Sở Giáo dục và Đào tạo Thanh Hoá
Trường THPT Hoằng Hoá 2
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI: MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT HUY TÍNH TÍCH
CỰC CỦA HỌC SINH QUA DẠY PHẦN LỊCH SỬ VIỆT
NAM TỪ 1945 ĐẾN 1954 (LỚP 12 THPT)
@@@
Người thực hiện: Lê Thị Hồng
Chức vụ: Tổ trưởng chuyên môn
Đơn vị công tác: Tổ Sử - Địa – GDCD
SKKN thuộc môn: Lịch sử
Thanh Hoá năm 2013
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lí do chọn đề tài.
Vấn đề phát huy tính tích cực học tập của học sinh đã được đặt ra trong
ngành giáo dục nước ta từ những năm 60 của thế kỉ XX. Trong cuộc cải cách giáo
1
dục lần 2, năm 1980, phát huy tính tích cực đã là một trong các phương hướng cải
cách, nhằm đào tạo những người lao động sáng tạo, làm chủ đất nước.
Cho đến nay trong lí luận cũng như thực tiễn, không ai phủ nhận vai trò to
lớn của người học, bởi suy cho cùng kết quả thu lượm kiến thức khoa học của học
sinh càng cao bao nhiêu, càng bền vững bao nhiêu thì chất lượng dạy học tốt bấy
nhiêu. Song thực tế cho thấy việc dạy học ở trường phổ thông vẫn còn nhiều điều
đáng lo ngại, chất lượng dạy học còn thấp, việc dạy học theo cách thức truyền
thống còn phổ biến, hiện tượng “thầy đọc, trò chép”, nhồi nhét kiến thức vẫn còn
tồn tại nhiều nơi.
Mặc dù phương pháp dạy học nói chung, dạy học lịch sử nói riêng đã được
chú trọng đổi mới, cải tiến nhiều, tuy nhiên nhìn chung phương pháp dạy học lịch
sử vẫn chưa theo kịp các cải tiến về nội dung, chưa đáp ứng yêu cầu đào tạo. Có thể
nói phương pháp dạy học lịch sử còn có phần bảo thủ, thực dụng. Sự lạc hậu về
phương pháp dạy học là một trong những trở ngại của việc nâng cao chất lượng
giáo dục bộ môn. Nguyên nhân cơ bản của tình trạng này là do giáo viên chưa nhận
thức đúng đắn, sâu sắc vai trò, vị trí của phương pháp dạy học, chưa tiếp nhận
những cơ sở khoa học, lí luận về phương pháp dạy học mà còn tiến hành giảng dạy
theo kinh nghiệm chủ nghĩa, đặc biệt chưa chú trọng phát huy tính tích cực của học
sinh.
Yêu cầu thực tiễn đặt ra là cần phải đổi mới phương pháp dạy học lịch sử
theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu
quả dạy học bộ môn.
Vậy thế nào là phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học nói chung,
trong dạy học lịch sử nói riêng, làm thế nào để phát huy tính tích cực của học sinh
trong dạy học lịch sử thông qua từng khóa học, chương, bài học cụ thể….đó chính
là lí do tôi lựa chọn đề tài “ Một số biện pháp nhằm phát huy tính tích cực của
học sinh trong dạy học phần lịch sử Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954
2
( Lịch sử 12 THPT)”, với mong muốn góp phần nhỏ vào việc nâng cao chất lượng
bộ môn
II. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.
1 Mục đích: Trên cơ sở lí luận phương pháp dạy học lịch sử, đề tài đi sâu vào
đề xuất một số biện pháp nhằm phát huy tính tích cực học tập của học sinh trong
dạy học phần Lịch sử Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954.
2 Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích trên, đề tài cần thực hiện những nhiệm vụ
cụ thể sau:
-Tìm hiểu những lí luận dạy học nói chung, bộ môn nói riêng để lí giải rõ nội
hàm khái niệm tính tích cực học tập của học sinh.
- Nghiên cứu chương trình sách giáo khoa lịch sử lớp 12 phần lịch sử Việt
Nam 1945 đến 1954.
- Đề xuất một số biện pháp sư phạm nhằm phát huy tính tích cực học tập của
học sinh trong dạy học phần lịch sử Việt Nam giai đoạn 1945 – 1954.
III. Phạm vi nghiên cứu đề tài.
Do điều kiện về mặt thời gian ,đề tài chỉ đi vào đề cập một số biện pháp khi
dạy học phần: Lịch sử Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954 (SGK Lịch sử 12
THPT)
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở lí luận của vấn đề
Vấn đề phát huy năng lực hoạt động độc lập, tích cực của học sinh trong dạy
học nói chung, dạy học lịch sử nói riêng từ lâu đã được các nhà lí luận dạy học
cũng như giáo viên ở trường phổ thông đặc biệt quan tâm. Họ đều thừa nhận rằng
một trong những biện pháp quan trọng để nâng cao chất lượng dạy học là phải chú
trọng đến vai trò của người học, coi học sinh là chủ thể của quá trình dạy học.
3
Vấn đề đặt ra cần giải quyết là: thế nào là tính tích cực trong hoạt động học
tập của học sinh? Với đặc trưng bộ môn, học sinh có thể hoạt động tích cực độc lập
được không? Làm thế nào, với phương pháp dạy học cụ thể nào để học sinh tích
cực hoạt động độc lập, tự mình lĩnh hội kiến thức?
Trong học tập lịch sử, quá trình nhận thức của học sinh được bắt đầu bằng
quan sát (tri giác) tài liệu, từ đó nhớ, hình dung lại để hình thành những mối liên hệ
tạm thời tương ứng (biểu tượng). Biểu tượng là dấu ấn ghi lại trong ý thức các em
những hình ảnh về sự kiện, hiện tượng lịch sử đã được tri giác. Song để hiểu sự
kiện, hiện tượng quá khứ, phải tìm ra bản chất của chúng, tức là hình thành khái
niệm lịch sử. Muốn làm được việc này phải thông qua các thao tác tư duy như: đối
chiếu, so sánh, phân tích, tổng hợp vạch ra dấu hiệu bản chất. Quá trình này không
tự diễn ra mà đòi hỏi phải có sự kích thích nhất định cho tư duy. Yêu cầu tìm ra bản
chất của sự kiện, hiện tượng quá khứ là những biểu hiện của những nhiệm vụ nhận
thức nảy sinh ra trên cơ sở tri giác. Chính các câu hỏi “như thế nào?”, “tại sao?”
sẽ kích thích óc tìm tòi, sự phân tích, so sánh và khái quát hoá của học sinh. Như
vậy, trong các hoạt động nhận thức lịch sử của học sinh (tri giác, nhớ, hình dung,
tưởng tượng, tư duy ) thì tư duy có vai trò quan trọng. Nếu không có hoạt động
của tư duy thì không thể nhận thức được bản chất của sự kiện, hiện tượng lịch sử.
Việc phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử có ý nghĩa
quan trọng
Trước hết, tích cực, độc lập trong nhận thức đặc biệt là trong tư duy sẽ đảm
bảo cho các em lĩnh hội sâu sắc và nhớ lâu kiến thức.
Thứ hai, phát triển tính tích cực, độc lập trong nhận thức, đặc biệt trong tư
duy là phương tiện tốt để hình thành kiến thức, khơi dậy những xúc cảm lịch sử,
kích thích hứng thú học tập, tạo cơ sở để giáo dục tư tưởng, tình cảm học sinh.
Ngoài ý nghĩa giáo dưỡng, giáo dục, phát triển tính tích cực, độc lập trong
nhận thức, đặc biệt trong tư duy còn là phương thức tốt góp phần phát huy các năng
4
lực nhận thức, năng lực thực hành, kĩ năng, kĩ xảo của học sinh nói chung và rèn
luyện các thao tác cũng như chất lượng của tư duy nói riêng
Rõ ràng, phát triển các hoạt động nhận thức tích cực, độc lập, đặc biệt là tư
duy độc lập của học sinh có ý nghĩa to lớn đối với việc nâng cao chất lượng dạy
học.
II. Cơ sở thực tiễn
Những năm gần đây, việc dạy học lịch sử ở trường phổ thông đã có nhiều
tiến bộ về nhận thức, nội dung và phương pháp dạy học, đa số giáo viên đã có sự
say mê, tâm huyết với nghề, nhiều học sinh đã yêu thích môn lịch sử. Nhưng nhìn
chung, bộ môn lịch sử vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của cuộc cách mạng nước ta
hiện nay. Chất lượng bộ môn khá thấp, tập trung ở những lí do sau:
Thứ nhất, nhiều giáo viên chưa nhân thức được tầm quan trọng của việc đổi
mới phương pháp dạy học lịch sử và hướng đổi mới là phát huy tính tích cực, độc
lập nhận thức của học sinh trong học tập. Để thực hiện điều này, một số giáo viên
đã vận dụng kết hợp các phương pháp dạy học, trong đó có biện pháp “hỏi – đáp”
nhưng không ít giáo viên chưa nhận thức được điều này.
Thứ hai, một số giáo viên nhận thức được điểm mấu chốt của đổi mới
phương pháp dạy học là phải thay đổi quan niệm cũ trước đây: chuyển từ vai trò
thầy làm trung tâm sang trò làm trung tâm của quá trình dạy học. Giáo viên là
người hướng dẫn, điều khiển quá trình nhận thức của học sinh. Muốn vậy, phải
phát huy các năng lực nhận thức độc lập, phát triển tính tích cực học tập của các
em. Song về biện pháp phát huy tính tích cực trong nhận thức của các em thì chưa
tốt. Thường giáo viên quan niệm rằng, đặt nhiều câu hỏi là đổi mới phương pháp
dạy học theo hướng tích cực. Vì vậy, giờ học biến thành giờ “hỏi – đáp” quá căng
thẳng, khô khan, làm học sinh không hứng thú học tập. Bởi vì, hỏi – đáp chỉ là một
cách, muốn phát huy cách dạy học này phải kết hợp với các phương pháp khác, đặc
biệt là phương pháp bộ môn.
5
Thứ ba, không ít giáo viên, nhất là giáo viên ở các vùng nông thôn, vùng sâu,
vùng xa… ít được cập nhật thông tin khoa học, chưa nhận thức được tầm quan
trọng của việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay và chưa hiểu rõ nội dung của
công việc này. Vì vậy trong giờ học lịch sử, thầy làm việc là chủ yếu, trò thụ động
ghi chép còn khá phổ biến. Thậm chí, hiện tượng đọc chép còn tràn lan. Mặt khác,
một số giáo viên tuy nhận thức được vấn đề của đổi mới phương pháp dạy học nói
chung, dạy học lịch sử nói riêng nhưng lại lấy nguyên nhân học sinh yếu kém
không thể vận dụng các biện pháp đổi mới nhằm phát huy tính tích cực của học
sinh được, cũng chỉ đọc chép, nhồi nhét kiến thức cho học sinh, cho nên không rèn
luyện cho các em năng lực độc lập chiếm lĩnh kiến thức và trang bị phương pháp
học tập tốt. Đây là một thực tế đáng buồn hiện nay, dẫn tới tình trạng học sinh
không thích học môn lịch sử.
Thứ tư, hiện nay SGK lịch sử đã được biên soạn theo tinh thần đổi mới, được
sử dụng đại trà. Thực tiễn sử dụng SGK mới ở trường phổ thông cho thấy phương
pháp dạy học của giáo viên chưa theo kịp việc đổi mới nội dung của sách. Bài viết
trong sách trình bày ngắn gọn có tính gợi mở thì giáo viên chưa có đủ độ sâu về
kiến thức để hướng dẫn học sinh tìm ra những kiến thức chìm trong sách (ví như:
nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử của sự kiện, đánh giá nhân vật…). Kênh
hình tăng lên so với sách cũ rất nhiều làm đa dạng nhận thức và bài học sinh động
hơn, học sinh học tập nhẹ nhàng hơn, song nhiều giáo viên chưa hiểu hết nội dung
kênh hình, hiệu quả sử dụng chưa cao. Vẫn còn nhiều giáo viên quan niệm: hỏi thật
nhiều là đổi mới, cho nên chỉ sử dụng câu hỏi mà không khai thác hết các nguồn
kiến thức khác.
Thứ năm, ở các trường phổ thông hiện nay, giáo viên chỉ tập trung vào các
giờ lên lớp, chưa quan tâm đến các hoạt động ngoài lớp.
Như vậy, việc học sinh không thích học lịch sử, chưa tích cực trong hoạt
động học tập nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ phương pháp dạy học của giáo
6
viên. Vì vậy, việc đề xuất các biện pháp sư phạm giúp học sinh phát huy tính tích
cực, chủ động của học sinh trong dạy học lịch sử là vấn đề cấp thiết.
III. Một số biện pháp sư phạm nhằm phát huy tính tích cực của học sinh
trong dạy học phần Lịch sử Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954 (Lớp 12
THPT)
Trên cơ sở những nguyên tắc trong dạy học lịch sử, tôi đưa ra một số
biện pháp sư phạm nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học phần
Lịch sử Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954 (Lịch sử 12 THPT)
1. Sử dụng SGK nhằm phát huy tính tích cực của học sinh
SGK là tài liệu học tập cơ bản của học sinh, đồng thời cũng là chỗ dựa quan
trọng, đáng tin cậy của giáo viên trong giảng dạy. Làm thế nào để sử dụng tốt SGK
là vấn đề hết sức quan trọng, bởi vì kết quả của học sinh phụ thuộc phần lớn vào
phương pháp sử dụng SGK. Vậy làm thế nào để việc sử dụng SGK phát huy được
tính độc lập, tích cực làm việc của học sinh?
Có thể phân ra 3 phương pháp sử dụng SGK như sau: sử dụng SGK để chuẩn
bị bài giảng, phương pháp sử dụng SGK trong quá trính dạy học ở trên lớp, phương
pháp sử dụng SGK để học tập ở nhà của học sinh.
1.1. Sách giáo khoa để chuẩn bị bài giảng.
Việc chuẩn bị bài học là điều kiện quan trọng để hoàn thành tốt nhiệm vụ dạy
học. Việc sử dụng sách giáo khoa chuẩn bị bài giảng là công việc cần thiết cho giáo
viên ở mọi lứa tuổi, đặc biệt những người mới vào nghề; phát huy được tính tích
cực trong hoạt động nhận thức cho học sinh trong dạy học lịch sử.
Trước khi soạn giáo án, giáo viên cần nghiên cứu nội dung toàn bài trong
SGK, xác định kiến thức cơ bản của bài, hiểu rõ nội dung, tinh thần mà tác giả
mong muốn ở học sinh về từng mặt kiến thức, tư tưởng, kĩ năng. Khi đã có cái nhìn
toàn cục, khái quát, cần đi sâu từng mục nhằm tìm ra kiến thức cơ bản của mục đó,
7
sự liên quan của kiến thức đó với kiến thức toàn bài. Không nên dàn đều về mặt
thời gian cũng như khối lượng kiến thức của từng phần mà xác định phần nào lướt
qua, phần nào là trọng tâm. Mỗi bài cần phải xác định rõ phần đóng góp cụ thể về
mặt nội dung, tư tưởng, kĩ năng, kĩ xảo, các khái niệm cần giải thích cho học sinh
hiểu.
Như vậy, SGK là điểm tựa để người giáo viên xác định những kiến thức cơ
bản, xác định các khái niệm cần hình thành cho học sinh trong giờ học, là sự gợi ý
để lựa chọn phương pháp dạy học vừa phù hợp với đối tượng, vừa phát huy tính
tích cực hoạt động độc lập của học sinh.
1.2. Sử dụng SGK trong quá trình dạy học trên lớp.
Trong quá trình học bài ở trên lớp, học sinh thường theo dõi bài giảng của
giáo viên rồi đối chiếu, so sánh với SGK, thậm chí nhiều học sinh không ghi theo
bài giảng của giáo viên mà lại chép trong SGK. Vì vậy, bài giảng của giáo viên
không nên lặp lại ngôn ngữ trong SGK mà nên diễn đạt bằng lời của mình.
Ví dụ: ở mục 1 “Cuộc chiến đấu ở các đô thị phía bắc vĩ tuyến 16”(phần II)
Bài 18 “Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp
(1946 – 1950)”, giáo viên lược thuật cuộc chiến đấu của quân dân Hà Nội giam
chân địch: “ Từ đầu tháng 12.1946, thực dân Pháp liên tục gây xung đột với công
an và tự vệ của ta, đặc biệt nghiêm trọng là vụ thảm sát tại Yên Ninh, Hàng Bún
ngày 17.12.1946. Trước hành động láo xược đó, ngày 19.12.1946, Hồ Chủ tịch đã
ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến “…chúng ta thà hi sinh tất cả chứ nhất định
không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Đáp lại lời kêu gọi, các
chiến sĩ tự vệ Hà Nội đã thề “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Suốt hơn 20 ngày,
cuộc chiến đấu không cân sức giữa ta và địch đã diễn ra ác liệt tại các cửa ô, thực
dân Pháp sau khi chiếm được các cửa ngõ, chúng tập trung định tiêu diệt lực
lượng của ta ở Liên khu I.
Ngày 7.2.1947, từ 4 mặt quân Pháp mở cuộc công kích vào Liên khu I. Trên
8
các phố Hàng Nón, Hàng Thiếc, Hàng Lược, Hàng Đường, Hàng Chiếu, chợ Đồng
Xuân đã diễn ra những trận giao chiến quyết liệt. Những cánh quân địch hàng
trăm tên ngày đêm bắn phá, máy bay địch dội bom từng dãy phố, đại bác địch bắn
sập từng căn nhà, súng phun lửa thiêu từng căn gác. Xe tăng húc đổ nhà, xông vào
giữa phố. Cả Hà Nội 36 phố phường nhà xiêu, mái sụp. Các chiến sĩ cảm tử quân
của Trung đoàn Thủ đô đã chiến đấu giành giữ từng căn nhà, từng mảnh tường,
từng góc phố. Có những đội viên cảm tử như Trần Đan một mình dung lựu đạn
đánh lui từng đợt xung phong của địch, mặc dù bị cụt tay vẵn giữ vững trận địa ở
phố Hàng Thiếc, chiến sĩ tên Minh bị đạn khói của địch làm mờ cả 2 mắt vẫn bắn
cản địch ở phố Hàng Nón. Có những thiếu niên liên lạc như em Lai, nửa đêm leo
ống máng nước nhà truyền tin để tiếp đạn, dẫn đường cho bộ đội cơ động kịp thời
giải vây. Quân ta sau 7 ngày đêm chiến đấu đã diệt hơn 200 tên địch tại mặt trận
Liên khu I, đưa tổng số địch bị tiêu diệt lên hơn 2000 tên.
Sau khi hoàn thành nhiệm vụ giam chân địch, đêm ngày 17.2.1947, Trung
đoàn Thủ đô được lệnh rút khỏi Hà Nội.
Đoạn tường thuật này giúp học sinh có biểu tượng sống động về không khí
chiến đấu của quân dân Thủ đô trong 60 ngày đêm khói lửa nhằm giam chân địch
trong thành phố. Những người thật, việc thật sẽ có tác dụng giáo dục HS lòng kính
yêu anh bộ đội Cụ Hồ, ý thức trách nhiệm của bản thân trong công cuộc bảo vệ Tổ
quốc hôm nay.
Một biện pháp nữa thường hay sử dụng ở trên lớp là cho học sinh đọc SGK
rồi tự các em tóm tắt, kể lại những nội dung cơ bản. Thông thường đây là những
kiến thức ít phức tạp, không đòi hỏi phải giải thích hay phân tích nhiều của giáo
viên thì nên sử dụng. Đó là các kiên thức về diễn biến của một cuộc khởi nghĩa,
một trận đánh hay tiểu sử một nhân vật mà các em quen biết.
Ví dụ khi dạy phần chiến dịch Việt Bắc thu – đông 1947 bài 17 “Những năm
đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1946 – 1950)”, giáo
9
viên cho học sinh đọc phần diễn biến chiến dịch, sau đó gọi một học sinh khác tóm
tắt lại diễn biến chiên dịch, những sự kiện nổi bật của trận đánh, sau đó giáo viên tổ
chức, hướng dẫn cho các em tìm hiểu kĩ hơn trên lược đồ kết hợp với lời giảng sinh
động.
Trong SGK, phần lớn các bài đều có những đoạn trích chữ nhỏ. Kiến thức
được thể hiện trong những đoạn trích này nhiều khi rất quan trọng. Thường nó là
nguồn tư liệu làm nổi bật nội dung cơ bản của bài. Ví dụ, ở đoạn trích chữ nhỏ
trang 139 mục 2 “Kế hoạch Đờ lát đơ Tátxinhi”, thì nội dung của kế hoạch này đều
thể hiện qua đoạn chữ nhỏ. Vì vậy giáo viên buộc phải làm rõ cho học sinh nắm
được. Hoặc đoạn trích chữ nhỏ trang 154 ở mục 1 “Hội nghị Giơnevơ” Bài 20
“Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp kết thúc (1953 – 1954)”, giáo
viên cần làm rõ cuộc đấu tranh trên bàn hội nghị diễn ra gay gắt do lập trường các
bên trái ngược nhau. Phía ta kiên quyết lập trường độc lập, chủ quyền, thống nhất
và toàn vẹn lãnh thổ của mỗi nước ở Đông Dương. Phía Pháp – Mĩ tỏ ra thiếu thiện
chí, ngoan cố, Pháp vẫn muốn duy trì quyền lợi ở Đông Dương. Thậm chí giáo viên
còn phải phân tích, bổ sung, nêu thái độ ngoan cố của Pháp – Mĩ: không chịu mời
phái đoàn của Lào và Campuchia, không dám công khai bác bỏ ta nhưng tìm mọi
cách phá hoại.
Giáo viên cũng có thể cho học sinh đọc đoạn trích chữ nhỏ trong quá trình
kết hợp giảng bài.
Như vậy, những đoạn chữ nhỏ trong SGK phải được sử dụng triệt để. Nếu nó
đề cập đến những kiến thức khó, phức tạp thì giáo viên lấy làm nguồn tư liệu dùng
để miêu tả hoặc kể chuyện. Nếu dễ có thể cho học sinh đọc. Điều quan trọng là
không nên làm một cách hình thức mà phải kiểm tra khả năng cảm thụ, nhận thức
của học sinh như thế nào sau khi đọc xong đoạn đó.
1.3. Hướng dẫn học sinh sử dụng sách giáo khoa học ở nhà.
Do ở nhà học sinh phải học nhiều môn khác nhau, vì vậy việc hướng dẫn tự
10
học cho học sinh là khâu quan trọng trong quá trình dạy học. Thông thường ở nhà,
học sinh chỉ học vở ghi, đọc qua SGK mà không biết tự học, vì vậy cần hướng dẫn
các em biết sử dụng SGK một cách có hiệu quả.
Trước hết học sinh đọc toàn bộ bài viết trong SGK (đã được nghe giảng ở
trên lớp) để nắm nội dung chung của bài học, hiểu những sự kiện, những vấn đề
lịch sử. Học sinh nhớ lại những điểm mà giáo viên đã giảng ở trên lớp có liên quan
đến nội dung SGK, trước hết là dàn bài giảng, những sự kiện cơ bản, những nét đặc
trưng, việc đánh giá các sự kiện và nhân vật lịch sử, những kết luận…. Những ấn
tượng về bài giảng giúp học sinh nhanh chóng nắm vững SGK. Sau đó, học sinh
không nhìn vào sách, lập dàn ý nói lại những vấn đề chủ yếu của bài học, tự xem
xét lại những vấn đề chưa nắm được. học sinh đọc lại SGK một lần nữa và tự giải
đáp những vấn đề cần hiểu, cuối cùng tự giải đáp những câu hỏi của bài học trong
SGK hoặc do giáo viên nêu ra.
Khi hướng dẫn học ở nhà theo SGK Lịch sử, nên hướng dẫn có trọng điểm.
Ví dụ, ở bài 18 “Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân
Pháp (1946 – 1950)”, cần chỉ rõ các sự kiện tiêu biểu của cuộc kháng chiến toàn
quốc chống Pháp từ khi bùng nổ đến chiến dịch Biên giới thu – đông 1950 như: tên
sự kiện? Thời gian? Kết quả - ý nghĩa? Hoặc ở bài 19 “ Bước phát triển của cuộc
kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1951 – 1953)”, giáo viên hướng dẫn
học sinh lập bảng niên biểu những thắng lợi tiêu biểu của quân dân ta trên các mặt
trận quân sự, chính trị - ngoại giao, kinh tế - tài chính trong kháng chiến chống thực
dân Pháp từ sau thu đông 1950 đến trước đông xuân 1953 -1954:
Các mặt trận Thời gian Thắng lợi tiêu biểu
Quân sự
Chính trị - ngoại giao
Kinh tế
11
Văn hóa – giáo dục
Yêu cầu của các bài tập trong sách giáo khoa đã thể hiện được kiến thức cơ
bản của toàn bài, bao gồm một nội dung rộng lớn và đòi hỏi học sinh phải biết vận
dụng kiến thức tổng hợp, phải nắm vững những kiến thức cơ bản của bài mới trả lời
được. Vì vậy, cùng với câu hỏi trong sách giáo khoa, giáo viên cần gợi ý cho học
sinh hiểu yêu cầu của nó, đặt ra các câu hỏi nhỏ để gợi ý.
Khi được giao công việc cụ thể, các em sẽ phải hoàn thành và phải học tập
một cách độc lập, sáng tạo.
Tóm lại, sử dụng sách giáo khoa như thế nào, trong thực tế nó được biểu hiện
sinh động ở mỗi cá nhân và tùy thuộc rất nhiều vào sự linh hoạt, sáng tạo của mỗi
giáo viên. Tuy nhiên, những quan điểm lí luận cơ bản, những kinh nghiệm là cơ sở
cho lao động sư phạm của chúng ta nhằm nâng cao hiệu quả dạy học, phát huy tính
tích cực, chủ động trong hoạt động học tập của học sinh.
2. Sử dụng hệ thống câu hỏi để phát huy tính tích cực học tập của học
sinh trong dạy học lịch sử
Câu hỏi được sử dụng phổ biến trong cuộc sống cũng như trong dạy học,
song câu hỏi trong cuộc sống không hoàn toàn giống với câu hỏi trong dạy học.
Trong cuộc sống khi người ta muốn hỏi ai một điều gì thì đối tượng hỏi chưa biết
điều đó, hoặc biết chưa rõ ràng. Nhưng câu hỏi trong dạy học lại khác, câu hỏi giáo
viên đưa ra cho học sinh đã được nhân loại khám phá, ghi trong sách vở. Vì vậy,
câu hỏi trong dạy học bao giờ cũng mang yếu tố mở, yếu tố nhận biết, yếu tố khám
phá hoặc khám phá lại, học sinh chỉ cần trả lời một cách thông minh, sáng tạo là
đủ.
Thứ hai, sử dụng câu hỏi có tác dụng to lớn trong việc giáo dục cho học sinh
tư tưởng, tình cảm, đạo đức, hình thành nhân cách học sinh như thái độ tự tin trong
học tập, tính kiên trì…
12
Thứ ba, sử dụng câu hỏi trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông còn có tác
dụng rèn luyện năng lực nhận thức, đặc biệt là tư duy độc lập, hình thành kĩ năng
giải quyết vấn đề, diễn đạt một vấn đề và hứng thú học tập cho học sinh.
Ví dụ, khi dạy bài “Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống
thực dân Pháp (1946 – 1950)”, mục “Hoàn cảnh lịch sử mới và chiến dịch Biên
giới thu – đông 1950”, giáo viên đưa ra câu hỏi: Tại sao Đảng ta lại chủ động mở
chiến dịch Biên giới thu – đông 1950? Diễn biến, kết quả và ý nghĩa của chiến dịch
như thế nào? Muốn trả lời được câu hỏi này, học sinh phải chăm chu nghe giảng,
nghiên cứu sách giáo khoa, lược đồ và tranh ảnh, độc lập suy nghĩ tìm ra nội dung
cần trả lời. Qua đó, các em nắm được tình hình thuận lợi và khó khăn trước khi ta
mở chiến dịch, diễn biến chính và ý nghĩa to lớn của chiến dịch. Đồng thời qua
hoạt động nhận thức trên còn góp phần hình thành cho học sinh niềm tin vào sự
lãnh đạo sáng suốt của Đảng, đứng đầu là Hồ Chủ tịch, lòng yêu nước, ý chí bất
khuất của nhân dân ta, đồng thời rèn luyện cho học sinh các thao tác tư duy độc lập.
Như vậy việc sử dụng câu hỏi có vai trò, ý nghĩa to lớn trong dạy học lịch sử
ở THPT, nó giúp học sinh nắm vững nội dung bài học; tích cực, chủ động, sáng tạo
trong hoạt động nhận thức.
Khi sử dụng câu hỏi cần lưu ý mấy điểm sau:
Thứ nhất, câu hỏi và bài tập phải vừa sức, đúng với từng đối tượng, không
nên đặt câu hỏi quá khó, vượt khả năng tư duy của học sinh như đánh giá, nhận xét,
phân tích…và cũng không quá đơn giản như ai lãnh đạo, chiến thắng nào, bao giờ,
có hay không…Tránh tình trạng giáo viên chưa giảng, chưa trình bày sự việc cụ
thể, học sinh chưa có một hiểu biết nào về sự kiện, hiện tượng lịch sử sẽ học mà đã
đặt câu hỏi cho học sinh. Cách đặt câu hỏi như vậy trái với đặc trưng của bộ môn,
buộc học sinh phải nhìn vào SGK để trả lời chứ hoàn toàn không hiểu gì về câu hỏi
mà giáo viên vừa nêu ra.
Thứ hai, mỗi giờ học chỉ nên sử dụng 5 – 7 câu hỏi. Sau mỗi chương cần có
13
câu hỏi bài tập. Các câu hỏi của bài phải tạo thành một hệ thống hoàn chỉnh, có mối
quan hệ logic chặt chẽ, làm nổi bật chủ đề, nội dung, tư tưởng của bài.
Thứ ba, cần triệt để khai thác các loại câu hỏi trong SGK để lựa chọn nội
dung, phương pháp thích hợp cho từng bài cụ thể. Sử dụng câu hỏi trong SGK kết
hợp với câu hỏi được sáng tạo trong quá trình soạn giảng của giáo viên phải đảm
bảo tính khoa học, tính tư tưởng, đồng thời phát huy được tư duy, rèn luyện được
các kĩ năng học tập của các em.
1.1. Nêu câu hỏi đầu giờ học.
Vào đầu giờ học, giáo viên có thể kiểm tra hay không kiểm tra kiến thức bài
cũ. Trước khi cung cấp kiến thức của bài học mới, giáo viên nên nêu ngay câu hỏi
định hướng nhận thức cho học sinh. Câu hỏi loại này thường là câu hỏi có tính chất
bài tập, muốn trả lời cần phải huy động kiến thức cơ bản của toàn bài. Nêu câu hỏi
đầu giờ học có 2 tác dụng lớn: thứ nhất là nó xác định rõ ràng nhiệm vụ nhận thức
của học sinh trong giờ học, thứ hai là hướng học sinh vào những kiến thức trọng
tâm của bài, huy động cao nhất các hoạt động của các giác quan học sinh trong quá
trình học tập: nghe, nhìn, kết hợp với tư duy có định hướng. Đương nhiên khi đặt
câu hỏi, không yêu cầu học sinh trả lời ngay mà chỉ sau khi giáo viên đã cung cấp
đầy đủ sự kiện thì học sinh mới trả lời được. Ví dụ khi dạy bài 17 “ Nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa từ sau ngày 2.9.1945 đến trước ngày 19.12.1946”, vào đầu giờ
học giáo viên đưa ra câu hỏi: “ Sau Cách mạng tháng Tám 1945, nhân dân ta tiếp
tục làm gì để bảo vệ nền độc lập và chính quyền vừa giành được?” Trong quá trình
dạy học, chúng ta vẫn tuân thủ trình tự cấu tạo của SGK song cần khai thác, nhấn
mạnh giúp học sinh trả lời câu hỏi nêu trên. Sau khi dạy xong, phần cuối bài giáo
viên mới quay trở lại yêu cầu học sinh trả lời câu hỏi trên. Đáp án mà học sinh cần
trả lời được đó là “ nhân dân ta vừa xây dựng vừa bảo vệ chính quyền cách
mạng”. Học sinh trả lời được tức là đã hiểu được kiến thức chủ yếu của bài.
Ví dụ, khi dạy mục 2 “Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ (1954) ở Bài 20
14
“Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp kết thúc (1953 – 1954)”, giáo
viên dẫn dắt học sinh vào tình huống có vấn đề: Thắng lợi của ta trong đông xuân
1953 – 1954 buộc địch phải phân tán lực lượng ra nhiều nơi. Chúng quyết định
xây dựng Điên Biên Phủ trở thành tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương, biến
Điện Biên Phủ trở thành một “điểm hẹn lịch sử”. Vậy tại sao chiến dịch lịch sử
đựơc xem là chiến dịch lịch sử có tính chất quyết định trong cuộc chiến tranh
Đông Dương. Các em cùng tìm hiểu.
Một ví dụ khác, khi dạy bài 19 “Bước phát triển của cuộc kháng chiến toàn
quốc chống thực dân Pháp (1951 – 1953)” sau khi giới thiệu khái quát qua về giai
đoạn 1951 – 1953 của cuộc kháng chiến, giáo viên đặt câu hỏi: Vì sao nói đây là
giai đoạn quan trọng chuẩn bị cho thắng lợi của cuộc tiến công chiến lược Đông –
xuân 1953 – 1954? Để trả lời được câu hỏi này đòi hỏi học sinh phải chú ý nghe
giảng, tích cực trong quá trình học tập để hiểu rõ bản chất của vấn đề đặt ra.
1.2. Câu hỏi sử dụng trong giờ học.
Trong quá trình giảng dạy, giáo viên còn phải biết đặt ra và giúp học sinh
giải quyết các câu hỏi có tính chất nhận thức kiến thức. Một hệ thống câu hỏi tốt
nêu ra trong quá trình giảng dạy phải phù hợp với khả năng của các em, kích thích
tư duy phát triển, đồng thời tạo ra mối liên hệ bên trong của học sinh và giữa học
sinh với giáo viên, tức là mỗi câu hỏi đưa ra, mỗi học sinh và cả giáo viên phải thấy
rõ vì sao trả lời được, vì sao không trả lời được. Câu hỏi quá khó hay chưa đủ sự
kiện, tư liệu để các em trả lời.
Những câu hỏi trong sách giáo khoa là cơ sở để giáo viên xác định kiến thức
trong sách, đồng thời bổ sung để xây dựng hệ thống câu hỏi của bài. Câu hỏi phải
có sự chuẩn bị từ khi soạn giáo án, có dự kiến nêu ra lúc nào? Học sinh sẽ trả lời
như thế nào? Đáp án phải trả lời ra sao? Rõ ràng việc sử dụng câu hỏi trong dạy
học còn là một nghệ thuật. Khi câu hỏi đặt ra bắt buộc học sinh phải suy nghĩ, phải
kích thích được lòng ham hiểu biết, trí thông minh, sáng tạo của họ. Đặc biệt là gây
15
được cảm giác ngạc nhiên khi đối chiếu cái mới biết và cái đã biết sau khi trả lời
đúng câu hỏi do giáo viên nêu ra. Khi xây dựng hệ thống câu hỏi ở trên lớp nhằm
gây hứng thú, tích cực học tập, phát triển năng lực tư duy của học sinh, giáo viên
không nên đặt ra những câu hỏi mà các em chỉ cần trả lời một cách đơn giản “có”
hay “không” hoặc “đúng” hay “sai”. Bởi vì những câu hỏi như thế không đòi hỏi
học sinh phải suy nghĩ. Đồng thời cũng không nên đặt câu hỏi quá dễ làm cho học
sinh thỏa mãn, đi đến chủ quan về vốn hiểu biết của mình, mà phải làm cho các em
hiểu rằng , sự trả lời đúng, đầy đủ câu hỏi do giáo viên nêu ra là tốt, song vẫn phải
tiếp tục suy nghĩ để trả lời hay hơn, sâu sắc hơn và thông minh hơn.
Thông thường căn cứ vào tính chất, đặc điểm của các kiến thức lịch sử mà
chúng ta có các loại câu hỏi sau:
- Loại câu hỏi về sự phát sinh các sự kiện, hiện tượng lịch sử: Đây là loại câu
hỏi yêu cầu học sinh nêu lên sự phát sinh, phát triển của mỗi sự kiện, hiện tượng
lịch sử: nêu nguyên nhân sâu xa, nguyên nhân trực tiếp, hoàn cảnh, bối cảnh lịch sử
của sự kiện, hiện tượng đó. Loại câu hỏi này thường xuất hiện vào phần đầu bài
giảng, bởi vì bất kì một sự kiện, hiện tượng lịch sử nào cũng đều xuất hiện trong
một hoàn cảnh lịch sử nhất định, đều có nguyên nhân phát sinh của nó. Đây cũng là
một đặc điểm của tư duy lịch sử cần hình thành từng bước cho học sinh. Nó đòi hỏi
các em khi xem xét bất kì một sự kiện nào cũng phải được đặt trong hoàn cảnh lịch
sử cụ thể, tìm ra những nguyên nhân làm nảy sinh sự kiện đó. Ví dụ, khi dạy bài 18
“Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1946 –
1950)” mục “Kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp bùng nổ”, giáo viên đưa
ra câu hỏi “Vì sao cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ ngày 19.12.1946?”. Học
sinh dựa vào sách giáo khoa, suy nghĩ và trả lời. Giáo viên củng cố, mở rộng kiến
thức để học sinh thấy được hành động lấn tới trắng trợn của thực dân Pháp, thể hiện
rõ mưu đồ xâm lược nước ta.
- Loại câu hỏi về quá trình diễn biến, phát triển của sự kiện – hiện tượng lịch
16
sử như diễn biến của cuộc khởi nghĩa, diễn biến các cuộc cách mạng, cuộc chiến
tranh…. Loại này cũng thường gặp ở tất cả các loại bài. Ví dụ: cuộc tấn công lên
căn cứ địa Việt Bắc của thực dân Pháp diễn ra như thế nào?, Từ sau chiến thắng
Biên giới thu – đông 1950 đến trước đông – xuân 1953 – 1954 ; Tình hình hậu
phương kháng chiến phát triển như thế nào? Chẳng hạn khi dạy bài 20 “Cuộc
kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp kết thúc (1953 – 1954)” mục “ Chiến
dịch lịch sử Điện Biên Phủ (1954)”, giáo viên đưa ra câu hỏi: “ Chiến dịch Điện
Biên Phủ đã diễn ra như thế nào?” Giáo viên kết hợp với việc sử dụng lược đồ
hướng dẫn học sinh tìm hiểu diễn biến, tổ chức cho các em trao đổi, thảo luận câu
hỏi đưa ra. Điều đó giúp các em nắm vững nội dung sự kiện diễn ra, phát triển các
thao tác tư duy…
- Loại câu hỏi nêu lên đặc trưng, bản chất của các sự kiện, hiện tượng lịch sử,
bao gồm sự đánh giá, thái độ của học sinh đối với các hiện tượng lịch sử ấy.
Thường thì những câu hỏi này khó đối với học sinh. Nó đòi hỏi các em học sinh
phải biết phân tích, đánh giá, biết bày tỏ thái độ của mình đối với sự kiện, hiện
tượng lịch sử. học sinh rất ngại trả lời những câu hỏi này. Tuy nhiên giáo viên cần
kiên trì, đưa thêm những câu hỏi gợi mở giúp các em trả lời câu hỏi chính.
Ví dụ như khi dạy bài 18 “ Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc
chống thực dân Pháp (1946 – 1950)” ở mục “Chiến dịch Biên giới thu – đông
1950”, giáo viên sử dụng câu hỏi “Tại sao ta chọn Đông khê làm điểm mở đầu
chiến dịch mà không phải Cao Bằng hay Thất Khê?” Muốn trả lời được câu hỏi
này, học sinh phải chú ý theo dõi, quan sát bản đồ để thấy được vị trí chiến lược
của Đông Khê. Giáo viên hướng dẫn các em đưa ra câu trả lời, rồi nhấn mạnh các ý
lớn: Giữa Đông Khê và Cao Bằng, nếu đánh Cao Bằng thì sẽ đụng đầu với với lực
lượng mạnh của địch, hệ thống phòng ngự vững chắc, muốn đánh thắng phải tốn
nhiều xương máu. Đồng thời nếu đánh Cao Bằng, địch sẽ rút tất cả các cứ điểm từ
Đông Khê đến Lạng Sơn, như vậy sẽ không tạo điều kiện cho ta đánh quân rút
17
chạy. Đông Khê là một cứ điểm, địch tương đối yếu (có một tiểu đoàn) nhưng lại là
vị trí trọng yếu, mất Đông Khê, địch phải cho quân ứng cứu, Cao Bằng phải rút
chạy… Ta có cơ hội tiêu diệt quan tiếp viện và quân rút chạy của địch. Hơn nữa
Đông Khê ở xa Hà Nội, nếu địch tiếp viện cũng mất nhiều thời gian. Vì vậy ta
quyết định đánh Đông Khê.
- Loại câu hỏi tìm hiểu kết quả, nguyên nhân dẫn đến kết quả đó và ý nghĩa
lịch sử của nó. Lịch sử chính là quá trình phát triển liên tục đan xen nhau giữa các
sự kiện hoặc một hiện tượng hay một quá trình lịch sử nào đó. Cần giúp cho học
sinh thấy được kết quả của sự vận động ấy, nguyên nhân thắng lợi hay thất bại và
ảnh hưởng của nó đối với quá trình phát triển của lịch sử. Loại câu hỏi dẫn dắt học
sinh trả lời những vấn đề này, hầu hết các bài chúng ta đều gặp. Ví dụ: Chiến thắng
Biên giới thu – đông 1950 có ý nghĩa như thế nào đối với cuộc kháng chiến của
nhân dân ta? , Nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp là gì?
Để trả lời những câu hỏi loại này, học sinh dựa vào SGK để trả lời bằng ngôn ngữ
của mình chứ không lặp lại sách giáo khoa. Chẳng hạn ở bài 20 “Cuộc kháng chiến
toàn quốc chống thực dân Pháp kết thúc (1953 – 1954)”, giáo viên đưa ra câu hỏi
“Những nguyên nhân nào dẫn đến thắng lợi của quân dân ta ở Điện Biên Phủ và
trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp?”, học sinh phải độc lập suy nghĩ,
vận dụng toàn bộ kiến thức đã học của chương, bài để rút ra câu trả lời. Giáo viên
trên cơ sở sách giáo khoa và sách giáo viên nêu ra các ý nhỏ: chủ quan – khách
quan.
Giáo viên hướng dẫn, điều khiển các em phân tích từng ý nhỏ và để làm nổi
bật từng nguyên nhân, như ở nguyên nhân thứ nhất “sự lãnh đạo sáng suốt của
Đảng ta trong cuộc kháng chiến”, giáo viên cần cho các em thấy rõ sự lãnh đạo
sáng suốt của Đảng ta được thể hiện như thế nào? Đó là: đường lối kháng chiến
toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính; vạch kế hoạch đánh địch
trong từng chiến dịch; xây dựng, phát triển lực lượng 3 thứ quân và kết hợp chiến
18
đấu trên chiến trường chính và vùng sau lưng địch; chính sách đoàn kết quốc tế.
Tóm lại, sử dụng câu hỏi trong dạy học lịch sử ở trường THPT không chỉ
có tác dụng giúp học sinh từng bước chiếm lĩnh tri thức lịch sử mà còn phát triển tư
duy độc lập của học sinh. Đây là phương tiện quan trọng làm cho bài học trở nên
sôi động hấp dẫn, phát huy tính tích cực học tập của HS.
3. Sử dụng đồ dùng trực quan nhằm phát triển tư duy học sinh
Trong dạy học lịch sử, phương pháp trực quan góp phần quan trọng tạo biểu
tượng cho học sinh, cụ thể hoá các sự kiện và khắc phục tình trạng hiện đại hoá lịch
sử của học sinh.
Đồ dùng trực quan có vai trò rất lớn trong việc giúp học sinh nhớ kĩ, hiểu sâu
những hình ảnh, những kiến thức lịch sử. Hình ảnh được giữ lại đặc biệt vững chắc
trong trí nhớ chúng ta là hình ảnh chúng ta thu nhận được bằng trực quan. Ví dụ,
xem bức ảnh “Cảm tử quân Hà Nội ôm bom ba càng đón đánh xe tăng Pháp” chúng
ta không thể quên được cuộc chiến đấu anh dũng của quân và dân Hà Nội chống
thực dân Pháp trở lại xâm lược.
Trên cơ sở biện pháp chung về đồ dùng trực quan, tôi đưa ra một số biện
pháp khi sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử phần Lịch sử Việt Nam
từ năm 1945 đến 1954 (SGK Lịch sử 12 THPT)
3.1 Sử dụng đồ dùng trực quan để tổ chức cho học sinh lĩnh hội kiến thức
mới.
- Sử dụng câu hỏi gợi mở để hướng dẫn học sinh tìm hiểu nội dung kênh
hình.
Trong quá trình hướng dẫn học sinh tổ chức lĩnh hội kiến thức mới, phát huy
tính tích cực học tập của các em, giáo viên nên kết hợp cho học sinh theo dõi đồ
dùng trực quan (lược đồ, bản đồ, tranh ảnh) với việc sử dụng câu hỏi gợi mở từ dễ
đến khó mang tính chất khái quát, yêu cầu các em phát huy cao độ năng lực tư duy
19
độc lập để rút ra kết luận có tính chất khái quát, giải quyết những vấn đề trọng tâm
của bài. Trong quá trình học sinh trao đổi, thảo luận để tìm ra câu trả lời, giáo viên
là người đóng vai trò điều khiển chung, hướng dẫn, giúp đõ học sinh lần lượt từng
bước giải quyết vấn đề thông qua hệ thống câu hỏi gợi mở.
Ví dụ khi dạy bài 18 “Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống
thực dân Pháp (1946 – 1950), giáo viên có thể sử dụng lược đồ “Chiến dịch Biên
giới thu – đông 1950”. Trước hết giáo viên lựa chọn thời điểm sử dụng lược đồ cho
hợp lí, đó là khi dạy mục 2 “Chiến dịch Biên giới thu – đông 1950”, trong quá trình
hướng dẫn học sinh tìm hiểu chiến dịch, giáo viên có thể đưa ra các câu hỏi gợi mở
khi giảng từng nội dung như:
- Qua quan sát lược đồ, em hãy xác định địa bàn của chiến dịch?
- Tại sao ta quyết định đánh Đông Khê để mở đầu chiến dịch?
Giáo viên đưa ra các câu gợi mở trên trước các nội dung cần giảng. Tùy từng
đối tượng học sinh để chúng ta sử dụng các câu hỏi gợi mở, nếu như học sinh
không trả lời được các câu hỏi trên, chúng ta có thể gợi ý những câu hỏi nhỏ hơn
trong từng nội dung:
- Quan sát lược đồ, em thấy địa bàn diễn ra chiến dịch Biên giới gồm những
tỉnh nào?
- Đông Khê có vị trí như thế nào mà quân ta quyết định mở trận đánh đầu
tiên?
Hoặc đối với Lược đồ chiến dịch Điên Biên Phủ (1954), được sử dung khi
dạy mục II “Chiến dịch lịch sử Điên Biên Phủ (1954)” nhằm cụ thể hóa vị trí Điện
Biên Phủ cũng như cách bố trí lực lượng của địch và diễn biến. Giáo viên có thể
gợi mở cho học sinh với các câu hỏi sau:
- Quan sát lược đồ, nhận xét vị trí Điên Biên Phủ?
- Tại sao địch quyết định xây dựng Điên Biên Phủ thành tập đoàn cứ điểm
20
mạnh?
- Biểu hiện nào chứng tỏ điều đó?
- Em suy nghĩ như thế nào về cuộc chiến đấu của ta ở Điện Biên Phủ?
Với các câu hỏi gợi mở trong từng phần giảng học sinh sẽ phải suy nghĩ một
cách tích cực, chủ động trong hoạt động nhận thức để tìm hiểu các nội dung đưa ra.
- Kết hợp bản đồ với tường thuật, thảo luận.
Khi khai thác và sử dụng bản đồ, lược đồ phản ánh một biến cố, sự kiện nào
đó không thể thiếu việc lược thuật hay tường thuật của giáo viên hoặc học sinh,
điều đó làm bài học trở nên sinh động, chân thực, khơi dậy những cảm xúc lịch sử
cho các em. Những sự kiện lịch sử được tường thuật sẽ tạo ra cảm giác cho các em
như đang tham gia hay chứng kiến diễn biến một sự kiện lịch sử.
Ví dụ: khi dạy học mục 2 “Chiến dịch Biên giới thu – đông 1950” ( Bài 18)
đối với các lớp có học lực khá giỏi, thời gian cho phép, giáo viên yêu cầu học sinh
nghiên cứu lược đồ Chiến dịch Biên giới thu đông 1950 kết hợp với SGK để trả lời
các câu hỏi gợi mở do giáo viên đặt ra. Sau khi học sinh tìm hiểu, giáo viên yêu cầu
một em lên bảng lược thuật, giáo viên và các bạn ở dưới bổ sung. Còn đối với đối
tượng học sinh học trung bình hoặc thời gian bài học không cho phép, giáo viên
nên giới thiệu khái quát lược đồ, tường thuật ngắn gọn rồi cho các em trao đổi. Ví
dụ, khi tường thuật diễn biến của chiến dịch Biên giới thu – đông 1950, giáo viên
nên sử dụng lược đồ, sau đó giới thiệu khái quát về bản đồ cũng như các kí hiệu và
đưa ra các câu hỏi: Em có suy nghĩ gì về địa bàn chiến dịch và lực lượng quân địch
tại đây? Với câu hỏi này học sinh sẽ xác định được địa bàn chiến dịch cũng như
hiểu được nhiệm vụ của chiến dịch. Sau đó giáo viên sử dụng lược đồ kết hợp với
tài liệu tham khảo, tranh ảnh, đàm thoại để trình bày diễn biến của chiến dịch biên
giới, trong đó tập trung vào tường thuật hoặc lược thuật trận Đông Khê:
Biên giới Việt – Trung là một dải núi rừng từ tây đến đông bắc Bắc bộ.
21
Đường quốc lộ chiến lược dài 300 km qua các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn và Quảng
Ninh. Tại đây địch có 11 tiểu đoàn và 9 đại đội, trong có có 4 tiểu đoàn Âu Phi làm
lực lượng cơ động. Ngày 25.7.1950, Đảng ủy mặt trận được thành lập do đồng chí
Võ Nguyên Giáp làm bí thư, Bộ chỉ huy chiến dịch do đồng chí Tổng tư lệnh Võ
Nguyên Giáp làm chỉ huy kiêm trưởng chính ủy, đồng chí Trần Đăng Ninh làm chủ
nhiệm Tổng cục cung cấp trực tiếp bộ máy hậu cần chiến dịch…
Đầu tháng 8.1950, đồng chí tổng tư lệnh cùng cơ quan Bộ chỉ huy lên đường
ra mặt trận. Do tính chất quan trọng của chiến dịch, Bác Hồ cũng đi kiểm tra tình
hình chuẩn bị mặt trận. Ở đây giáo viên nên sử dụng bức tranh “Bác Hồ quan sát
mặt trận biên giới” và Hình 49 (SGK) “Bác Hồ đi thăm một đơn vị tham gia chiến
dịch Biên giới thu – đông 1950” kết hợp với bài thơ của Người:
“Chống gậy lên non xem trận địa,
Vạn trùng núi đõ vạn trùng mây.
Quân ta khí mạnh nuốt Ngưu Đẩu,
Thề diệt xâm lăng lũ sói cầy.”
(Bản dịch của Xuân Diệu)
Tiếp đó giáo viên giới thiệu về hệ thống phòng ngự trên đường số 4 với các
địa danh: Đình Lập, Lạng Sơn, Na Sầm, Thất Khê, Cao Bằng.
Đến đây giáo viên dừng lại hỏi học sinh: “Tại sao ta quyết định đánh Đông
Khê mở đầu chiến dịch?”
Sau khi trao đổi, đàm thoại, giáo viên bổ sung và nhấn mạnh các ý chính:
“Giữa Đông Khê và Cao Bằng, nếu đánh Cao Bằng thì sẽ đụng đầu với các lực
lượng mạnh của địch, hệ thống phòng ngự vững chắc, muốn đánh thắng phải tốn
nhiều xương máu. Đồng thời nếu đánh Cao Bằng, địch sẽ rút tất cả các cứ điểm
tương đối yếu (có 1 tiểu đoàn) nhưng lại là vị trí trọng yếu, mất Đông Khê, địch
phải cho quân ứng cứu, Cao Bằng phải rút chạy, ta có cơ hội tiêu diệt quân tiếp
22
viện và quân rút chạy của địch nữa, Đông Khê ở xa Hà Nội, nếu địch tiếp viện
cũng mất nhiều thời gian, vì vậy ta quyết định đánh Đông Khê.
Tiếp đó giáo viên dựa vào biểu đồ yêu cầu học sinh chú ý theo dõi, tường
thuật sự kiện 16.9.1950:
Đứng trên núi cao nhìn xuống đồn Đông Khê như một tuần dương hạm
khổng lồ giữa biển xanh biên giới. Đông Khê nằm giữa đường số 4, cách Cao
Bằng 45km, cách Thất Khê 24km, xung quanh có vị trí kiên cố, đóng trên đồi cao
như một bức tường vững chắc bao bọc. Đồn Đông Khê có hàng chục lô cốt thấp
sát mặt đất, nắp dày trên 1 mét, có hầm ngầm, tường cao, dây thép gai xung
quanh. 6 giờ sáng ngày 16.9.1950, đạn pháo ta nổ vang trên cứ điểm Đông Khê.
Trận đánh mở màn chiến dịch bắt đầu. Sau những cuộc chiến ác liệt, quân ta
chiếm được các vị trí xung quanh, nhưng đợt thứ nhất tấn công lên đồi cao không
thành. 17 giờ ngày 17.9.1950, các chiến sĩ ta tấn công lần thứ hai lên đồi cao. Phía
tây là đại đội bộc phá Trần Cừ, phía đông là đại đội La Văn Cầu cùng xung phong
mở đường cho xung kích tiến lên.
Mũi nhọn do Trần Cừ chỉ huy tiến lên mở hàng rào nhưng bị đại bác của
địch chặn đứng mọi đợt xung phong. Bốn chiến sĩ xông lên đều bị thương vong, cả
mũi nhọn nằm ùn lại phía trước mũi súng của kẻ thù. Súng vừa ngớt thì một toán
địch từ hầm ngầm xông ra phản kích, Trần Cừ bị trúng đạn vào ngực trong khi lô
cốt địch vẫn không ngừng nhả đạn. Trời đã sáng rõ, xung kích vẫn chưa lọt vào
được, mọi người đều lo lắng. Lúc này, Trần Cừ cố lê người sát lô cốt, anh lại bị
thương lần nữa song vẫn cố nhoài người lên rồi gục xuống và lấy hết sức dùng
thân mình bịt lỗ chấu mai địch. Hỏa lực của địch ngừng lại và xung kích liên tiếp
xông lên. Lời hô: “noi gương Trần Cừ, trả thù cho Trần Cừ” vang lên, các chiến sĩ
như nước vỡ bờ, các tổ 3 người tràn vào, nhanh chóng tiêu diệt lô cốt. 7 giờ sáng
hôm sau, quân địch trong chiến hầm cố thủ cuối cùng vẫn ngoan cố chống cự. Một
quả bộc phá đánh sập chiếc hầm ngầm vững chắc đó, những tên chỉ huy run sợ
23
chui ra hàng. Sau hơn 2 ngày đêm chiến đấu dũng cảm quân ta đã hoàn toàn giành
thắng lợi ở trân Đông Khê.
Đến đây, giáo viên hỏi học sinh: “Chiến thắng Đông Khê có ý nghĩa như thế
nào?”
Sau khi học sinh trả lời, giáo viên chốt lại: Chiến thắng Đông Khê chứng tỏ
nghệ thuật chỉ đạo quân sự tài tình của Đảng, đánh dấu bước tiến mới về trình độ
đánh công kiên của bộ đội ta, cổ vũ khí thế lập công trên khắp mặt trân, thể hiện
tinh thần dũng cảm trong chiến đấu của thế hệ trẻ Việt Nam. Tướng Aliuc chỉ huy
đồn Đông Khê đã phải thốt lên: “ chúng tối chưa bao giờ gặp phải một đối phương
dũng cảm như vậy, thật là kì diệu.”
Đúng như dự định của ta về kế hoạch “điệu hổ li sơn”, Đông Khê bị tiêu
diệt, hệ thống phòng ngự trên đường số 4 như một con rắn bị gãy khúc. Địch núng
thế tìm cách rút khỏi Cao Bằng song muốn rút phải tiếp viện. Ngày 30.9.1950, binh
đoàn Lơpagiơ từ Thất Khê lên yểm hộ cho quân từ Cao Bằng về. Ngày 3.10.1950,
binh đoàn Sác tông rút khỏi Cao Bằng. Đoán trước ý định của địch, ta bố tri quân
kiên nhẫn chờ chúng đến tiêu diệt. Địch rất thận trọng tránh dường quốc lộ, đi tắt
đường rừng song chúng vẫn lọt vào trận địa của ta. Quân ta chặn đánh địch, chia
cắt chúng, khiến cho 2 cánh quân này không liên lạc được với nhau. Sau 10 ngày
chiến đấu, đại bộ phận lực lượng của địch từ Cao Bằng về và từ Thất Khê lên đều
bị tiêu diệt. Bọn còn lại chạy vào rừng cũng bị truy kích. Sác tông và Lơpagiơ
không gặp được nhau để tiếp ứng nhau, mà lại gặp nhhau trên đường vào nhà
giam của ta. Thất bại nặng nề, địch vội và rút luôn các cứ điểm còn lại trên đường
số 4.
Ngày 22.10.1950, chiến dịch Biên giới kết thúc hoàn toàn tháng lợi.
Đến đây giáo viên có thể hỏi học sinh: “Em hãy so sánh cách đánh trong
chiến dịch Biên giới với chiến dịch Việt Bắc?” Giáo viên để học sinh phát biểu, sau
đó nêu các đặc điểm chính và khẳng định sự lớn mạnh của quân đội ta sau chiến
24
dịch.
- Sử dụng tranh ảnh kết hợp với miêu tả, phân tích, đàm thoại.
Tranh ảnh tạo được biểu tượng, góp phần cụ thể hoá kiến thức, có tác dụng
làm cho học sinh yêu thích môn lịch sử. Do đó, để sử dụng tranh ảnh lịch sử có
hiệu quả, phát huy được tính tích cực hoạt động của học sinh cần kết hợp với miêu
tả có phân tích, đàm thoại.
Ví dụ với bức ảnh hình 52 “Các đại biểu dự Đại hội toàn quốc thống nhất
Việt Minh – Liên Việt (1951)” Bài 19 “Bước phát triển của cuộc kháng chiến toàn
quốc chống thực dân Pháp (1951 – 1953)”, bức ảnh này được sử dụng khi dạy mục
III “Hậu phương kháng chiến phát triển về mọi mặt” để cụ thể hóa sự kiện thống
nhất mặt trận Việt Minh và hội Liên Việt.
Trước hết giáo viên giới thiệu về bức ảnh ghi lại hình ảnh các đại biểu tham
dự đại hội thống nhất mặt trận Việt Minh và Hội Liên Việt rồi hướng dẫn học sinh
quan sát từ trên xuống dưới, từ trái qua phải. Giáo viên đưa ra câu hỏi gợi mở để
học sinh trả lời:
- Quan sát trang phục, nét mặt của những người trong ảnh, chúng ta thấy
thành phần tham dự đại hội toàn quốc thống nhất Việt Minh – Liên Việt như thế
nào?
Học sinh trao đổi đàm thoại qua những câu gợi mở, quá trình đó sẽ giúp các
em có biểu tượng ban đầu về các thành phần tham gia. Sau đó giáo viên miêu tả
khái quát: Trong ảnh là quang cảnh ở bên ngoài hội trường. Ở trên cửa ra vào hội
trường có gắn tấm biển đề hàng chữ “Đại hội toàn quốc thống nhất Việt Minh –
Liên Việt”, có 29 đại biểu chụp ảnh kỉ niệm. Quan sát bức ảnh ta thấy rõ các đại
biểu tham dự gồm đủ mọi giới: phụ nữ, nam giới, người già, người trẻ, có cả
những người theo tôn giáo (phía trái bức ảnh), những người dân tộc thiểu số (bên
phải bức ảnh)… Chủ tịch Hồ Chí Minh là người ngồi giữa. Giáo viên tiếp tục gợi
mở “Chủ tịch Hồ Chí Minh ngồi ở giữa nói lên điều gì?”. Điều đó nói lên Bác và
25