Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

Phân tích thực trạng và đề xuất một số phương hướng, giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của VIETRANS trong quá trình hội nhập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (408.9 KB, 100 trang )

Đinh Trà Giang
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hội nhập là một xu thế tất yếu trong nền kinh tế toàn cầu hoá hiện
nay. Việt Nam cũng đã gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO),
đã tham gia vào sân chơi chung của nền kinh tế thế giới, các doanh
nghiệp Việt Nam cũng không thể đứng ngoài cuộc. Vấn đề đặt ra là làm
sao các doanh nghiệp Việt Nam đủ sức đứng vững, cạnh tranh được với
các công ty nước ngoài ngay trên thị trường Việt Nam.
Trong những năm qua, thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế
nước ta đã đạt được sự tăng trưởng khá, các nhân tố tạo thành năng lực
cạnh tranh của nền kinh tế đã phát huy tốt vai trò của mình, một số doanh
nghiệp đã bắt đầu vươn ra cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài.
Tuy nhiên theo đánh giá của các tổ chức nước ngoài thì năng lực cạnh
tranh của nền kinh tế nước ta nói chung và các doanh nghiệp, hàng hoá
và dịch vụ so với thế giới còn thấp kém và chậm được cải thiện. Theo
đánh giá của Diễn đàn kinh tế thế giới về chỉ số cạnh tranh của nền kinh
tế, năm 1998, Việt Nam xếp thứ 43/53 nước được xem xét, năm 1999 là
50/59, năm 2000 là 51/59, năm 2001 là 62/75, năm 2002 là 60/80, năm
2006 là 77/125 quốc gia. Các chỉ số cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ
còn kém hơn.
Ngành giao nhận vận tải Việt Nam tuy không phải là ngành non trẻ
nhưng trước sự cạnh tranh gay gắt của các công ty nước ngoài cũng phải
1 | P a g e
Đinh Trà Giang
đối mặt với không ít khó khăn. Các doanh nghiệp giao nhận vận tải cũng
vậy, nhất là đối với VIETRANS- một công ty giao nhận vận tải của nhà
nước thì càng phải cần thiết nâng cao năng lực cạnh tranh để đứng vững
và phát triển trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy, đề tài: “Phân tích thực
trạng và đề xuất một số phương hướng, giải pháp nâng cao năng lực
cạnh tranh của VIETRANS trong quá trình hội nhập” được chọn để


nghiên cứu nhằm tìm ra các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh cho
công ty này trong tình hình cạnh tranh gay gắt như hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Quá trình nghiên cứu được tiến hành dựa trên tình hình hoạt động
của Công ty thời gian gần đây trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt từ các
doanh nghiệp trong nước cũng như các doanh nghiệp nước ngoài khi Việt
Nam hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
3. Mục đích nghiên cứu
Đề tài này thực hiện nhằm nghiên cứu thực trạng năng lực cạnh tranh
của VIETRANS trong quá trình hội nhập hiện nay và đề xuất các giải
pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty này trên thị trường
trong nước và quốc tế.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là thực trạng cạnh tranh của
Công ty VIETRANS, và các nhân tố tạo nên năng lực cạnh tranh của
Công ty này.
2 | P a g e
Đinh Trà Giang
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài vận dụng tổng hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau.
Phương pháp nghiên cứu chủ đạo là phương pháp duy vật biện chứng của
chủ nghĩa Mác- Lênin, phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, khái
quát hoá cũng được sử dụng kết hợp hoặc độc lập trong việc giải quyết
từng vấn đề đặt ra trong đề tài.
6. Cấu trúc luận văn
Căn cứ vào mục đích của luận văn, ngoài lời mở đầu, kết luận và
danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn gồm 03 chương:
Chương 1: Bối cảnh cạnh tranh của các doanh nghiệp giao nhận vận tải
Việt Nam
Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của Công ty Giao nhận Kho

vận ngoại thương - VIETRANS trong 10 năm qua.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của
VIETRANS trong thời gian tới.
3 | P a g e
Đinh Trà Giang
CHƯƠNG 1: BỐI CẢNH CẠNH TRANH CỦA CÁC DOANH
NGHIỆP GIAO NHẬN VẬN TẢI VIỆT NAM
1. Hội nhập kinh tế quốc tế:
Tự do hoá thương mại là một xu thế tất yếu khi lực lượng sản xuất
vượt ra khỏi biên giới một quốc gia, trở thành lực lượng sản xuất quốc tế.
Sự phát triển nhanh chóng của thương mại thế giới theo hướng tự do hoá
đã trở thành nhân tố quan trọng thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế thế giới,
thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá và khu vực hoá.
Từ nửa cuối thế kỷ XX toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế trở
hành xu thế mạnh mẽ. Thậm chí Hội nghị lần thứ 29 của Diễn đàn kinh tế
thế giới tại Davos (Thụy Sỹ) (28/1-2/2/1999) người ta khẳng định toàn
cầu hoá không còn là xu thế nữa mà đã trở thành một thực tế. Xu thế này
cuốn hút tất cả các nước, từ giàu đến nghèo, từ lớn đến nhỏ hội nhập vào
nền kinh tế thế giới. Hội nhập là một yếu tố của phát triển. Nước nào
không hội nhập thì không có cơ hội phát triển. Những nước hội nhập tốt,
sâu rộng thì phát triển tốt.
4 | P a g e
Đinh Trà Giang
Việt Nam bước vào thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển
kinh tế, vì vậy chọn con đường hội nhập kinh tế quốc tế là quyết tâm của
Đảng và Chính phủ đã được khẳng định trong các Nghị quyết Đại hội
Đảng, Nghị quyết Trung ương, Nghị quyết 07 của Bộ Chính trị và các
Chỉ thị, chương trình hành động của Chính phủ [2, tr34].
Hội nhập kinh tế quốc tế là trình độ cao của quan hệ hợp tác kinh tế
quốc tế. Hội nhập có nghĩa là gia nhập, tham gia vào một tổ chức chung,

một trào lưu chung của quốc tế, mỗi quốc gia trở thành một bộ phận
trong một tổng thể. Hội nhập kinh tế thường có nhiều mức độ từ nông
đến sâu, từ một vài lĩnh vực đến nhiều lĩnh vực, từ một vài nước đến
nhiều nước. Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) là một tổ chức toàn
cầu, Liên minh châu Âu (EU) là một tổ chức khu vực có mức độ kinh tế
sâu trên nhiều lĩnh vực và là liên minh kinh tế lớn nhất trên thế giới. Trên
con đường hội nhập, Việt Nam đã tham gia ASEAN, APEC, ASEM, bình
thường hoá quan hệ với ADB, WB, IMF và đặc biệt là gia nhập vào Tổ
chức Thương mại thế giới (WTO).
Lợi ích do hội nhập và tự do hoá mang lại ngày càng lớn nên bên
cạnh xu hướng toàn cầu hoá đồng thời phát triển mạnh xu hướng khu vực
hoá. Biểu hiện của xu hướng này là sự hình thành nhanh và nhiều các
Khu vực thương mại tự do (FTAs) và các Thoả thuận Thương mại khu
vực (RTAs). FTAs và RTAs có mức độ ưu đãi và tự do hoá thương mại
cao hơn quy chế tối huệ quốc (MFN) kéo theo những thay đổi lớn trong
5 | P a g e
Đinh Trà Giang
cục diện thương mại khu vực và trên thế giới. Tính đến tháng 5/2003 đã
có khoảng 250 hiệp định thương mại tự do song phương (BTAs) và khu
vực đã được thông báo cho WTO. Đến cuối năm 2005 con số này đã tăng
lên thành 300 [2, tr37].
Hội nhập đòi hỏi các nước phải tiến hành cải cách, đổi mới kinh tế
trong nước. Xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay tạo ra sức ép các
nước phải tiến hành mở cửa, tự do hoá để hội nhập mạnh hơn, nhanh
hơn. Nước ta nếu không cùng nhịp với các nước trong khu vực thì sẽ có
nguy cơ tụt hậu và chịu những thua thiệt của người đi sau.
“Hội nhập kinh tế thì mỗi quốc gia vẫn tồn tại với tư cách là quốc
gia độc lập, tự chủ, tự nguyện lựa chọn các lĩnh vực và tổ chức thích hợp
để hội nhập. Tuy nhiên, khi đã gia nhập thì phải tuân thủ các nguyên tắc
chung, phải thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ của một thành viên, phải

điều chỉnh chính sách của mình cho phù hợp với luật chơi chung” [2,
tr34].
Vì vậy mà hội nhập cũng tạo ra áp lực cạnh tranh mạnh hơn, gay gắt
hơn. Thuận lợi hoá, tự do hoá thương mại tạo ra nhiều đối tác cạnh tranh
trên cùng một thị trường, ngay cả thị trường nội địa.
Trên cơ sở đó, xem xét các nhân tố ảnh hưởng đến doanh nghiệp
giao nhận vận tải Việt Nam như sau:
1.1.1. Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế- Các nhân tố ảnh hưởng đến
doanh nghiệp giao nhận vận tải Việt Nam:
6 | P a g e
Đinh Trà Giang
Sức cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng vượt qua các đối thủ
cạnh tranh để duy trì và phát triển bản thân doanh nghiệp. Thông thường,
người ta đánh giá khả năng này thông qua các yếu tố nội tại doanh
nghiệp như: quy mô, khả năng tham gia và rút khỏi thị trường, sản phẩm,
dịch vụ, năng lực quản lý, năng suất lao động, v.v Tuy nhiên, khả năng
này lại bị tác động đồng thời bởi nhiều yếu tố bên ngoài ở trong nước và
quốc tế. Vì vậy, khi xét đến năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp,
phải xét đến các nhân tố ảnh hưởng đến nó như các nhân tố quốc tế và
các nhân tố trong nước Các nhân tố quốc tế:
- Các nhân tố thuộc về chính trị: Tuy khía cạnh chính trị là thuộc chủ
quyền nhà nước- chủ thể có khả năng phát hành tiền tệ, đánh thuế và định
ra các luật lệ quốc gia , nhưng vẫn có một số khía cạnh vượt ra khỏi biên
giới quốc gia và tác động không nhỏ đến môi trường kinh doanh và khả
năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong điều kiện hội nhập hiện nay như:
+ Mối quan hệ giữa các chính phủ: mối quan hệ giữa các chính phủ tốt sẽ
thúc đẩy thương mại phát triển, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh
nghiệp trong kinh doanh
+ Các tổ chức quốc tế cũng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển và
vận dụng các chính sách biểu lộ nguyện vọng chính trị của các quốc gia

thành viên
+ Hệ thống luật pháp quốc tế, những hiệp định và thoả thuận được một
loạt các quốc gia tuân thủ có ảnh hưởng sâu rộng đến hoạt động kinh
7 | P a g e
Đinh Trà Giang
doanh quốc tế. Mặc dù, có thể chúng không ảnh hưởng trực tiếp tới từng
doanh nghiệp riêng lẻ, nhưng chúng ảnh hưởng gián tiếp thông qua việc
tạo ra môi trường kinh doanh quốc tế ổn định và thuận lợi.
- Xu hướng phát triển và hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu hoá: Xu
hướng hội nhập kinh tế vùng, khu vực có ảnh hưởng quan trọng đối với
các công ty đang hoạt động trong các thị trường khu vực. Hội nhập kinh
tế diễn ra theo nhiều hình thức khác nhau, nhưng đặc biệt tập trung vào
vấn đề hợp tác kinh tế, được thiết lập để mang lại sự phụ thuộc kinh tế
lẫn nhau nhiều hơn giữa các quốc gia, như AFTA, EU và hội nhập đầy
đủ nhất đối với một quốc gia là gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới.
Hầu hết các hình thức hội nhập kinh tế thường nhằm đưa ra sự thoả
thuận và thống nhất để giảm bớt các hàng rào thương mại giữa các thành
viên tham gia. Hội nhập giúp quá trình lưu thông hàng hoá và dịch vụ
giữa các nước ngày càng phát triển, vì những trở ngại như thuế quan, thủ
tục xuất nhập khẩu, các hạn chế mậu dịch được cố gắng giảm thiểu,
thành tựu khoa học kỹ thuật được sử dụng tối ưu và có hiệu quả hơn, quá
trình toàn cầu hoá kinh tế diễn ra nhanh hơn lại tác động trở lại vào tăng
trưởng kinh tế của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, hội nhập còn đặt ra những
thách thức đối với các doanh nghiệp đó là phải chấp nhận chạy đua trong
điều kiện cạnh tranh gay gắt hơn để chiếm được vị trí trên thị trường.
- Đối thủ cạnh tranh quốc tế: Ngày nay sự bành trướng của các tập
đoàn đa quốc gia đang là mối đe doạ đối với doanh nghiệp trong nước.
8 | P a g e
Đinh Trà Giang
Các tập đoàn này có lợi thế về vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm tổ chức sản

xuất kinh doanh, kinh nghiệm cạnh tranh trên thương trường, sẽ có nhiều
ưu thế trong cạnh tranh. Ngược lại, những doanh nghiệp trong nước chưa
có đủ kinh nghiệm hoạt động trong ngành giao nhận vận tải sẽ phải gặp
nhiều thách thức
Các nhân tố trong nước:
- Nhân tố kinh tế: Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao sẽ làm cho thu nhập
của dân cư tăng, khả năng thanh toán cao dẫn tới sức mua tăng, thúc đẩy
tiêu thụ hàng hoá và dịch vụ, đây là cơ hội tốt cho các doanh nghiệp sản
xuất, thương mại cũng như dịch vụ giao nhận vận tải. Nếu doanh nghiệp
nào nắm bắt được điều này và có khả năng đáp ứng nhu cầu của khách
hàng thì doanh nghiệp đó sẽ thành công và có sức cạnh tranh cao. Ngược
lại, khi nền kinh tế suy thoái, sức mua giảm, sẽ làm gia tăng áp lực cạnh
tranh và tạo ra nhiều “nguy cơ” đối với doanh nghiệp
- Nhân tố về chính trị, pháp luật: Một thể chế chính trị, luật pháp rõ
ràng, rộng mở và ổn định sẽ là cơ sở đảm bảo sự thuận lợi, bình đẳng cho
các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh và cạnh tranh có hiệu quả. Các văn
bản pháp luật, chính sách về thuế, về thủ tục xuất nhập khẩu có ảnh
hưởng rất lớn đến việc tác nghiệp của các doanh nghiệp giao nhận vận tải
- Trình độ khoa học và công nghệ: Nhân tố này quan trọng và có ý
nghĩa quyết định đến môi trường cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp. Dịch vụ giao nhận vận tải hiện nay cũng đòi hỏi cao về
9 | P a g e
Đinh Trà Giang
công nghệ, và đây là yếu tố quyết định sự phản ứng nhanh nhạy của dịch
vụ đối với yêu cầu công việc đặt ra. Nếu doanh nghiệp giao nhận vận tải
nắm bắt và đầu tư phát triển tốt công nghệ sẽ có lợi thế cạnh tranh hơn
hẳn so với các doanh nghiệp khác
- Nhân tố về tâm lý “người tiêu dùng”-là chủ thể sử dụng dịch vụ. Hiện
nay, ở Việt Nam, các doanh nghiệp sản xuất chưa thật sự chú trọng dịch
vụ giao nhận vận tải đầu vào và phân phối sản phẩm giúp họ. Các doanh

nghiệp nếu nhập khẩu thì mua hàng giá CIF, còn nếu xuất khẩu thì bán
theo giá FOB cũng làm hạn chế thị trường dịch vụ giao nhận vận tải của
các doanh nghiệp giao nhận Việt Nam.
1.1.2. Cơ hội và thách thức:
Trong tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, nhận thức đầy
đủ những cơ hội cũng như những thách thức là bước đi đầu tiên giúp
chuẩn bị tốt việc ứng phó kịp thời, hiệu quả với những khó khăn có thể
gặp phải.
1.1.2.1. Cơ hội đối với các doanh nghiệp giao nhận vận tải Việt Nam
- Cơ hội lớn nhất là mở rộng thị trường: quá trình hội nhập gắn liền với
cắt giảm và bãi bỏ thuế quan và các hạn chế thương mại khác làm cho
hàng hoá, dịch vụ lưu thông luân chuyển mạnh mẽ hơn. Cùng với dòng
chảy của hàng hoá là thị trường rộng mở cho dịch vụ giao nhận vận tải,
thuê kho bãi.
- Môi trường kinh doanh được cải thiện: Hội nhập vào các tổ chức kinh
10 | P a g e
Đinh Trà Giang
tế, thương mại khu vực và thế giới, Việt Nam phải thực hiện nghĩa vụ
của một thành viên, phải thực hiện các cam kết quốc tế, đòi hỏi phải sửa
đổi, bổ sung, điều chỉnh luật pháp, chính sách, cải cách hành chính cho
phù hợp. Chính điều đó làm cho môi trường kinh doanh được thông
thoáng, rộng mở, các doanh nghiệp hoạt động thuận lợi, dễ dàng hơn.
- Tiếp cận nhanh chóng công nghệ, kỹ thuật tiên tiến hiện đại thông qua
con đường chuyển giao công nghệ, liên doanh, liên kết, thu hút vốn đầu
tư, nhờ đó, các doanh nghiệp giao nhận vận tải Việt Nam có thể nâng cao
chất lượng dịch vụ của mình.
- Có điều kiện tham gia nhanh vào phân công lao động quốc tế theo các
công đoạn kinh doanh của các doanh nghiệp lớn. Với việc mở rộng quan
hệ thương mại quốc tế, sự vận động của các yếu tố nguồn lực cũng bắt
đầu mang tính chuyên môn hoá trên cấp độ quốc tế, các doanh nghiệp sản

xuất chỉ tập trung vào sản xuất, còn các công đoạn từ nhập khẩu, lưu kho
bãi, vận chuyển đầu vào, hay lưu kho và phân phối sản phẩm. đều có thể
nhờ các doanh nghiệp giao nhận vận tải làm một cách chuyên nghiệp và
với giá cả hợp lý.
- Có khả năng tiếp cận, học tập những kinh nghiệm và kỹ năng quản lý
tiên tiến của thế giới. Một trong những điều kiện để thúc đẩy quá trình
toàn cầu hoá là sự phát triển của công nghệ thông tin-viễn thông. Kết quả
của hệ thống thông tin toàn cầu còn là điều kiện để nâng cao dân trí, mở
rộng giao lưu giữa các dòng văn hoá, tạo điều kiện thuận lợi tiếp xúc với
11 | P a g e
Đinh Trà Giang
một thế giới mở, nâng cao năng lực đổi mới và hiện đại hoá công tác
quản lý, trao đổi những tri thức và kinh nghiệm đã được tìm tòi, đúc kết
từ bao đời, hưởng thụ nền văn minh nhân loại, tiết kiệm thời gian và
nguồn lực. Đồng thời xu thế cạnh tranh của nền kinh tế dựa trên trí tuệ,
cũng là cơ hội tiềm tàng có nhiều hứa hẹn đối với những nền kinh tế non
trẻ.
1.1.2.2. Thách thức đối với các doanh nghiệp giao nhận vận tải Việt
Nam
- Việt Nam phải mở cửa thị trường, do đó các doanh nghiệp Việt Nam
buộc phải cạnh tranh với các đối thủ mạnh nước ngoài ngay trên thị
trường nội địa. Các đối thủ cạnh tranh nước ngoài có kinh nghiệm về
kinh doanh lĩnh vực giao nhận vận tải hàng chục thậm chí hàng trăm
năm, có ưu thế về trình độ công nghệ, về khả năng tổ chức, quản lý, về
quy mô có thể “qua mặt” các doanh nghiệp trong nước một cách dễ dàng.
- Năng lực cạnh tranh của Việt Nam nói chung còn thấp ở cả ba cấp độ:
quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm. Theo đánh giá của Diễn đàn kinh tế
thế giới (WEF) về năng lực cạnh tranh toàn cầu của nền kinh tế (dựa trên
9 tiêu chí đánh giá gồm thể chế, cơ sở hạ tầng, kinh tế vĩ mô, giáo dục và
y tế phổ thông, giáo dục đại học, hiệu quả thị trường, độ sẵn sàng về

công nghệ, mức độ hài lòng doanh nghiệp, mức độ sáng tạo) năm 2000
Việt Nam được xếp hàng 51/59, năm 2001 là 62/75, năm 2002 là 60/80,
năm 2003 là 60/102, năm 2006 là 77/125 quốc gia, tụt năm bậc so với
12 | P a g e
Đinh Trà Giang
năm 2005. Như vậy, chỉ số cạnh tranh quốc tế của Việt Nam ngày càng
lùi xa vị trí xếp hạng đầu tiên trong bảng. Trong khối ASEAN, Việt Nam
chỉ xếp trên Campuchia (xếp thứ 103). Singapore vẫn dẫn đầu về năng
lực cạnh tranh trên toàn khối, tiếp theo lần lượt là Malaysia (xếp thứ 26),
Thái Lan (xếp thứ 35), Indonesia (xếp thứ 50), Philippines (xếp thứ 71).
WEF không xếp hạng Brunei, Lào và Myanmar.
Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB) và Công ty tài chính quốc
tế (IFC) về mức độ thuận lợi của môi trường kinh doanh, năm 2006 Việt
Nam được xếp hạng 104/175 nền kinh tế, tụt 6 bậc so với năm 2005. Xét
trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Việt Nam chỉ xếp thứ 17/23
nền kinh tế, tụt rất xa so với một số nước trong khu vực như Singapore
(xếp thứ 1/23), Thái Lan (xếp thứ 3/23), Malaysia (xếp thứ 4/23). Đây
cũng là một dấu hiệu cho thấy năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt
Nam chưa được cải thiện rõ nét, thậm chí còn có xu hướng thụt lùi trên
một số khía cạnh [3, tr. 31].
- Hệ thống pháp luật, chính sách, chế độ quản lý của Việt Nam chưa
thống nhất và đồng bộ, vẫn còn nhiều bất cập về khuôn khổ pháp lý và
thể chế, về cấu trúc thị trường và hành vi cạnh tranh. Quá trình hội nhập
đòi hỏi phải có sự điều chỉnh lớn về chính sách và pháp luật để phù hợp
với các cam kết, thông lệ và chuẩn mực quốc tế đảm bảo cho tự do cạnh
tranh. Các doanh nghiệp giao nhận vận tải vẫn gặp nhiều vướng mắc
trong quá trình làm giao nhận, làm chậm tiến độ công việc, làm giảm uy
13 | P a g e
Đinh Trà Giang
tín với khách hàng, giảm năng lực cạnh tranh của chính doanh nghiệp.

Những cam kết của Việt Nam đối với hội nhập vào nền kinh tế khu
vực và thế giới là hết sức rõ ràng và không thể đảo ngược được. Vì vậy,
thách thức cạnh tranh ngày càng lớn đối với doanh nghiệp Việt Nam nói
chung và doanh nghiệp giao nhận vận tải nói riêng.
1.1.3. Tình hình chung của các doanh nghiệp giao nhận vận tải Việt
Nam
1.1.3.1. Doanh nghiệp giao nhận vận tải: khái niệm, nội dung hoạt động
- Khái niệm:
Giao nhận vận tải là một hoạt động không thể thiếu trong lưu thông
hàng hoá từ người bán đến người mua. Thật vậy, giao nhận vận tải là
thực hiện hàng loạt công việc liên quan đến quá trình chuyên chở như
bao bì, đóng gói, lưu kho, đưa hàng ra cảng, làm thủ tục gửi hàng, xếp
hàng lên tàu, vận tải hàng hoá đến nơi giao hàng, dỡ hàng và giao hàng
cho người nhận.
Theo quy tắc mẫu của Hiệp hội Giao nhận vận tải quốc tế (FIATA)
về dịch vụ giao nhận, dịch vụ giao nhận được định nghĩa như là bất kỳ
loại dịch vụ nào liên quan đến vận chuyển, gom hàng, lưu kho, bốc xếp,
đóng gói hay phân phối hàng hoá cũng như các dịch vụ tư vấn hay có liên
quan đến các dịch vụ trên, kể cả các vấn đề hải quan, tài chính, mua bảo
hiểm, thanh toán, thu thập chứng từ liên quan đến hàng hoá [17, tr.7].
Nói chung, giao nhận hàng hoá là tập hợp những nghiệp vụ, thủ tục
14 | P a g e
Đinh Trà Giang
có liên quan đến quá trình vận tải nhằm thực hiện việc di chuyển hàng
hoá từ nơi gửi hàng (người gửi hàng) đến nơi nhận hàng (người nhận
hàng) [17, tr.8].
Doanh nghiệp giao nhận vận tải là doanh nghiệp kinh doanh các loại
dịch vụ giao nhận hàng hoá trong xã hội, bao gồm hai loại: doanh nghiệp
giao nhận vận tải hàng hoá trong nước, khi các hoạt động của doanh
nghiệp chỉ diễn ra trên và trong phạm vi lãnh thổ đất nước; còn doanh

nghiệp giao nhận vận tải hàng hoá quốc tế khi các hoạt động của doanh
nghiệp có những phần việc diễn ra ngoài lãnh thổ đất nước.
Sản phẩm của doanh nghiệp giao nhận chính là các dịch vụ trong
giao nhận (dịch vụ giao nhận hàng hoá) mà doanh nghiệp giao nhận đóng
vai trò người giao nhận. Người giao nhận có thể làm dịch vụ một cách
trực tiếp hoặc thông qua đại lý hoặc thuê dịch vụ của người thứ ba.
- Nội dung hoạt động:
Dịch vụ giao nhận hàng hoá bao gồm bốn loại thông dụng hiện nay
là:
+ Thay mặt người gửi hàng (người xuất khẩu): Theo những chỉ dẫn
của người gửi hàng, người giao nhận sẽ thu xếp các công việc liên quan
đến việc giao hàng cho người nhận hoặc người do người nhận chỉ định.
+ Thay mặt người nhận hàng (ngưòi nhập khẩu): theo chỉ dẫn của
người nhận hàng, người giao nhận sẽ thu xếp các dịch vụ lấy hàng từ
15 | P a g e
Đinh Trà Giang
người xuất khẩu hoặc người chuyên chở của người gửi hàng và giao cho
người nhận.
+ Dịch vụ hàng hoá đặc biệt: giao nhận vận chuyển hàng công trình
cần thiết bị chuyên dụng như vận chuyển máy móc nặng, thiết bị để xây
dựng những công trình lớn như sân bay, nhà máy hoá chất, nhà máy thuỷ
điện,v.v ; hàng quần áo treo trên móc, giao nhận vận chuyển hàng triển
lãm ở trong nước và nước ngoài,
+ Những dịch vụ khác: gom hàng hoặc chia hàng lẻ, tư vấn cho
khách hàng về các thủ tục liên quan đến quá trình giao nhận vận tải như
chiến lược xuất khẩu, những điều khoản thích hợp cần đưa vào hợp đồng
mua bán ngoại thương.
Người làm dịch vụ giao nhận vận tải hàng hoá vừa là một nhà vận
tải đa phương thức, vừa là nhà tổ chức, kiến trúc sư của vận tải. Họ phải
lựa chọn phương tiện, người vận tải thích hợp, tuyến đường thích hợp có

hiệu quả kinh tế nhất và đứng ra trực tiếp vận tải hay tổ chức thu xếp quá
trình vận tải của toàn chặng với nhiều loại phương tiện vận tải khác nhau
như tàu thuỷ, máy bay, ô tô. vận chuyển qua nhiều nước và chịu trách
nhiệm trực tiếp với chủ hàng [17].
Vì vậy, chủ hàng chỉ cần ký hợp đồng vận tải với người giao nhận là
hàng hoá được vận chuyển kịp thời từ kho của nhà xuất khẩu tới kho của
nhà nhập khẩu (door to door service).
16 | P a g e
Đóng gói Tuyến đường
Bảo hiểm Thủ tục hải
quan Chứng từ vận tải
Những quy định L/C
Đinh Trà Giang
Bảng 1.1. NHỮNG DỊCH VỤ CỦA NGƯỜI GIAO NHẬN
Tư vấn về
Lựa chọn loại nguyên liệu để sử dụng Chọn hành
trình và phương tiện vận chuyển Loại bảo hiểm
cần cho hàng hoá Khai báo hàng hoá xuất nhập
khẩu Những chứng từ đi kèm (người chuyên chở)
■ yêu cầu của ngân hàng Người tổ chức về Vận tải những lô hàng xuất
nhập khẩu và quá cảnh Gom hàng, vận tải hàng nặng và đặc bịêt-hàng
công trình Hàng nhập khẩu Dỡ hàng khỏi phương tiện của người vận tải
Tháo dỡ hàng thu gom. Khai báo hải quan Hàng xuất khẩu
Nhận hàng
Đóng gói và đánh ký mã hiệu
Lưu cước/ lưu khoang với người chuyên chở
Cấp chứng từ vận tải- chứng từ cước phí đi kèm
Giám sát giao hàng
Thông báo giao hàng cho khách hàng
Khai báo hải quan

Quá cảnh
Lấy mẫu
Đóng gói
17 | P a g e
Đinh Trà Giang
lại
Lưu kho hải quan ( dưới sự kiểm soát của hải quan)
Vận chuyển tiếp
Nguồn: Giáo trình Nghiệp vụ Giao nhận hàng hoá ESCAP
18 | P a g e
Đinh Trà Giang
Hình 1.2. QUAN HỆ CỦA NGƯỜI GIAO NHẬN VỚI CÁC BÊN
19 | P a g e
Đinh Trà Giang
Nguồn: Giáo trình Nghiệp vụ Giao nhận hàng hoá ESCAP
1.1.3.2. Tình hình chung của các doanh nghiệp giao nhận vận tải Việt
Nam
Theo Hiệp hội Giao nhận kho vận Việt Nam (VIFFAS) thì hiện nay
trên lãnh thổ Việt Nam có khoảng 900 doanh nghiệp kinh doanh lĩnh vực
giao nhận vận tải thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Vốn đăng ký
trung bình khoảng 1,5 tỷ đồng, thời gian hoạt động trung bình là 5 năm.
Các doanh nghiệp chỉ mới đáp ứng được khoảng 25% khối lượng công
việc trên thị trường nội địa. Khó khăn lớn nhất mà các doanh nghiệp giao
nhận vận tải Việt Nam gặp phải là : quy mô tài chính, kỹ năng và công
nghệ thấp, thiếu hiểu biết về khách hàng và luật pháp quốc tế, hiểu biết
hạn hẹp về những yêu cầu của tiến trình hội nhập, hạ tầng cơ sở nghèo
nàn và những hạn chế trong khung pháp lý và chính sách về vận tải biển.
Trong khi đó, yêu cầu về nghiệp vụ giao nhận ngày càng đòi hỏi cao.
Một trong những bước phát triển lớn trong hoạt động giao nhận vận
tải hiện đại là hoạt động logistics. Trong vài thập niên gần đây, logistics

đã phát triển nhanh chóng và mang lại kết quả tốt đẹp ở rất nhiều nước,
điển hình là Tây Âu, Mỹ, tiếp đó là Singapore, Đài Loan. Tại Việt Nam,
các công ty giao nhận hàng đầu thế giới đã có mặt và cung cấp dịch vụ
logistics toàn cầu. Với công nghệ vượt trội, các công ty logistics nước
ngoài chắc chắn sẽ chiếm ưu thế hơn so với các công ty nội địa. Trong
khi đó, các công ty giao nhận Việt Nam dù là những tổng công ty lớn
20 | P a g e
Đinh Trà Giang
mạnh nhất cũng chưa có một công ty nào hoạt động trong lĩnh vực
logistics theo đúng nghĩa của nó. Do vậy, yêu cầu đặt ra đối với các
doanh nghiệp giao nhận vận tải là phải cải thiện về kỹ năng nghiệp vụ, cơ
sở vật chất và trình độ công nghệ cũng như hiểu biết về luật pháp và
khách hàng quốc tế để có thể đáp ứng được khối lượng công việc kể trên.
Nếu không có sự phát triển, các công ty giao nhận Việt Nam có nguy cơ
sẽ thất thế ngay trên thị trường của chính mình.
1.2. Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
giao nhận vận tải trong quá trình hội nhập
1.2.1. Khái niệm về cạnh tranh, năng lực cạnh tranh
1.2.11. Cạnh tranh:
Cạnh tranh là một hiện tượng kinh tế xã hội chỉ xuất hiện và tồn tại
trong nền kinh tế thị trường. Có rất nhiều quan niệm về thuật ngữ này, có
thể trích dẫn như sau:
Theo “Từ điển rút gọn về kinh doanh”: “Cạnh tranh là sự ganh đua,
sự kình địch giữa các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm giành cùng
một loại tài nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách hàng về phía
mình”.
Từ điển Bách khoa của Việt Nam định nghĩa: “Cạnh tranh (trong
kinh doanh) là hoạt động ganh đua giữa những người sản xuất hàng hoá,
giữa các thương nhân, các nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường,
chi phối bởi quan hệ cung cầu nhằm giành các điều kiện sản xuất, tiêu

21 | P a g e
Đinh Trà Giang
thụ và thị trường có lợi nhất”.
Diễn đàn cao cấp về cạnh tranh công nghiệp của tổ chức Hợp tác và
Phát triển kinh tế (OECD) cho rằng: “Cạnh tranh là khái niệm của doanh
nghiệp, quốc gia và vùng trong việc tạo việc làm và thu nhập cao hơn
trong điều kiện cạnh tranh quốc tế”.
Theo cuốn Kinh tế học của P.Samuelson thì: “cạnh tranh là sự kình
địch giữa các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau để giành khách hàng, thị
trường’. Theo các tác giả của cuốn “ Các vấn đề pháp lý và thể chế chính
sách cạnh tranh và kiểm soát độc quyền kinh doanh thì: Cạnh tranh có
thể được hiểu là sự ganh đua giữa các doanh nghiệp trong việc giành một
số nhân tố sản xuất hoặc khách hàng nhằm nâng cao vị thế của mình trên
thị trường, để đạt được mục tiêu kinh doanh cụ thể” [15, tr.14].
Ngoài ra còn có rất nhiều các cách tiếp cận về khái niệm cạnh tranh,
nhưng nói chung là tập trung vào các yếu tố sau:
- Cạnh tranh là sự ganh đua, giành giật lấy một đối tượng cụ thể nào đó
(như thị phần, khách hàng, nhà cung cấp.)
- Mục đích cuối cùng của cạnh tranh là kiếm được lợi nhuận cao
- Cạnh tranh diễn ra trong một môi trường cụ thể, có ràng buộc các bên
tham gia phải tuân thủ như: đặc điểm sản phẩm, thị trường, các điều kiện
pháp lý, thông lệ kinh doanh
- Trong quá trình cạnh tranh có thể sử dụng nhiều công cụ khác nhau:
cạnh tranh bằng đặc tính và chất lượng sản phẩm, cạnh tranh bằng chính
22 | P a g e
Đinh Trà Giang
sách giá bán sản phẩm (chính sách định giá thấp, chính sách định giá cao,
giá phân biệt, bán phá giá), cạnh tranh bằng nghệ thuật tiêu thụ sản phẩm,
cạnh tranh nhờ dịch vụ bán hàng t ố t , . .
Như vậy, khái niệm cạnh tranh có thể hiểu như sau: Cạnh tranh là

quan hệ kinh tế mà ở đó các chủ thể kinh tế ganh đua nhau tìm mọi biện
pháp, cả nghệ thuật lẫn thủ đoạn để đạt mục tiêu kinh tế của mình, thông
thường là chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng cũng như các điều
kiện sản xuất. thị trường có lợi nhất. Mục đích cuối cùng của các chủ thể
kinh tế trong quá trình cạnh tranh là tối đa hoá lợi ích. Đối với người sản
xuất kinh doanh là lợi nhuận, đối với người tiêu dùng là lợi ích tiêu dùng
và sự tiện lợi.
Cạnh tranh được phân thành nhiều loại với các tiêu thức khác nhau:
-Xét theo quy mô của cạnh tranh có: cạnh tranh của sản phẩm, cạnh
tranh của doanh nghiệp và cạnh tranh của quốc gia
-Xét theo tính chất của phương thức cạnh tranh có: cạnh tranh hợp
pháp hay cạnh tranh lành mạnh (biện pháp cạnh tranh phù hợp với luật
pháp, tập quán, đạo đức kinh doanh) và cạnh tranh bất hợp pháp hay cạnh
tranh không lành mạnh (biện pháp cạnh tranh bằng những thủ đoạn chứ
không phải vươn lên bằng nỗ lực của chính mình)
- Xét theo hình thái cạnh tranh có: cạnh tranh hoàn hảo, hay thuần
tuý- đây là tình trạng cạnh tranh trong đó giá cả của một loại hàng hoá
không thay đổi trong toàn bộ địa danh của thị trường, bởi vì người mua
23 | P a g e
Đinh Trà Giang
và người bán đều biết tường tận về điều kiện của thị trường; và cạnh
tranh không hoàn hảo
- đây là hình thức cạnh tranh chiếm ưu thế trong các ngành sản xuất mà
ở đó người bán hàng hoặc sản xuất có đủ sức mạnh và thế lực có thể chi
phối được giá cả sản phẩm của mình trên thị trường. Trong cạnh tranh
không hoàn hảo, có hai loại: độc quyền nhóm và cạnh tranh mang tính
độc quyền. Độc quyền nhóm là hình thái thị trường mà trong đó chỉ có
một số ít các nhà sản xuất, mỗi người đều nhận thức được rằng giá cả của
mình không chỉ phụ thuộc vào hoạt động của các nhà cạnh tranh quan
trọng trong ngành đó. Cạnh tranh mang tính độc quyền là hình thái thị

trường có nhiều người bán sản xuất ra những sản phẩm có thể dễ dàng
thay thế cho nhau.
- Dưới góc độ các công đoạn của sản xuất-kinh doanh, người ta
cho rằng có ba loại: cạnh tranh trước khi bán hàng, trong quá trình bán
hàng và sau khi bán hàng. Cạnh tranh này được thực hiện bằng phương
thức thanh toán và dịch vụ.
- Xét theo mục tiêu kinh tế của các chủ thể trong cạnh tranh, có
cạnh tranh trong nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành. Đây là cách
phân loại cạnh tranh của K.Marx dựa trên cơ sở khoa học của các phạm
trù giá trị thị trường, giá cả sản xuất và lợi nhuận bình quân. Cạnh tranh
trong nội bộ ngành là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cùng sản xuất
và tiêu thụ, một loại hàng hoá hoặc dịch vụ nào đó. Cạnh tranh trong nội
24 | P a g e
Đinh Trà Giang
bộ ngành dẫn đến sự hình thành giá cả thị trường đồng nhất đối với hàng
hoá dịch vụ cùng loại trên cơ sở giá trị xã hội của hàng hoá dịch vụ đó.
Trong cuộc cạnh tranh này các doanh nghiệp thôn tính lẫn nhau. Doanh
nghiệp chiến thắng sẽ mở rộng phạm vi hoạt động của mình trên thị
trường, những doanh nghiệp thua cuộc sẽ phải thu hẹp kinh doanh, thậm
chí bị phá sản. Cạnh tranh giữa các ngành là cuộc đấu tranh giữa các nhà
doanh nghiệp sản xuất, mua bán hàng hoá, dịch vụ trong các ngành ngành
kinh tế khác nhau nhằm thu lợi nhuận và có tỷ suất lợi nhuận cao hơn so
với vốn đã bỏ ra và đầu tư vốn vào ngành có lợi nhất cho sự phát triển.
Sự cạnh tranh giữa các ngành dẫn đến việc các doanh nghiệp luôn tìm
kiếm những ngành đầu tư có lợi nhất nên đã chuyển vốn từ ngành ít lợi
nhuận sang ngành có nhiều lợi nhuận. Sau một thời gian nhất định, sự
điều chuyển tự nhiên theo tiếng gọi của lợi nhuận này, vô hình chung
hình thành lên sự phân phối vốn hợp lý giữa các ngành sản xuất, dẫn đến
kết quả cuối cùng là các chủ doanh nghiệp đầu tư ở các ngành khác nhau
với số vốn bằng nhau chỉ thu được lợi nhuận như nhau.

Phát triển cách phân loại trên của K.Mác, các nhà kinh tế học chia
thành hai hình thức cạnh tranh là cạnh tranh dọc và cạnh tranh ngang.
Cạnh tranh dọc là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp có mức chi phí
bình quân thấp nhất khác nhau. Cạnh tranh dọc chỉ ra rằng: sự thay đổi
giá bán và lượng bán nói trên của các doanh nghiệp sẽ có điểm dừng. Sau
một thời gian nhất định, hình thành một giá thị trường thống nhất. Cạnh
25 | P a g e

×