1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một quốc gia biển với diện tích vùng biển gấp ba lần diện
tích đất liền, có bờ biển dài trên 3.200 km, có các vùng biển và thềm lục địa
khoảng một triệu km2. Ở biển Đông, Việt Nam có khoảng 4.000 đảo, phân bố
không đều, chủ yếu tập trung ở hai khu vực vịnh Bắc bộ và Nam bộ. Những
đảo, quần đảo ven biển có dân cư sinh sống như: Cô Tô, Cái Bầu (Quảng
Ninh), Cát Bà, Bạch Long Vĩ (Hải Phòng), Hòn Lớn, Hòn Tre (Khánh Hòa),
Lý Sơn (Quảng Ngãi), Phú Quý (Bình Thuận), Côn Sơn (Bà Rịa-Vũng Tàu),
Phú Quốc, Thổ Chu, Nam Du (Kiên Giang), quần đảo Hoàng Sa (TP Đà
Nẵng), quần đảo Trường Sa (Khánh Hòa) … cùng nhiều đảo nhỏ, nhiều bãi
cát ngầm, bãi đá, bãi san hô.
Đảo và quần đảo nước ta có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; vai trò lớn lao trong công cuộc bảo vệ chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc ta. Ý nghĩa kinh tế lớn nhất của đảo
không chỉ là giá trị vật chất của bản thân chúng mà còn là vị trí chiến lược, là
cầu nối vươn ra biển cả, là điểm tựa khai thác các nguồn lợi biển, là những
điểm tiền tiêu bảo vệ Tổ quốc. Nhờ có hệ thống đảo ven bờ được vận dụng
làm các điểm cơ sở của hệ thống đường cơ sở thẳng nên đã tạo ra vùng nội
thủy rộng lớn, do đó vùng lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa
cũng được mở rộng ra hướng biển.
Theo Chiến lược quốc gia về tài nguyên nước đến năm 2020, quy hoạch
khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước phải "bảo đảm việc khai thác
nước không vượt quá ngưỡng giới hạn khai thác đối với các sông, không vượt
quá trữ lượng có thể khai thác đối với các tầng chứa nước; đồng thời "bảo
đảm gắn kết quy hoạch phát triển bền vững tài nguyên nước với các quy
hoạch bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, phòng, chống tác hại do
2
nước gây ra và các quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng, quy hoạch sử dụng
đất, quy hoạch phát triển kinh tế, xã hội và quy hoạch quốc phòng - an ninh".
Việt Nam được đánh giá là nước có nguồn tài nguyên nước khá phong
phú. Trong đó, tài nguyên nước ngầm ở hầu hết các vùng đều có trữ lượng và
chất lượng khá tốt, được xem là nguồn dự trữ cho nhu cầu sinh hoạt và sản
xuất của nhân dân đặc biệt trên các đảo ngoài biển khơi.
Tuy nhiên trong giai đoạn vài thập niên gần đây cùng với sự phát triển kinh
tế, quá trình đô thị hoá, sự khai thác không có quy hoạch… dẫn đến một số vùng
nguồn nước ngầm bị suy thoái. Theo Trung tâm Quan trắc và Dự báo Tài
nguyên nước vừa công bố kết quả quan trắc tài nguyên nước dưới đất năm 2011
trên báo Khoa học số ra ngày 18-05-2012 khu vực Đồng bằng Bắc Bộ, Đồng
bằng Nam Bộ nguồn nước ngầm đã bị suy giảm cả về trữ lượng và chất lượng.
Biến đổi khí hậu, nước biển dâng cùng với sự khai thác nước ngầm thiếu
khoa học sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tài nguyên nước ngầm khu vực đồng
bằng nói chung và khu vực biển đảo nói riêng có thể dẫn đến suy thoái, cạn
kiệt và đặc biệt là khả năng xâm nhập mặn nguồn nước dưới đất là rất lớn …
Để kết quả nghiên cứu phục vụ thiết thực cho xã hội, trong nghiên cứu
này tôi chọn đảo Phú Quý làm khu vực nghiên cứu. Với đặc điểm đảo Phú
Quý hiện nay đang được xác định là một trong những đảo trọng điểm của
nước ta về phát triển các lĩnh vực như kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng.
Đảo Phú Quý đang có những bước chuyển biến mạnh mẽ về cơ cấu kinh tế,
chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ và du lịch. Đảo
nằm trên tuyến đường biển nối đất liền và quần đảo Trường Sa nên có vị trí
đặc biệt quan trọng trong nhiệm vụ phòng thủ quốc gia. Ngoài ra, do đặc điểm
tự nhiên trên đảo gồm diện tích đảo bé, độ dốc lớn, cách xa đất liền, không
tồn tại hoặc tồn tại dòng chảy mặt trong thời gian ngắn. Do đó, nước ngầm có
ý nghĩa rất lớn đối với cuộc sống của nhân dân trên đảo.
3
Hiện tại các công trình khai thác nước ngầm phần lớn được bố trí ven
biển chỉ cách mép nước khoảng 100m đến 300m. Mực nước hạ thấp của các
giếng đến 2m so với mực nước biển (ở khu vực các giếng khai thác của các
doanh nghiệp chế biến hải sản) mới khai thác từ những năm 2003 trở lại đây.
Hiện nay các giếng của khu vực này đã có dấu hiệu nhiễm mặn đặc biệt về
mùa khô các giếng đào khai thác ở chiều sâu khoảng 5m đến 7m ở khu vực
sát biển (ở khu vực Ủy Ban Nhân dân huyện) có dấu hiệu nhiễm mặn.
Vì vậy nghiên cứu ”Nghiên cứu ảnh hưởng của xâm nhập mặn đến tài
nguyên nước ngầm của đảo Phú Quý tỉnh Bình Thuận và đề xuất biện
pháp giảm thiểu” là rất cần thiết, bảo đảm việc khai thác và sử dụng tài
nguyên nước hợp lý trên đảo, góp phần phát triển bền vững kinh tế, xã hội,
môi trường của huyện đảo Phú Quý. Vấn đề xâm nhập mặn đang được rất
nhiều nhà khoa học, nhà quản lý cũng như người dân trên vùng biển đảo này
rất quan tâm.
2. Mục đích của đề tài
Nghiên cứu ảnh hưởng của xâm nhập mặn đến tài nguyên nước ngầm
của đảo Phú Quý tỉnh Bình Thuận và đề xuất biện pháp giảm thiểu.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu: xâm nhập mặn nguồn nước ngầm
Phạm vi nghiên cứu: khu vực đảo Phú Quý tỉnh Bình Thuận.
4. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
* Cách tiếp cận:
- Tiếp cận tổng hợp
- Tiếp cận hệ kinh tế – sinh thái – môi trường
- Tiếp cận tích hợp thông tin (ảnh viễn thám, bản đồ và hệ thống GIS)
- Tiếp cận kế thừa, phát triển các kết quả nghiên cứu và tiếp thu công nghệ
4
* Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp kế thừa;
- Phương pháp chuyên gia;
- Phương pháp thu thập tài liệu, số liệu;
- Phương pháp phân tích, xử lý, đánh giá số liệu;
- Phương pháp sử dụng mô hình toán.
5
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ KHU VỰC NGHIÊN CỨU
1.1. Đặc điểm tự nhiên, vị trí địa lý
1.1.1. Vị trí địa lý, địa hình
Huyện đảo Phú Quý gồm có 6 đảo nổi (Phú Quý, Hòn Tranh, Hòn
Trùng ở phía Nam, Hòn Đỏ, Hòn Đen, Hòn Giữa ở phía Bắc). Trong số đó,
đảo Phú Quý là lớn nhất, có diện tích 16km
2
, chiếm đến 97% diện tích nổi của
toàn huyện đảo và bằng khoảng 0,2% diện tích toàn tỉnh.
Đảo Phú Quý nằm trên biển Đông cách thành phố Phan Thiết khoảng
120km về phía Đông Nam, Đảo Phú Quý có dạng hình chữ nhật lệch, chiều
dài Bắc - Nam khoảng 7 km, chiều rộng Đông - Tây khoảng 4,5 km , có toạ
độ địa lý giới hạn:
Từ 10º28’58” đến 10º33’35” Vĩ độ Bắc;
Từ 108º55’13” đến 108º58’12” Kinh độ Đông.
Phú Quý có tiềm năng trở thành một điểm dịch vụ chế biến và tiêu thụ
hải sản của một mảng ngư trường kéo dài từ Trường Sa đến Côn Đảo; tạo cho
các tàu đánh bắt xa bờ hoạt động dài ngày hơn và đạt hiệu quả kinh tế cao
hơn. Ngoài ra với vị trí nằm trên đường hải vận quốc tế, Phú Quý còn có điều
kiện phát triển các dịch vụ sửa chữa tàu thuyền, cung cấp các dịch vụ hải cảng
quốc tế và các dịch vụ thăm dò và khai thác dầu khí.
Địa hình của đảo Phú Quý bao gồm núi đồi ở khu vực phía Bắc và đất
bằng ở khu vực phía Nam, độ cao giảm dần từ Bắc xuống Nam. Ở phía Bắc
có núi Cấm cao 106m, núi Cao Cát cao 86m; ở phía Nam có đồi Ông Đụn cao
46-48m. Trung tâm đảo có những dãy đồi cao 20-30m bị ngăn cách bởi những
dãy đất bằng cao 10-20m. Vùng rìa đảo là những dãy thềm cao 5m, ở đây có
nổi lên những đụn cát cao 7-8m và nơi thấp nhất là bãi Triều Dương với độ
cao 2m.
6
Hình 1.1: Vị trí đảo Phú Quý
7
Địa hình đảo không bị phân cắt mạnh, không có sông suối, biển không
cắt vào phần đất nổi của đảo. Đặc điểm này đã hạn chế được sự xâm nhập
mặn đến nguồn nước ngọt trên đảo.
Hình 1.2: Sơ đồ địa hình đảo Phú Quý
8
1.1.2. Thực vật rừng
Trước đây, trên đảo rừng cây rậm rạp, có nhiều gỗ quý. Nhưng hiện nay, do
không được quản lý và bảo vệ nên số rừng này đã bị khai thác hết. Phần lớn cây
trên đảo hiện nay là cây chắn gió trồng trên đất cát ven biển (phi lao), cây công
nghiệp lâu năm (dừa), cây lương thực (ngô, khoai lang, sắn) và rau đậu trồng
trên đất nâu đỏ.
1.1.3. Đặc điểm khí hậu, hải văn
a) Khái quát chung
Đảo Phú Quý nằm ở phía Nam biển Đông, thuộc vùng khí hậu hải dương
nhiệt đới gió mùa á xích đạo. Gió trên đảo hoạt động theo mùa: gió mùa Tây
Nam thổi từ tháng V đến tháng IX còn gió mùa Đông Bắc hoạt động từ tháng XI
đến tháng III năm sau. Các tháng IV và X là thời gian gió mùa chuyển hướng.
Theo số liệu quan trắc khí tượng – hải văn tại trạm Phú Quý từ năm 1990
đến 2005 cho thấy:
- Nhiệt độ trung bình nhiều năm là 27,4
0
C, biên độ nhiệt ngày đêm là 4,1
0
C.
- Tổng số giờ nắng cao, trung bình nhiều năm là 2.703 giờ.
- Độ ẩm không khí trung bình nhiều năm là 84,4%.
- Lượng bốc hơi trung bình tháng thay đổi khá lớn từ 84,1mm (tháng X)
đến 131,4mm (tháng I). Tổng lượng bốc hơi năm trung bình nhiều năm là
1.291mm.
- Lượng mưa trung bình tháng thay đổi theo mùa, từ 4.0mm (tháng II) đến
242,9mm (tháng X). Tổng lượng mưa năm trung bình nhiều năm là 1.314mm.
- Tốc độ gió lớn gấp 2-3 lần trong đất liền; trung bình nhiều năm là
5,7m/s, tốc độ gió lớn nhất đạt 34m/s.
- Độ cao sóng biển trung bình khoảng 2,0-2,5m; cao nhất khoảng 10m.
- Chế độ thuỷ triều chuyển tiếp từ chế độ nhật triều không đều ở phía
Bắc sang chế độ bán nhật triều không đều ở phía Nam; mực nước triều trung
bình nhiều năm là 216cm, lớn nhất là 326cm và thấp nhất là 29cm.
9
- Số trận bão hàng năm ảnh hưởng trực tiếp đến đảo ít nhưng ảnh hưởng
khá lớn đến việc đánh bắt hải sản của người dân trên đảo.
- Nhiệt độ nước biển ven bờ khoảng 25-29
0
C; trung bình nhiều năm là 27,5
0
C.
Độ mặn nước biển trung bình từ 31,8-33,8‰; độ mặn trung bình nhiều năm ở
ven bờ đảo Phú Quý là 32,3‰
10
Bảng 1.1: Tổng hợp các yếu tố khí tượng chính tại trạm Phú Quốc
từ 1990 đến 2005
STT
Chỉ tiêu
Tháng
Năm
I II III IV V VI VII VIII IX X XI XII
1
Tổng lượng
mưa, mm
9,0 4,0 21,3 33,2
127,5
156,0
136,7
116,8
181,8
242,9
175,4
112,0
1.314
2
Tổng lượng bố
c
hơi, mm
131,4
115,2
112,2
109,1
105,3
102,8
112,1
109,5
102,4
81,4 93,3 116,2
1.291
3 Nhiệt độ TB,
0
C
25,2 25,5 26,8 28,5 29,2 28,7 28,4 28,2 28,1 27,4 26,7 25,7 27,4
4
Nhiệt độ KK
cao nhất,
0
C
30,7 31,7 33,3 34,8 35,3 33,8 34,7 34,0 33,4 32,8 31,7 31,4 35,3
5
Nhiệt độ KK
thấp nhất,
0
C
19,7 21,0 21,1 22,8 23,2 22,7 23,2 23,2 22,7 22,2 20,4 20,8 19,7
6 Độ ẩm TB, % 80,9 82,7 83,2 82,6 83,7 85,8 85,7 86,6 87,2 86,3 84,6 83,3 84,4
7
Tổng số giờ
nắng, giờ
250,6
252,4
293,0
287,2
251,5
210,5
215,0
208,8
193,8
189,5
182,3
162,5
2.703
8
Tốc độ gió TB,
m/s
7,9 5,3 4,2 3,0 2,8 6,3 6,6 7,8 4,7 4,1 6,8 8,3 5,7
9
Hướng gió thị
nh
hành
ĐB ĐB ĐB ĐB TN T TN T T ĐB ĐB ĐB
10
Tốc độ gió lớn
nhất, m/s
23 20 18 19 18 28 24 24 24 24 34 24 34
11 Hướng BĐB
BĐB
BĐB BĐB
TN TTN T TN TN TN T BĐB
T
12
Số cơn bão và
ATNĐ, cơn
0 0 2 1 1 0 0 0 1 7 9 4 25
13
Tỷ lệ bão trong
năm, %
0 0 8 4 4 0 0 0 4 28 36 16 100
14
Độ cao sóng lớ
n
nhất, m
4,0 4,0 4,0 3,5 3,0 5,0 5,0 5,0 4,0 5,0 10,0 4,0 10,0
(Nguồn: Trung tâm Dự báo Khí tượng thuỷ văn tỉnh Bình Thuận).
11
0
90
180
270
I II
III IV V VI VII VIII IX
X XI XII
Lîng ma, bèc h¬i (mm)
0
20
40
60
80
100
NhiÖt ®é (oC), ®é Èm (%)
Tæng lîng ma (mm) Tæng lîng bèc h¬i (mm)
NhiÖt ®é TB (®é C) §é Èm TB (%)
Hình 1.3: Biểu đồ thể hiện giá trị trung bình tháng một số yếu tố khí tượng
tại Phú Quý
b) Chế độ mưa
Chế độ mưa phân theo hai mùa khá rõ rệt. Mùa mưa gần như trùng với
thời kỳ gió mùa Tây Nam và thường kéo dài 7 tháng (từ tháng V đến tháng
XI, lượng mưa trung bình đều trên 100mm). Tuy nhiên có năm mùa mưa bắt
đầu sớm (từ tháng IV) hoặc kết thúc muộn (tháng XII). Mùa khô kéo dài 5
tháng, bắt đầu từ tháng XII năm trước và kết thúc vào tháng IV năm sau.
Theo số liệu mưa tại trạm đo Phú Quý trong vòng 16 năm từ 1990-2005,
lượng nước trong mùa mưa chiếm khoảng 86,6% lượng mưa năm, còn lại là
lượng mưa trong mùa khô từ tháng XII-IV. Mùa hè thường có mưa rào, mưa
dông. Lượng mưa tuyệt đối cao nhất các tháng là 538,5mm (tháng X/1998),
còn vào mùa khô có nhiều tháng không có mưa.
Tổng lượng mưa bình quân nhiều năm trên toàn huyện đảo khoảng
1.314mm/năm, thấp hơn so với lượng mưa trung bình nhiều năm toàn tỉnh
(1.513mm/năm), song vẫn cao hơn một số khu vực trong tỉnh như: Phan Thiết
(1.157mm), Ma Lâm (1.161mm), Mũi Né (893mm), Bàu Trắng (755mm),
12
Sông Luỹ (1.091mm), Sông Mao (1.027mm), Liên Hương (720mm). Một số
khu vực trong tỉnh có lượng mưa rất lớn trên 2.000mm như Đông Giang
(2.080mm), Suối Kết (2.026mm), Tà Pao, La Ngâu, Võ Xu trên 2.200mm, Mê
Pu lên đến 2.651mm.
Mưa biến đổi về lượng theo mùa rất lớn và có sự phân bố không đều
theo thời gian. Năm 2003 có tổng lượng mưa năm lớn nhất (1.857mm) nhưng
đến năm 2004 tổng lượng mưa năm lại giảm xuống thấp nhất trong vòng 15
năm trở lại đây (810mm).
Tháng II có lượng mưa trung bình tháng thấp nhất, khoảng 4,0mm
(chiếm 0,17% tổng lượng mưa năm); tháng X có lượng mưa trung bình tháng
lớn nhất khoảng 242,9mm (chiếm 18,5% tổng lượng mưa năm).
Bảng 1.2: Tổng lượng mưa tại đảo Phú Quý
(Đơn vị: mm)
Năm
Tháng
Tổng
năm
I
II
III
IV
V
VI
VII
VIII
IX
X
XI
XII
Trung
bình
9,0 4,0 21,3 33,2 127,5 156,0 136,7 116,8 181,8 242,9 175,4 112,0 1.314
1990
0,2
-
0,2
40,6
149,0
121,3
29,8
93,5
245,9
98,5
194,9
41,7
1.016
1991
6,3
0,6
36,4
26,3
54,4
369,9
292,8
85,8
100,9
250,3
123,5
11,2
1.359
1992
1,6
7,3
9,2
0,3
26,7
147,8
132,6
140,3
118,0
197,9
236,4
24,1
1.042
1993
0,4
-
1,1
12,3
65,2
130,0
60,2
50,3
133,9
204,7
187,2
41,3
886,6
1994
3,7
14,8
23,7
9,0
223,2
125,1
244,0
79,9
121,5
233,6
62,1
197,6
1.338
1995
8,4
-
25,0
4,3
84,1
335,3
61,6
201,0
186,9
216,3
46,9
53,6
1.223
1996
2,7
-
2,7
18,6
57,2
147,5
116,2
182,3
459,0
282,5
250,2
198,0
1.717
1997
-
-
0,3
6,5
147,0
132,4
120,2
185,4
155,6
177,1
73,2
72,7
1.070
1998
10,5
4,0
20,4
54,5
56,0
180,5
79,1
72,1
171,5
538,5
307,6
302,3
1.797
1999
48,6
0,9
51,5
132,2
99,1
71,9
285,0
62,5
81,2
377,5
261,4
140,6
1.612
2000
27,0
-
43,0
32,8
147,3
110,3
239,9
116,8
177,8
310,8
259,6
199,8
1.665
2001
13,8
0,1
96,6
105,0
141,9
139,0
118,0
153,4
249,2
297,4
203,2
106,4
1.624
2002
0,0
5,2
0,0
83,8
94,5
65,1
125,4
107,1
142,6
171,0
270,7
35,4
1.101
2003
-
2,9
29,0
0,0
311,2
228,1
126,9
107,7
336,7
363,5
227,2
124,0
1.857
2004
1,5
-
0,1
3,0
200,6
158,8
33,2
139,0
153,8
66,2
52,1
2,0
810
2005
1,3
0,0
2,0
2,0
182,7
32,8
121,6
92,4
73,9
100,9
49,6
240,5
899
(Nguồn: Trung tâm Dự báo Khí tượng thuỷ văn tỉnh Bình Thuận)
13
c) Độ ẩm
- Theo số liệu tại trạm Phú Quý, độ ẩm tương đối trung bình hàng năm của
đảo khá cao (khoảng 84,4%) và biến đổi không lớn theo mùa. Trung bình từ năm
1990 đến năm 2005, mùa mưa độ ẩm dao động trong khoảng từ 83,3% (tháng
XII) đến 87,2% (tháng IX); mùa khô độ ẩm dao động trong khoảng từ 80,9%
(tháng I) đến 83,2% (tháng III).
- Độ ẩm trung bình của các năm trong giai đoạn 1990-2005 chênh lệch
không lớn. Độ ẩm trung bình năm cao nhất là năm 2000 đạt đến 89%, độ ẩm
trung bình năm thấp nhất là năm 1992 và 1993 đạt 81%.
- Độ ẩm trung bình tuyệt đối các tháng chênh lệch nhau khá lớn khoảng
17%. Độ ẩm trung bình tuyệt đối tháng thấp nhất là tháng IV/1995 đạt 76% và
độ ẩm trung bình tuyệt đối tháng cao nhất là tháng IX và tháng X/1990 đạt 93%.
Bảng 1.3: Độ ẩm không khí trung bình đảo Phú Quý
(Đơn vị: %)
Năm
Trung bình tháng
TB
Năm
I
II
III
IV
V
VI
VII
VIII
IX
X
XI
XII
Trung
bình
80,9 82,7 83,2 82,6 83,7 85,8 85,7 86,6 87,2 86,3 84,6 83,3 84,4
1990
78
82
80
81
82
86
83
87
93
93
88
85
85
1991
84
86
86
88
90
89
90
86
86
83
77
78
85
1992
77
80
78
78
78
82
84
85
84
84
80
82
81
1993
77
79
80
79
78
81
85
85
85
84
81
80
81
1994
78
84
82
83
84
85
86
85
85
82
82
82
83
1995
78
78
79
76
79
84
84
83
87
86
85
82
82
1996
78
80
83
83
87
85
83
85
88
86
88
85
84
1997
77
83
80
77
81
85
86
88
86
85
83
80
83
1998
81
83
78
78
79
83
85
86
87
89
88
87
84
1999
85
83
87
88
88
89
89
90
89
92
90
86
88
2000
88
87
88
91
89
89
90
88
89
90
89
89
89
2001
88
84
91
88
88
90
88
90
91
90
84
86
88
2002
82
83
84
82
83
86
87
90
90
88
91
89
86
2003
83
85
87
86
87
87
85
87
86
85
82
79
85
2004
80
82
84
83
84
88
84
87
84
79
83
78
83
2005
80
84
84
80
82
83
82
84
85
84
83
84
83
(Nguồn: Trung tâm Dự báo Khí tượng thuỷ văn tỉnh Bình Thuận)
14
d) Bốc hơi
- Lượng bốc hơi trung bình năm (đo bằng pie-che) cũng ít biến đổi.
Lượng bốc hơi trung bình năm khá lớn, trong giai đoạn 1995-2005 trung bình
khoảng 1.291mm/năm nhưng nhỏ hơn so với lượng bốc hơi trung bình năm
toàn tỉnh (1.334mm) và một số khu vực khác như Phan Thiết, Hàm Tân (khu
vực Phan Thiết là 1.368mm, Hàm Tân là 1.342mm).
- Về mặt thời gian lượng bốc hơi phân bố không đều, thường về mùa khô
lượng bốc hơi cao hơn mùa mưa. Mùa khô lượng bốc hơi cao hơn lượng mưa
là thời kỳ hụt nước, về mùa mưa lượng mưa cao hơn lượng bốc hơi là thời kỳ
dư nước. Theo số liệu tại trạm đo Phú Quý, thời kỳ hụt nước kéo dài từ tháng
XII đến tháng IV.
- Tổng lượng bốc hơi hàng năm dao động từ 1.091mm (1996) đến
1.419mm (1995), lượng bốc hơi tháng thấp nhất 81mm (tháng X) cao nhất
131mm (tháng I). Lượng bốc hơi tuyệt đối tháng thấp nhất là 58mm (tháng
X/2002) và lượng bốc hơi tuyệt đối tháng cao nhất là 165mm (tháng II/1995).
Bảng 1.4: Lượng bốc hơi tại đảo Phú Quý
(Đơn vị: mm)
Năm
Tháng
Năm
I
II
III
IV
V
VI
VII
VIII
IX
X
XI
XII
Trung
bình
131,4 115,2 112,2 109,1 105,6 102,8 112,1 109,5 102,4 81,4 93,3 116,2 1.291,2
1995
152,4
165,4
136,6
164,9
122,2
99,4
110,8
102,3
78,1
76,6
86,9
122,9
1.418,5
1996
136,2
116,0
100,6
96,1
71,5
72,4
102,2
92,4
73,4
69,0
63,9
97,0
1.090,7
1997
147,7
97,7
123,8
119,3
126,0
117,4
121,9
96,9
97,9
80,0
102,4
137,4
1.368,4
1998
112,8
85,7
137,7
113,2
129,8
120,9
116,1
115,7
99,6
73,7
74,1
96,9
1.276,2
1999
110,5
113,9
98,9
85,1
86,3
112,0
121,3
119,6
126,2
71,9
78,4
115,3
1.239,4
2000
125,4
113,5
107,8
81,0
102,6
104,1
109,9
132,1
113,5
101,1
100,4
101,1
1.292,5
2001
108,4
128,0
96,4
104,6
120,6
127,1
119,3
118,0
121,5
74,5
139,7
132,2
1.390,3
2002
161,4
135,7
133,4
129,8
140,8
125,4
115,9
115,7
102,8
57,7
71,2
92,9
1.382,7
2003
137,4
104,2
97,5
108,7
94,2
85,7
108,9
112,1
104,4
79,3
104,7
134,8
1.271,9
2004
132,3
115,2
95,6
100,9
82,7
66,7
92,6
86,9
98,5
134,6
112,5
148,7
1.267,2
2005
121,1
91,5
106,3
96,6
84,9
99,7
113,8
112,4
110,6
76,7
92,6
98,8
1.205,0
(Nguồn: Trung tâm Dự báo Khí tượng thuỷ văn tỉnh Bình Thuận).
15
Hình 1.4 : Lượng bốc hơi trung bình các tháng giai đoạn 1990-2005
e) Thủy triều
Nằm ở khu vực Nam Biển Đông, Phú Quý chịu ảnh hưởng của chế độ thuỷ
triều chuyển tiếp từ chế độ nhật triều không đều ở phía Bắc sang chế độ bán nhật
triều không đều ở phía Nam. Qua số liệu quan trắc từ năm 1980 - 2000 cho thấy
mực nước triều trung bình nhiều năm là 216cm, cao nhất là 326cm, thấp nhất là
29cm, biên độ triều lớn nhất là: 297cm.
f) Độ mặn nước biển
Độ mặn nước biển trung bình nhiều năm vùng ngoài khơi Phú Quý dao
động từ 31,8 - 33,8‰, ven bờ là 32,3‰.
Nhận xét ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên đến nguồn nước ngọt:
Từ các đặc điểm địa lý tự nhiên nêu trên cho thấy:
- Đảo Phú Quý có mùa khô kéo dài 5 tháng, lượng mưa mùa khô không
lớn (1.137mm); diện tích đảo nhỏ (khoảng 16 km
2
); đất đá có tính thấm nước
tốt; lượng bốc hơi tương đối lớn. Do đó, trên đảo không hình thành dòng chảy
mặt thường xuyên.
- Nguồn nước mưa rơi xuống đảo, phần lớn thấm xuống đất cung cấp
cho nước dưới đất, một phần tạo thành dòng chảy mặt tạm thời đổ ra biển và
131.4
115.2
112.2
109.1
105.6
102.8
112.1
109.5
102.4
81.4
93.3
116.2
60
80
100
120
140
0 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
Th¸ng
mm
16
một phần còn lại bốc hơi trở lại khí quyển. Do đó, nguồn nước khai thác
chính là nước dưới đất vào mùa khô còn mùa mưa thì kết hợp khai thác nước
mưa và nước dưới đất.
- Mùa khô, nước dưới đất là nguồn cung cấp chủ yếu cho các mục đích
sinh hoạt, sản xuất và nhu cầu sử dụng khá lớn. Do đó, có nguy cơ ô nhiễm
xâm nhập mặn đến nguồn nước dưới đất do các hoạt động khai thác.
1.1.4 Đặc điểm địa chất
Trong khu vực đảo Phú Quý có 4 phân vị địa tầng địa chất có tuổi Đệ tứ
phân bố ở độ sâu từ 0 đến 100m đã được nghiên cứu theo thứ tự từ già đến trẻ
bao gồm:
- Thống Pleistocen:
+ Phụ thống Pleistocen trung, trầm tích biển (mQ
1
2
);
+ Phụ thống Pleistocen trung-thượng, phun trào bazan Pleistocen (βQ1
2-3
);
+ Phụ thống Pleistocen thượng, trầm tích biển (mQ
1
3
);
- Thống Holocen:
+ Phụ thống Holocen, phun trào bazan(βQ
2
);
+ Phụ thống Holocen hạ - trung;
+ Phụ thống Holocen thượng;
Các phân vị địa tầng trên
hầu hết lộ ra trên mặt, trừ phụ
thống Pleistocen trung (mQ
1
2
) bị
phủ hoàn toàn.
Xét trên toàn huyện đả
o Phú
Quý, diện lộ của các thống, phụ
thống địa chất như sau: phụ
thống Pleistocen trung - thượng,
phun trào bazan Pleistocen
bQII-III ,
4.65 ,
28%
mQIII,
2.03 ,
12%
bQIV,
2.25 ,
14%
mQ1-2IV ,
3.04 ,
18%
vQ1-2IV,
3.56 ,
21%
mQ3IV,
0.95 , 6%
vQ3IV,
0.12 , 1%
Hình 1.5: Cơ cấu diện lộ các tầng/phụ
tầng địa chất
17
(βQ
1
2-3
) có diện lộ 4,65km2 chiếm 28%; phụ thống Pleistocen thượng, trầm
tích biển (mQ
1
3
) diện lộ 2,03 km
2
chiếm 12% diện tích; phụ thống Holocen-
phun trào bazan (βQ
2
) có diện lộ 2,25km2 chiếm 14%; phụ thống Holocen hạ
- trung trong trầm tích biển (mQ
2
1-2
) có diện lộ 3,04km2 chiếm 18%; phụ tầng
Holocen hạ - trung trong trầm tích gió(vQ
2
1-2
) có diện lộ 3,56 km2 chiếm
21%; phụ thống Holocen thượng trong trầm tích biển(mQ
2
3
) có diện lộ
0,95km2 chiếm 6%; phụ thống Holocen thượng trong trầm tích gió (vQ
2
3
) có
diện lộ 0,12km2 chiếm 1% diện tích toàn huyện.
1.2. Điều kiện kinh tế, xã hội vùng nghiên cứu
1.2.1 Dân số và lao động
Theo số liệu niên giám thống kê tỉnh Bình Thuận năm 2008, dân số
huyện Phú Quý là 25.171 người, chiếm 2,1% dân số toàn tỉnh và chiếm 3,5%
dân số nông thôn toàn tỉnh. Trong
đó dân số nam là 12.707 người
(chiếm 50,5%) và dân số nữ là
12.464 người (chiếm 49,5%).
Mật độ dân số
trung bình
toàn huyện rất cao, khoảng 1.398
người/km
2
, gấp hơn 9 lần mật độ
dân số trung bình toàn tỉ
nh (152
người/km
2
).
97.91%
Phú Quý
2.09%
Hình 1.6: Cơ cấu dân số huyện Phú Quý
so với toàn tỉnh
1.2.2. Y tế
Toàn huyện đảo Phú Quý có 4 cơ sở khám chữa bệnh cho nhân dân với
65 giường bệnh (tăng 44,4% so năm 2001), trong đó có 1 trung tâm y tế
huyện với 50 giường bệnh (tăng 66,7% so năm 2001) và 3 trạm y tế xã với 15
giường bệnh.
18
1.2.3. Giáo dục
- Mẫu giáo: Năm học 2007-2008, toàn huyện đảo có 3 trường mẫu giáo
với 38 giáo viên chăm sóc cho 1168 em.
- Tiểu học: trên đảo hiện có 6 trường tiểu học với 69 phòng học. Có 131
giáo viên giảng dạy cho 2600 học sinh.
- Trung học cơ sở với 3 trường và 25 phòng học, có 122 giáo viên giảng
dạy cho 2.122 học sinh.
- Phổ thông trung học: trên đảo chỉ có một trường PTTH, tổng cộng có
36 giáo viên giảng dạy cho 780 học sinh.
1.2.4. Văn hóa - xã hội
Toàn đảo đã được phủ sóng phát thanh - truyền hình TW. Phong trào văn
hoá, văn nghệ quần chúng cũng đã phát triển, tuy nhiên cơ sở vật chất còn yếu
kém, chưa có rạp chiếu bóng, trung tâm sinh hoạt văn hoá Nhìn chung nhu
cầu hưởng thụ văn hoá của nhân dân còn chưa được đáp ứng.
Quốc phòng - an ninh và trật tự an toàn xã hội cơ bản được giữ vững.
Phong trào quần chúng tham gia bảo vệ an ninh Tổ quốc ngày càng được các
tầng lớp nhân dân tham gia. Năng lực quản lý điều hành của các cấp chính
quyền có bước chuyển biến tiến bộ; phương thức, lề lối làm việc, tinh thần
trách nhiệm của đội ngũ cán bộ công chức ngày càng được nâng lên.
1.2.5. Hiện trạng kết cấu hạ tầng
* Hệ thống cấp nước
Hiện tại, ở đảo có 8 trạm cấp nước tập trung (khai thác nước dưới đất) do
nhân dân tự đầu tư và nhà máy nước Ngũ Phụng - Long Hải do nhà nước
quản lý.
Theo số liệu kiểm kê sơ bộ hiện trạng khai thác, sử dụng nước trên đảo năm
2008, tổng số công trình khai thác nước dưới đất hiện có ở đảo khoảng 2064
công trình (trong đó, có 95 công trình dùng giếng khoan khai thác nước ngầm).
19
* Cảng Triều Dương
Là cảng tổng hợp phục vụ cho nhu cầu vận tải và hậu cần nghề cá, là cửa
ngõ chính nối huyện đảo với đất liền và thế giới bên ngoài. Cảng Triều
Dương có những ưu thế như vị trí kín gió và mớm nước khá sâu có thể tiếp
nhận các loại tầu vận tải có trọng tải đến 10.000 tấn.
* Hệ thống giao thông
- Giao thông đường biển của huyện đảo hiện nay mới chỉ có tuyến Phú
Quý – Phan Thiết đang hoạt động, do Công ty vận tải biển và tư nhân khai thác.
- Giao thông đường bộ: mạng lưới giao thông đường bộ trên đảo chủ yếu
là các tuyến nối trung tâm huyện với các xã, đường liên xã đã được cải tạo và
nâng cấp khác tốt.
- Giao thông hàng không: Hiện tại khu vực núi Cấm có 1 sân bay dã
chiến (đường băng dài 200m, rộng 80m) nhưng chủ yếu phục vụ mục đích
quân sự.
* Hệ thống điện lưới
Trên huyện đảo hiện có trạm phát điện với 6 máy phát diezel, công suất
500KVA/máy, tổng công suất 3MW, thực hiện phát điện liên tục cung cấp đủ
cho nhu cầu sinh hoạt 16 giờ/ngày, điện cho sản xuất còn lại rất khó khăn.
Ngoài ra còn có 2 tổ máy phát điện diezel của bưu điện (2x20KVA và
2x5KVA) và 2 tổ máy phát điện diezel của quân đội (2x20KVA).
1.2.6. Kinh tế
a) Thủy sản
Thuỷ sản (bao gồm cả đánh bắt) là ngành kinh tế chính của huyện đảo,
tạo ra phần lớn giá trị sản xuất và giải quyết việc làm cho người dân trên
huyện đảo. Giá trị sản xuất của ngành liên tục tăng trong thời kỳ 2001-2005,
đạt 210 tỷ đồng năm 2005 (giá hiện hành), chiếm 67% tổng giá trị sản xuất
của toàn huyện đảo.
20
b) Nông nghiệp
Nông, lâm nghiệp giữ một vai trò nhất định trong đời sống kinh tế,
chiếm 8,7% GDP của huyện, là nguồn thu nhập chính của 4.100 nhân khẩu và
1.937 lao động, chiếm 18% dân số và 17% lao động của huyện.
c) Lâm nghiệp
Sản xuất lâm nghiệp của huyện đảo chủ yếu là trồng rừng để tạo không
gian xanh và tăng độ che phủ. Công tác trồng rừng trong những năm qua được
quan tâm, thực hiện có kết quả tốt. Tuy nhiên, nhiều người dân huyện đảo còn
chưa nhận thức được vai trò quan trọng của cây xanh có tác dụng vừa chắn
gió, vừa lưu giữ nguồn nước ngầm và tạo cảnh quan môi trường đảm bảo sự
phát triển bền vững trên đảo và trong khu vực quanh huyện đảo Phú Quý.
d) Công nghiệp
Trên địa bàn huyện đảo đã hình thành một số cơ sở sản xuất công nghiệp
làm tiền đề cho việc phát triển ngành công nghiệp của huyện. Tính đến năm
2008 có 58 doanh nghiệp với khoảng 904 lao động (nguồn niên giám thống kê
Bình Thuận 2008).
Tốc độ tăng trưởng sản xuất công nghiệp giai đoạn 1991-2000 bình quân
36,13%/năm, thời kỳ 2001-2005 đạt 30%/năm. Giá trị sản xuất công nghiệp
năm chiếm tỷ trọng 29,8% trong cơ cấu kinh tế của huyện đảo.
e) Thương mại, dịch vụ, du lịch
Hoạt động thương mại, dịch vụ trên huyện đảo chủ yếu phục vụ cho hoạt
động kinh tế biển như cung cấp xăng dầu, vật tư ngư lưới cụ, phụ tùng phục
vụ đánh bắt hải sản, cung cấp lương thực thực phẩm
Hoạt động du lịch mặc dù có tiềm năng lớn song hiện tại hầu như chưa
có gì do cơ sở hạ tầng yếu kém, tầu vận tải hành khách thiếu, việc đi lại khó
khăn, mất nhiều thời gian (trung bình mất 4-5 giờ cho một chuyến hành trình
từ Phan Thiết đến Phú Quý) và còn phụ thuộc nhiều vào thời tiết.
21
Dịch vụ bưu chính viễn thông trong những năm gần đây phát triển tương
đối nhanh. Trên huyện đảo có trên 2.000 thuê bao điện thoại, bình quân 8,5
máy/100 dân. Dịch vụ điện thoại di động bắt đầu hoạt động kể từ tháng
5/2005. Các dịch vụ fax, internet, chuyển bưu phẩm phát triển, bảo đảm đáp
ứng nhu cầu của nhân dân trên đảo.
1.3. Định hướng xây dựng phát triển kinh tế xã hội
1.3.1. Quan điểm phát triển kinh tế.
- Tập trung, phát triển kinh tế - xã hội nhanh vững chắc theo hướng hiện
đại và bền vững, trên cơ sở xây dựng, phát triển tiềm lực kinh tế và không
ngừng cải thiện, nâng cao mức sống nhân dân huyện đảo. Ưu tiên tập trung
đầu tư xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội: hệ thống giao thông
giữa đảo và đất liền, thông tin liên lạc, năng lượng, điện nước, các cơ sở vật
chất ngành y tế, giáo dục, văn hoá xã hội …. nâng cao mức sống của nhân dân
giảm sự cách biệt và mối quan hệ không liên tục giữa đảo và đất liền, đồng
thời thu hút nguồn lực bên trong ngoài đưa vào đầu tư phát triển huyện đảo.
- Xây dựng Phú Quý thành một trung tâm khai thác chế biến và dịch vụ
nghề cá quan trọng của tỉnh và khu vực, đồng thời là một điểm tựa hậu cần
của trường sa gắn với bảo vệ chủ quyền trong chiến lược phát triển biển của
nước ta.
- Đảm bảo an ninh xã hội, gắn liền với bảo vệ nguồn lợi biển, bảo đảm
môi trường sinh thái cho sự phát triển bền vững. Phát triển kinh tế xã hội gắn
với bảo đảm an ninh quốc phòng, bảo vệ chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ.
1.3.2. Mục tiêu phát triển kinh tế
Các mục tiêu cụ thể chủ yếu của khu kinh tế đảo Phú Quý gồm:
- Phấn đấu mức GDP bình quân đầu người vào năm 2010 khoảng 1.000-
1.100 USD trở lên và vào năm 2020 khoảng 4.200- 4.700 USD.
- Thời kỳ 2011 - 2020 mức tăng trưởng GDP từ 12% - 13%/năm.
22
- Đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, tăng tỷ trọng công nghiệp chế biến và dịch vụ du lịch.
- Đẩy mạnh chương trình xuất khẩu, trong đó tập trung cho nhóm hàng
chủ lực là hải sản.
- Ưu tiên tập trung đầu tư xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã
hội như cảng, giao thông, điện nước, trường học với mọi nguồn lực đầu tư
phát triển.
- Phát triển xã hội, phấn đấu nâng cao mức sống vật chất và tinh thần của
dân cư, đi cùng với việc bảo vệ môi trường, bảo đảm phát triển bền vững.
1.3.3. Định hướng các chỉ tiêu kinh tế chủ yếu của vùng đảo Phú Quý
- Định hướng phát triển chung của đảo Phú Quý là trung tâm chính trị –
kinh tế – văn hóa – xã hội – khoa học kỹ thuật của huyện Phú Quý. Là khu
vực tập trung dân cư duy nhất của huyện đảo Phú Quý.
- Là trung tâm giao dịch buôn bán và dịch vụ khai thác – chế biến hải sản
của tỉnh và khu vực Đông Nam bộ.
- Là khu hậu cư quan trọng về an ninh quốc phòng vùng biển – hải đảo
của tỉnh Bình Thuận và cả nước.
- Căn cứ vào yêu cầu thực hiện phát triển kinh tế đảo Phú Quý đã được
thủ tướng chính phủ phê duyệt, đề ra một số phương án tăng trưởng kinh tế
của huyện đảo Phú Quý.
23
Bảng 1.5: Dự báo một số chỉ tiêu kinh tế chủ yếu theo phương án chọn
Chỉ tiêu
Đơn vị
2000
2005
2010
2015
2020
Dân số trung bình
Người
21.499
23.683
25.365
27.111
28.800
Tốc độ tăng B/Q thời kỳ
%
-
11,82
13,2
12,8
12,5
GDP (giá 1994)
Tr,đ
59.540
104.231
193.744
353.815
637.575
GDP(giá TT)
Tr,đ
84.932
195.512
503.435
1.242.568
2.961.862
GDP/người(giá TT)
1000đ
3.951
8.255
19.848
45.833
102.842
Cơ cấu kinh tế
Chia ra theo 3 khu vực
100
100
100
100
100
CN-XD
%
25,05
35,70
49,47
57,89
62,83
NLNN
%
55,03
44,60
30,29
20,41
13,71
Dịch vụ
%
20,01
19,70
20,23
21,70
23,46
Chia theo NN-phi NN
100
100
100
100
100
NN
%
55,03
44,60
30,29
20,41
13,71
Phi NN
%
44,97
55,40
69,71
79,59
86,29
Chia theo SX-dịch vụ
100
100
100
100
100
Sản xuất
%
79,99
71,30
79,77
79,30
76,54
Dịch vụ
%
20,01
19,70
20,23
21,70
23,46
So sánh với năm 200
Dân số
Lần
1,00
1,10
1.,8
1,26
1,34
Tổng GDP(giá 94)
Lần
1,00
1,75
3,25
5,94
10,70
GDP/đầu người (giá 94)
Lần
1,00
1,60
2,76
4,71
8,00
So sánh với năm 2010
Tổng GDP (giá 94)
Lần
0,31
0,54
1,00
1,83
3,29
GDP/đầu người (giá 94)
Lần
0,36
0,58
1,00
1,71
2,90
( Nguồn: QH phát triển kinh tế xã hội huyện Phú Quý thời kỳ 2006 – 2020)
Nhận xét về ảnh hưởng của điều kiện kinh tế, xã hội đến nguồn nước
ngọt vùng huyện đảo Phú Quý
Với thực trạng và định hướng phát triển kinh tế đảo Phú Quý với mục
tiêu là trung tâm chính trị – kinh tế – văn hóa - xã hội – khoa học kỹ thuật của
huyện Phú Quý.
Đảo Phú Quý với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân dự kiến qua các
giai đoạn từ năm 2006-2010 là 13,2%, giai đoạn từ năm 2011-2015 là 12,8%,
giai đoạn từ năm 2016-2020 là 12,5%. Nền kinh tế chuyển dịch theo hướng
24
tăng dần tỷ trọng ngành công nghiệp, dịch vụ và giảm dần tỷ trọng ngành
nông nghiệp. Sự tăng trưởng kinh tế cùng với chất lượng cuộc sống được
nâng cao có ảnh hưởng tốt đến ý thức bảo vệ chất lượng các nguồn nước
trong vùng.
Tuy nhiên, sự phát triển mạnh của nền kinh tế kéo theo các nhu cầu phát
triển khác lại trở thành áp lực lớn đối với nguồn nước do nhu cầu nước cung cấp
phục vụ sản xuất và sinh hoạt ngày càng tăng. Nguồn nước khan hiếm đã khiến
cho quá trình quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của vùng gặp nhiều khó
khăn. Thêm nữa, cùng với lượng nước sử dụng trong sinh hoạt cũng như trong
các ngành kinh tế tăng thì lượng nước thải phát sinh cũng tăng. Với xu hướng
phát triển như hiện nay, nếu vấn đề quản lý (cả về số lượng và chất lượng) đối
với các nguồn thải không có hiệu quả thì những khó khăn về tài nguyên nước
mà vùng đang phải đối mặt sẽ càng trở nên trầm trọng hơn trong thời gian tới.
1.4. Các nguồn nước trên đảo Phú Quý
1.4.1. Nguồn nước mưa
Đảo Phú Quý nằm trong vùng khí hậu Nam Biển Đông, chịu ảnh hưởng
của gió mùa Tây Nam, gió mùa Đông Bắc; một năm chia làm 2 mùa:
- Mùa mưa kéo dài 7 tháng (từ tháng V đến tháng XI). Tuy nhiên có năm
mưa sớm hoặc kết thúc muộn (bắt đầu vào tháng IV) hoặc kết thúc muộn (kết
thúc vào tháng XII).
- Mùa khô kéo dài 5 tháng, bắt đầu từ tháng XII, kết thúc vào tháng IV
năm sau.
Theo số liệu đo mưa trung bình nhiều năm (thời kỳ 1990-2005) tại trạm
Phú Quý cho thấy Lượng mưa trung bình nhiều năm: 1.314mm;Lượng mưa
mùa mưa trung bình nhiều năm: 1.137mm, chiếm 87% lượng mưa cả
năm;Lượng mưa mùa khô trung bình nhiều năm là 177mm, chiếm 13% lượng
mưa cả năm;
25
Lượng mưa trung bình tháng lớn nhất (giai đoạn 1990-2005) biến đổi từ
14,8mm (tháng II) đến 538,5mm (tháng X).
Lượng mưa trung bình tháng nhỏ nhất (giai đoạn 1990-2005) biến đổi từ
0mm (tháng I, II, III, IV) đến 73,9mm (tháng IX).
Theo số liệu tổng hợp lượng mưa tháng trung bình nhiều năm (giai đoạn
1990-2005) cho thấy lượng mưa tăng dần từ đầu năm và đạt cực trị thứ nhất
vào tháng VI; sau đó lượng mưa giảm dần vào các tháng VII, VIII rồi tăng lên
vào tháng IX và đạt cực trị thứ hai vào tháng X; cuối cùng lượng mưa giảm
dần cho đến cuối năm.
Mïa ma,
1137,
87%
Mïa kh«,
177, 13%
Hình 1.7: Cơ cấu phân bố mưa theo mùa