Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

phân tích thực trạng và đề xuất một số giải pháp hoàn thiện quản lý các dự án đầu tư phát triển sử dụng vốn ngân sách trên địa bàn tỉnh ninh bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (890.42 KB, 106 trang )






LUẬN VĂN:

Phân tích thực trạng và đề xuất một số giải pháp
hoàn thiện quản lý các dự án đầu tư phát triển sử
dụng vốn ngân sách trên địa bàn tỉnh Ninh Bình




PHẦN MỞ ĐẦU


1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI:
Đầu tư phát triển là nhiệm vụ chiến lược, một giải pháp chủ yếu để thực hiện các
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội theo hướng tăng trưởng cao, ổn định và bền vững cho
một đất nước cũng như trong từng địa phương.
Thời gian vừa qua cùng với cả nước, tỉnh Ninh Bình đã có nhiều cố gắng và thu
được một số kết quả trong lĩnh vực đầu tư phát triển. Việc quản lý dự án theo điều lệ quản
lý đầu tư và xây dựng, thực hiện quy chế đấu thầu đã có tiến bộ. Nhiều dự án đầu tư đã
hoàn thành và từng bước phát huy hiệu quả, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cải thiện
từng bước đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Song đến nay so với mặt bằng
chung của cả nước, Ninh Bình vẫn là tỉnh có điểm xuất phát và tích luỹ từ nội bộ nền kinh
tế thấp. Tổng ngân sách dành cho đầu tư phát triển rất nhỏ, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư
còn hạn chế. Bởi vậy, vấn đề nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư phát triển luôn thu hút
sự quan tâm của các cấp, các ngành. Đặc biệt trong điều kiện hiện nay, tỉnh Ninh Bình
đang trong tiến trình đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hoá - hiện đại hoá, phấn đấu đưa tốc độ


tăng trưởng GDP ngày một cao và bền vững, nhằm nhanh chóng khắc phục tình trạng tụt
hậu về kinh tế. Đặt ra nhu cầu đầu tư phát triển rất lớn, trong khi các nguồn lực nhất là
nguồn vốn đầu tư của Nhà nước còn hạn hẹp. Vì thế, việc nghiên cứu tìm ra các giải pháp
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư phát triển bằng vốn Nhà nước càng là vấn đề cấp
thiết. Xuất phát từ yêu cầu thực tế đó, tôi đã chọn vấn đề: “Phân tích thực trạng và đề
xuất một số giải pháp hoàn thiện quản lý các dự án đầu tư phát triển sử dụng vốn
ngân sách trên địa bàn tỉnh Ninh Bình”
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
2.1. Làm sáng tỏ về mặt lý luận, thực tiễn về đầu tư, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư
phát triển từ ngân sách nhà nước và công tác quản lý hoạt động đầu tư, trong toàn bộ nền
kinh tế quốc dân.
2.2. Đánh giá thực trạng tình hình đầu tư phát triển và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư
phát triển và công tác quản lý hoạt động đầu tư từ ngân sách Nhà nước những năm vừa qua
ở tỉnh Ninh Bình. Những kết quả đạt được, những tồn tại cần khắc phục, để tiếp tục đổi
mới và phát triển.
2.3. Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư phát
triển từ ngân sách Nhà nước trên địa bàn tỉnh Ninh Bình nhằm đáp ứng yêu cầu và mục
tiêu phát triển kinh tế trong giai đoạn tới.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
Đối tượng nghiên cứu: Những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến đầu tư,
quản lý đầu tư và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư phát triển. Phương hướng chiến lược phát
triển kinh tế xã hội của tỉnh Ninh Bình và các giải pháp quản lý đầu tư xây dựng liên
quan đến hiệu quả sử dụng vốn đầu tư phát triển.
Phạm vi nghiên cứu: Tập trung vào lĩnh vực đầu tư phát triển bằng vốn ngân sách
Nhà nước tại tỉnh Ninh Bình trong thời gian qua (2003 – 2006) và giai đoạn tới đến năm
2010.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Luận văn sử dụng lý luận và phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, kết
hợp lịch sử với logic, kết hợp các phương pháp thống kê, so sánh, phân tích và tổng hợp,
đồng thời kết hợp với tổng kết rút kinh nghiệm thực tiễn ở địa phương để nghiên cứu, giải

quyết vấn đề đặt ra của đề tài.

5. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN:
Luận văn được chia làm 3 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý thuyết về đầu tư, đầu tư phát triển và hiệu quả sử dụng vốn đầu
tư phát triển từ ngân sách.
Chương 2: Phân tích thực trạng sử dụng vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước trên
địa bàn tỉnh Ninh Bình.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà
nước trên địa bàn tỉnh Ninh Bình
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ ĐẦU TƯ, ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN VÀ
QUẢN LÝ CÁC DỰ ÁN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN TỪ NGÂN SÁCH


1.1 . HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ VÀ CÁC ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA HOẠT ĐỘNG
ĐẦU TƯ
1.1.1. Khái niệm về hoạt động đầu tư
Hoạt động đầu tư là hoạt động bỏ vốn nhằm thu lợi trong tương lai.
Không phân biệt hình thức thực hiện, nguồn gốc của vốn … mọi hoạt động có các
đặc trưng nêu trên đều được coi là hoạt động đầu tư.
Đầu tư trên giác độ nền kinh tế là sự hy sinh giá trị hiện tại gắn với việc tạo ra các
tài sản mới cho nền kinh tế.
Đầu tư phát triển là quá trình thực hiện sự chuyển hoá vốn bằng tiền thành vốn hiện
vật để tạo ra những yếu tố cơ bản của sản xuất kinh doanh, dịch vụ, tạo ra cơ sở vật chất kỹ
thuật, năng lực sản xuất kinh doanh mới, thông qua việc mua sắm lắp đặt thiết bị, máy móc
xây dựng nhà cửa vật kiến trúc, và tiến hành các công việc có liên quan đến sự phát huy
tác dụng của các cơ sở vật chất kỹ thuật do hoạt động đầu tư phát triển tạo ra.
Đầu tư phát triển là một nhân tố quyết định đến sự phát triển kinh tế - xã hội, là chìa
khoá để tăng trưởng kinh tế và điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá

nhằm tạo ra thế và lực đưa nền kinh tế cả nước cũng như mỗi địa phương phát triển và hội
nhập vào nền kinh tế quốc tế.
Do vậy, đầu tư phát triển vừa là nhiệm vụ chiến lược vừa là một giải pháp chủ yếu
để thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội theo hướng tăng trưởng cao, ổn định và bền
vững. Bất kỳ quốc gia nào muốn có tốc độ tăng trưởng cao, đời sống nhân dân được cải
thiện đều phải quan tâm đến đầu tư phát triển.
Để đầu tư phát triển ngày một đáp ứng yêu cầu về quy mô và hiệu quả, vấn đề hết
sức quan trọng là phải giải quyết được nhu cầu về vốn đầu tư và các định chế về sử dụng
hiệu quả vốn đầu tư.
1.1.2. Các đặc trưng cơ bản của hoạt động đầu tư
- Là hoạt động bỏ vốn nên quyết định đầu tư thường là và trước hết là quyết định
việc sử dụng các nguồn lực mà biểu hiện cụ thể dưới các hình thức khác nhau như tiền, đất
đai, tài sản, vật tư thiết bị, giá trị trí tuệ …
Vốn được hiểu như là các nguồn lực sinh lợi. Dưới các hình thức khác nhau nhưng
vốn có thể xác định dưới hình thức tiền tệ, vì vậy các quyết định đầu tư thường được xem
xét từ phương diện tài chính (tốn phí bao nhiêu vốn, có khả năng thực hiện không, có khả
năng thu hồi được không, mức sinh lợi là bao nhiêu …). Nhiều dự án có thể khả thi ở các
phương diện khác (kinh tế, xã hội) nhưng không khả thi về phương diện tài chính và vì thế
cũng không thể thực hiện trên thực tế.
- Là hoạt động có tính chất lâu dài.
Khác với các hoạt động thương mại, các hoạt động chi tiêu tài chính khác, đầu tư
luôn luôn là hoạt động có tính chất lâu dài. Do tính lâu dài nên mọi sự trù liệu đều là dự
tính, chịu một xác suất biến đổi nhất định do nhiều yếu tố. Chính điều này là một trong
những vấn đề hệ trọng phải tính đến trong mọi nội dung phân tích, đánh giá của quá trình
thẩm định dự án.
- Là hoạt động luôn cần sự cân nhắc giữa lợi ích trước mắt và lợi ích trong tương
lai.
Đầu tư vầ một phương diện nào đó là một sự hy sinh lợi ích hiện tại để đánh đổi lấy
lợi ích tương lai (vốn để đầu tư không phải là các nguồn lực để dành), vì vậy luôn luôn có
sự so sánh, cân nhắc giữa lợi ích hiện tại và lợi ích tương lai. Rõ ràng rằng, nhà đầu tư

mong muốn và chấp nhận đầu tư chỉ trong điều kiện lợi ích thu được trong tương lai lớn
hơn lợi ích hiện nay họ tạm thời phải hy sinh (không tiêu dùng hoặc không đầu tư vào nơi
khác).
- Là hoạt động mang nặng rủi ro.
Các đặc trưng nói trên đã cho thấy hoạt động đầu tư là một hoạt động chứa đựng
nhiều rủi ro. Bản chất của sự đánh đổi lợi ích và lại thực hiện trong một thời gian dài
không cho phép nhà đầu tư lượng tính hết những thay đổi có thể xảy ra trong quá trình
thực hiện đầu tư so với dự tính. Vì vậy, chấp nhận rủi ro như là bản năng của nhà đầu tư.
Tuy nhiên nhận thức rõ điều này nên nhà đầu tư cũng có những cánh thức, biện pháp để
ngăn ngừa hay hạn chế để khả năng rủi ro để sự sai khác so với dự tính là ít nhất.
1.1.3. Chi phí và kết quả đầu tư
1.1.3.1. Chi phí đầu tư
Một cách chung nhất, mọi nguồn lực (tiền vốn, đất đai, tài nguyên, tài sản, lao động,
trí tuệ…) được sử dụng cho hoạt động đầu tư (bao gồm việc tạo ra TSCĐ, phương tiện và
các điều kiện để đảm bảo hoạt động bình thường).
Theo tính chất của các loại chi phí có thể chia ra 2 loại chính:
+ Chi phí đầu tư cố định: Đất đai, nhà xưởng, máy móc, thiết bị, các cơ sở phụ trợ,
tiện ích khác và các chi phí trước vận hành.
Phần chi phí trước vận hành tuy không trực tiếp tạo ra tài sản, phương tiện phục vụ
cho hoạt động đầu tư nhưng là các chi phí gián tiếp hoặc liên quan đến việc tạo ra và vận
hành khai thác các tài sản đó để đạt được mục tiêu đầu tư. Các chi phí này thường gồm các
khoản sau:
- Chi phí cho công tác chuẩn bị ban đầu, phát hiện dự án: Điều tra, khảo sát để lập,
trình duyệt dự án …
- Chi phí cho tư vấn, khảo sát, thiết kế, giám sát trong quá trình triển khai thực hiện
dự án …
- Chi phí quản lý dự án
- Chi phí chuyển giao công nghệ, hỗ trợ kỹ thuật (đào tạo, huấn luyện …)
- Các chi phí tài chính: các khoản chi phí phát sinh từ việc sử dụng vốn như lãi vay
trong thời gian xây dựng, phí thu xếp tài chính, phí cam kết, phí bảo lãnh

+ Vốn lưu động ban đầu: Là các chi phí để tạo ra tài sản lưu động ban đầu, các điều
kiện để dự án có thể đi vào hoạt động bình thường theo các điều kiện kinh tế kỹ thuật dự
tính. Vốn lưu động ban đầu gồm các khoản sau:
- Dự trữ sản xuất (vật tư, vật liệu, nhiên liệu … cho một chu kỳ sản xuất kể cả dự
trữ bảo hiểm cần thiết).
- Dự trữ cho bán thành phẩm, thành phẩm tồn kho.
- Các khoản thuộc quỹ tiền mặt.
Tuỳ thuộc vào đặc điểm, điều kiện của từng dự án mà có thể hoặc không có; có
nhiều hoặc ít nhu cầu về vốn lưu động ban đầu.
1.1.3.2. Kết quả đầu tư
Kết quả đầu tư là những biểu hiện của mục tiêu đầu tư dưới dạng các lợi ích cụ thể.
Kết quả đầu tư có thể biểu hiện ở các dạng sau:
- Kết quả tài chính: là các lợi ích về tài chính thu nhận được từ dự án biểu hiện bằng
giá trị theo giá thị trường.
- Kết quả kinh tế: là các lợi ích về kinh tế biểu hiện bằng giá trị tính theo giá kinh
tế.
- Kết quả xã hội: Kết quả biểu hiện dưới dạng các lợi ích xã hội (trình độ dân trí,
khả năng phòng chống bệnh tật, đảm bảo môi trường sống …). Kết quả xã hội biểu hiện
khá phong phú và thường không thể đo lường một cách rõ ràng.
1.2. DỰ ÁN ĐẦU TƯ
1.2.1. Khái niệm
Để đảm bảo cho mọi công cuộc đầu tư đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao đòi hỏi
phải làm tốt công tác chuẩn bị. Sự chuẩn bị này được thể hiện trong việc soạn thảo các dự
án đầu tư (lập dự án đầu tư), có nghĩa là phải thực hiện đầu tư theo dự án đã được soạn
thảo với chất lượng tốt.
Dự án là tập hợp những đề xuất về việc bỏ vốn để tạo mới, mở rộng hay cải tạo
những đối tượng nhất định nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng, cải tiến hoặc nâng
cao chất lượng của sản phẩm hay dịch vụ nào đó trong một khoảng thời gian xác định (chỉ
bao gồm hoạt động đầu tư trực tiếp).
Nói một cách ngắn gọn, dự án đầu tư là tập hợp các đối tượng được hình thành và

hoạt động theo một kế hoạch cụ thể để đạt được mục tiêu nhất định (các lợi ích) trong một
khoảng thời gian nhất định.
1.2.2. Phân loại dự án đầu tư
Có nhiều cách phân loại dự án đầu tư tuỳ theo mục đích và phạm vi xem xét. Ở đây
chỉ nêu cách phân loại liên quan tới yêu cầu công tác lập, thẩm định và quản lý dự án đầu
tư trong hệ thống văn bản pháp quy, các tài liệu quản lý hiện hành:
- Theo nguồn vốn: Theo nguồn vốn có thể chia dự án thành dự án đầu tư bằng vốn
ngân sách Nhà nước; vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước; vốn tín dụng do nhà
nước bảo lãnh; vốn huy động của doanh nghiệp và các nguồn vốn khác; dự án được đầu tư
bằng các nguồn vốn hốn hợp …
- Theo luật chi phối: Dự án được chia ra thành dự án đầu tư theo Luật Đầu tư; theo
Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam (FDI) …
- Theo hình thức đầu tư: Tự đầu tư, Liên doanh, Hợp đồng hợp tác kinh doanh,
BOT, BTO, BT …
- Theo các hình thức thực hiện đầu tư: Xây dựng, Mua sắm, Thuê …
- Theo lĩnh vực đầu tư: Dự án sản xuất kinh doanh, dịch vụ, phát triển cơ sở hạ
tầng, văn hoá xã hội …
- Phân loại theo thẩm quyền quyết định hoặc cấp giấy phép đầu tư
+ Đối với đầu tư trong nước chia làm 4 loại: Dự án quan trong cấp quốc gia do
Quốc hội thông qua chủ trương và cho phép đầu tư; các dự án còn lại được phân thành
3 nhóm A, B, C theo quy định về quản lý đầu tư và xây dựng.
+ Đối với dự án đầu tư nước ngoài, gồm 3 loại A, B và loại được phân cấp cho các
địa phương.
1.2.3. Chu kỳ của dự án đầu tư
Chu kỳ của dự án đầu tư là các bước hoặc các giai đoạn mà một dự án phải trải qua
bắt đầu từ khi dự án mới chỉ là ý đồ đến khi dự án được hoàn thành chấm dứt hoạt động.
Quá trình hình thành và thực hiện một dự án đầu tư trải qua 3 giai đoạn: Chuẩn bị
đầu tư, thực hiện đầu tư và vận hành các kết quả đầu tư.
Nội dung các bước công việc của mỗi giai đoạn của các dự án không giống nhau,
tuỳ thuộc vào lĩnh vực đầu tư (sản xuất kinh doanh hay kết cấu hạ tầng, sản xuất công

nghiệp hay nông nghiệp …), vào tính chất tái sản xuất (đầu tư chiều rộng hay chiều sâu),
đầu tư dài hạn hay ngắn hạn, …

















Hình 1.1 Chu kỳ của dự án đầu tư
Các bước công việc, các nội dung nghiên cứu ở các giai đoạn được tiến hành tuần

Nghiªn cøu
c¬ héi

Nghiªn cøu

kh¶ thi





LẬP
DỰ
ÁN
ĐẦU


THỰC HIỆN DỰ ÁN

Thiết kế

Nghiên cứu
Ti
ền khả thi

Nghiên cứu cơ hội
(Nhận dạng dự án)
Nghiên cứu
khả thi

Vận hành, khai thác

Đánh giá sau dự án

Kết thúc dự án





KHAI
THÁC
, VẬN
HÀNH

Xây dựng

tự nhưng không biệt lập mà đan xen gối đầu cho nhau, bổ sung cho nhau nhằm nâng cao
dần mức độ chính xác của các kết quả nghiên cứu và tạo thuận lợi cho việc tiến hành
nghiên cứu ở các bước kế tiếp.
Trong 3 giai đoạn trên đây, giai đoạn chuẩn bị đầu tư tạo tiền đề và quyết định sự
thành công hay thất bại ở 2 giai đoạn sau, đặc biệt là ở giai đoạn vận hành kết quả đầu tư.
Do đó, đối với giai đoạn chuẩn bị đầu tư, vấn đề chất lượng, vấn đề chính xác của các kết
quả nghiên cứu, tính toán và dự đoán là quan trọng nhất. Trong quá trình soạn thảo dự án
phải dành đủ thời gian và chi phí theo đòi hỏi của các nghiên cứu.
Tổng chi phí cho giai đoạn chuẩn bị đầu tư chiếm từ 0,5 – 15% vốn đầu tư của dự
án. Làm tốt công tác chuẩn bị đầu tư sẽ tạo tiền đề cho việc sử dụng tốt 85 - 99,5% vốn
đầu tư của dự án ở giai đoạn thực hiện đầu tư (đúng tiến độ, không phải phá đi làm lại,
tránh được những chi phí không cần thiết khác …). điều này cũng tạo cơ sở cho quá trình
hoạt động của dự án thuận lợi, nhanh chóng thu hồi vốn đầu tư và có lãi (đối với các dự án
sản xuất kinh doanh), nhanh chóng phát huy hết năng lực phục vụ dự kiến (đối với các dự
án xây dựng kết cấu hạ tầng và dịch vụ xã hội).
Trong giai đoạn 2, vấn đề thời gian là quan trọng hơn cả. Ở giai đoạn này, 85 -
99,5% vốn đầu tư của dự án được chi ra và nằm khê đọng trong suốt những năm thực hiện
đầu tư. Đây là những năm vốn không sinh lời. Thời gian thực hiện đầu tư càng kéo dài,
vốn ứ đọng càng nhiều, tổn thất càng lớn. Lại thêm những tổn thất do thời tiết gây ra đối
với vật tư, thiết bị chưa hoặc đang được thi công, đối với các công trình đang được xây
dựng dở dang.
Đến lượt mình, thời gian thực hiện đầu tư lại phụ thuộc nhiều vào chất lượng công
tác chuẩn bị đầu tư, vào việc quản lý quá trình thực hiện đầu tư, quản lý việc thực hiện

những hoạt động khác có liên quan trực tiếp đến các kết quả của quá trình thực hiện đầu tư
đã được xem xét trong dự án đầu tư.
Giai đoạn 3, vận hành các kết quả của giai đoạn thực hiện đầu tư (giai đoạn sản xuất
kinh doanh dịch vụ) nhằm đạt được các mục tiêu của dự án. Nếu các kết quả do giai đoạn
thực hiện đầu tư tạo ra đảm bảo tính đồng bộ, giá thành thấp, chất lượng tốt, đúng tiến độ,
tại địa điểm thích hợp, với quy mô tối ưu thì hiệu quả hoạt động của các kết quả này và
mục tiêu của dự án chỉ còn phụ thuộc trực tiếp vào quá trình tổ chức quản lý hoạt động của
các kết quả đầu tư. Làm tốt công tác của giai đoạn chuẩn bị đầu tư và thực hiện đầu tư
thuận lợi cho quá trình tổ chức quản lý phát huy tác dụng của các kết quả đầu tư. Thời gian
phát huy tác dụng của các kết quả đầu tư chính là vòng đời (kinh tế) của dự án, nó gắn với
đời sống sản phẩm (do dự án tạo ra).
1.2.3.1. Nghiên cứu cơ hội đầu tư (Nhận dạng dự án, xác định dự án)
Mục đích của bước nghiên cứu này là xác định một cách nhanh chóng, nhưng ít tốn
kém về các cơ hội đầu tư.
Nội dung của việc nghiên cứu là xem xét các nhu cầu và khả năng cho việc tiến
hành các công cuộc đầu tư, các kết quả và hiệu quả sẽ đạt được nếu thực hiện đầu tư.
Đây là những ý tưởng ban đầu được hình thành trên cơ sở cảm tính trực quan của
nhà đầu tư hoặc trên cơ sở quy hoạch định hướng của vùng, của khu vực hay của quốc gia,
quy hoạch tổng thể phát triển ngành. Thường giai đoạn này kết thúc bằng một kế hoạch
mang tính chất chỉ đạo về hướng đầu tư và hình thành tổ chức nghiên cứu.
Cần phân biệt 2 loại cơ hội đầu tư tuỳ thuộc vào phạm vi phát huy tác dụng của các
kết quả đầu tư và phân cấp quản lý đầu tư. Đó là:
+ Cơ hội đầu tư chung cho đất nước, cho địa phương, cho ngành kinh tế - kỹ thuật
hoặc cho một loại tài nguyên thiên nhiên của đất nước. Chẳng hạn như cơ hội đầu tư phát
triển du lịch của nước ta; cơ hội đầu tư để khai thác dầu mỏ và khí đốt của nước ta, cơ hội
đầu tư trồng và chế biến các sản phẩm từ cà phê của các tỉnh khu vực Tây Nguyên nước ta

Đối với loại cơ hội đầu tư này, thường có nhiều dự án. Chẳng hạn các dự án đầu tư
cơ sở hạ tầng cho các khu du lịch, xây dựng khách sạn để thu hút khách du lịch …
+ Cơ hội đầu tư cụ thể cho các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ. Trong trường

hợp này, mỗi cơ hội đầu tư thường sẽ có một dự án đầu tư.
Khi nghiên cứu để phát hiện các cơ hội đầu tư phải xuất phát từ những căn cứ sau
đây:
- Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước hoặc chiến lược phát triển sản
xuất kinh doanh dịch vụ của ngành, của cơ sở. Đây là những định hướng lâu dài cho sự
phát triển của đất nước và của các cơ sở. Mọi công cuộc đầu tư không xuất phát từ những
căn cứ này sẽ không có tương lai và tất nhiên sẽ không được chấp nhận.
- Nhu cầu trong nước và trên thế giới về những mặt hàng hoặc những hoạt động
dịch vụ cụ thể. Đây là nhân tố quyết định sự hình thành và hoạt động của các dự án đầu tư.
Không có nhu cầu thì sự hoạt động của các dự án không để làm gì mà chỉ dẫn đến sự lãng
phí tiền của và công sức xã hội, ảnh hưởng không tốt đến sự hình thành và hoạt động của
các dự án có nhu cầu. Nhu cầu ở đây trong điều kiện nền kinh tế mở, bao gồm cả nhu cầu
trong nước và nhu cầu thế giới, trong đó nhu cầu trong phạm vi thế giới lớn hơn rất nhiều
so với nhu cầu trong nước. Trong hoạt động đầu tư luôn chú ý tận dụng mọi cơ hội để
tham gia vào phân công lao động quốc tế, để có thị trường ở nước ngoài.
- Tình hình cung cấp những mặt hàng hoặc hoạt động dịch vụ trên đây ở trong nước
và trên thế giới còn chỗ trống cho để dự án chiếm lĩnh trong một thời gian dài. Trong bối
cảnh của nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là điều tất nhiên. Tuy nhiên, ở những lĩnh vực
hoạt động cung chưa đáp ứng cầu thì sự cạnh tranh trong tiêu thụ sản phẩm và tiến hành
các hoạt động dịch vụ không là vấn đề phải quan tâm nhiều. Do đó, tìm chỗ trống trên thị
trường để tiến hành các hoạt động đầu tư sẽ đảm bảo khả năng tiêu thụ sản phẩm không
gặp phải sự cạnh tranh gay gắt với các cơ sở khác. Điều này cho phép giảm chi phí tiêu thụ
sản phẩm, tăng năng suất lao động, nhanh chóng thu hồi đủ vốn đã bỏ ra.
Một điều cần lưu ý là do vốn chi cho một công cuộc đầu tư phát triển thường rất
lớn, các thành quả của công cuộc đầu tư cần và phải hoạt động trong một thời gian dài mới
thu hồi đủ vốn đã bỏ ra. Vì vậy, “chỗ trống” trong thị trường tiêu thụ sản phẩm của dự án
đầu tư cũng phải tồn tại trong một thời gian dài đủ để dự án hoạt động hết đời và chủ đầu
tư tiêu thụ hết sản phẩm của dự án.
- Tiềm năng sẵn có cần và có thể khai thác về vốn, tài nguyên thiên nhiên, sức lao
động để thực hiện dự án của đất nước, của địa phương, của ngành, hoặc của các cơ sở.

Những lợi thế so sánh nếu thực hiện đầu tư so với nước khác, địa phương khác hoặc cơ sở
khác.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, có lợi thế so sánh sẽ đảm bảo khả năng
thắng đối thủ cạnh tranh rất nhiều. Vì vậy, khi dự kiến tiến hành các công cuộc đầu tư sản
xuất kinh doanh nhằm thu lợi nhuận, không thể không chú ý đến vấn đề lợi thế so sánh.
Nếu tự nó không có lợi thế so sánh (tài nguyên thuộc loại khan hiếm, lao động vào loại có
giá rẻ, vị trí rất thuận lợi cho tiêu thụ sản phẩm …) thì phải dự kiến phương án tạo ra lợi
thế so sánh như đầu tư sang các nước khác có nhiều lợi thế so sánh hơn trong nước hoặc ở
nước dự kiến ban đầu sẽ đầu tư (không bị đánh thuế xuất khẩu hàng hoá của dự án, nhập
khẩu thiết bị của dự án - chứ không phải để bán kiếm lời - khai thác tài nguyên khan hiếm
…) hoặc đề ra các biện pháp để tạo lợi thế so sánh như sử dụng vật liệu mới, vật liệu khai
thác tại chỗ để giảm chi phí đầu vào, tận dụng lao động dư thừa giá rẻ của địa phương (một
phần hoặc toàn bộ thời gian lao động của họ) để khai thác nguyên vật liệu tại chỗ vừa làm
giảm chi phí công nhân vừa giảm chi phí vận chuyển các đầu vào thường xuyên.
- Những kết quả và hiệu quả sẽ đạt được nếu thực hiện đầu tư. Đây là tiêu chuẩn
tổng hợp để đánh giá tính khả thi của toàn bộ dự án đầu tư. Những kết quả và hiệu quả này
phải lớn hơn hoặc chí ít cũng phải bằng nếu đầu tư vào dự án khác hoặc bằng định mức thì
cơ hội đầu tư mới được chấp nhận để chuyển tiếp sang giai đoạn nghiên cứu tiền khả thi
hoặc khả thi.
1.2.3.2. Nghiên cứu tiền khả thi
Đây là bước nghiên cứu tiếp theo của các cơ hội đầu tư có nhiều triển vọng đã được
lựa chọn có quy mô đầu tư lớn, phức tạp về mặt kỹ thuật, thời gian thu hồi vốn lâu, có
nhiều yếu tố bất định tác động. Bước này nghiên cứu sâu hơn các khía cạnh mà khi xem
xét cơ hội đầu tư còn thấy phân vân chưa chắc chắn, nhằm tiếp tục lựa chọn, sàng lọc các
cơ hội đầu tư (đã được xác định ở cấp độ ngành, vùng hoặc cả nước) hoặc để khẳng định
lại cơ hội đầu tư đã được lựa chọn có đảm bảo tính khả thi hay không.
Đối với các cơ hội đầu tư quy mô nhỏ, không phức tạp về mặt kỹ thuật và triển
vọng đem lại hiệu quả rõ ràng thì có thể bỏ qua giai đoạn nghiên cứu tiền khả thi.
Nội dung nghiên cứu tiền khả thi bao gồm các vấn đề sau đây:
+ Các bối cảnh chung về kinh tế, xã hội, pháp luật có ảnh hưởng đến dự án.

+ Nghiên cứu thị trường
+ Nghiên cứu kỹ thuật
+ Nghiên cứu về tổ chức và nhân sự
+ Nghiên cứu về tài chính
+ Nghiên cứu lợi ích kinh tế xã hội
Những nội dung này cũng được xem xét ở giai đoạn nghiên cứu khả thi sau này.
Đặc điểm nghiên cứu các vấn đề trên ở giai đoạn này là chưa chi tiết, xem xét ở
trạng thái tĩnh, ở mức trung bình mọi đầu vào, đầu ra, mọi khía cạnh kỹ thuật, tài chính
kinh tế của cơ hội đầu tư và toàn bộ quá trình thực hiện đầu tư vận hành kết quả đầu tư. Do
đó độ chính xác chưa cao.
Đối với các khoản chi phí nhỏ có thể tính nhanh chóng. Chẳng hạn dự tính vốn lưu
động cho một chu kỳ hoạt động của doanh nghiệp bằng cách chia tổng doanh thu bình
quân năm cho số chu kỳ hoạt động của doanh nghiệp trong năm. Đối với chi phí bảo hiểm,
thuế: ước tính theo tỷ lệ phần trăm so với doanh thu, chi phí lắp đặt thiết bị: ước tính theo
tỷ lệ phần trăm so với giá trị công trình hoặc thiết bị (các tỷ lệ này khác nhau đối với các
dự án khác nhau). Đối với các chi phí đầu tư lớn như giá trị công trình xây dựng, giá trị
thiết bị và công nghệ … phải tính toán chi tiết hơn.
Sản phẩm cuối cùng của nghiên cứu tiền khả thi là luận chứng tiền khả thi. Nội
dung của luận chứng tiền khả thi bao gồm các vấn đề sau:
- Giới thiệu chung về cơ hội đầu tư theo các nội dung nghiên cứu tiền khả thi ở trên.
- Chứng minh cơ hội đầu tư có nhiều triển vọng đến mức có thể quyết định cho đầu
tư. Các thông tin đưa ra để chứng minh phải đủ sức thuyết phục các nhà đầu tư.
- Những khía cạnh gây khó khăn cho thực hiện đầu tư và vận hành các kết quả của
đầu tư sau này đòi hỏi phải tổ chức nghiên cứu chức năng hoặc nghiên cứu hỗ trợ.
Nội dung nghiên cứu hỗ trợ đối với các dự án khác nhau, thường khác nhau tuỳ
thuộc vào những đặc điểm về mặt kỹ thuật của dự án, về nhu cầu thị trường đối với sản
phẩm do dự án cung cấp, về tình hình phát triển kinh tế và khoa học kỹ thuật trong nước và
trên thế giới. Chẳng hạn đối với các dự án có quy mô sản xuất lớn thời hạn thu hồi vốn lâu,
sản phẩm do dự án cung cấp sẽ phải cạnh tranh trên thị trường thì việc nghiên cứu hỗ trợ
về thị trường tiêu thụ sản phẩm là rất cần thiết để từ đó khẳng định lại quy mô của dự án

và thời gian hoạt động của dự án bao nhiêu là tối ưu, hoặc phải thực hiện các biện pháp
tiếp thị ra sao để tiêu thụ hết sản phẩm của dự án và có lãi.
Nghiên cứu thị trường đầu vào của các nguyên liệu cơ bản đặc biệt quan trọng đối
với dự án phải sử dụng nguyên liệu với khối lượng lớn mà việc cung cấp có nhiều trở ngại
như phụ thuộc vào nhập khẩu, hoặc đòi hỏi phải có nhiều thời gian (như trồng tre, nứa, gỗ
để cung cấp nguyên liệu cho sản xuất giấy) và bị hạn chế bởi điều kiện tự nhiên (phải có
đủ diện tích đất đai thích hợp cho việc trồng tre, nứa, gỗ trong ví dụ trên). Nghiên cứu quy
mô kinh tế của dự án là một nội dung trong nghiên cứu hỗ trợ. Có nghĩa là nghiên cứu các
khía cạnh của dự án về mặt kinh tế, tài chính, kỹ thuật, quản lý, từ đó lựa chọn các quy mô
thích hợp nhất để đảm bảo cuối cùng đem lại hiệu quả kinh tế tài chính cao nhất cho chủ
đầu tư và cho đất nước.
Nghiên cứu hỗ trợ vị trí thực hiện dự án đặc biệt quan trọng đối với các dự án có chi
phí vận chuyển đầu vào và đầu ra lớn (kể cả hao hụt tổn thất trong quá trình vận chuyển).
Nhiệm vụ của nghiên cứu hỗ trợ ở đây là nhằm xác định được vị trí thích hợp nhất về mặt
địa lý vừa đảm bảo các yêu cầu kỹ thuật trong hoạt động, vừa đảm bảo chi phí vận chuyển
là thấp nhất.
Nghiên cứu hỗ trợ để lựa chọn công nghệ, trang thiết bị được tiến hành đối với các
dự án đầu tư có chi phí đầu tư cho công nghệ và trang thiết bị là lớn, mà công nghệ và
trang thiết bị này lại có nhiều nguồn cung cấp với giá cả khác nhau, các thông số kỹ thuật
(công suất, tuổi thọ …), thông số kinh tế (chi phí sản xuất, chất lượng sản phẩm, giá cả sản
phẩm, giá cả sản phẩm có thể bán được) khác nhau.
Các nghiên cứu hỗ trợ có thể được tiến hành song song với nghiên cứu khả thi, và
cũng có thể tiến hành sau nghiên cứu khả thi tuỳ thuộc thời điểm phát hiện các khía cạnh
cần phải tổ chức nghiên cứu sâu hơn. Chi phí cho nghiên cứu hỗ trợ nằm trong chi phí
nghiên cứu khả thi.
1.2.3.3. Nghiên cứu khả thi
Đây là bước sàng lọc lần cuối để lựa chọn được dự án tối ưu. Ở giai đoạn này phải
khẳng định cơ hội đầu tư có khả thi hay không? Có vững chắc, có hiệu quả hay không?
Ở bước nghiên cứu này, nội dung nghiên cứu cũng tương tự như giai đoạn nghiên
cứu tiền khả thi, nhưng khác nhau ở mức độ chi tiết hơn, chính xác hơn. Mọi khía cạnh

nghiên cứu đều được xem xét ở trạng thái động, tức là có tính đến các yếu tố bất định có
thể xảy ra theo từng nội dung nghiên cứu. Xem xét sự vững chắc hay không của dự án
trong điều kiện có sự tác động của các yếu tố bất định, hoặc cần có các biện pháp tác động
gì để đảm bảo cho dự án có hiệu quả.
Tất cả ba giai đoạn nghiên cứu nói trên phải được tiến hành đối với các dự kiến đầu
tư lớn nhằm đảm bảo từng bước phân tích sâu hơn, đầy đủ và chi tiết hơn, phát hiện và
khắc phục dần những sai sót ở các giai đoạn nghiên cứu trước thông qua việc tính toán lại,
đối chiếu các dữ kiện, các thông số, thông tin thu thập được qua mỗi giai đoạn. Điều này
sẽ đảm bảo cho các kết quả nghiên cứu khả thi đạt được độ chính xác cao.
Đối với dự án đầu tư nhỏ, quá trình nghiên cứu có thể gom lại làm một bước.
Bản chất, mục đích và công dụng của nghiên cứu khả thi
- Bản chất của nghiên cứu khả thi
Xét về mặt hình thức, tài liệu nghiên cứu khả thi là một tập hồ sơ trình bày một
cách chi tiết và có hệ thống tính vững chắc, hiện thực của một hoạt động sản xuất, kinh
doanh, phát triển kinh tế xã hội theo các khía cạnh thị trường, kỹ thuật, tài chính, tổ chức
quản lý và kinh tế xã hội.
Ở Việt Nam, nghiên cứu khả thi thường được gọi là lập luận chứng kinh tế kỹ thuật.
Nghiên cứu khả thi được tiến hành dựa vào kết quả của các nghiên cứu cơ hội đầu tư và
nghiên cứu tiền khả thi đã được cấp có thẩm quyền chấp nhận. Ở giai đoạn nghiên cứu khả
thi, dự án được soạn thảo kỹ lưỡng hơn, đảm bảo cho mọi dự đoán, mọi tính toán đạt được
ở mức độ chính xác cao trước khi được đưa ra để các cơ quan kế hoạch, tài chính, ngân
hàng, các định chế tài chính quốc tế thẩm định.
- Mục đích của nghiên cứu khả thi
Như phần trên đã đề cập, quá trình nghiên cứu khả thi được tiến hành qua 3 giai
đoạn. Giai đoạn nghiên cứu cơ hội đầu tư nhằm loại bỏ ngay những dự kiến rõ ràng không
khả thi mặc dù không cần đi sâu vào chi tiết. Tính không khả thi này được chứng minh
bằng các số liệu thống kê, các tài liệu thông tin kinh tế dễ tìm. Điều đó giúp cho tiết kiệm
được thời giờ, chi phí của các nghiên cứu kế tiếp.
Việc nghiên cứu tiền khả thi nhằm loại bỏ các dự án bấp bênh (về thị trường, về kỹ
thuật), những dự án mà kinh phí đầu tư quá lớn, mức sinh lời nhỏ, hoặc không thuộc loại

ưu tiên trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội hoặc chiến lược phát triển sản xuất kinh
doanh. Nhờ đó các chủ đầu tư có thể loại bỏ hẳn dự án để khỏi tốn thời gian và kinh phí,
hoặc tạm xếp dự án lại chờ cơ hội thuận lợi hơn.
Còn việc nghiên cứu khả thi là xem xét lần cuối cùng nhằm đi đến những kết luận
xác đáng về mọi vấn đề cơ bản của dự án bằng các số liệu đã được tính toán cẩn thận, chi
tiết, các đề án kinh tế - kỹ thuật, các lịch biểu và tiến độ thực hiện dự án trước khi quyết
định đầu tư chính thức.
Như vậy, nghiên cứu khả thi là một trong những công cụ thực hiện kế hoạch kinh tế
của ngành, của địa phương và của cả nước, để biến kế hoạch thành hành động cụ thể và
đem lại lợi ích kinh tế xã hội cho đất nước, lợi ích tài chính cho nhà đầu tư.
1.2.3.4. Thực hiện dự án
Thực hiện dự án là giai đoạn biến các dự án đầu tư thành hiện thực nhằm đưa dự án
vào hoạt động trong thực tế của đời sống kinh tế xã hội. Giai đoạn này bao gồm một loạt
các quá trình kế tiếp hoặc xen kẽ nhau từ khi thiết kế đến khi đưa dự án vào vận hành khai
thác.
Thực hiện dự án là giai đoạn hết sức quan trọng, có liên quan chặt chẽ với việc đảm
bảo chất lượng và tiến độ thực hiện dự án và sau đó là hiệu quả đầu tư.
1.2.3.5. Vận hành (sử dụng, khai thác …) dự án
Giai đoạn này được xác định từ khi chính thức đưa dự án vào vận hành khai thác
cho đến khi kết thúc dự án. Đây là giai đoạn thực hiện các hoạt động theo chức năng
của dự án và quản lý các hoạt động đó theo các kế hoạch đã dự tính.
1.2.3.6. Đánh giá sau khi thực hiện dự án (thường gọi là đánh giá sau dự án).
Thực chất đây là việc phân tích, đánh giá các chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật của dự án
trong giai đoạn vận hành, khai thác. Phân tích, đánh giá dự án trong giai đoạn này nhằm:
- Hiệu chỉnh các thông số kinh tế - kỹ thuật để đảm bảo mức đã được dự kiến trong
Nghiên cứu khả thi.
- Tìm kiếm cơ hội phát triển, mở rộng dự án hoặc điều chỉnh các yếu tố của dự án
cho phù hợp với tình hình thực tế để đảm bảo hiệu quả dự án. Dựa vào các kết quả phân
tích, đánh giá quá trình vận hành, khai thác dự án để có quyết định đúng đắn về sự cần thiết
kéo dài hoặc chấm dứt thời hạn hoạt động của dự án.

1.2.3.7. Kết thúc dự án
Tiến hành các công việc cần thiết để chấm dứt hoạt động của dự án (thanh toán
công nợ, thanh lý tài sản và hoàn thành các thủ tục pháp lý khác).
Công dụng của các dự án đầu tư:
- Đối với nhà nước và các định chế tài chính thì dự án đầu tư là cơ sở để thẩm định
và ra quyết định đầu tư, quyết định tài trợ cho dự án đó.
- Đối với chủ đầu tư thì dự án đầu tư là cơ sở để:
+ Xin phép được đầu tư (hoặc được ghi vào kế hoạch đầu tư) và giấy phép hoạt
động.
+ Xin phép được nhập khẩu vật tư, máy móc thiết bị.
+ Xin hưởng các khoản ưu đãi (nếu dự án thuộc diện ưu tiên) về đầu tư.
+ Xin gia nhập các khu chế xuất, khu công nghiệp, cụm công nghiệp.
+ Xin vay vốn của các định chế tài chính trong và ngoài nước.
+ Kêu gọi góp vốn hoặc phát hành cổ phiếu, trái phiếu.
1.3. ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN TỪ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1.3.1. Những khái niệm chung
Đầu tư phát triển bằng vốn Nhà nước là việc sử dụng phần vốn ngân sách Nhà nước
dành cho đầu tư phát triển, vốn vay nước ngoài của Chính phủ và vốn hỗ trợ phát triển
chính thức của nước ngoài cho Chỉnh phủ và Chính quyền các cấp (ODA), vốn tín dụng
đầu tư của các ngân hàng quốc doanh và vốn đầu tư của doanh nghiệp Nhà nước, dùng để
đầu tư vào các khâu then chốt và cần thiết của nền kinh tế quốc dân, các dự án đầu tư có
hiệu quả, các ngành kinh tế mũi nhọn có vị trí quyết định đến sự hình thành và phát triển
cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Những ngành này cần một
lượng vốn đầu tư lớn, thời gian xây dựng và thu hồi vốn dài …
Đầu tư phát triển bằng vốn Nhà nước chủ yếu được tiến hành theo kế hoạch Nhà
nước, nhằm thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kỳ.
Căn cứ vào khả năng thu hồi vốn trực tiếp của dự án đầu tư và tính chất nguồn vốn,
hiện tại Nhà nước định ra ba hình thức đầu tư phát triển đó là: Cấp phát đầu tư, tín dụng
đầu tư và doanh nghiệp tự đầu tư.
- Hình thức cấp phát dành cho các dự án đầu tư không có khả năng thu hồi vốn trực

tiếp thuộc các lĩnh vực như kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, các dự án giao thông, thuỷ lợi,
trồng rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ, rừng Quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, các trạm
thú y, động thực vật; nghiên cứu giống mới và cải tạo giống; các dự án xây dựng công
trình, dự án quản lý Nhà nước, khoa học kỹ thuật; dự án bảo vệ môi trường sinh thái; dự án
an ninh quốc phòng, các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động công ích, góp vốn cổ phần liên
doanh bằng nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản của Nhà nước, các doanh nghiệp thuộc
các lĩnh vực cần thiết có sự tham gia của Nhà nước theo quy định của pháp luật; một số
doanh nghiệp thuộc lĩnh vực then chốt của nền kinh tế quốc dân theo quyết định của
Chính phủ; các dự án quy hoạch ngành, lãnh thổ, quy hoạch xây dựng đô thị, nông thôn;
các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội. Tất cả nhu cầu vốn trên được cấn đối
từ ngân sách Nhà nước.
- Hình thức tín dụng đầu tư dành cho các dự án đầu tư xây dựng hạ tầng kinh tế, các
cơ sở sản xuất, kinh doanh tạo việc làm có khả năng thu hồi vốn; các dự án đầu tư cho một
số ngành kinh tế quan trọng của Nhà nước trong từng thời kỳ (như điện, xi măng, sắt thép
…); Các dự án đầu tư của ngành đảm bảo hiệu quả kinh tế và khả năng thu hồi vốn. Các
nhu cầu vốn này một phần được ngân sách Nhà nước bố trí theo chính sách từng thời kỳ,
số còn lại là nguồn vốn tín dụng đầu tư của các ngân hàng quốc doanh.
- Hình thức doanh nghiệp tự đầu tư dành cho các dự án đầu tư mới hoặc mở rộng
sản xuất của các doanh nghiệp Nhà nước bằng nguồn vốn tự có của doanh nghiệp.
Cùng với quá trình đổi mới cơ chế quản lý theo hướng xoá bao cấp về vốn đầu tư,
chuyển hoạt động của các đơn vị kinh tế sang hạch toán kinh doanh, xu hướng hình thức
cấp phát vốn đầu tư sẽ giảm, thay vào đó là hình thức tín dụng đầu tư sẽ tăng lên.
+ Đầu tư phát triển bằng vốn Nhà nước có điểm khác cơ bản với đầu tư bằng vốn
không phải của Nhà nước là cơ chế quản lý. Do chủ sở hữu vốn đầu tư phát triển của Nhà
nước là Nhà nước, chủ đầu tư chỉ là người sử dụng vốn nên cần có cơ chế quản lý chặt chẽ
đi liền với việc kiểm tra giám sát để hạn chế tiêu cực, thất thoát, lãng phí. Còn vốn đầu tư
không phải của Nhà nước, chủ đầu tư là chủ sở hữu vốn đích thực nên cơ chế quản lý đơn
giản, gọn nhẹ hơn.
1.3.2. Vai trò của đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà nước
Đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà nước là bộ phận cấu thành trong toàn bộ vốn

đầu tư toàn xã hội, mặc dù thường chiếm tỷ trọng không cao, song đầu tư phát triển từ
nguồn ngân sách Nhà nước có vai trò quan trọng đặc biệt thể hiện trên các mặt sau:
- Đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà nước là công cụ kinh tế quan trọng để Nhà
nước trực tiếp tác động đến quá trình kinh tế, xã hội, điều tiết vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế, giữ vững vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước. Bằng việc cung cấp những dịch vụ
công cộng như hạ tầng kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng … mà các thành phần kinh tế
khác không muốn, không thể hoặc không được đầu tư; Các dự án đầu tư từ ngân sách Nhà
nước được triển khai ở các vị trí quan trọng then chốt nhất nhằm đảm bảo cho nền kinh tế xã
hội phát triển ổn định.
- Đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà nước là công cụ để Nhà nước chủ động điều
chỉnh tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế:
Về mặt cầu: Đầu tư phát triển trong đó có đầu tư từ ngân sách Nhà nước sẽ tạo ra
khả năng kích cầu tiêu dùng trong sản xuất, thúc đẩy lưu thông, tạo công ăn việc làm, thu
nhập.
Về mặt cung: Khi các dự án hoàn thành đưa vào sử dụng, năng lực mới của nền
kinh tế tăng lên tác động làm tăng tổng cung trong dài dạn, kéo theo tăng sản lượng tiềm
năng, giá cả sản phẩm giảm.
- Đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà nước là công cụ để Nhà nước chủ động điều
chỉnh cơ cấu kinh tế ngành, vùng, lãnh thổ:
Thông qua đầu tư các Chương trình dự án ở vùng sâu vùng xa về giao thông, y tế,
giáo dục … giúp cho các vùng này có điều kiện giao thông thuận lợi, nhân dân được giáo
dục nâng cao dân trí, chăm sóc sức khoẻ tạo điều kiện phát triển vùng.
Thông qua các dự án đầu tư phát triển của mình Nhà nước có thể điều chỉnh giúp
ngành nghề này phát triển, hạn chế ngành nghề khác không có lợi.
- Đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà nước tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế
và cho toàn nền kinh tế phát triển. Vốn đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà nước được coi
là vốn mồi để thu hút các nguồn lực trong và ngoài nước vào đầu tư phát triển. Chẳng hạn
có đường giao thông thuận lợi thì thị trường hàng hoá có điều kiện phát triển, cơ sở hạ tầng
kinh tế phát triển sẽ tạo khả năng to lớn để thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước trên tất
cả các lĩnh vực kinh tế, văn hoá giáo dục, y tế, du lịch …

- Đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà nước có vai trò mở đường cho sự phát triển
nguồn nhân lực, phát triển khoa học công nghệ, chăm sóc sức khoẻ của nhân dân.
Do các dự án đầu tư vào những lĩnh vực trên thường rất tốn kém, độ rủi ro cao, khả
năng thu hồi vốn thấp nên Nhà nước thường phải đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách nhà
nước như: các dự án đầu tư cho phòng thí nghiệm trọng điểm, các trạm, trại nghiên cứu
giống mới, các trường đại học, các bệnh viện, các trung tâm y tế dự phòng. Có đầu tư của
Nhà nước sẽ cung cấp các dịch vụ công tạo điều kiện nâng cao hiệu quả đầu tư của nền
kinh t xó hi.
1.4. HIU QU S DNG VN U T PHT TRIN
Hiu qu s dng vn u t phỏt trin l mt khỏi nim rt rng v tng hp bao
hm ý ngha ton din v kinh t, chớnh tr - xó hi.
Hiu qu s dng vn u t phỏt trin l mi quan h so sỏnh gia cỏc li ớch trc
tip v giỏn tip m nn kinh t xó hi thu c so vi cỏc úng gúp trc tip v giỏn tip
m nn kinh t xó hi phi b ra trong quỏ trỡnh thc hin u t.
Cỏc li ớch õy bao gm li ớch m nh u t, ngi lao ng, a phng v c
nn kinh t c hng. Nhng li ớch ny cú th c xem xột v mt nh tớnh nh s
ỏp ng cỏc mc tiờu phỏt trin kinh t xó hi, chng ụ nhim mụi trng, mụi sinh
hoc o lng bng cỏc tớnh toỏn nh lng nh tng trng GDP, tng thu ngõn sỏch,
mc tng nng sut lao ng xó hi, mc tng thu ngoi t, mc gia tng s ngi cú vic
lm
Cũn cỏc chi phớ m xó hi phi gỏnh chu bao gm chi phớ ca nh u t, ca a
phng, ngnh v t nc l ton b ti nguyờn thiờn nhiờn, ca ci vt cht, sc lao
ng, mụi trng, mụi sinh m xó hi phi b ra trong quỏ trỡnh thc hin u t v khai
thỏc s dng.
Nh vy, hiu qu kinh t xó hi ca vic s dng vn u t chớnh l kt qu so
sỏnh gia cỏi giỏ m xó hi phi tr cho vic s dng cỏc ngun lc sn cú ca mỡnh v li
ớch do hot ng u t phỏt trin to ra cho ton b nn kinh t xó hi ch khụng phi ch
riờng cho mt doanh nghip sn xut kinh doanh.
Khỏi nim ny c minh ho bng cụng thc:


Hiệu quả sử dụng
vốn Đ ầu t phá t triển
=
Các lợ i ích do
Đ ầu t mang lại

Tổng chi phí để
tạo ra lợ i ích đó


Hoc:

Hiệu quả
sử dụng vốn
Đ ầu t phá t triển
=
Các lợ i tức do đầu t mang lại

Tổng chi phí để tạo ra lợ i ích đó



Cho nên nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của
nền kinh tế, của các cấp, các ngành và của nhà đầu tư, là một đòi hỏi khách quan của sự
công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, là một biện pháp tích cực nhất để giải quyết đúng
đắn mâu thuẫn giữa yêu cầu tăng trưởng kinh tế ở tốc độ cao, bền vững với khả năng tích
luỹ có hạn của các nền kinh tế nói chung, của đất nước ta nói riêng.
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư phát triển sẽ góp phần làm tăng đầu tư tài
sản cố định, tăng tích luỹ để tái sản xuất mở rộng với quy mô ngày càng lớn hơn. Nếu
hiệu quả sử dụng vốn đầu tư phát triển đạt cao nó sẽ tạo điều kiện thúc đẩy nền kinh tế

phát triển. Ngược lại nó sẽ ảnh hưởng bất lợi đến nền kinh tế như phá sản, thất nghiệp
thậm chí làm tăng gánh nặng nợ nần nước ngoài cho hiện tại và cả thế hệ mai sau. Vì vậy
việc đánh giá hiệu quả đầu tư là việc làm cần thiết, giúp cho các nhà hoạch định chiến
lược phát triển kinh tế xã hội, các nhà quản lý, các nhà đầu tư ra các quyết định chuẩn
xác về đầu tư phát triển trong từng thời kỳ, nhằm đem lại hiệu quả kinh tế xã hội cao
nhất.
1.4.1. Quan điểm đánh giá hiệu quả sử dụng vốn đầu tư
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, mọi hoạt động sản
xuất kinh doanh nói chung, hoạt động đầu tư phát triển nói riêng đều phải được xem xét từ hai
góc độ Nhà đầu tư (Doanh nghiệp) và Nhà nước.
1.4.1.1. Quan điểm của nhà đầu tư
Trên góc độ nhà đầu tư tức là các doanh nghiệp mục đích cụ thể của họ có nhiều,
nhưng quy tụ lại là lợi nhuận và lợi nhuận tối đa. Vì vậy họ quan tâm đến kết quả cụ thể
của một đồng vốn bỏ ra sẽ mang lại hiệu quả tài chính như thế nào?
Muốn vậy, nhà đầu tư phải tìm kiếm lĩnh vực đầu tư sao cho vốn đầu tư bỏ ra ít, chi
phí sản xuất thấp nhất, giá thành sản phẩm hạ nhưng lại tăng chất lượng, sản lượng và lợi
nhuận. Bởi vì lợi nhuận phản ánh kết quả thực chất, cuối cùng của hoạt động đầu tư.
Do đặc điểm của hoạt động đầu tư phát triển có thời gian dài, giá trị đồng tiền cũng
biến đổi theo thời gian nên trong quá trình lựa chọn đầu tư, nhà đầu tư phải sử dụng hệ
thống chỉ tiêu để đánh giá. Ví dụ như chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư, NPV, IRR, thời
gian thu hồi vốn đầu tư, …
Tuy vậy, trong quá trình thực hiện đầu tư với mục đích là lợi nhuận nhà đầu tư cũng
trực tiếp tạo ra lợi ích cho xã hội (mặc dù lợi ích này không phải là mục tiêu quan tâm của nhà
đầu tư) như tạo thêm việc làm, đóng góp cho ngân sách nhà nước, nâng cao trình độ kỹ thuật,
quản lý của người lao động …
1.4.1.2.Quan điểm của nhà nước
Nhà nước là người chủ đại diện cho toàn xã hội nên Nhà nước không chỉ quan tâm
đến lợi ích kinh tế của nhà đầu tư, mà còn quan tâm đến lợi ích của cả nền kinh tế và toàn
xã hội. Thậm chí có dự án còn gây nguy hiểm cho xã hội, nhất là về môi trường, khai thác
tài nguyên … Do đó trên giác độ quản lý vĩ mô Nhà nước phải xem xét đánh giá việc thực

hiện hoạt động đầu tư đó có những tác động gì đối với việc thực hiện các mục tiêu phát
triển kinh tế xã hội. Có nghĩa là phải xem xét mặt kinh tế - xã hội của hoạt động đầu tư,
xem xét những lợi ích xã hội do đầu tư đem lại, những chi phí mà nền kinh tế xã hội phải
gánh chịu, để từ đó cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước chấp nhận có cho phép đầu tư
hay không.
Vì vậy cần có sự quản lý, kiểm soát của Nhà nước trong hoạt động đầu tư phát triển
theo định hướng mục tiêu đã định, và việc đánh giá hiệu quả đầu tư phải xét trên quan
điểm toàn diện của nền kinh tế quốc dân. Phải kết hợp giữa lợi ích toàn xã hội, lợi ích
trước mắt và lợi ích lâu dài. Đồng thời phải xét đến các mặt kinh tế - chính trị xã hội. Đối
với Nhà nước chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế vốn đầu tư quan trọng nhất là mức tăng
trưởng GDP, là mức tăng năng suất xã hội, tăng thu ngân sách gắn liền với các chỉ tiêu về
xã hội và công bằng xã hội.
1.4.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn đầu tư phát triển
Do việc đánh giá hiệu quả đầu tư được xem xét trên 2 góc độ: Nhà đầu tư và nhà
nước nên hình thành ra 2 hệ thống chỉ tiêu khác nhau để đánh giá hiệu quả đầu tư.
1.4.2.1. Đối với các nhà đầu tư
Nhà đầu tư thường sử dụng một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả đầu tư như sau:
a. Tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư. Đây là vấn đề được các nhà đầu tư quan tâm nhất. Tỷ
suất lợi nhuận phản ánh mối quan hệ giữa lợi nhuận thu được của nhà đầu tư so với vốn
đầu tư bỏ ra. Chỉ tiêu này được tính bằng 2 công thức sau:
a1. Tính theo lợi nhuận hàng năm:

%100x
I
W
=RR
vo
i
i


Trong đó:
RR
i
: Tỷ suất lợi nhuận.
W
i
: Lợi nhuận năm thứ i.
I
vo
: Vốn đầu tư.
a2. Tính theo cả vòng đời dự án:
%100x
I
W
=RR
vo
pv

Trong đó:
pv
W : Lợi nhuận bình quân năm.
RR
: Tỷ suất lợi nhuận bình quân.
I
vo
: Số vốn đầu tư.
b. Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu. Là chỉ tiêu phản ánh mối quan hệ giữa
lợi nhuận và doanh thu. Nếu tỷ lệ này càng lớn chứng tỏ hoạt động cho đầu tư có hiệu quả
và ngược lại.
Chỉ tiêu này được tính bằng 2 công thức sau:

b1. Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu từng năm được tính như sau:
%100= x
O
W
r
i
i
oi

Trong đó:
R
oi
: Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu năm thứ i.
W
i
: Lợi nhuận năm i.
O
i
: Doanh thu năm i.
b2. Tỷ suất lợi nhuận doanh thu bình quân năm của cả đời dự án được tính là:
%100x
O
W
=r
pv
pv
opv

×