LỜI CẢM ƠN
Tôi xin trân trọng bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và chân thành nhất đến
Ban giám hiệu trường Đại học Thủy Lợi, cùng các Thầy, Cô đã truyền đạt
những kiến thức bổ ích trong quá trình học tập tại trường.
Với tất cả sự kính trọng, tôi xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn của
mình với sự hướng dẫn tận tình, chu đáo của Thầy Giáo sư, tiến sỹ Vũ
Thanh Te, đã dành rất nhiều thời gian và tâm huyết hướng dẫn cho tôi trong
suốt quá trình hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn đến bạn bè, những người thân đã luôn bên
cạnh khích lệ tôi trong quá trình thực hiện luận văn. Cuối cùng, con xin cảm
ơn gia đình đã luôn hỗ trợ cho con trong suốt thời gian qua, đó là chỗ dựa tinh
thần vững chắc để con tập trung và hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.
Tôi đã có nhiều cố gắng để hoàn thiện luận văn bằng tất cả tâm huyết
và năng lực của mình, nhưng không thể tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy,
tôi rất mong sự góp ý, chỉ bảo của Quý thầy cô và đồng nghiệp, đó chính là sự
giúp đỡ quý báu mà tôi mong muốn để cố gắng hoàn thiện hơn trong quá trình
nghiên cứu và công tác sau này.
Một lần nữa xin chân thành cảm ơn./.
Hà Nội, tháng 5 năm 2014
Học viên
Trịnh Vũ Mạnh
LỜI CAM KẾT
Tôi xin cam đoan luận văn này hoàn toàn do Tôi thực hiện. Các đoạn
trích và số liệu trong luận văn đều được dẫn nguồn có độ chính xác cao nhất
trong phạm vi hiểu biết của Tôi.
Hà Nội, tháng 5 năm 2014
Học viên
Trịnh Vũ Mạnh
MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CHẤT LƯỢNG ĐẬP ĐẤT 3
1.1. Tình hình chung về xây dựng đập đất ở nước ta 3
1.2. Những vấn đề liên quan đến chất lượng đập đất 5
1.2.1. Khảo sát 5
1.2.2. Thiết kế 8
1.2.3. Thi công 10
1.2.4. Quản lý, vận hành, bảo trì 15
1.3. Những sự cố xảy ra đối với đập đất 16
1.3.1. Những sự xảy ra với đập đất 16
1.3.2. Một số sự cố đập đất 19
1.4. Kết luận 25
CHƯƠNG 2: CÁC BIỆN PHÁP QUẢN LÝ VÀ NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG KHI THI CÔNG ĐẬP ĐẤT 27
2.1 Các tính chất của đất ảnh hưởng đến chất lượng thi công đập đất 27
2.1.1. Tính trương nở 27
2.1.2 Tính tan rã 29
2.1.3. Tính lún ướt 31
2.1.4. Hiện tượng co ngót khi độ ẩm giảm 32
2.1.5 Đặc điểm địa chất công trình và guồn vật liệu đất đắp 32
2.2. Các quy chuẩn, tiêu chuẩn áp dụng trong quản lý chất lượng thi công
đập đất . 39
2.3. Các phương pháp thí nghiệm trong quản lý chất lượng đắp đập 41
2.3.1. Quy định chung về việc lấy mẫu đất 41
2.3.2. Lấy mẫu 41
2.3.3. Bao gói mẫu 44
2.3.4. Vận chuyển và bảo quản 46
2.3.5. Thí nghiệm đầm nén ở trong phòng thí nghiệm 47
2.3.6. Thí nghiệm đầm nén ở hiện trường 56
2.4. Các phương pháp kiểm tra đánh giá chất lượng đắp đập 57
2.5. Kết luận 62
CHƯƠNG 3: XÂY DỰNG ĐIỀU KIỆN KỸ THUẬT ĐỂ QUẢN LÝ VÀ
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐẮP ĐẬP CÔNG TRÌNH THỦY ĐIỆN
THƯỢNG – KONTUM 64
3.1 Giới thiệu công trình thủy điện Thượng Kon-Tum. 64
3.1.1 Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên của tỉnh Kon Tum 64
3.1.2. Giới thiệu về thủy điện Thượng Kon Tum 67
3.2. Các yêu cầu về chất lượng đập Thượng Kon Tum 73
3.2.1. Công tác chuẩn bị nền đập 73
3.2.2. Công tác đắp thân đập 74
3.3. Xây dựng điều kiện kỹ thuật để quản lý và nâng cao chất lượng đắp
đập 75
3.3.1. Lựa chọn độ ẩm của đất đầm nén và dung trọng thiết kế 76
3.3.2. Khống chế độ ẩm đầm nén cho đất miền Trung 88
3.3.3. Xử lý khe tiếp giáp trong thi công 92
3.3.4. Biện pháp thi công hạn chế tính trương nở của đất 95
3.3.5. Điều kiện kỹ thuật thi công đắp đập Thượng Kon Tum 96
3.4. Kết luận 98
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1 : Đặc tính tan rã của đất có nguồn gốc khác nhau 29
Bảng 2.2 : Ảnh hưởng của độ ẩm ban đầu đến thời gian tan rã với đất đỏ ba
zan ở Tây Nguyên 31
Bảng 2.3 : Hệ số “en” của đất đỏ ba zan Tây Nguyên 32
Bảng 2.4: Tính chất cơ lý sườn tàn tích trên đá ba zan trẻ 35
Bảng 2.5: Tính chất cơ lý sườn tàn tích trên đá ba zan cổ lớp 1 36
Bảng 2.6: Tính chất cơ lý sườn tàn tích trên đá ba zan cổ lớp 2 37
Bảng 2.7: Tính chất cơ lý sườn tàn tích trên đá ba zan cổ lớp 3 38
Bảng 2.8 : Các thông số và kích thước cối đầm 48
Bảng 2.9 : Các thông số và kích thước cối đầm 49
Bảng 2.10 : Kết quả thí nghiệm đầm chặt 55
Bảng 2.11 : Bảng kết quả thí nghiệm độ ẩm 55
Bảng 2.12: Số lượng mẫu kiểm tra 60
Bảng 3.1 : Các thông số kết cấu chính mặt cắt đập 68
Bảng 3.2 : Bảng trữ lượng các mỏ vật liệu 72
Bảng 3.3: Kết quả thí nghiệm đầm nén trong phòng thí nghiệm 78
Bảng 3.4 : Kết quả thí nghiệm đầm nén ngoài hiện trường 86
Bảng 3.5: Cường độ giảm độ ẩm tại lớp mặt và lớp giữa cách lớp mặt 15cm 90
DANH MỤC HÌNH VẼ
Hình 1.1 : Thiết kế dẫn dòng thi công 11
Hình 1.2 : Dòng thấm phát triển dưới đáy đập 20
Hình 1.3 : Bắt đầu xuất hiện mạch đùn, mạch sủi nền hạ lưu đập 20
Hình 1.4 : Những gì còn lại sau khi nước hồ bị tháo cạn 21
Hình 1.5: Vị trị thấm số 1 22
Hình 1.6: Thấm bùng nhùng ngang thân đập tại vị trí số 2 22
Hình 1.7: Đập vỡ tại vị trí cống lấy nước 23
Hình 1.8 : Vị trí cống bị gãy 24
Hình 1.9 : Toàn cảnh đập Khe Mơ sau sự cố 24
Hình 1.10 : Đoạn thân đập bị vỡ 25
Hình 2.1 : Cối đầm chặt 48
Hình 2.2 :Đường đầm chặt tiêu chuẩn 56
Hình 3.1: Mặt cắt ngang điển hình của tuyến đập 69
Hình 3.2: Mặt cắt ngang điển hình của tuyến đập 70
Hình 3.3: Sơ đồ chọn độ ẩm cho đất đầm nén trong đắp đập 77
Hình 3.4: Biểu đồ đầm nén tiêu chuẩn trong phòng thí nghiệm( mẫu từ bãi
vật liệu tràn) 79
Hình 3.5. Biểu đồ đầm nén tiêu chuẩn trong phòng thí nghiệm( mẫu từ bãi vật
liệu số 1) 80
Hình 3.6. Biểu đồ đầm nén tiêu chuẩn trong phòng thí nghiệm( mẫu từ bãi vật
liệu số 2) 81
Hình 3.7. Biểu đồ đầm nén tiêu chuẩn trong phòng thí nghiệm( mẫu từ bãi vật
liệu cửa vào đường hầm) 82
Hình 3.8 : Biểu đồ kết quả đầm nén ở hiện trường ( Bãi vật liệu tràn) 84
Hình 3.9 : Biểu đồ kết quả đầm nén ở hiện trường ( Bãi vật liệu số 1) .85
Hình 3.10 : Biểu đồ kết quả đầm nén ở hiện trường ( Bãi vật liệu số 2) 87
Hình 3.11: Biểu đồ kết quả đầm nén ở hiện trường ( Bãi vật liệu cửa vào
đường hầm) 87
Hình 3.12 : Mặt bằng xử lý khe nối tiếp ngang 95
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện tại nước ta đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, diện mạo
đất nước không ngừng được đổi mới. Với sự phát triển không ngừng của nền
kinh tế theo hướng đổi mới, hiện đại hoá, công nghiệp hoá.Tuy nhiên, nền
nông nghiệp nước ta vẫn đóng vai trò rất quan trọng trong việc phát triển kinh
tế. Từ nhu cầu đó, để nâng cao năng suất và chất lượng thì ngoài việc hiện đại
máy móc thì các nhu cầu cấp nước tưới tiêu là hết sức cấp thiết. Trong những
năm gần đây có rất nhiều các công trình hồ chứa đã được xây dựng nhằm đáp
ứng việc cấp nước tưới cho các vùng sản xuất nông nghiệp cũng như phát
điện, đặc biệt là những vùng núi và trung du. Những lợi ích đem lại là rất to
lớn, tuy nhiên kèm theo đó cũng có những sự cố xảy ra khi thi công ngăn
dòng đắp đập làm thiệt hại tài sản của Nhà nước cũng như tính mạng của
người dân do làm chưa tốt công tác quản lý chất lượng và an toàn. Chính vì
vậy việc quản lý và nâng cao chất lượng đắp đập là một vấn đề quan trọng và
rất cấp thiết.
Hiện nay ở nước ta việc quản lý chất lượng công trình xây dựng dựa vào
luật xây dựng, các nghị định và thông tư dưới luật. Trong đó nhà nước đã ban
hành Luật Xây dựng, Chính phủ ban hành các Nghị định, các bộ ngành liên
quan ban hành những thông tư hướng dẫn. Ngoài ra nhà nước còn ban hành
định mức dự toán, hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn trong xây dựng công trình
thuỷ lợi. Thiết lập bộ máy quản lý tham mưu giúp việc cho công tác quản lý
nhà nước về chất lượng xây dựng như ở trung ương có cục quản lý chất lượng
xây dựng, ở các tỉnh có các trung tâm kiểm định chất lượng.
Tuy vậy trong quá trình xây dựng công trình vẫn còn rất nhiều bất cập
trong quá trình quản lý chất lượng. Trong thời gian qua đã xảy ra hàng loạt sự
2
cố công trình thuỷ lợi, thủy điện gây nhiều thiệt hại về con người và tiền của.
Trong đó, các sự cố liên quan đến đập đất xảy ra rất nhiều. Chính vì vậy một
lần nữa việc quản lý và nâng chất lượng đập đất là một đòi hỏi cấp thiết.
2. Mục tiêu của đề tài
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu tổng quan về quản lý chất
lượng đập đất ở Tây Nguyên, đi sâu vào nghiên cứu quản lý và nâng cao chất
lượng công trình cụ thể ở Tây Nguyên là đập Thượng KonTum .
3. Cách tiếp cận và phương pháp thực hiện
- Nghiên cứu tổng quan về công tác quản lý chất lượng đập đất.
- Điều tra khảo sát, thu thập tổng hợp tài liệu thực tế về đập đất.
- Phân tích đánh giá và đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng đập đất
4. Kết quả dự kiến đạt được
- Thực trạng công tác quản lý chất lượng đập đất hiện nay, đánh giá
những kết quả đạt được, những vấn đề bất cập, tồn tại cần khắc phục, hoàn
thiện.
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng đập đất ở Tây Nguyên
và áp dụng vào một công trình đập đất cụ thể.
3
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CHẤT LƯỢNG ĐẬP ĐẤT
1.1. Tình hình chung về xây dựng đập đất ở nước ta
Từ nhiều thế kỷ qua, con người đã biết xây dựng các đập ngăn sông để
tạo hồ trữ nước tự nhiên, điều tiết dòng chảy phục vụ nhu cầu sử dụng nước
và hạn chế lũ lụt, phát triển thủy điện, tạo môi trường sinh thái… Với rất
nhiều lợi ích mang lại như đã kể trên, nên trong những thập kỷ qua số lượng
đập tạo hồ chứa nước trên Thế giới được xây dựng ngày càng nhiều. Nước ta
cũng không nằm ngoài xu hướng đó, hầu hết đập đất ở Việt Nam được xây
dựng từ năm 1954 ở miền Bắc và từ sau năm 1975 trên cả nước. Ở nước ta, số
đập đất tạo hồ chứa nước chiếm khoảng 90%, còn lại là đập bê tông và vật
liệu khác. Tính đến nay chúng ta đã xây dựng được trên 6500 hồ chứa thủy
lợi với tổng dung tích trữ nước khoảng 11 tỷ m
3
. Trong đó có 560 hồ chứa có
dung tích trữ nước lớn hơn 3 triệu m
3
hoặc đập cao trên 15m, 1752 hồ có
dung tích từ 0,2 triệu đến 3 triệu m
3
nước, còn lại là những hồ đập nhỏ có
dung tích dưới 0,2 triệu m
3
nước [3].
- Các tỉnh đã xây dựng nhiều hồ chứa là:
+ Nghệ An 625 hồ chứa
+ Thanh Hóa 618 hồ chứa
+ Hòa Bình 521 hồ chứa
+ Tuyên Quang 503 hồ chứa
+ Bắc Giang 461 hồ chứa
+ Đắc Lắc 439 hồ chứa
+ Hà Tĩnh 345 hồ chứa
+ Vĩnh Phúc 209 hồ chứa
+ Bình Định 161 hồ chứa
4
+ Phú Thọ 124 hồ chứa
- Giai đoạn 1960 ÷ 1975: Chúng ta đã xây dựng nhiều hồ chứa có dung
tích trữ nước từ 10 ÷ 50 triệu m3 như: Đại Lải (Vĩnh Phúc); Suối Hai, Đồng
Mô (Hà Nội); Khuôn thần (Bắc Giang); Thượng Tuy, Khe Lang (Hà
Tĩnh); Rào Nan, Cẩm Ly (Quảng Bình); đặc biệt hồ Cấm Sơn (Lạng Sơn) có
dung tích 248 triệu m
3
nước với chiều cao đập đất 40m (đập đất cao nhất lúc
bấy giờ).
- Giai đoạn 1975 ÷ 2000: Sau khi đất nước thống nhất chúng ta đã xây
dựng được hàng ngàn hồ chứa trong đó có nhiều hồ chứa nước lớn như: Núi
Cốc (Thái Nguyên); Kè Gỗ (Hà Tĩnh); Yên Lập (Quảng Ninh); Sông Mực
(Thanh Hóa); Phú Ninh (Quảng Nam); Yazun hạ (Gia Lai); Dầu Tiếng (Tây
Ninh)… trong đó hồ Dầu Tiếng có dung tích lớn nhất 1,58 tỷ m
3
. Các địa
phương trên cả nước đã xây dựng trên 700 hồ chứa có dung tích từ 1÷10 triệu
m
3
. Đặc biệt trong giai đoạn này các huyện, xã, hợp tác xã, nông trường đã
xây dựng hàng ngàn hồ chứa có dung tích trên dưới 0,2 triệu m
3
.
- Giai đoạn từ năm 2000 đến nay: Bằng nhiều nguồn vốn đặc biệt là
nguồn vốn trái phiếu chính phủ, Bộ NN&PTNT đã quản lý đầu tư xây dựng
mới nhiều hồ chứa có qui mô lớn và vừa như: Cửa Đạt (Thanh Hóa); Định
Bình (Bình Định); Tả Trạch (Thừa Thiên Huế); Nước Trong (Quảng Ngãi);
Đá Hàn (Hà Tĩnh); Rào Đá (Quảng Bình); Thác Chuối (Quảng Trị); Kroong
Buk Hạ, IaSup Thượng (Đắc Lắc)… Đặc điểm chung của các hồ chứa thủy
lợi là đập chính ngăn sông tạo hồ, tuyệt đại đa số là đập đất.
- Nhận định chung Hơn một nửa trong tổng số hồ đã được xây dựng và
đưa vào sử dụng trên 25 ÷ 30 năm nhiều hồ đã bị xuống cấp. Những hồ có
dung tích từ 1 triệu m
3
nước trở lên đều được thiết kế và thi công bằng những
lực lượng chuyên nghiệp trong đó những hồ có dung tích từ 10 triệu m
3
trở
5
lên phần lớn do Bộ Thủy lợi (trước đây) và Bộ NN&PTNT hiện nay quản lý
vốn, kỹ thuật thiết kế và thi công. Các hồ có dung tích từ 1 triệu ÷ 10 triệu m
3
nước phần lớn là do UBNN tỉnh quản lý vốn, kỹ thuật thiết kế thi công. Các
hồ nhỏ phần lớn do huyện, xã, HTX, nông trường tự bỏ vốn xây dựng và quản
lý kỹ thuật. Những hồ tương đối lớn được đầu tư tiền vốn và kỹ thuật tương
đối đầy đủ thì chất lượng xây dựng đập đạt được yêu cầu. Còn những hồ nhỏ
do thiếu tài liệu cơ bản như: Địa hình, địa chất, thủy văn, thiết bị thi công, lực
lượng kỹ thuật và nhất là đầu tư kinh phí không đủ nên chất lượng đập chưa
tốt, mức độ an toàn rất thấp.
1.2. Những vấn đề liên quan đến chất lượng đập đất
An toàn đập là vấn đề từ lâu đã được nhiều quốc gia quan tâm. Đập đất
chiếm tỷ lệ cao trong số các đập ngăn sông để tạo hồ chứa ở Việt Nam. Hư
hỏng của đập đất thường tiềm ẩn sự mất an toàn, nhiều trường hợp đã gây ra
thảm họa vỡ đập. Do vậy, các công tác khảo sát, thiết kế, thi công có ảnh
hưởng rất lớn đến chất lượng và sự an toàn của đập đất.
1.2.1. Khảo sát
Trong xây dựng công trình thủy lợi nói chung và xây dựng đập đất nói
riêng, công tác khảo sát địa chất là công việc phải thực hiện đầu tiên và có
tính chất cực kỳ quan trọng, nó không những tác động đến giá thành, hiệu quả
của dự án mà còn tác động rất lớn đến sự an toàn của công trình. Công tác
khảo sát còn giúp ích rất nhiều cho việc lựa chọn các vật liệu đất tốt nhất,
tuyến đập tốt nhất.
1.2.1.1. Tài liệu khảo sát địa chất nền, vai đập, khảo sát thăm dò vật
liệu
Công tác khảo sát đánh giá điều kiện địa chất công trình và vật liệu xây
dựng – mỏ khai thác vật liệu là một trong những công đoạn khó và rất phức
6
tạp trong các giai đoạn thiết kế công trình, đặc biệt là giai đoạn thiết kế kỹ
thuật. Một thực tế là kết cấu công trình phụ thuộc rất lớn vào công tác khảo
sát. Nếu chất lượng công tác khảo sát tốt, sẽ giúp cho nhà thiết kế chọn giải
pháp công trình phù hợp, quy mô, kết cấu hợp lý thoải mãn điều kiện kinh tế
kỹ thuật. Khảo sát nền móng cẩn thận và đầy đủ sẽ hạn chế tối thiểu rủi ro bất
ngờ khi mở móng xây dựng công trình, hoặc không phải xử lý kỹ thuật khi
kết quả khai thác vật liệu tại bãi hoàn toàn phù hợp với tài liệu khảo sát và
tính toán kiểm tra.
Qua những sự cố của các đập xảy ra, xem xét nguyên nhân gây ra sự cố,
xét ở góc độ khảo sát cơ bản, công tác khảo sát còn những hạn chế do những
yếu tố sau:
- Công tác khảo sát phục vụ cho tài liệu báo cáo chưa đảm bảo đúng
trình tự, quy trình, quy phạm. Chủ nhiệm dự án chưa làm đủ, làm đúng các
yêu cầu kỹ thuật trong khảo sát, còn xem nhẹ tầm quan trọng của nó, tài liệu
thăm dò ít, sơ sài.
- Do hạn chế của điều kiện thiết bị, từ khoan đến dụng cụ thí nghiệm nên
độ chính xác của thông số thí nghiệm còn hạn chế.
Đất đắp đập ở vùng Tây Nguyên Nam Trung Bộ có các tính chất cơ lý
đặc biệt mà các vùng khác ít gặp [6]. Nếu nõn khoan được bảo vệ cẩn thận,
đảm bảo đúng trạng thái nguyên dạng thì kết quả thí nghiệm các chỉ tiêu cơ lý
sẽ phản ánh đúng. Ngược lại nếu thiết bị khoan cũ kỹ, độ chính xác cơ khí
kém thì phôi lấy ra đã bị tác động cơ khí, tính nguyên dạng của phôi bị ảnh
hưởng.
Yếu tố thứ hai cũng cần nêu lên là : Do cấu trúc địa tầng thay đổi và
ngay cả trong cùng một lớp cũng thay đổi. Vì vậy nếu công tác khảo sát
không chi tiết, không phân vùng, phân lớp, tài liệu thí nghiệm lấy từ trị số
7
bình quân thì rõ ràng kết quả lựa chọn trong đầm nén càng sai khác nhiều so
với thực tế.
1.2.1.2. Tài liệu cơ bản phục vụ cho tính toán thủy văn công trình
Như ta đã biết tài liệu thủy văn đóng vai trò rất quan trọng trong tính
toán dòng chảy. Để kết quả tính toán lũ đảm bảo độ tin cậy thì chuỗi số liệu
cơ bản phải đầy đủ và tính đại biểu phải cao. Thực tế cho thấy tài liệu đo đạc
thủy văn ở hầu hết các công trình ở Tây Nguyên rất ngắn. Khi tài liệu đo đạc
còn ngắn, lại chưa có phương pháp kéo dài tài liệu cho phù hợp, vì vậy dẫn
đến kết quả tính toán với độ tin cậy thấp [6].
Một số hồ chứa do không có trạm đo nên phải dung tài liệu tương tự của
vùng tương tự. Trong trường hợp này khi mượn tài liệu tính thì phải đưa ra
những chỉ số hiệu chỉnh, điều này bị hạn chế khi tài liệu cơ sở cho tính toán
cũng thiếu. Mặt khác khâu điều tra, thu thập chỉnh lý số liệu những trận mưa
lũ lịch sử theo khu nghiên cứu, hay triền sông, đánh giá tính đại biểu của
chuối số liệu còn hạn chế.
Từ những mặt trên việc xác định thông số của dòng chảy lũ chưa được
sát với thực tế. Phần nhiều là trị số tính toán nhỏ hơn lưu lượng xảy ra sau khi
hệ thống đầu mối bước vào hoạt động.
1.2.1.3. Tài liệu khảo sát địa hình chưa đầy đủ hoặc độ chính xác
không đảm bảo
Tài liệu khảo sát địa hình là cơ sở cho việc xác định kích thước, chọn
tuyến và kết cấu công trình, công tác khảo sát chính xác là phần nối tiếp công
trình sẽ hợp lý, công trình lại làm việc bình thường với dòng chảy thiết kế.
Thực tế cho thấy tác khảo sát công trình loại vừa và nhỏ còn có những tồn tại,
ảnh hưởng không ít đến việc lựa chọn kết cấu công trình.
8
1.2.2. Thiết kế
Trải qua lịch sử xây dựng và phát triển đập đất ở nước ta từ trước tới
nay, công tác thiết kế là một trong những bước cơ bản và quan trọng ảnh
hưởng trực tiếp tới chất lượng và an toàn đập đất nhiều năm về sau. Ở nước ta
hiện nay, công tác thiết kế luôn được trú trọng rất tốt và đã có một nền tảng
khá vững chắc, đảm bảo khá tốt được các tiêu chí về kinh tế và an toàn trong
quá trình thi công và quản lý vận hành về sau. Sau đây là những phân tích
đánh giá về mặt này.
1.2.2.1. Quy phạm tính toán thiết kế lũ
a. Hệ thống hóa tiêu chuẩn tính toán lũ thiết kế công trình
Hiện nay, quy phạm tính toán lũ của ta còn nhiều vấn đề cần được giải
quyết sớm. Đã có nhiều quy phạm được biên soạn và sử dụng, một số quy
phạm đó là :
- Quy phạm biên soạn lần thứ nhất năm 1963: Là bộ quy phạm đầu tiên
quy định tính toán cho thiết kế ở nước ta. Quy phạm được biên soạn dựa trên
cơ sở của kinh nghiệm các nước khối Xã hội chủ nghĩa và Liên Xô cũ. Ở
nước ta, đã có rất nhiều công trình được áp dụng quy phạm này để thiết kế và
độ an toàn được đảm bảo tốt khi áp dụng hệ thống quy định này [6].
b. Những phân tích cơ bản về quy phạm hiện nay cho tính toán lũ
thiết kế
Độ an toàn trong tính toán theo quy phạm hiện nay chưa thật đảm bảo,
điều này thể hiện ở các mặt sau. Theo TCVN 285-2002 nếu sự cố của công
trình dòng nước có thể gây hậu quả nghiêm trọng cho hạ lưu thì cấp trình
được nâng lên 1 cấp. Điều này sẽ thiếu chỗ giải thoát khi công trình cấp 1 thì
lên cấp nào?
9
Khi tài liệu tính toán không đủ độ tin cậy hoặc không đáp ứng được các
yêu cầu của các tiêu chuẩn tính toán thủy văn thì nhất thiết phải bố trí tràn sự
cố. Quy mô và cấp công trình xả sự cố ít nhất phải thấp hơn cấp công trình
chính một cấp. Điều này dẫn đến bất hợp lý, đối với công trình quan trọng,
khi vỡ thì gây ra tai họa vô cùng lớn, nhưng không cần làm tràn sự cố. Còn
đối với các công trình nhỏ, khi chưa có đủ tài liệu tính toàn thì cho phép làm
tràn sự cố. Thực tế cho thấy trị số lưu lượng thiết kế lại nhỏ hơn trị số đo
được xảy ra tại công trình.
Thực tế cho thấy lưu lượng đỉnh lũ và tổng lượng lũ tính toán thường
nhỏ hơn so với tài liệu thực đo.
1.2.2.2. Nguyên nhân lựa chọn phần giải pháp công trình chưa hợp
lý
Vấn đề lựa chọn kết cấu công trình, vị trí xây dựng là hết sức quan
trọng, nó quyết định đến ổn định và giá thành công trình. Nếu đất đắp không
đủ phải dung tường lõi chỗng thấm thì việc chọn vật liệu, vị trí đặt, vật liệu
tầng lọc… là một việc rất quan trọng. Sau đây xin đi vào phân tích từng yếu
tố liên quan đến chọn giải pháp thiết kế xử lý.
a. Nền và vai đập
Việc sử dụng phần vai đập đóng một vai trò cực kỳ quan trọng đến điều
kiện ổn định của khối đắp. Thực tế chỉ ra rằng có rất nhiều đập do xử lý tiếp
giáp không tốt và gây ra sự cố vỡ đập
Vấn đề thi công chân khay cũng cần được xem xét nghiêm túc trong khi
thiết kế. Người thiết kế phải có phương án thi công cho loại kết cấu mà mình
đã chọn. Thông thường chân khay phải thi công khẩn trương, lại bị nước
ngầm tác động. Nếu thiết kế chọn phương án thi công không hợp lý, nhà thầu
sẽ thi công theo kiểu riêng của họ, đôi khi chất lượng không thật đảm bảo.
10
b. Thiết kế lớp bảo vệ mái đập
Qua phần phân tích sự cố của đập đất cho thấy sự cố sạt mái đập, hỏng
mái chiếm một tỉ lện lớn và xảy ra đối với các đập vừa và lớn, còn các đập rất
nhỏ thì xảy ra tỉ lệ thấp. Điều này có liên quan đến ảnh hưởng của sóng, đến
ổn định của lớp bảo vệ. Về lớp bảo vệ mái đập hiện nay áp dụng ở miền
Trung như sau:
- Bảo vệ bằng đá lát khan
- Bảo vệ bằng đá đổ
- Bảo vệ bằng tấm bê tong lát
c. Lựa chọn dung trọng thiết kế
Việc lựa chọn dung trọng khô thiết kế cho đập đất cũng là một vấn đề
cần được xem xét. Thông thường các bãi vật liệu có cấu trúc địa chất lớp khác
nhau, tính chất cơ lý ở các bãi khác nhau và sự sai khác đó diễn ra ngay trên
cùng một bãi. Như vậy lựa chọn dung trọng khô thiết kế và tổ hợp bố trí khối
đắp là một vấn đề rất quan trọng nhằm giảm khả năng xảy ra sự cố đối với
đập. Trong trường hợp đất các bãi có đặc trưng cơ lý thay đổi thì thiết kế cần
phân vùng sử dụng vật liệu, tại kết cấu quan trọng lún ảnh hướng rất lớn đến
điều kiện ổn định công trình thì nên được ưu tiên trong thi công. Nên sử dụng
vật liệu đáp ứng được các yêu cầu kỹ thuật của thiết kế đặt ra. Những phần có
tầm quan trọng nhỏ hơn được phép sử dụng vật liệu thông thường, có làm như
vậy mới tránh khỏi những biến cố cục bộ xảy ra ở những vị trí cá biệt của
công trình.
1.2.3. Thi công
Thi công xây dựng công trình là giai đoạn biến ý tưởng của người thiết
kế thành hiện thực. Với xây dựng đập đất, đây là giai đoạn kéo dài nhiều năm
và chịu tác động tổng hợp của các yếu tố thời tiết, địa hình, địa chất, công tác
11
tổ chức thi công và cả yếu tố xã hội như giá cả vật tư, giải phóng mặt bằng.
Giai đoạn này cũng quyết định nhiều đến chất lượng và an toàn đập. Từ kinh
nghiệm đúc kết trong nhiều năm qua, công tác tổ chức thi công xây dựng đập
đất có một số điểm cần chú ý như sau :
1.2.3.1. An toàn khi dẫn dòng thi công
Khi thiết kế dẫn dòng, nội dung chính thể hiện qua sơ đồ sau:
Hình 1.1 : Thiết kế dẫn dòng thi công
Ví dụ, chọn lưu lượng thiết kế dẫn dòng (Q
dd
TK P%
) với công trình cấp III
theo Tiêu chuẩn XDVN 285: 2002:
- Khi đó công trình tạm là cấp IV, tần suất lưu lượng thiết kế dẫn dòng
(LLTKDD) P=10%. Thời đoạn dẫn dòng thông thường chia theo mùa khô và
mùa mưa. Nếu cứ tiến hành tuần tự theo sơ đồ trên thì sau khi tính thủy lực sẽ
xác định được kích thước công trình dẫn và ngăn dòng, việc tính toán ở thời
đoạn mùa khô thường không bị mắc sai lầm. Tuy nhiên, tần suất trên để tính
cho công trình dẫn dòng và ngăn dòng là các công trình tạm (kênh dẫn dòng,
đê quai…). Giai đoạn mùa lũ, việc chọn tần suất LLTKDD có thể chưa phù
hợp trong 2 trường hợp sau:
+ Vào mùa lũ năm thi công thứ nhất, dòng chảy thường được dẫn qua
lòng sông thu hẹp (một hay 2 bờ); mùa lũ năm thi công thứ 2 hoặc 3 dòng
chảy dẫn qua tràn tạm (tràn xây dở hay lợi dụng địa hình yên ngựa), công
trình chắn nước trong giai đoạn này là đập chính. Khi đó, nếu vẫn tính toán
12
mực nước hồ ứng với lưu lượng Q
dd
TK p=10%
thì khi xuất hiện Q > Q
dd
TK
p=10%
nước sẽ tràn qua đập chính hoặc gây xói lở công trình. Trường hợp này
cần tính tần suất lưu lượng thiết kế ứng với công trình chính mới đảm bảo an
toàn.
+ Sau khi chặn dòng, giai đoạn thi công đắp đập vượt lũ tiểu mãn (khu
vực miền Bắc thường là vào tháng 5, vùng Tây Nguyên Nam Trung Bộ vào
khoảng tháng 7), nếu chọn lưu lượng lũ tiểu mãn P=10% để tính toán điều tiết
hồ và xác định cao độ đắp đập vượt lũ cũng chưa phù hợp. Trường hợp này
phải tính toán với lũ tần suất thiết kế của giai đoạn đầu mùa lũ (P=1%) mới
đảm bảo an toàn cho đập. Thông thường theo tài liệu thủy văn trong hồ sơ
thiết kế: mùa mưa có đủ tài liệu quá trình lũ với tần suất 10%, 1% và tần suất
kiểm tra, mùa khô chỉ có tài liệu quá trình lũ với tần suất 10%. Điều này dẫn
đến không đủ tài liệu cho người tổ chức thi công khi cần tính toán với con lũ
thiết kế giai đoạn chuyển tiếp 2 mùa.
1.2.3.2. Tổ chức thi công đắp đập và quản lý tiến độ
- Công tác thí nghiệm đầm nén hiện trường : Theo quy định trước khi
đắp đập đại trà với đất dính có khối lượng trên 200.000m
3
cần thí nghiệm đầm
nén hiện trường để xác định các thông số đầm nén như: độ ẩm, chiều dày lớp
rải, số lần đầm và được chủ đầu tư phê duyệt làm căn cứ cho quá trình thi
công. Hiệu quả đầm nén đất phụ thuộc vào nhiều yếu tố (độ ẩm, loại đất,
chiều dày lớp rải, công cụ đầm). Khối lượng đập đất thường lớn, từ vài trăm
ngàn đến vài triệu mét khối (đập Hà Động trên 600 ngàn m3, Tả Trạch trên 8
triệu m
3
, v,v…). Do vậy, khi đắp đập phải khai thác nhiều bãi vật liệu mới đủ
đất đắp. Thông thường, để hoàn thành một đập đất cần khai thác 3-4 bãi vật
liệu chính (điển hình như đập Nà Danh - Cao Bằng do vật liệu khó khăn, khối
lượng đập gần 300 ngàn m3 phải khai thác 6 bãi), chưa kể mỗi bãi vật liệu có
thể gồm nhiều lớp với thành phần hạt, độ ẩm khác nhau. Mặt khác, tại mỗi
13
công trường thường sử dụng một vài thiết bị đầm nén nhất định. Chính vì vậy,
mỗi khi chuyển vị trí bãi khai thác hay chuyển mùa thi công cần làm tốt công
tác thí nghiệm đầm nén hiện trường. Qua thực tế một số công trường cho
thấy, thí nghiệm đầm nén hiện trường chưa được chủ đầu tư và các nhà thầu
quan tâm đúng mức, có trường hợp chỉ thí nghiệm 01 lần với 01 bãi vật liệu
sau đó áp dụng cho suốt quá trình đắp đập; ở trường hợp khác, nhà thầu coi
công tác này là việc phát sinh nên chưa chủ động thực hiện.
- Chọn giải pháp dẫn dòng thi công: Theo thống kê các giải pháp dẫn
dòng khi thi công đập đất: Vào mùa khô công trình dẫn dòng thường là kênh,
cống lấy nước; công trình tháo nước trong mùa lũ là lòng sông thu hẹp, tràn
xả lũ, một vài trường hợp kết hợp xả lũ qua tuy nen. Ở công trình miền núi,
do địa hình lòng sông hẹp dẫn đến bố trí mặt bằng khó khăn. Có trường hợp
nhà thầu thi công thay việc dẫn dòng qua kênh theo thiết kế bằng dẫn qua các
ống buy bê tông và đắp đập lên trên, dự kiến sẽ nút ống buy sau khi dòng
chảy được dẫn qua cống. Đây là sai lầm khó khắc phục vì sau một thời gian,
do tiếp xúc với dòng chảy làm đất trong thân đập 2 bên cống bão hòa và phần
nào bị nước cuốn trôi; khi hoành triệt ống dẫn dòng chỉ làm chặt được 2 đầu,
phần nằm trong thân đập vẫn bị rỗng làm tập trung dòng thấm, khi hồ dâng
nước dễ gây mất an toàn đập. Giải pháp khắc phục có thể là khoan phụt vữa xi
măng - sét dọc tuyến ống dẫn dòng, tốn nhiều công và vật liệu nhưng cũng
khó xử lý triệt để.
- Phân đợt đắp đập và tốc độ lên đập: Ngoài những đập khối lượng nhỏ
có thể hoàn thành trong một mùa khô khi đắp không cần phân đợt, phần lớn
các đập còn lại phải thi công dài hơn 2 mùa khô thì việc phân đợt đắp đập gần
như bắt buộc. Các đợt đắp đập thường được phân theo mùa thi công. Việc xử
lý tiếp giáp mặt nằm ngang do phân đợt đơn giản hơn so với xử lý tiếp giáp
theo chiều đứng. Đập đất thường được phân thành 2-3 khối theo chiều dọc.
Trong các khối đắp đó, khối lòng sông chịu nhiều bất lợi hơn: chiều cao lớn
14
nhất, thời gian đắp thực hiện sau các khối 2 bên, tốc độ lên đập nhanh do yêu
cầu vượt lũ dễ làm sinh áp lực khe rỗng lớn và tạo ra chênh lệch lún. Chính vì
thế, khi xử lý tiếp giáp đứng ngoài việc đảm bảo các yêu cầu như tạo bậc, bóc
phần nứt nẻ và đảm bảo độ ẩm cần tạo các chân răng cắm vào khối đắp trước.
Tốc độ lên đập theo chiều cao phụ thuộc nhiều vào loại đất đắp đập nên cần
tuân theo chỉ dẫn của Tư vấn thiết kế để hạn chế áp lực kẽ rỗng.
- Quản lý chặt chẽ tiến độ giai đoạn vượt lũ: Lập tiến độ là thành phần
công việc trong thiết kế tổ chức thi công đắp đập. Qua tiến độ thể hiện được
trình tự công việc và các mốc khống chế về cao độ cũng như thời gian. Thực
tế cho thấy, tiến độ phụ thuộc vào nhiều yếu tố nên thường bị “trượt” và cần
được điều chỉnh, đặc biệt ở giai đoạn đắp đập vượt lũ. Trường hợp này để
đảm bảo an toàn đập, chủ đầu tư cần thực hiện:
- Tổ chức phê duyệt tiến độ điều chỉnh và quản lý chặt chẽ; đôn đốc nhà
thầu tập trung đắp đập ngay sau khi chặn dòng; tránh để xảy ra trường hợp khi
thời tiết thuận lợi thì thi công cầm chừng, gần đến mưa lũ phải thi công gấp
có khi đắp cả đất ướt, khối đất đắp không đảm bảo chất lượng và cao trình
chống lũ, đây cũng là một trong những tiềm ẩn của sự mất an toàn đập.
- Cần có thời gian dự trữ trong tiến độ, đề cập những bất lợi của thời tiết
và hư hỏng thiết bị phải sửa chữa trong giai đoạn thi công với cường độ cao.
1.2.3.3. Công tác quản lý chất lượng trong quá trình thi công
- Công việc đắp đập bao gồm nhiều khâu từ chuẩn bị hiện trường, thiết
bị thi công, kiểm tra bãi vật liệu, phòng thí nghiệm đến các khâu đắp đập,
kiểm tra chất lượng đất đắp, xử lý kỹ thuật, nghiệm thu chuyển giai đoạn
v,v… nên đòi hỏi có hệ thống quản lý chất lượng đáp ứng yêu cầu hồ sơ mời
thầu trước khi đắp đập. Nội dung này phải có sự tham gia và phối hợp chặt
chẽ giữa các đơn vị: chủ đầu tư, nhà thầu thi công, tư vấn giám sát, tư vấn
thiết kế (giám sát tác giả). Mỗi đơn vị thực hiện một phần nội dung trong
15
công tác quản lý chất lượng nên cần có đội ngũ cán bộ kỹ thuật đủ kinh
nghiệm phù hợp với công việc. Thực tế ở một số công trường, công tác này
vẫn còn vài tồn tại như sau:
- Nhân sự của đơn vị tư vấn giám sát chưa đáp ứng yêu cầu theo hồ sơ
mời thầu, thiếu kỹ sư địa chất hoặc cán bộ giám sát thiếu kinh nghiệm trong
thi công đập nên đôi khi bị động trong việc xử lý kỹ thuật hiện trường;
- Phòng thí nghiệm hiện trường sơ sài, thiết bị thí nghiệm chưa được
kiểm định theo định kỳ; một số trường hợp thiết bị thí nghiệm và các phép thử
đưa vào công trường nhưng chưa có sự chấp thuận của chủ đầu tư;
- Giám sát tác giả thường là cán bộ chưa có nhiều kinh nghiệm và không
phải chủ nhiệm thiết kế, dẫn đến việc phát hiện những bất hợp lý trong hồ sơ
thiết kế so với thực tế hiện trường chưa kịp thời.
1.2.4. Quản lý, vận hành, bảo trì
Mặc dù Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản, quy định trách nhiệm
quản lý, khai thác và bảo vệ công trình thủy lợi thủy điện nói chung và các hồ
đập nói riêng, nhưng nói chung, năng lực về quản lý, theo dõi và vận hành hồ
đập tại Việt Nam còn nhiều bất cập.
Công tác tổ chức quản lý chưa đầy đủ, kém hiệu quả và chưa được quan
tâm đúng mức. Ở các hồ chứa nước lớn và vừa do các công ty khai thác công
trình quản lý, công tác này đã được chú ý hơn nhưng so với yêu cầu đặt ra
trong các văn bản, quy định thì còn một khoảng cách khá xa. Đối với các hồ
vừa và nhỏ, nhiều hồ được giao cho các xã, nông trường quản lý nhưng không
được hỗ trợ đầy đủ cán bộ kỹ thuật và đào tạo về chuyên môn, tình trạng này
cũng tương tự đối với các hồ thủy điện do các công ty cổ phần tư nhân quản
lý. Vì vậy công tác quản lý chưa đi vào nề nếp, hiệu quả còn thấp.
Nguồn nhân lực quản lý đập chưa đáp ứng các yêu cầu về công tác quản
lý; nhiều nơi thiếu cán bộ về thủy lợi, đặc biệt là các vùng miền núi. Công tác
16
đào tạo không được tiến hành thường xuyên, thiếu cán bộ quản lý đập được
đào tạo về quản lý an toàn đập. Ở các hồ giao cho xã và các nông trường hoặc
công ty tư nhân quản lý, cán bộ quản lý không có đủ trình độ chuyên môn,
thiếu kiến thức về quản lý an toàn đập, khi tình huống lũ lụt xảy ra không có
hoặc thiếu lực lượng cán bộ kỹ thuật chuyên ngành để xử lý ngay từ đầu. Đây
là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng vỡ một số đập nhỏ đã xẩy
ra.
Tình hình trên đã cho thấy nếu việc thiết kế, xây dựng và quản lý vận
hành đập không tốt, không an toàn để xẩy ra các sự cố vỡ đập hoặc xả lũ lớn
bất thường thì ngoài thiệt hại cho bản thân công trình, phá hoại hoặc ngưng
trệ sản xuất, còn có thể gây ra tổn thất nặng nề về sinh mạng, tài sản ở vùng
hạ lưu đập, làm ách tắc giao thông gây thiệt hại to lớn cho kinh tế, quốc
phòng và an ninh của đất nước. Mức độ tác hại của sự cố phụ thuộc vào quy
mô, vị trí công trình cũng như đặc điểm khu vực hạ du nhưng dù ở mức độ
nào thì tổn thất do sự cố vỡ đập gây ra sẽ là rất đáng kể về mặt kinh tế, chưa
nói các tổn thất về sinh mạng tài sản và làm đảo lộn môi trường sinh thái ở
một khu vực nhất định.
Những năm sau này, những thiếu sót, hạn chế trên đã từng bước được
khắc phục đối với các hồ được xây mới. Tuy nhiên, tình hình nhìn chung vẫn
chưa được cải thiện nhiều. Thêm vào đó, diễn biến thời tiết ngày càng bất lợi,
cộng với rừng đầu nguồn của hồ chứa bị tàn phá làm cho lượng lũ tập trung
về hồ nhanh và lớn hơn, tăng mức độ nguy hiểm cho công trình.
1.3. Những sự cố xảy ra đối với đập đất
1.3.1. Những sự xảy ra với đập đất
Các sự cố đập đất thường có các dạng sau : Sạt mái thượng, hạ lưu, hỏng
lớp bảo vệ, thấm phát triển trong nền và thân đập gây ra vỡ, tràn nước qua
đỉnh đập và bắt nguồn từ sự cố của những công trình khác. Nguyên nhân gây
17
sự cố có thể bắt nguồn từ nhiều khía cạnh, nó thể hiện từ khâu thiết kế đến thi
công và quản lý vận hành [4]. Những sự cố thường gặp như sau:
- Lũ tràn qua đỉnh đập do :
+ Tính toán thủy văn không chính xác
+ Cửa đập tràn bị kẹt
+ Lũ vượt tần suất thiết kế
+ Đỉnh đập đắp thấp hơn cao trình thiết kế
- Sạt lở mái đập ở thượng lưu:
+ Tính toán sai cấp bão
+ Biện pháp gia cố mái không đủ sức chịu sóng do bão gây ra
+ Thi công lớp gia cố kém chất lượng
+ Đất mái thượng lưu đầm nện không đủ độ chặt
- Thấm mạnh làm xói nền đập do :
+ Đánh giá sai địa chất nền đập
+ Biện pháp thiết kế xử lý nền không đảm bảo chất lượng
+ Thi công xử lý không đúng thiết kế
- Thấm và sủi nước ở vai đập do :
+ Thiết kế sai biện pháp tiếp giáp giữa đập và vai
+ Thi công không đúng thiết kế, bóc bỏ lớp thảo mộc không hết
+ Đầm nện chỗ tiếp giáp không tốt
- Thấm và xói rỗng ở mang các công trình bê tông do:
+ Thiết kế biện pháp tiếp giáp không tốt
+ Thi công không đảm bảo chất lượng
+ Các khớp nối của công trình bê tông bị hỏng…
- Thấm mạnh, sủi nước qua thân đập do:
+ Vật liệu đắp không tốt
+ Khảo sát vật liệu không đúng với thực tế, thí nghiệm sai các chỉ tiêu
cơ lý lực học của vật liệu đất
18
+ Thiết kế sai dung trọng khô của đập
+ Không có biện pháp xử lý thích hợp đối với độ ẩm của đất
+ Thi công đầm nén không đảm bảo kỹ thuật
+ Thiết bị tiêu nước qua thân đập không làm việc
- Nứt ngang đập do:
+ Nền đập bị lún
+ Thân đập lún không đều
+ Đất đắp đập bị lún ướt lớn hoặc tan rã nhanh
- Nứt dọc đập do :
+ Nước hồ dâng cao đột ngột do lũ về nhanh
+ Nước hồ rút xuống đột ngột gây giảm tải đột ngột ở mái thượng lưu
+ Nền đập bị lún theo chiều dài tim đập
+ Đất đắp đập khối thượng lưu có tính lún ướt và tan rã nhanh nhưng
khảo sát không phát hiện ra hoặc thiết kế không có biện pháp đề phòng
- Trượt mái thượng và hạ lưu đập do:
+ Sóng bão kéo dài phá hỏng lớp gia cố
+ Nước hồ rút nhanh
+ Thiết kế chọn sai sơ đồ tính toán ổn định, tổ hợp tải trọng
+ Địa chất nền xấu không xử lý triệt để
+ Chất lượng thi công không đảm bảo
+ Thiết bị tiêu nước thấm trong thân đập không làm việc, thiết bị tiêu
nước mưa trên mái không tốt
- Đập tràn bị hỏng do :
+ Nền bị xói làm thân đập bị gãy nứt nẻ
+ Tiêu năng bị xói do thiết kế sai
+ Hạ lưu bị xói do tiêu năng không hết
+ Cửa van bị kẹt do thiết kế gia công và lắp đặt kém, thiết bị đóng mở
hoạt động kém
19
- Cống lấy nước bị hỏng do:
+ Nền lún làm gãy cống
+ Hỏng khớp nối, nước xói ở mặt tiếp giáp giữa cống và đập
+ Cửa cống bị kẹt, cống ở quá sâu không xử lý được nhất là trong khi hồ
chứa đầy nước
+ Tiêu năng sau cống bị xói
1.3.2. Một số sự cố đập đất
1.3.2.1. Sự cố đập hồ Am Chúa – huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh
Hòa
Hồ Am Chúa được xây dựng năm 1987 và cơ bản hoàn thành vào năm
1992. Hồ có đập đất dài 330 m, cao 24.5 m, cao trình đỉnh đập 37.0 m. Sự cố
đập xảy ra vào tháng 10/1989 và tháng 10/1992: Do mưa to kéo dài, nước hồ
dâng lên nhanh đột ngột, xuất hiện nhiều lỗ rò rỉ, thấm mạnh qua thân đập.
Nguyên nhân gây ra sự cố là do chất lượng công tác thi công đắp đập. Khối
đất đắp bị phân tách từng lớp, có các lớp kẹp bụi khô màu xám tro, mật độ tập
trung nhiều ở lỗ rò, độ ẩm đất không đều, độ chặt kém và không đồng đều,
các chỉ tiêu đạt thấp so với yêu cầu thiết kế (trích Báo cáo tổng hợp Đề tài
nghiên cứu khoa học cấp Bộ năm 2004 ”Nghiên cứu các giải pháp KHCN
bảo đảm an toàn hồ chứa thủy lợi vừa và lớn ở các tỉnh miền Bắc và miền
Trung Việt Nam” do GS Nguyễn Văn Mạo làm Chủ nhiệm)[4]