Tải bản đầy đủ (.doc) (111 trang)

Phân tích đánh giá thực trạng và đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao năng lực hoạt động của bộ máy quản lý trong công ty bảo hiểm nhân thọ Thanh Hóa hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (397.33 KB, 111 trang )

1 | P a g e
LỜI GIỚI THIỆU
Với sự phát triển mạnh mẽ của các công ty bảo hiểm nhân thọ cạnh tranh
đã và đang tạo ra những tác động không nhỏ tới Bảo Việt theo cả hai
chiều hướng: tích cực và tiêu cực. Về mặt tích cực: Việc cạnh tranh với
những đối thủ có bề dày kinh nghiệm kinh doanh trong lĩnh vực bảo hiểm
nhân thọ trên thị trường thế giới, có công nghệ kĩ thuật hiện đại, có
phương pháp quản lý tiên tiến đã giúp cho Bảo Việt tự nhìn nhận, đánh
giá lại mình để rút ra những điểm còn hạn chế, nhằm đề ra những giải
pháp khắc phục. Bên cạnh đó đây còn là điều kiện tốt để Bảo Việt tiến
hành xem xét, nghiên cứu và chắt lọc những điểm tiến bộ của đối thủ để
áp dụng một cách linh hoạt, sáng tạo sao cho phù hợp với điều kiện thực
tế của mình. Tuy nhiên, việc phát triển mạnh mẽ của các doanh nghiệp
bảo hiểm nhân thọ trên thị trường cũng đồng nghĩa với việc sức ép cạnh
tranh đối với Bảo Việt ngày càng tăng cao và hệ quả tất yếu là sự chia sẽ
về khách hàng và thị phần, là khó khăn trong tuyển dụng đại lý Và mặc
dù trong những năm qua với sự tăng trưởng và phát triển như vũ bảo của
bảo hiểm Việt Nam, song so với các ngành khác thì Bảo Việt vẫn còn bộc
lộ những hạn chế chứng tỏ sự non nớt của mình trên thị trường tài chính
Việt Nam. Qua việc tìm hiểu và nghiên cứu tại công ty bảo hiểm nhân thọ
Thanh Hoá. Tôi thấy rằng điểm hạn chế nhất đó chính là vấn đề quản lý
2 | P a g e
công ty. Vì vậy tôi quyết định chọn đề tài “Phân tích đánh giá thực trạng
và đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao năng lực hoạt động của bộ
máy quản lý trong công ty bảo hiểm nhân thọ Thanh Hóa hiện nay”. Với
mục tiêu đóng góp một số ý kiến của mình, hy vọng làm một điều gì đó
nhằm khắc phục những hạn chế mà công ty đang gặp phải để nâng cao
năng lực cạnh tranh của công ty trong môi trường cạnh tranh đầy khốc
liệt của thị trường tài chính Việt Nam
3 | P a g e
Chuyên đề này tôi chỉ xin trình bày trong một phạm vi nhất định.Cơ


cấu của chuyên đề gồm 3 chương:
+ Chương I: Lý luận chung về bảo hiểm nhân thọ và bộ máy quản lý
+ Chương II: Thực trạng về năng lực hoạt động của bộ máy quản lý
trong công ty bảo hiểm nhân thọ Thanh Hóa hiện nay
+ Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực hoạt động của
bộ máy quản lý
Tôi xin chân thành cảm ơn các đồng nghiệp ở công ty bảo hiểm
nhân thọ Thanh Hóa và đặc biệt là sự hướng dẫn tận tâm của phó giáo sư
tiến sĩ Đoàn Thị Thu Hà đã giúp tôi hoàn thiện đề tài này.
4 | P a g e
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM NHÂN THỌ VÀ BỘ MÁY QUẢN
LÝ CỦA CÔNG TY
I . LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM NHÂN THỌ
1 . Khái niệm về bảo hiểm nhân thọ
Có thể hiểu một cách ngắn gọn, bảo hiểm nhân thọ là sự cam kết
giữa công ty bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm, trong đó:
Công ty bảo hiểm có trách nhiệm trả số tiền bảo hiểm khi có sự kiện định
trước liên quan đến cuộc sống con người xảy ra như: người được bảo
hiểm bị chết, người được bảo hiểm bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn, người
được bảo hiểm sống đến một thời điểm xác định trước
Người tham gia bảo hiểm có trách nhiệm nộp phí bảo hiểm theo quy định
cho công ty bảo hiểm.
Bảo hiểm nhân thọ nói chung có nhiều loại: Bảo hiểm sinh mạng có thời
hạn, bảo hiểm suốt cuộc đời, bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp có thời hạn, bảo
hiểm hiểm trợ cấp hưu trí v.v Ngoài ra còn có các điều khoản bổ sung cho
các hợp đồng chính: bảo hiểm tai nạn con người, bảo hiểm chi phí nằm
viện, bảo hiểm các bệnh hiểm nghèo
2. Những đặc điểm của bảo hiểm nhân thọ:

Năm 1996 được sự uỷ quyền của thủ tướng chính phủ, Bộ tài chính ra
quyết định thành lập lại tổng công ty bảo hiểm Việt Nam, được nhà nước
5 | P a g e
xếp loại” Doanh nghiệp nhà nước xếp hạng đặc biệt”. Sở dĩ được xếp
hạng đặc biệt là vì bảo hiểm nói chung và bảo hiểm nhân thọ nói riêng có
những đặc điểm rất khác biệt so với các sản phẩm khác
Thứ nhất: Bảo hiểm nhân thọ là một loại hình dịch vụ tài chính, một sản
phẩm vô hình, người mua bảo hiểm đóng tiền (thường là đóng định kỳ)
cho doanh nghiệp bảo hiểm nhưng chỉ nhận lại một lời cam kết sẽ được
trả tiền khi những sự kiện bảo hiểm được xác định trước (sống đến một
thời điểm, chết, thương tật) phát sinh mà không biết chắc sự kiện đó có
xảy ra hay không cũng như không biết chắc sự kiện đó có xảy ra hay
không cũng như không xác định được thời điểm phát sinh sự kiện đó (trừ
trường hợp sống). Do vậy khác với các hàng hoá thông thường, người
mua BHNT không thể dùng thử để để biết chất lượng sản phẩm mà chỉ có
thể dùng thật, đã dùng thật là dùng trong thời hạn dài. Hơn thế nữa, sản
phẩm bảo hiểm nhân thọ còn là một sản phẩm khá phức tạp và có tính
trừu tượng cao, nên nhiều khi người mua bảo hiểm không thể hình dung
hết được về sản phẩm bảo hiểm
Thứ hai: Bảo hiểm nhân thọ có đối tượng kinh doanh rất đặc biệt, đó là
rủi ro liên quan đến sinh mạng, cuộc sống sức khoẻ con người (có thể nói,
BHNT gắn liền với chu kì” sinh, lão, bệnh, tử” của con người), do vậy
BHNT không thể bù đắp lại được những tổn thất về sinh mạng, sức khỏe
khả năng lao động và tinh thần cho người được bảo hiểm và người thân
của họ mà chỉ bù đắp lại một phần nào những thiệt hại về mặt tài chính
6 | P a g e
mà những tổn thất này gây ra. Chính vì vậy, với trường hợp phạm vi bảo
hiểm chỉ là rủi ro, BHNT là một trong số ít sản phẩm mà người mua rồi
không mong muốn được nhận quyền lợi bảo hiểm, thay vào đó là họ
muốn tìm sự thanh thản, sự bảo vệ, cảm giác đầy trách nhiệm trước người

thân. Cũng do có đối tượng kinh doanh rất đặc biệt, doanh nghiệp bảo
hiểm nhân thọ cũng cần biết cảm thông, chia sẽ trước những rủi ro, mất
mát của khách hàng. Đây chính là chủ nhân trong kinh doanh BHNT.
Đồng thời với cơ chế bù đắp tài chính, khắc phục hậu quả của rủi ro, hỗ
trợ tài chính khi không còn khả năng lao động (Đặc biệt là qua các sản
phẩm hưu trí), chúng ta có thể thấy, BHNT còn mang ý nghĩa xã hội sâu
sắc.
Thứ ba: Nhu cầu về bảo hiểm nhân thọ là nhu cầu thụ động, khách hàng
rất ít khi chủ động tìm đến doanh nghiệp để mua bảo hiểm nhân thọ mà
thường chỉ mua bảo hiểm sau khi được người bán bảo hiểm thuyết phục,
vận động (thường là qua rất nhiều lần). Một điểm đáng chú ý nữa là, theo
thống kê tại các thị trường BHNT lớn như Nhật Bản, Mỹ, Hàn Quốc, Đài
Loan, người quyết định mua bảo hiểm nhân thọ phần lớn không dưới
75% là phụ nữ.
Thứ tư: Bảo hiểm nhân thọ là sản phẩm dài hạn, thời hạn bảo hiểm là 5
năm, 10 năm, 20 năm, nhiều khi là cả đời người. Do vậy khi tham gia bảo
hiểm nhân thọ khách hàng luôn đặt ra những câu hỏi liên quan đến tương
lai (tương lai xa, rất xa) như: liệu đến khi hợp đồng đáo hạn doanh nghiệp
7 | P a g e
bảo hiểm nhân thọ còn tồn tại hay không? doanh nghiệp có đủ khả năng
thanh toán tiền bảo hiểm đã cam kết hay không Thực tế triển khai BHNT
của Bảo Việt cũng như của các công ty bảo hiểm nhân thọ khác hoạt
động tại thị trường Việt Nam cho thấy, các sản phẩm ngắn hạn vẫn chiếm
tỷ trọng chủ yếu. Vừa là một sản phẩm dài hạn lại vừa là sản phẩm hình
thức nên càng làm cho bảo hiểm nhân thọ càng trở nên đặc biệt, do đó
việc tạo lòng tin nơi khách hàng đóng vai trò tối quan trọng trong kinh
doanh bảo hiểm nhân thọ. Kinh nghiệm triển khai bảo hiểm nhân thọ tại
thị trường Việt Nam đã cho thấy uy tín doanh nghiệp là một trong những
yếu tố quan trọng nhất quyết định việc tham gia bảo hiểm nhân thọ của
khách hàng

Thứ năm: Sản phẩm bảo hiểm nhân thọ là sản phẩm bán lẻ là chủ yếu, đại
đa số khách hàng là cá nhân quyết định mua BHNT của họ rất ít chịu tác
động, chi phối bởi yếu tố quyền lực hay các yếu tố khác, do vậy việc
khách hàng tham gia tại doanh nghiệp nào phụ thuộc rất lớn vào khả năng
chinh phục nhân tâm công chúng của doanh nghiệp đó.
Do những đặc điểm đó mà các doanh nghiệp phải cần xây dựng hình ảnh
doanh nghiệp và quảng cáo trong kinh doanh bảo hiểm nhân thọ có
những nét khác biệt so với các lĩnh vực khác
3. Vai trò của bảo hiểm nhân thọ
BHNT có vai trò rất quan trọng đối với mỗi cá nhân, mỗi gia đình, đối
với từng doanh nghiệp và toàn xã hội.
8 | P a g e
Đối với từng cá nhân, gia đình:
Xét trên khía cạnh tinh thần, tham gia BHNT thể hiện sự quan tâm, lo
lắng của người chủ gia đình đối với những người phụ thuộc, của cha mẹ
đối với con cái làm cho tình cảm gia đình thêm keo sơn, thắm thiết và
hạnh phúc. Đồng thời, BHNT còn góp phần đảm bảo ổn định cuộc sống
cho các cá nhân và gia đình bằng sự hỗ trợ về tài chính khi không may họ
gặp phải rủi ro. Từ đó, BHNT là chỗ dựa tinh thần cho mọi người dân
giúp họ yên tâm lao động sản xuất.
Mặt khác, BHNT còn góp phần rất lớn để từng gia đình thực hiện kế
hoạch tài chính thông qua tiết kiệm, tạo quỹ giáo dục giành cho con cái,
có tiền chi dùng khi về hưu Từ cơ chế thu phí, các doanh nghiệp BHNT
buộc họ phải thực hiện tiết kiệm thường xuyên và có kế hoạch nhờ khoản
phí bảo hiểm họ phải đóng định kỳ.
Đối với các cơ quan, doanh nghiệp:
Lợi ích đầu tiên đối với các doanh nghiệp là ở chỗ nó làm ổn định
tình hình sản xuất kinh doanh và vấn đề tài chính. Nếu vì một lý do nào
đó người chủ chốt trong các có quan, doanh nghiệp bị chết hay thương tật
vĩnh viễn thì họ sẽ nhận được một số tiền để lo chi phí cho người bị thiệt

mạng và một khoản để có thể tuyển dụng người khác thay thế tiếp tục
công việc
Hai là khi người chủ sử dụng lao động tham gia BHNT cho người
lao động của mình thì không những quyền lợi của người lao động tăng
9 | P a g e
lên mà còn thể hiện được sự quan tâm, lo lắng của họ đối với người làm
công. Từ đó làm giảm bớt khoảng cách, xoa dịu mâu thuẫn giữa chủ và
thợ, kích thích người lao động gắn bó hơn với doanh nghiệp và làm việc
hiệu quả hơn, mang về cho doanh nghiệp nhiều lợi hơn.
Đối với xã hội:
Một trong những vai trò của BHNT đối với xã hội chính là nâng
cao phúc lợi cộng đồng. Khi tham gia BHNT tức là người dân đã tuân
theo quy luật số đông - rủi ro của họ sẽ được san sẻ cho nhiều người. Mặt
khác, cuộc sống của người dân khi về già gặp không ít khó khăn, với sự
ra đời của BHNT đặc biệt là sản phẩm “niên kim nhân thọ” sẽ giảm bớt
một phần nỗi lo âu về tài chính của họ, bớt đi gánh nặng trách nhiệm của
con cái và xã hội.
Không thể không đề cập tới vai trò tập trung mọi nguồn vốn nhàn rỗi từ
trong dân chúng của BHNT. Mỗi cá nhân mua BHNT là một cách tự bảo
vệ mình, đồng thời còn tạo ra một quỹ tiết kiệm cho mình. Đối với doanh
nghiệp BHNT thì mỗi một quỹ tiết kiệm góp lại thành quỹ bảo hiểm tập
trung - một quỹ đầu tư dài hạn, đầu tư vào nhiều lĩnh vực khác nhau của
nền kinh tế. Cũng từ đó mà làm tăng nhu cầu tuyển dụng lao động của
các ngành, tạo công ăn việc làm cho nhiều lao động, tránh hiện tượng
lãng phí nguồn nhân lực. Ngoài ra, bản thân sự ra đời và phát triển của
các doanh nghiệp BHNT cũng đã giải quyết công ăn việc làm cho rất
nhiều người, chính là mạng lưới đại lý rộng khắp và ngày càng gia tăng
10 | P a g e
không ngừng của các doanh nghiệp này.
4. Các loại hình bảo hiểm nhân thọ:

Hiện nay ở trên thế giới và Việt Nam đều tồn tại 3 loại hình bảo hiểm như
sau:
+ Bảo hiểm trong trường hợp chết.
+ Bảo hiểm trong trường hợp sống.
+ BHNT hỗn hợp.
Đấy là ba loại hình bảo hiểm cơ bản tồn tại trên thị trường bảo hiểm hiện
nay. Tuy nhiên trong quá trình tham gia bảo hiểm thì người mua bảo
hiểm còn áp dụng các điều khoản bổ sung như: Bảo hiểm tai nạn, bảo
hiểm sức khoẻ, bảo hiểm không nộp phí khi thương tật toàn bộ vĩnh viễn
do tai nạn
a. Bảo hiểm trong trường hợp chết:
Đây là loại hình phổ biến nhất trong BHNT và được chia thành hai
nhóm: Bảo hiểm tử kỳ và Bảo hiểm nhân thọ trọn đời.
- Bảo hiểm tử kỳ.
Loại hình bảo hiểm này còn được gọi là bảo hiểm sinh mạng có
thời hạn: Nó tiến hành bảo hiểm cho cái chết có thể xảy ra bất cứ lúc nào
như: Tai nạn, bệnh tật miễn là thời điểm xảy ra tai nạn trong thời gian
hợp đồng bảo hiểm vẫn còn hiệu lực. Nếu tai nạn xảy ra vào lúc hợp
đồng còn hiệu lực thì nhà kinh doanh bảo hiểm phải trả cho người tham
gia bảo hiểm một khoản tiền đúng bằng số tiền bồi thường như trong hợp
11 | P a g e
đồng đã cam kết. Nếu tai nạn xảy ra vào thời điểm hợp đồng đã hết hiệu
lực thì nhà kinh doanh bảo hiể
-Bảo hiển nhân thọ trọn đời:
BHNT trọn đời, hay còn gọi là bảo hiểm trường sinh. Hình thức
bảo hiểm của loại hình này là: Cam kết trả một khoản tiền bồi thường
đúng như trong hợp đồng quy định khi người tham gia bảo hiểm sống đến
hết cuộc đời của mình. Vì thời điểm chết của người tham gia bảo hiểm là
không xác định nên thời hạn hợp đồng là không xác định
Loại hình bảo hiểm này có một số đặc điểm cơ bản sau:

+ Thời hạn bảo hiểm không xác định.
+ STBH trả một lần khi người được bảo hiểm chết bất cứ lúc
nào.
+ Phí bảo hiểm của loại này lớn hơn của Bảo hiểm tử kỳ.
+ Phí đóng định kỳ và không thay đổi trong suốt quá trình
bảo hiểm.
BHNT trọn đời được triển khai nhằm thoả mãn nhiều mục đích
khác nhau:
+ Đảm bảo cuộc sống của gia đình và người thân sau cái
chết của người được bảo hiểm.
+ Giữ gìn tài sản cho thế hệ sau.
+ Mua sắm tài sản cho gia đình và người thân theo kế hoạch
đã định trước.
12 | P a g e
+ Tiết kiệm.
b. Bảo hiểm trong trường hợp sống:
Bảo hiểm trong trường hợp sống hay còn gọi là bảo hiểm sinh kỳ,
là loại hình bảo hiểm mà thực chất là người bảo hiểm cam kết chi trả
những khoản tiền đều đặn trong một khoảng thời gian xác định hoặc
trong suốt cuộc đời người tham gia bảo hiểm. Nếu người được bảo hiểm
chết trước ngày đến hạn thanh toán thí sẽ không được chi trả bất cứ một
khoản tiền nào.
Bảo hiểm sinh kỳ có một số đặc điểm chính sau:
+ Thời hạn bảo hiểm có thể xác định (gọi là niên kim nhân
thọ tạm thời), có thể không xác định (gọi là niên kim nhân thọ trọn đời).
+ Phí bảo hiểm đóng một lần.
+ STBH được chi trả nhiều lần nên còn gọi là trợ cấp định
kỳ
Loại bảo hiểm này nhằm thoả mãn những mục đích sau:
+ Đảm bảo cuộc sống khi về già hoặc về hưu.

+ Đảm bảo thu nhập cố định sau khi hết tuổi lao động.
+ Giảm nhẹ gánh nặng phụ thuộc vào con cái và phúc lợi xã
hội khi tuổi già.
c. Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp:
Đây là loại hình bảo hiểm được kết hợp giữa hai loại hình bảo hiểm
trên ( Bảo hiểm trong trường hợp chết và bảo hiểm trong trường hợp
13 | P a g e
sống). Vì tính ưu điểm của nó là tiết kiệm và rủi ro nên nó được áp dụng
rộng rãi trên phạm vi toàn thế giới
BHNT hỗn hợp có một số đặc điểm chính sau:
+ Thời hạn bảo hiểm luôn xác định.
+ STBH được trả một lần khi có các SKBH xảy ra (người
bảo hiểm chết hoặc khi hết hạn hợp đồng mà người được bảo hiểm còn
sống).
+ Phí bảo hiểm thường đóng định kỳ và không thay đổi trong suốt
thời hạn bảo hiểm.
+ Có thể được chia lãi hoặc có thể được hoàn phí khi không có
điều kiện tiếp tục tham gia.
+ Khách đông và có thể ở mọi lứa tuổi
Loại hình bảo hiểm này được triển khai nhằm nhiều mục đích khác
nhau :
+ Đảm bảo cuộc sống cho gia đình và người thân
+ Thực hiện tiết kiệm từ ngân sách gia đình để tạo lập quỹ gia đình
cho con cái, mua sắm tài sản.
+ Dùng làm vật thế chấp vay vốn hoặc khởi nghiệp kinh doanh.
Khi triển khai BHNT hỗn hợp, các công ty bảo hiểm có thể đa
dạng hoá loại sản phẩm này bằng các hợp đồng có thời hạn khác nhau,
hợp đồng phi lợi nhuận, có lợi nhuận và các loại hợp đồng khác tuỳ theo
tình hình thực tế.
14 | P a g e

5. Các lĩnh vực hoạt động của bảo hiểm nhân thọ:
Hiện nay bảo hiểm nhân thọ hoạt động trên 4 lĩnh vực đó là:
-Kinh doanh bảo hiểm nhân thọ:
Đây là nghiệp vụ chủ yếu của một công ty bảo hiểm. Nguyên tắc kinh
doanh là “ Lấy số nhiều bù số ít”. Lợi nhuận thu được của công ty là nhờ
vào sự chênh lệch về doanh thu phí bảo hiểm và chi phí bồi thường cho
khách hàng. Doanh thu sẽ thu được từ phí bảo hiểm do nhiều người tham
gia bảo hiểm đóng góp
-Tái bảo hiểm nhân thọ:
Trên thực tế triển khai, tái bảo hiểm giữ vai trò quan trọng trong việc
chuyển giao rủi ro. Khi một công ty bảo hiểm gốc nhận bảo hiểm cho một
dịch vụ có giá trị bảo hiểm lớn, vượt mức bồi thường (mức giữ lại của
mình), muốn đảm bảo khả năng thanh toán khi xảy ra rủi ro, tổn thất cho
dịch vụ này cũng như để bảo toàn vốn và sự tồn tại của công ty, công ty
bảo hiểm này cần kí một hợp đồng tái bảo hiểm để chuyển giao rủi ro từ
công ty mình sang một công ty bảo hiểm / tái bảo hiểm khác có năng lực
tài chính (khả năng thanh toán) lớn hơn. Trên thị trường bảo hiểm Việt
Nam, tái bảo hiểm là không còn xa lạ đối với nghiệp vụ bảo hiểm nhân
thọ.
- Đầu tư tài chính:
Nghiệp vụ đầu tư tài chính của bảo hiểm đã phát triển từ lâu trên thế
giới. Tuy nhiên ở Việt Nam thì nghiệp vụ này chưa được các công ty bảo
15 | P a g e
hiểm áp dụng rộng rãi. Đây là nghiệp vụ hoạt động giống như nghiệp vụ
của một ngân hàng. Công ty bảo hiểm sẽ đầu tư hoặc cho một cá nhân,
một tổ chức nào đó vay. Lợi nhuận mà công ty thu được đó chính là lãi
suất. Các công ty bảo hiểm nhân thọ có khả năng tài chính lớn thường
phát triển về nghiệp vụ này
II . LÝ LUẬN VỀ BỘ MÁY QUẢN LÝ VÀ NĂNG LỰC HOẠT
ĐỘNG CỦA BỘ MÁY QUẢN LÝ

1. Bộ máy quản lý
a. Khái niệm về bộ máy quản lý:
Bộ máy quản lý là một cơ quan chức năng trong một tổ chức nó bao gồm
hệ thống các phòng ban chức năng có nhiệm vụ cơ bản giúp giám đốc
quản lý, điều hành quá trình sản xuất kinh doanh, đảm bảo cho quá trình
sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao nhất
Tổ chức là sự liên kết những phần tử, những quá trình , những hoạt
động trong hệ thống nhằn thực hiện mục đích đề ra của hệ thống dựa trên
các cơ sở các nguyên tắc và các quy tắc của quản trị quy định
Hệ thống là tập hợp các phần tử và những mối quan hệ giữa các
phần tử nhằm tạo ra một đặc trưng đó là tính trồi của phần tử mà tính chất
này không thể có đượ từ những phần tử đơn lẻ
Quản lý là sự tác động có mục đích của chủ thể quản lý đến hệ
thống nhằm tổ chức và phối hợp hoạt động của họ nhằm đạt mục tiêu đề
ra của tổ chức với hiệu quả cao nhất
16 | P a g e
Điều hành là một trong các chức năng quản lý nhằm tác động lên
hành vi của hệ thống hướng hệ thống vào thực hiện mục đích và mục tiêu
quản lý theo đướng lối, chiến lược đã định. Điều hành là chức năng chủ
yếu của hoạt động quản lý
b. Yêu cầu của bộ máy quản lý:
Mặc dù có rất nhiều hình thức tổ chức bộ máy quản lý để đáp ứng với
từng điều kiện cụ thể của một tổ chức song nhìn chung để đảm bảo dược
tính hiệu quả cao nhất thì bộ máy quản lý cần đáp ứng những yêu cầu sau
đây:
Một là: Phải đảm bảo thực hiện đầy đủ, toàn diện những chức năng
quản lý nhằm thực hiện mục tiêu chung đã đề ra: hoàn thành toàn diện kế
hoạch với chi phí ít và hiệu quả kinh tế nhiều nhất
Hai là: Phải đảm bảo nghiêm túc và tuyệt đối chế độ một thủ
trưởng chế độ trách nhiệm cá nhân trên cơ sở đảm bảo và phát huy quyền

làm chủ của tập thể lao động trong doanh nghiệp
Ba là: Phải tạo được điều kiện để phát huy tối đa tính tự chủ và
sáng tạo của đội ngũ cán bộ công nhân viên thông qua việc giao quyền và
phân quyền
Bốn là: Phải phù hợp với quy mô sản xuất, thích ứng với đặc điểm
kinh tế và kĩ thuật của doanh nghiệp. Trong doanh nghiệp có quy mô lớn,
công tác của các phòng chức năng được chuyên môn hoá sâu hơn do đó
cần thiết và có thiể tổ chức nhiều phòng chức năng hơn các doanh nghiệp
17 | P a g e
có quy mô vừa và nhỏ. Những đặc điểm kinh tế kĩ thuật như loại hình sản
xuất, tính chất sản phẩm, tính chất công nghệ, vị trí doanh nghiệp trong
phân công lao động xã hội đều được xem là những căn cứ để xây dựng bộ
máy quan lý của doanh nghiệp
Năm là: Bộ máy quản lý phải được tinh giảm một cách có hiệu
quả; nghĩa là khi tinh giảm bộ vẫn đảm bảo được tính vững trắc trong
việc liên kết các phần tử, sự hoạt động vững trắc của tổ chức mà không
ảnh hưởng xấu đến vai trò cũng như năng lực hoạt động của bộ máy
c. Vai trò và chức năng của bộ máy quản lý:
Vai trò:
Bộ máy quản lý có vai trò rất quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh
doanh của một doanh nghiệp nó quyết định đến hiệu quả sản xuất kinh
doanh chung của toàn doanh nghiệp. Với một bộ máy quản lý gọn nhẹ, có
trình độ có phương pháp quản lý phù hợp sẽ giúp cho doanh nghiệp có
hướng đi đúng, có sự tổ chức kinh doanh hợp lý, cũng như có sự chỉ đạo,
kiểm tra và điều chỉnh nhanh chóng và chính xác trong quá trình hoạt
động sản xuất kinh doanh. Nhờ đó mà doanh nghiệp phát huy được
những điểm mạnh, khắc phục được những điểm yếu của mình thích ứng
nhanh chóng với điều kiện kinh tế thị trường đầy biến động và ngày càng
phát triển hơn.
Chức năng:

Bộ máy quản lý là cơ quan đầu não của một doanh nghiệp. Như vậy bộ
18 | P a g e
máy quản lý phải thực hiện chức năng như một đầu tầu để kéo đẩy con
tầu đi đúng hướng an toàn về bến. Nếu căn cứ vào chức năng vào nội
dung quản lý thì bộ máy quản lý có5 chức năng chính:
Bộ máy quản lý của công ty có chức năng lập kế hoạch: Đây là chức năng
đầu tiên nó đề ra phương hướng và mục tiêu hoạt động chung cho toàn
doanh nghiệp. Kế hoạch có thể là kế hoạch dài hạn cũng có thể là kế
hoạch ngắn hạn. Theo kế hoạch đó thì từng thành viên trong doanh
nghiệp sẽ nhận thức được nhiệm vụ cụ thể của mình như thế nào. Họ sẽ
biết mình cẩn phải làm gì để hoành thành nhiệm vụ mà công ty giao phó.
Đây là khâu cực kì quan trọng trong hoạt động quản lý, nó quyết định đến
sự thành bại của công ty và ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển trong
tương lai của công ty. Do vậy các cán bộ quản lý phải xây dựng được các
kế hoạch sao cho không có sự mâu thuẫn với nhau cũng như phải có sự
điều chỉnh các kế hoạch sao cho phù hợp với sự biến động của hệ thống
môi trường
Chức năng tổ chức: Việc thiết lập một bộ máy quản lý quản lý của doanh
nghiệp phụ thuộc vào yêu cầu hoạt động của doanh nghiệp, mục tiêu đã
đặt ra của doanh nghiệp, nguồn lực của doanh nghiệp, các yếu tố khách
quan tác động đến tác động đến doanh nghiệp. Dựa trên cơ sở đó, doanh
nghiệp sẽ xác lập một cơ cấu sản xuất phù hợp với chức năng, nhiệm vụ
được giao. Trong đó mỗi bộ phận, từng cá nhân đều có quyền hạn, trách
nhiệm và nghĩa vụ nhất định, có mối quan hệ mật thiết với nhau trong quá
19 | P a g e
trình thực hiện nhiệm vụ để đạt được mục tiêu chung mà doanh nghiệp đề
ra.
Chức năng điều hành: Mọi kế hoạch khi đã được lập ra và tổ chức xong
thì phải điều hành công việc để hoàn thành kế hoạch đó. Để điều hành có
hiệu quả thì cần phải có sự chỉ đạo thống nhất, chặt chẽ trong quản lý, có

như vậy các bộ phận trong bộ máy quản lý, cũng như trong quá trình hoạt
động sản xuất kinh doanh mới được tiến hành tốt nhiệm vụ của mình
Chức năng điều khiển điều chỉnh: Thực hiện chức năng này các nhà quản
lý sẽ sữa chữa những sai lầm trong quá trình sản xuất kinh doanh, thay
đổi công việc cho phù hợp, phát huy các điểm mạnh của doanh nghiệp
d. Các hình thức tổ chức bộ máy quản lý
Hiện tại có rất nhiều hình thức tổ chức bộ máy quản lý. Tuy nhiên tuỳ
từng điều kiện cụ thể của từng doanh nghiệp mà chọn những mô hình sao
cho hiệu quả nhất. Một số hình thức tổ chức bộ máy đó là:
-Kiểu cơ cấu tổ chức quản lý theo trực tuyến:
Nguyên tắc của kiểu tổ chức này là mọi công việc quyền hành đều được
giao cho từng đơn vị và quan hệ quyền hành đều được phân định rõ ràng
với một cấp trên trực tiếp


20 | P a g e
-Kiểu cơ cấu quản lý chức năng:
Mô hình này phù hợp với xí nghiệp nhỏ hoạc các đơn vị sự nghiệp.
Nhưng đối với các doanh nghiệp có quy mô lớn, quản lý phức tạp thì
không nên áp dụng
Ưu điểm:
+ Hiệu quả tác nghiệp cao
+ Phát huy được những thế mạnh của chuyên môn hoá ngành nghề
+Đơn giản hoá việc đào tạo
+ Chú trọng hơn đến tiêu chuẩn nghề nghiệp và tư cách nhân viên
+ Tạo điều kiện cho việc kiểm tra chặt chẽ của cấp cao hơn
Nhược điểm:
+ Thường dẫn đến các mâu thuẫn giữa các đơn vị chức năng khi đề ra chỉ
tiêu chiến lược,
Mô hình quản lý trực tuyến

Lãnh đạo tổ chức
Người
Thực
hiện 1
Người
Thực
Hiện 2
Người
Thực
Hiện 3
Người
Thực
Hiện 4
21 | P a g e
+ Thiếu sự phối hợp giữa các phòng ban chức năng
+ Chuyên môn hoá quá mức và tạo ra cách nhìn quá hẹp ở các cán bộ
quản lý
+ Hạn chế việc phát triển đội ngũ cán bộ quản lý chung
+Đổ trách nhiệm về vấn đề thực hiện mục tiêu chung của tổ chức cho cấp
lãnh đạo cao nhất.
Mô hình tổ chức bộ phận theo chức năng tương đối dễ hiểu và được
hầu hết các tổ chức sử dụng trong một giai đoạn phát triển nào đó, khi tổ
chức có quy mô vừa và nhỏ hoạt động trong một lĩnh vực đơn sản phẩm,
đơn thị trường
22 | P a g e

Giám đốc
Trưởng phòng
nhân sự
Trợ lý giám

đốc
p.giám đốc
maketing
P.giám đốc
Kỹ thuât
P.giám đốc
Sản xuất
P.giám đốc
Tài chính
N.cứu thị
trường
Quản lý
Nhân sư
Lập k/h
Sản xuất
Lập k/h
Tài chính
Lập k/h
maketing
Thiết kế Dụng cụ
Ngân quỹ
Quản cáo
Kỹ thuật điện Phân xưởng
1
Kế toán
chung
Quản lý
Bán hàng
Kỹ thuật
cơ khí

Phân xưởng
2
Kế toán chi
phí
Bán hàng Kiểm tra chất
lượng
Phân xưởng
3
Thống kê
và xử lý sl
Mô hình tổ chức bộ phận theo chức năng
23 | P a g e
-Kiểu quản lý trực tuyến chức năng:
Ưu điểm:
+ Phát huy được năng lực chuyên môn hoá của các bộ phận chức năng,
đồng thời vẫn đảm bảo được quyền chỉ huy của hệ thống trực tuyến
+ Tạo được điều kiện cho các chuyên gia đóng góp vào hoạt động quản lý
của doanh nghiệp
+ Giải quyết cho các cấp quản lý điều hành khỏi công tác phân tích chi
tiết từng khía cạnh.
+ Tạo điều kiện đào tạo cho chuyên gia
Nhược điểm:
+ Dễ gây hỗn độn như mô hình chức năng nếu như không có sự phân
định rõ ràng về quyền hạn
+ Hạn chế năng lực sử dụng nghiệp vụ của các chuyên viên
+ Dễ tạo ra xu hướng tập trung hoá đối với các nhà quản trị cao cấp
+Có thể xảy ra mâu thuẫn giữa lãnh đạo các tuyến với nhau, do không
thống nhất quyền hạn và quan điểm
Lãnh đạo tổ chức
Phòng chức

năng 1
Phòng chức
năng 2
Phòng chức
năng 3
Phòng chức
năng 4
Lãnh đạo tuyến
A
Lãnh đạo
tuyến B
24 | P a g e
- Mô hình tổ chức bộ phận thêo quá trình
Mô hình ma trận là sự kết hợp của hai hay nhiều mô hình tổ chức bộ phận
khác nhau. Ví dụ, mô hình theo chức năng kết hợp với mô hình theo sản
phẩm
Ưu điểm:
+ Định hướng các hoạt động theo kết quả cuối cùng
+ Tập trung nguồn lực vào khâu xung yếu
+ Kết hợp được năng lực của nhiều cán bộ quản lý và chuyên gia, tạo
điều kiện đáp ứng nhanh chong với những thay đổi của môi trường.
Nhược điểm:
+ Hiện tượng song trùng lãnh đạo dẫn đến sự không thống nhất mệnh
lệnh
+ Cơ cấu phức tạp và không bền vững
+ Có thể gây tốn kém
Cách tổ chức theo ma trận mang lại nhiều triển vọng lớn cho nhiều tổ
Mô hình cơ cấu trực tuyến- chức năng
25 | P a g e
chức trong điều kiện môi trường thay đổi nhanh với nhiều yếu tố bất

định. Điểm mấu chốt làm cho cơ cấu ma trận phát huy được tác dụng là
sự rõ ràng của mối quan hệ quyền hạn giữa các cán bộ quản lý và cơ chế
phối hợp
Đây là sơ đồ tổ chức theo ma trận trong kĩ thuật
Tổng giám
đốc
P.TGĐ
Kỹ thuật
P.TGĐ
Tài chính
P.TGĐ
Sản xuất
P.TGĐ
maketing
Trưởng p
Thiết kế
Trưởng p
Kỹ thuật
Trưởng.p
điện
Trưởng.p
Thuỷ lực
C.nhiệm đề
án A
C.nhiệm đề
án B
C.nhiệm đề
án C
Tổ chức theo ma trận trong kĩ thuật

×