tục sản xuất, nhập khẩu, đưa hàng đến nơi tiêu thụ cuối
cùng.
- Logistics bên thứ năm (5PL – Fifth Party Logistics)
Hình thức này phát triển nhằm phục vụ cho thương mại điện tử, các nhà cung cấp
dịch vụ 5PL là các 3PL và 4PL đứng ra quản lý toàn chuỗi phân phối trên nền tảng
thương mại điện tử.
b. Phân loại theo quá trình
- Logistics đầu vào (in bound logistics)
Là các hoạt động đảm bảo cung ứng tài nguyên đầu vào (nguyên liệu, thông tin,
vốn…) một cách tối ưu cả về vị trí, thời gian và chi phí cho quá trình sản xuất.
- Logistics đầu ra (out bound logistics)
Là các hoạt động đảm bảo cung cấp thành phẩm đến tay người tiêu dùng một cách tối
ưu cả về vị trí, thời gian và chi phí nhằm đem lại lợi nhuận tối đa cho doanh nghiệp.
- Logistics ngược (reverse logistics)
Là quá trình thu hồi các phụ phẩm, phế liệu, phế phẩm, các yếu tố ảnh hưởng đến môi
trường phát sinh từ quá trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng trở về để tái chế hoặc
xử lý.
c. Phân loại theo đối tượng hàng hoá
- Logistics hàng tiêu dùng nhanh (FMCG logistics)
Là quá trình logistics cho hàng tiêu dùng có thời hạn sử dụng ngắn như: quần áo, giày
dép, thực phẩm…
- Logistics ngành ô tô (automotive logistics)
Là quá trình logistics phục vụ cho ngành ô tô.
- Logistics hoá chất (chemical logistics)
Là hoạt động logistics phục vụ cho ngành hoá chất, bao gồm cả hàng độc hại, nguy
hiểm.

- Logistics hàng điện tử (electronic logistics)
Là hoạt động logistics phục vụ cho ngành hàng điện tử.
- Logistics dầu khí (petroleum logistics)
Là hoạt động logistics phục vụ cho ngành dầu khí.

4.2. Nhân tố ảnh hưởng đến phát triển dịch vụ logistic
Logistic ngày càng trở thành một ngành nghể, 1 lĩnh vực góp phần quan trọng trong
việc phát triển kinh tế của một đất nước, đặc biệt trong nền kinh tế có xu hướng hội
nhập với thế giới như hiện nay. Các quốc gia ngày càng chú trọng nhiều hơn đến việc
phát triển ngành logistic, nhưng sự phát triển của ngành này còn phải xem xét theo
nhiều nhân tố và khía cạnh khác nhau

4.2.1. Yếu tố chính trị, pháp luật
Logistic là hoạt động quản lý chuỗi cung ứng hay quản lý chuỗi hệ thống phân
phối, có liên quan trực tiếp tới các hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa với nước
ngoài. Do đó, mà hoạt động logistic chịu ảnh hưởng rất nhiều của các chính sách, điều
khoản và bộ luật dành cho lĩnh vực này. Thế giới cũng đã ban hành bộ luật chung để
quy định các quy định dành cho các hoạt động trong logistic như luật Incoterm 2012
Không chỉ chịu ảnh hưởng của những bộ luật thế giới, những chính sách, quy định của
riêng từng nước, dù là nước nhập khẩu hay xuất khẩu.
Ví dụ với Việt Nam: Luật Thương mại Việt Nam quy định hoạt động logistics là
hành vi thương mại, công việc chính là cung cấp các dịch vụ phục vụ vận tải hàng
hóa, tổ chức vận chuyển nhưng khi đảm nhận việc vận chuyển thì phải tuân theo pháp
luật về vận chuyển. Tuy nhiên, hiện nay luật cũng chưa cụ thể hóa quy chế cùa
người chuyên chở không có tàu (NVOCC-Non-vessel operating of common canìer)
trong pháp luật về logistics. Việc cấp phép hoạt động cho các công ty tư nhân của
chính quyền địa phương lại được thực hiện đại trà mà không xem xét khả năng tài
chính, cơ sở vật chất của đơn vị xin phép họạt động. Các quy định về dịch vụ phát
chuyển nhanh hiện nay còn coi là dịch vụ bưu điện chứ chưa đựơc coi là một lọai hình
dịch vụ logistics và còn chịu sự điều tiết của các nghị định, thông tư về bưu chính viễn

thông. Đây là điều rất bất hợp lý. Ví dụ trong giao nhận chính quyền TW và chính
quyên địa phương có nhiều quy định làm cho việc giao nhận hàng khó khăn và tốn
kém hơn: cấm xe tải hoạt động trong thành phổ; phải có giấy phép chuyên chở hàng
hóa quá tải, quá khổ, các doanh nghiệp giao nhận vận tải phai co nhiễu loại giấy phép
từ các cơ quan khác nhau cho một chuyến hành trình (Ví dụ: từ Hà Nội đến TP. Hồ
Chí Minh). Các rào cản phi thuế quan trong logstics Nhà nước chưa có chính sách mở
cửa rộng hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào hoạt động logistics tại Việt
Nam. Còn phân biệt đổi xử trong thuế và biểu phí cảng biển. Thủ tục thông quan còn
nhiều khó khăn, phức tạp, mất nhiều thới gian và chi phí. Do sự không rõ ràng và
thiếu sót trong những chính sách của Việt Nam, mà gây e ngại đối với các nước đối
tác khi có ý định mua hàng từ công ty Việt Nam, cũng là ảnh hưởng chung, kìm hãm
sự phát triển của ngành logistics tại Việt Nam.

4.2.2. Yếu tố kinh tế
Nền kinh tế phát triển nhanh hay chậm, lạm phát tăng, biến động về tỷ giá hối
đoái, khủng hoảng kinh tế, giá xăng dầu tăng…tất cả đều có ảnh hưởng rất lớn đến các
hoạt động logistics. Giải thích đơn giản thì là vì ngành logistics vốn đã là một ngành
nằm trong lĩnh vực kinh tế, mà từng thành phần trong nền kinh tế lại có những mối
quan hệ mật thiết với nhau, một biến động nhỏ cũng có thể ảnh hưởng nghiêm trọng
đến những thành phần khác, ngược lại, một yếu tố thay đổi cũng có thể tạo nên thuận
lợi và tiềm năng cho ngành phát triển. Ví dụ khi xảy ra sự bất ổn trong nền kinh tế
toàn cầu, đương nhiên là các hoạt động của doanh nghiệp cũng sẽ suy giảm, họ cũng
hạn chế hơn trong việc mua bán hàng hóa quốc tế, chi phí cho việc vận chuyển cũng
sẽ tăng lên, ảnh hưởng không ít đến hoạt động logistics, lấy một sự việc cụ thể hơn:
Năm 2011, các hãng tàu container đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn
trong môi trường hoạt động do các yếu tố bất ổn như: (i) giá dầu tiếp tục ở mức cao
trong khi giá cước khó trở lại mức đỉnh điểm năm 2010, và (ii) nguồn cung tàu được
dự kiến sẽ tăng nhanh hơn nhu cầu khi mà sự phục hồi của nền kinh tế toàn cầu vẫn
còn mong manh. Biểu hiện rõ nét nhất là kết quả kinh doanh quý 3/2011 khi đa phần
các hãng tàu báo cáo lỗ với lợi nhuận biên hoạt động âm. Theo hãng Drewy thì năm

nay tổng số lỗ của các hãng tàu sẽ ở mức 2.5 – 3 tỷ đôla so với mức lời 11.7 tỷ đôla
năm 2010. Việc thua lỗ nặng đang khiến một số hãng tàu nhỏ gặp nhiều khó khăn và
có kế hoạch rút khỏi ngành vận tải. Cụ thể như MISC đã công bố sẽ bỏ bộ phận kinh
doanh vận tải container từ tháng 06/2012 vì trong 4 năm vừa qua MISC lỗ tổng cộng
gần 1 tỷ USD hay như hãng tàu Zim, với kết quả Quý 3 lỗ 63 triệu USD.
Cùng với sự khó khăn chung của ngành vận tải toàn cầu, các công ty hoạt động
trong lĩnh vực vận tải biển tại Việt Nam cũng có kết quả kinh doanh không mấy lạc
quan. Hầu hết các doanh nghiệp đều có kết quả lợi nhuận âm hoặc lợi nhuận tăng
trưởng âm. Sự khó khăn trong hoạt động kinh doanh vận tải biển khiến các doanh
nghiệp này phải bán đi các tài sản nhằm đảm bảo nguồn tiền cho hoạt động.
Từ dẫn chứng trên, có thể nhận định đây được coi là yếu tố quan trọng nhất ảnh
hưởng đến sự phát triển của logistics
4.2.3. Yếu tố cơ sở hạ tầng và điều kiện tự nhiên
Một trong những tiêu chí để một doanh nghiệp đánh giá xem một đất nước mà
ngàh logistics có phát triển mạnh hay không, chính là ở cơ sở hạ tầng và điều kiện tự
nhiên của nước đó.
Điều kiện tự nhiên ở đây có thể hiểu cụ thể hơn thì chính là vị trí địa lý, đường bờ
biển, sự bằng phẳng của địa hình và vị trí tiếp giáp với các nước khác. Một đất nước
có những vị trí tiếp giáp, có bờ biển chung với nhiều nước, thì sẽ trở thành một trong
những lựa chọn hàng đầu của các nước láng giềng, cộng thêm, khi một nước có đường
bờ biển thuận lợi để xây dựng cảng biển, hiển nhiên một nước có nhiều cảng biển,
cũng sẽ thu hút nhiều tàu hàng cập bến, các công ty dịch vụ logistics sẽ có cơ hội
nhiều hơn để phát triển. Ngoài ra, thì cơ sở hạ tầng cũng là thành phần không thể thiếu
trong logistics. Việt Nam vốn là một nước có đầy đủ các điều kiện tự nhiên, vị trí địa
lý đẹp, nhưng cơ sở hạ tầng lại là yếu tố kìm hãm sự phát triển, làm cho ngành
logistics ở Việt nam vẫn không thể vượt qua được các nước phát triển, có đầy đủ cơ sở
vật chất, hạ tầng.
Nói riêng về cơ sở hạ tầng ở thành phố Hồ Chí Minh,số lượng và diện tích bến bãi còn ít chỉ chiếm
khoảng 0,1% diệntích đô thị. Các bến xe liên tỉnh do tập trung ở trong nội đô, có vị trí
không phù hợp, bị hạn chế về mặt bằng nên làm phức tạp thêm cho giao thông đô thị.Hệ thống

bến bãi chuyên nghiệp chưa hình thành. TP.HCM có khoảng 948 km sông kênh được sử dụng
để vận tải gồm: 553 km cho phép tàu thuyền lớn qua lại, 95 km kênh rạch cho các phương tiện nhỏ
đi lại và kết hợp làm kênh thoát nước, 200 km kênh rạch phục vụ vận tải bằng phương tiện vừa và
nhỏ. Các cảng biển khu vực TP.HCM nằm quá sâu trong đô thị như Tân Cảng,cảng Sài Gòn,
cảng Bến Nghé, cảng Tân Thuận; các cảng biển khác mới xâydựng như cảng VICT, cảng
Nhà Bè cũng nằm không xa khu nội đô. Công suất của các cảng đạt hơn 30 triệu tấn, chiếm
trên 30% tổng lượng hàng hóa xuất khẩu của Vùng. Do không có đường bộ, đường sắt
chuyên dụng nối với cảng mà trực tiếp sử dụng chung mạng đường nội đô nên gây ùn tắc giao
thông đô thị, làm giảm công suất của các cảng do khó khăn khi rút hàng khỏi cảng.
Vì vậy, để có một sự phát triển toàn diện, cần phải có sự kết hợp của cả điều kiện tự nhiên lẫn
cơ sở hạ tầng.

4.2.4. Sự cạnh tranh
Trong kinh doanh, cho dù là bất kỳ một lĩnh vực nào cũng sẽ gặp sự cạnh tranh
từ các đối thủ. Ngành logistics cũng vậy, việc gặp phải sự cạnh tranh là khó tránh
khỏi, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước, doanh nghiệp trong nước và nước
ngoài. Sự cạnh tranh có khi là yếu tố để thúc đẩy cho sự phát triển, nhưng cũng có lúc
lại kìm hãm sự phát triển này.

CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG DỊCH VỤ
LOGISTICS TẠI VIỆT NAM

I/ Tổng quan về ngành logistics Việt Nam
1. Nhìn lại ngành logistics Việt Nam:
Trong những năm gần đây, dịch vụ logistics Việt Nam phát triển mạnh mẽ và được
chuyên môn hóa với mức độ khá cao, trở thành một trong những ngành dịch vụ xương
sống của hoạt động thương mại quốc tế. Khối ASEAN đang coi trọng tăng cường hội
nhập ngành logistics trong khu vực, coi đây là mắt xích quan trọng để liên kết các
công đoạn sản xuất và vận chuyển giữa các nước trong khu vực.
Đầu thập niên 90 thế kỷ trước, Việt Nam chỉ có một vài doanh nghiệp giao nhận quốc

doanh, đến nay đã có 800-900 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực logistics. Trong
đó, Hiệp hội Giao nhận kho vận Việt Nam (VIFFAS) có 97 hội viên (77 hội viên
chính thức và 20 hội viên liên kết). Logistics là một ngành dịch vụ đầy tiềm năng ở
Việt Nam, với tốc độ phát triển trung bình 20%/năm. Chính sự hấp dẫn này nên thị
trường logistics Việt Nam đã thu hút nhiều nhà đầu tư nước ngoài. Hầu hết các tập
đoàn logistics lớn trên thế giới đã có mặt tại Việt Nam.
Theo Cục Hàng hải Việt Nam, lĩnh vực quan trọng nhất trong logistics là vận tải biển.
Hiện nay có đến 90% hàng hóa xuất nhập khẩu của Việt Nam được vận chuyển bằng
đường biển. Tuy nhiên, các doanh nghiệp trong nước mới chỉ đáp ứng chuyên chở
được 18% tổng lượng hàng hóa xuất nhập khẩu; phần còn lại do các công ty logistics
nước ngoài nắm giữ.
Năm 2009, Ngân hàng Thế giới đã xếp Việt Nam đứng hạng 53 thế giới và hạng 5
trong khu vực ASEAN về hiệu quả hoạt động logistics. Tuy nhiên, ngành logistic ở
Việt Nam vẫn chưa được các doanh nghiệp khai thác hết tiềm năng
Việt Nam đã tham gia lộ trình hội nhập ngành logistics trong ASEAN đạt kết quả
bước đầu, tuy nhiên, vẫn còn nhiều việc phải làm để thúc đẩy ngành này phát triển.
Thị trường tiềm năng nhưng còn sơ khai Theo báo cáo của Bộ Công thương, dịch vụ
logistics ở Việt Nam chiếm từ 15 đến 20% GDP, tương đương khoảng 12 tỷ USD.
Nếu chỉ tính khâu quan trọng nhất trong logistics là vận tải, chiếm từ 40 đến 60% chi
phí thì đây là một thị trường lớn.
Với việc Việt Nam thực hiện các cam kết về tự do hoá dịch vụ logistics trong WTO và
Hội nhập ASEAN về logistics theo lộ trình 4 bước đến năm 2014 là: (1) Tự do hoá
thương mại, dỡ bỏ rào cản thuế; (2) Tạo cơ hội cho doanh nghiệp trong lĩnh vực
Logistics; (3) Nâng cao năng lực quản lý Logistics và (4) Phát triển nguồn nhân lực.
Bối cảnh đó đặt ra nhiều cơ hội và thách thức cho ngành logistics ở Việt Nam. Trước
hết là cơ hội để phát triển logistics của Việt Nam là tiếp cận được thị trường logistics
rộng lớn hơn với những ưu đãi thương mại để thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ;
phát huy lợi thế địa lý - chính trị trong phát triển cơ sở hạ tầng logistics như phát triển
cảng nước sâu, sân bay quốc tế, hệ thống đường sắt xuyên Á, các trung tâm logistics;
Hội nhập logistics tạo cơ hội cho Việt Nam phát triển quan hệ đối tác, thị trường xuất

khẩu được mở rộng, góp phần cơ cấu lại nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng
2. Những tiềm năng trong thời kỳ hội nhập:
a. Hoạt động thương mại tăng trưởng mạnh khi hội nhập ngày càng sâu
rộng
Kinh tế Việt Nam phát triển nhanh chóng
Thập niên qua chứng kiến sự hội nhập mạnh mẽ của Việt Nam với khu vực
và thế giới. Nền kinh tế phát triển nhanh chóng với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân
đạt 7.35% - thuộc nhóm phát triển cao nhất ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương.
Việt Nam trở thành điểm đến của các dòng vốn nước ngoài bởi sự hấp dẫn của một thị
trường 80 triệu dân, tiềm năng cả về sức tiêu thụ và nguồn lao động giá rẻ.
 Sản xuất công nghiệp và thương mại quốc tế tăng nhanh
Lĩnh vực sản xuất công nghiệp tăng trưởng nhanh khi Việt Nam trở thành thị trường
gia công hàng hoá tương đối kinh tế cho các mặt hàng may mặc, điện tử và cơ khí.
Cùng với sự phát triển hoạt động xuất khẩu đối với một số ngành hàng nông nghiệp,
lưu lượng hàng hoá giao thương quốc tế của Việt Nam đã đạt mức tăng trưởng trung
bình 23.5%/năm. Quy mô thị trường bán lẻ nhờ đó cũng tăng ổn định ở mức trên
20%/năm.
 Nền kinh tế hội nhập ngày càng sâu rộng vào sân chơi quốc tế
Sau gần ba năm gia nhập WTO, Việt Nam đang thể hiện sự hội nhập ngày càng mạnh
mẽ vào kinh tế khu vực và quốc tế với kim ngạch xuất nhập khẩu hai chiều đạt khoảng
150 tỉ USD/năm, tương đương hơn 160% tổng GDP quốc gia. Bên cạnh đó, Việt Nam
đã chủ động và tích cực tham gia vào các diễn đàn hợp tác kinh tế quốc tế có uy tín
như AFTA, ASEM, APEC, WEF và các khuôn khổ hợp tác khu vực tiểu vùng
Mekong. Nhiều thỏa thuận kinh tế quan trọng cung cấp nguồn FDI và ODA từ Mỹ,
EU, Nhật Bản đã được thực hiện cho thấy triển vọng phát triển của thương mại Việt
Nam trong dài hạn. ADB đánh giá tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong năm 2010
và 2011 vẫn đạt mức tương ứng là 6.5% và 6.8%.
b. Ngành kinh doanh trẻ, có tốc độ tăng trưởng cao
 Lĩnh vực logistics Việt Nam phát triển từ lâu nhưng chưa chuyên nghiệp
Logistics – lĩnh vực cung ứng chuỗi dịch vụ giao nhận, kho bãi, vận tải (đường

biển/sắt/sông/bộ/hàng không) - mới chỉ được quan tâm đầu tư phát triển ở Việt Nam
cách đây khoảng 10 năm nhờ quá trình mở cửa kinh tế quốc tế. Trước đó, Việt Nam
có những tổng công ty nhà nước kinh doanh lâu năm trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng và
vận tải như Vinalines, Vietnam Airlines, Vietnam Railway cùng gần 1000 doanh
nghiệp kinh doanh giao nhận. Tuy nhiên, điểm yếu của ngành logistics Việt Nam là
thiếu những nhà cung cấp dịch vụ third-party logistics (3PL), tổng hợp dịch vụ
logistics trọn gói, đảm bảo sự lưu thông hàng hoá từ điểm đầu đến điểm cuối.
 Quy mô thị trường logistics nhỏ nhưng tốc độ tăng trưởng cao
Xuất phát điểm từ sự phát triển tương đối muộn với một hệ thống cơ sở hạ tầng (giao
thông vận tải, cầu cảng, kho bãi) thiếu đồng bộ và dịch vụ chưa hoàn chỉnh, nên khi
nhu cầu kinh tế đòi hỏi, ngành logistics đã có sự đầu tư phát triển khá nhanh. Trong
khi thương mại quốc gia tăng mức trung bình là 13%/năm trong thập niên qua, thì
ngành logistics của Việt Nam đã đi trước một bước với tốc độ tăng trưởng đầu tư là
20%/năm. Quy mô thị trường logistics hiện ước đạt 20 tỷ USD/năm (số liệu thống kê
trong năm 2009). Đây được xem là con số tương đối nhỏ so với các quốc gia trong
khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Tuy nhiên, thay vào đó, ngành logistics Việt
Nam lại có tốc độ tăng trưởng cao nhất và được dự đoán sẽ tiếp tục duy trì ở mức 20%
- 25% trong vòng 5 năm tới.
c. Điều kiện để phát triển ngành logistics mang tính quốc tế
 Việt Nam có vị trí thuận lợi để trở thành điểm trung chuyển hàng hóa quốc tế
Không chỉ phục vụ cho sự phát triển kinh tế trong nước, ngành logistics của Việt Nam
còn có những lợi thế để phát triển vượt ra khỏi biên giới quốc gia. Giống như các quốc
gia trong khu vực có bờ biển dài như Trung Quốc, Malaysia, Thái Lan, Phillipin, Việt
Nam có tiềm năng để trở thành trung tâm trung chuyển hàng hoá trên tuyến vận tải
đường biển thông với nhiều hướng từ Trung Đông, châu Âu, châu Mỹ đến Nhật Bản,
Nga. Với khoảng 100 cảng trải đều từ Bắc vào Nam, Việt Nam có điều kiện giao
thông thuận lợi để đón hàng từ các quốc gia láng giềng gồm Lào, Campuchia, Trung
Quốc đi quốc tế.
Theo thống kê của Ngân hàng Thế giới (WB) về khả năng cung cấp dịch vụ logistics
của các quốc gia, Việt Nam được đánh giá không thua kém so với các nước trong khu

vực về khả năng vận tải quốc tế (International shipment); tuy nhiên, cơ sở hạ tầng và
thủ tục hải quan của Việt Nam còn kém cạnh tranh hơn nhiều.

Sự tụt hậu về cơ sở hạ tầng đã tạo ra những bất lợi cho sản phẩm trong nước so với
các nước trong khu vực khi phải chịu chi phí logistics cao hơn. Hiện khoảng 70% -
80% hàng hoá quốc gia vận tải đi quốc tế bằng đường biển vẫn phải thông qua các
cảng trung chuyển tại Singapore, Hồng Kông, Trung Quốc…

Những năm gần đây, Chính Phủ Việt Nam đã bắt đầu quan tâm xây dựng cảng nước
sâu đón tàu trọng tải lớn và đầu tư hệ thống giao thông đường bộ, kho bãi một cách
quy mô và chuyên nghiệp. Sự đi vào hoạt động của Cảng Quốc tế Cái Mép – Thị Vải
năm 2009 với khả năng đón tàu trọng tải 160,000 DWT chạy thẳng tới các cảng châu
Mỹ, châu Âu không chỉ thúc đẩy xuất nhập khẩu nội địa mà còn đặt nền tảng đầu tiên
cho sự hội nhập cho ngành logistics Việt Nam vào với sân chơi quốc tế.

Nhìn chung, sự phát triển của ngành logistics Việt Nam mới ở giai đoạn bắt đầu. Với
một ngành thương mại tăng trưởng nhanh chóng, ngành logistics hứa hẹn sẽ phát
triển mạnh trong 10 năm tới. Với chủ trương hiện đại hóa cơ sở hạ tầng cũng như xã
hội hóa họat động khai thác dịch vụ, ngành logistics Việt Nam đang tạo ra nhiều cơ
hội kinh doanh cho những nhà đầu tư chuyên nghiệp.
d. Những thách thức trong thời kỳ hội nhập
Nếu như cánh cửa hội nhập mở ra cho Việt Nam con đường giao thương
rộng rãi và cơ hội đưa hàng hóa của mình đến khắp mọi nơi, thì nó cũng đem lại
những đối thủ cạnh tranh khổng lồ, những luật lệ, tiêu chuẩn buộc phải tuân thủ
Tương tự, hội nhập tạo điều kiện cho các doanh nghiệp logistics Việt Nam có nhiều cơ
hội tham gia vào thị trường quốc tế, nhưng cũng gây nên sức ép không nhỏ bởi những
thách thức mà chúng ta cần tìm cách vượt qua.
 Sự thâm nhập của các tập đoàn logistics đa quốc gia
Trong khoảng 10 năm tới, dự báo kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước sẽ đạt 200 tỷ
USD. Điều đó cho thấy tiềm năng phát triển dịch vụ logistics tại Việt Nam còn khá

lớn. Tuy nhiên, hiện các doanh nghiệp logistics Việt Nam đang đứng trước nguy cơ bị
mất thị phần nội địa. Các doanh nghiệp logistics Việt Nam đều được xếp vào loại vừa
và nhỏ, thậm chí rất nhỏ. Do vậy, cơ hội thắng thầu đều thuộc về các doanh nghiệp
lớn, có tính chuyên ngành logistics cao, có mạng lưới cung cấp dịch vụ toàn cầu.
Với việc các doanh nghiệp logistics nước ngoài chiếm tới 75% thị trường và các
doanh nghiệp trong nước mới chỉ đáp ứng 25% nhu cầu thị trường logistics và chỉ
dừng lại ở việc cung cấp dịch vụ cho một số công đoạn của chuỗi dịch vụ quan trọng

×