Tải bản đầy đủ (.doc) (84 trang)

luận văn tài chính ngân hàng Phát triển cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam – Chi nhánh Hòa Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (491.56 KB, 84 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS. Hoàng Thị Lan Hương

MỤC LỤC

SV: Vũ Huyền Trang

Lớp: K13A.NH02


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS. Hoàng Thị Lan Hương

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14


15

VIẾT TẮT
Vietinbank
NHTMCP
NHTM
NHNN
DNVVN
SXKD
HĐBT
TCTD
GTCG
TSĐB
DSCV
DNCV
DNNN
DNNQD
DNQD

SV: Vũ Huyền Trang

NỘI DUNG
Ngân hàng thương mại cổ phần công thương Việt Nam
Ngân hàng thương mại cổ phần
Ngân hàng thương mại
Ngân hàng Nhà nước
Doanh nghiệp vừa và nhỏ
Sản xuất kinh doanh
Hội đồng bảo trợ
Tổ chức tín dụng

Giấy tờ có giá
Tài sản đảm bảo
Doanh số cho vay
Dư nợ cho vay
Doanh nghiệp Nhà nước
Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Doanh nghiệp quốc doanh

Lớp: K13A.NH02


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS. Hoàng Thị Lan Hương

DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU

SV: Vũ Huyền Trang

Lớp: K13A.NH02


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS. Hoàng Thị Lan Hương

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Theo kinh nghiệm của các nước trên thế giới, doanh nghiệp vừa và nhỏ
(DNVVN) có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội của

mỗi quốc gia, một khu vực DNVVN lớn mạnh là đặc điểm quan trọng của một
nền kinh tế thành cơng. Loại hình này khơng những thích hợp với các nước
cơng nghiệp phát triển mà cịn đặc biệt thích hợp với nền kinh tế của các nước
đang phát triển. Ở nước ta trước đây, việc phát triển các DNVVN cũng đã
được quan tâm, song chỉ từ khi có đường lối đổi mới kinh tế của Đảng cộng
sản Việt Nam thì các doanh nghiệp này mới phát triển nhanh cả về mặt số
lượng và mặt chất lượng.
Từ những bước đi ban đầu theo đường lối đổi mới và chủ trương phát
triển kinh tế nhiều thành phần do Đảng và Nhà nước ta khởi xướng, có thể
khẳng định rằng việc đẩy mạnh phát triển DNVVN là bước đi hợp quy luật với
hoàn cảnh thực tế hiện nay của đất nước ta. DNVVN là cơng cụ góp phần khai
thác tồn diện mọi nguồn lực kinh tế, đặc biệt là nguồn tiềm năng sẵn có ở mỗi
con người, mỗi miền đất nước. Các DNVVN ngày càng khẳng định vai trò to
lớn của mình trong việc giải quyết các mối quan hệ mà quốc gia nào cũng phải
quan tâm chú ý đến, đó là: Tăng trưởng kinh tế - Giải quyết việc làm – Hạn
chế lạm phát. Theo số liệu của Bộ kế hoạch và Đầu tư tính đến hết năm 2013
cả nước có hơn 700.000 doanh nghiệp đăng kí thành lập, trong đó số DNVVN
chiếm tới gần 97%, thu hút trên 50% tổng số lao động và đóng góp khoảng
40% GDP hàng năm của cả nước.
Tuy có tỷ trọng và vai trò to lớn như vậy nhưng hoạt động của loại hình
doanh nghiệp này ở nước ta cịn gặp khá nhiều khó khăn, chưa phát huy được
tiềm năng to lớn của nó. Nguyên nhân một mặt do hạn chế của bản thân các
doanh nghiệp có quy mơ nhỏ, vốn chủ sở hữu thấp, năng lực tài chính chưa
cao, thiếu tài sản thế chấp, khả năng xây dựng các dự án có tính khả thi cịn
yếu, số liệu thơng tin kế tốn chưa thật sự đáng tin cậy…nên dưới con mắt của
các ngân hàng thì các DNVVN là những khách hàng có độ rủi ro cao. Mặt
khác do cơ chế chính sách, biện pháp hỗ trợ DNVVN của Nhà nước còn chưa
đồng bộ, thị trường thì khơng ổn định do hàng hóa nhập khẩu và hàng hóa của
SV: Vũ Huyền Trang


1

Lớp: K13A.NH02


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS. Hoàng Thị Lan Hương

các doanh nghiệp lớn cạnh tranh gay gắt. Mà vấn đề lớn nhất, cơ bản và phổ
biến nhất chính là thiếu vốn để đổi mới cơng nghệ. Vì vậy DNVVN đã bị đào
thải khỏi nền kinh tế do thiếu vốn.
Một nền kinh tế phát triển lành mạnh và ổn định không thể khơng cần đến
những tổ chức tài chính trung gian, thực hiện chức năng dẫn vốn từ những
người có vốn tới những người cần vốn. Ngân hàng là một tổ chức tài chính
quan trọng nhất của nền kinh tế. Hoạt động chính của ngân hàng thương mại
( NHTM ) là huy động vốn để cho vay nhằm mục đích thu được lợi nhuận, bất
cứ một khách hàng nào thỏa mãn đầy đủ các điều kiện của ngân hàng thì sẽ
được ngân hàng cho vay. Cho vay là khoản mục tài sản lớn và quan trọng nhất
của ngân hàng và là khoản mục đem lại thu nhập cao nhất cho ngân hàng. Bởi
thế gần đây nhiều NHTM đã khơng ngừng hồn thiện và cung ứng nhiều sản
phẩm dịch vụ dành riêng cho đối tượng khách hàng này. Nhất là khi môi
trường kinh doanh giữa các ngân hàng ngày càng trở nên khốc liệt thì việc
nhắm tới các DNVVN như là một đối tượng khách hàng đầy tiềm năng là
chiến lược phát triển tất yếu của các NHTM. Việc hướng các sản phẩm dịch vụ
vào DNVVN ( đặc biệt là cho vay doanh nghiệp ) đã đem lại cho các NHTM
doanh số hoạt động khơng nhỏ, góp phần nâng cao vị thế cạnh tranh của hệ
thống NHTM trên thị trường tài chính.
Mặc dù vậy, rủi ro trong hoạt động ngân hàng lại có xu hướng tập trung
vào danh mục các khoản cho vay. Tiền cho vay đối với ngân hàng là một món

nợ, nên nguồn vốn tín dụng ngân hàng đầu tư cho phát triển DNVVN cịn rất
hạn chế vì DNVVN khó đáp ứng đầy đủ các điều kiện vay vốn, khi tiếp cận
được với nguồn vốn tín dụng thì các doanh nghiệp lại sử dụng vốn chưa hiệu
quả và chưa hợp lý. Vì thế nên việc tìm ra giải pháp tín dụng nhằm phát triển
cho vay DNVVN là một vấn đề bức xúc của các NHTM. Xuất phát từ quan
điểm đó và thực trạng hoạt động của các DNVVN hiện nay, sau một thời gian
thực tập trên thực tế, tôi nhận thấy được tầm quan trọng của hoạt động cho vay
tại Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam – Chi nhánh Hịa
Bình, tỉnh Hịa Bình, tơi quyết định chọn đề tài: “ Phát triển cho vay doanh
nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt
Nam – Chi nhánh Hịa Bình ” làm chun đề tốt nghiệp của mình.

SV: Vũ Huyền Trang

2

Lớp: K13A.NH02


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS. Hoàng Thị Lan Hương

2. Mục tiêu nghiên cứu
Xem xét một cách tổng quát và có hệ thống thực trạng hoạt động cho vay
đối với DNVVN tại ngân hàng thương mại cổ phần ( NHTMCP ) Cơng thương
Việt Nam – Chi nhánh Hịa Bình. Phân tích, đánh giá những ưu điểm, nhược
điểm đó để đồng thời đưa ra được một số giải pháp, kiến nghị nhằm phát triển
hoạt động cho vay đối với DNVVN tại Chi nhánh Hịa Bình của NHTMCP
Cơng thương Việt Nam trong giai đoạn tiếp theo.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đề tài tập trung nghiên cứu về thực trạng hoạt động cho vay và phát
triển cho vay đối với DNVVN tại NHTMCP Cơng thương Việt Nam - Chi
nhánh Hịa Bình.
- Phạm vi nghiên cứu giới hạn ở một số vấn đề lý luận thực tiễn có liên
quan trực tiếp đến hoạt động cho vay của chi nhánh trong thời gian vừa qua.
- Số liệu phân tích giới hạn trong khoảng thời gian từ năm 2009 – 2013.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Kết hợp giữa lý thuyết đã được học với thực tế công việc trong thời gian
thực tập, tiến hành thu thập số liệu tăng giảm giữa các năm tại ngân hàng.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp nhằm đánh giá hoạt động cho vay của
ngân hàng đối với DNVVN thông qua các biến số kinh tế nhằm luận giải về
các vấn đề có liên quan đến hoạt động cho vay của ngân hàng đối với DNVVN
- Phương pháp thống kê mô tả, so sánh, đối chiếu và tổng hợp được sử
dụng để có thể đưa ra một cái nhìn tổng quát, xác thực và đo lường những kết
quả đạt được cũng như những hạn chế và nguyên nhân còn tồn tại.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài các phần Mục lục ; Danh mục từ viết tắt ; Danh mục bảng biểu ;
Phần mở đầu ; Phần kết luận ; Danh mục các tài liệu tham khảo thì chuyên đề
của tơi có kết cấu gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về phát triển hoạt động cho vay
doanh nghiệp vừa và nhỏ của ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân
hàng thương mại cổ phần công thương Việt Nam – Chi nhánh Hịa Bình
Chương 3: Đề xuất phát triển hoạt động cho vay doanh nghiệp vừa và
nhỏ tại ngân hàng thương mại cổ phần công thương Việt Nam – Chi
nhánh Hịa Bình
SV: Vũ Huyền Trang

3


Lớp: K13A.NH02


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS. Hoàng Thị Lan Hương

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG
CHO VAY DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1.1. Khái niệm cho vay và vai trò cho vay của ngân hàng
- Khái niệm cho vay:
Cho vay là một trong những hình thức của nghiệp vụ tín dụng, là hoạt động
mang lại lợi nhuận lớn cho mỗi ngân hàng, cho vay có thể hiểu đơn giản là ngân
hàng cấp một khoản tiền nhất định cho doanh nghiệp sử dụng trong một thời gian
xác định với cam kết sẽ hoàn trả cả gốc và lãi đúng thời hạn. Hay có thể nói cách
khác khi cho vay nghĩa là ngân hàng chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng một
lượng giá trị từ NHTM ( người sở hữu ) sang khách hàng vay ( người sử dụng )
sau một thời gian nhất định quay trở lại NHTM với giá trị lớn hơn lượng giá trị
ban đầu. Đây là chức năng chính của ngân hàng để tài trợ cho chi tiêu của các
doanh nghiệp, cá nhân và các cơ quan Chính phủ. Đối với hầu hết các khách hàng
cả doanh nghiệp lẫn cá nhân, ngân hàng là một trong những nguồn vốn sẵn có rẻ
nhất và linh hoạt nhất. Đặc biệt đối với những DNVVN ngân hàng là nguồn duy
nhất cung cấp dịch vụ tư vấn và nguồn vốn bổ sung.
- Vai trò hoạt động cho vay của ngân hàng:
Hoạt động cho vay của các ngân hàng có mối quan hệ mật thiết với tình

hình phát triển, bởi vì cho vay thúc đẩy sự tăng trưởng của các doanh nghiệp,
tạo ra sức sống cho nền kinh tế. Cho vay là chức năng kinh tế lâu đời nhất của
ngân hàng, là hoạt động mang lại lợi nhuận lớn cho ngân hàng song cũng mang
lại nhiều rủi ro nhất. Hoạt động cho vay có vai trị quan trọng đối với các cá
nhân, doanh nghiệp tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh, đối với ngân
hàng, tổ chức tín dụng và đối với toàn bộ nền kinh tế. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, cho vay là hoạt động cơ bản kết nối những nguồn vốn nhàn rỗi
với những người thực sự có nhu cầu về vốn trong nền kinh tế. Hoạt động này
làm tăng thu nhập cho những người chưa có kế hoạch đầu tư nói chung và
những khoản tiền nhàn rỗi nói riêng, đồng thời làm tăng khả năng hoạt động
SV: Vũ Huyền Trang

4

Lớp: K13A.NH02


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS. Hoàng Thị Lan Hương

của những người có nhu cầu về vốn là doanh nghiệp hay cá nhân. Có thể nói
hoạt động cho vay tạo ra sự phát triển chung của nền kinh tế.
Thứ hai, cho vay là hoạt động mang lại thu nhập chính, lợi nhuận cao cho
ngân hàng, dùng để chi trả các khoản lãi tiền gửi huy động và các khoản chi
phí quản lý, trang thiết bị, tiền lương và các khoản chi phí khác để duy trì hoạt
động của ngân hàng.
Thứ ba, bằng việc cho vay ngân hàng đã tạo ra khối lượng tiền tệ lớn
trong nền kinh tế. Khi ngân hàng cho vay, số dư trên tài khoản tiền gửi thanh
toán của khách hàng tăng lên, khách hàng có thể dùng để mua hàng và dịch vụ.

Toàn bộ hệ thống ngân hàng đã tạo ra khối lượng tiền lớn khi các khoản tiền
gửi được mở rộng từ ngân hàng này đến ngân hàng khác trên cơ sở cho vay.
Khi khách hàng tại một ngân hàng sử dụng khoản tiền vay để chi trả thì sẽ tạo
nên khoản thu của một khách hàng khác tại một ngân hàng khác tạo ra các
khoản cho vay mới. Trong khi khơng có một ngân hàng riêng lẻ nào có thể cho
vay lớn hơn dự trữ dư thừa, tồn bộ hệ thống ngân hàng có thể tạo ra khối
lượng tiền gửi gấp bội thông qua hoạt động cho vay.
Thứ tư, cho vay với lãi suất ưu đãi cho một dự án phát triển mang tính
chất chiến lược cũng là hoạt động tài trợ nằm trong chính sách của Chính phủ
để phát triển đất nước.
Thứ năm, hoạt động cho vay góp phần hình thành cơ cấu vốn tối ưu cho
doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường doanh nghiệp khơng thể chỉ sử
dụng vốn tự có để hoạt động sản xuất kinh doanh ( SXKD ). Việc này không
những hạn chế khả năng mở rộng SXKD của doanh nghiệp mà còn làm tăng
giá vốn của doanh nghiệp. Vậy nên, cho vay của ngân hàng tạo điều kiện cho
doanh nghiệp mở rộng SXKD.
1.1.2. Nguyên tắc và điều kiện cho vay
- Nguyên tắc cho vay:
Để đảm bảo an toàn vốn trong q trình cho vay, ngân hàng thương mại
ln phải tuân thủ các nguyên tắc sau đây:
+ Tiền vay phải sử dụng đúng mục đích đã thỏa thuận trong hợp đồng tín
dụng.
+ Tiền vay phải hồn trả đúng hạn đầy đủ cả gốc và lãi.
- Điều kiện cho vay:
SV: Vũ Huyền Trang

5

Lớp: K13A.NH02



Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS. Hoàng Thị Lan Hương

Điều kiện cho vay thực chất là cụ thể hóa các tiêu thức trong nguyên tắc
tín dụng nhằm đảm bảo cho nguyên tắc cho vay có hiệu lực trong mọi quan hệ
tín dụng giữa ngân hàng với khách hàng. Khách hàng chỉ có thể vay vốn của
ngân hàng khi họ thỏa mãn tất cả các điều kiện vay vốn. Trong quy chế cho
vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng ban hành theo Quyết định số
1627/2001/QĐ – NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc ngân hàng Nhà nước
( NHNN ), nội dung các điều kiện vay vốn gồm:
+ Khách hàng phải có đủ tư cách pháp lý.
+ Vốn vay phải được sử dụng hợp pháp.
+ Khách hàng phải có năng lực tài chính lành mạnh đủ để đảm bảo trả
tiền vay đúng hạn đã cam kết.
+ Khách hàng phải có phương án, dự án sản xuất kinh doanh khả thi và
hiệu quả ( đối với khách hàng có dự án, phương án sản xuất kinh doanh ).
+ Khách hàng phải thực hiện đảm bảo tiền vay theo quy định.
1.1.3. Phân loại cho vay của ngân hàng thương mại
a) Theo hình thức cấp tiền vay
Các hình thức cho vay mà ngân hàng áp dụng với các DNVVN chủ yếu là:
- Thấu chi: là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay
được chi trội trên số dư tiền gửi thanh tốn của mình đến một thời hạn nhất
định và trong một khoảng thời gian xác định. Giới hạn này là hạn mức thấu
chi. Đây là hình thức cho vay ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản, phần lớn là
khơng có đảm bảo. Hình thức này nhìn chung chỉ sử dụng với những khách
hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kỳ thu nhập ngắn.
- Cho vay trực tiếp từng lần: là hình thức cho vay tương đối phổ biến
của ngân hàng đối với khách hàng khơng có nhu cầu vay thường xun, khơng

đủ điều kiện để cấp hạn mức thấu chi. Một số khách hàng sử dụng vốn chủ sở
hữu và tín dụng thương mại là chủ yếu, chỉ khi có nhu cầu thời vụ, hay mở
rộng sản xuất đặc biệt thì mới vay ngân hàng, tức là vốn ngân hàng chỉ tham
gia vào một số giai đoạn nhất định của chu kỳ sản xuất kinh doanh.
Mỗi lần vay vốn khách hàng phải làm đơn và trình ngân hàng phương án
sử dụng vốn vay. Ngân hàng sẽ xác định, phân tích khách hàng và ký hợp đồng
cho vay, xác định quy mô cho vay, thời hạn giải ngân, thời hạn trả nợ, lãi suất
và yêu cầu đảm bảo ( nếu cần ). Mỗi món vay được tách biệt thành những hồ
SV: Vũ Huyền Trang

6

Lớp: K13A.NH02


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS. Hoàng Thị Lan Hương

sơ khác nhau. Theo từng kỳ hạn nợ trong hợp đồng, ngân hàng sẽ thu gốc và
lãi, trong quá trình khách hàng sử dụng tiền vay ngân hàng sẽ kiểm sốt mục
đích và hiệu quả sử dụng, nếu thấy dấu hiệu vi phạm hợp đồng ngân hàng sẽ
thu nợ quá hạn hoặc chuyển nợ quá hạn. Lãi suất có thể cố định hoặc thả nổi
theo thời điểm tính lãi.
Nghiệp vụ cho vay từng lần tương đối đơn giản, ngân hàng có thể kiểm
sốt từng món vay tách biệt, tiền cho vay dựa vào giá trị của tài sản đảm bảo.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng: Đây là nghiệp vụ tín dụng theo đó
ngân hàng thỏa thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng
có thể cấp cho cả kỳ hoặc cuối kỳ. Đó là số dư tối thiểu thời điểm tính.
Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở kế hoạch SXKD, nhu cầu vốn và

nhu cầu vay vốn của khách hàng. Trong kỳ khách hàng có thực hiện vay trả
nhiều lần, song dư nợ khơng vượt quá hạn mức tín dụng.
Mỗi lần vay tiền khách hàng cần trình bày phương án sử dụng tiền vay,
nộp các chứng từ chứng minh đã mua hàng hoặc dịch vụ và yêu cầu vay. Sau
khi kiểm tra tính chất hợp pháp và hợp lệ của chứng từ, ngân hàng sẽ chi tiền
cho khách hàng.
- Cho vay luân chuyển: Là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển hàng
hóa. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn. Ngân hàng có thể cho vay
để mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Ngân hàng và khách
hàng thỏa thuận với nhau về phương thức vay, hạn mức tín dụng, các nguồn
cung cấp hàng hóa và khả năng tiêu thụ. Đây khơng phải là thời hạn hồn trả
mà là thời hạn để ngân hàng xem xét lại mối quan hệ với khách hàng và quyết
định có cho vay nữa hay không tùy mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng
cũng như tình hình tài chính của khách hàng.
Cho vay luân chuyển rất thuận tiện cho các khách hàng, thủ tục vay chỉ
cần thực hiện một lần cho nhiều lần vay, khách hàng được đáp ứng nhu cầu
vốn kịp thời.
- Cho vay trả góp: là hình thức tín dụng, theo đó ngân hàng cho phép
khách hàng trả góp làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thỏa thuận. Cho
vay trả góp thường được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, tài
trợ cho tài sản cố định hoặc hàng lâu bền. Số tiền trả mỗi lần được tính tốn
sao cho phù hợp với khả năng trả nợ ( thường là từ khấu hao và thu nhập sau
SV: Vũ Huyền Trang

7

Lớp: K13A.NH02


Chuyên đề tốt nghiệp


GVHD: TS. Hoàng Thị Lan Hương

thuế của dự án hoặc từ thu nhập hàng kỳ của người tiêu dùng ).
Ngân hàng thường cho vay trả góp đối với người tiêu dùng thông qua hạn
mức nhất định. Ngân hàng sẽ thanh toán cho người bán lẻ về số hàng hóa mà
khách hàng đã mua trả góp. Các cửa hàng bán lẻ nhận ngay tiền sau khi bán
hàng từ phía ngân hàng và làm đại lý thu tiền cho ngân hàng, hoặc khách hàng
trả trực tiếp cho ngân hàng. Đây là hình thức tín dụng tài trợ cho người mua
(qua đó đến người bán ) nhằm khuyến khích tiêu thụ hàng hóa.
Cho vay trả góp có rủi ro cao do khách hàng thường thế chấp bằng hàng
hóa mua trả góp, khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập đều đặn của người
vay. Nếu người vay mất việc, ốm đau, thu nhập giảm sút thì khả năng thu nợ
của ngân hàng cũng bị ảnh hưởng. Chính vì rủi ro cao nên lãi suất cho vay trả
góp thường là lãi suất cao nhất trong khung lãi suất cho vay của ngân hàng.
- Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng:
Thẻ tín dụng là loại thẻ ngân hàng phát hành cho những khách hàng sử dụng
để thanh tốn tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc rút tiền mặt tại các ATM. Đối với
những khách hàng thỏa mãn điều kiện của ngân hàng phát hành thẻ sau khi kỳ
hợp đồng tín dụng thẻ với ngân hàng, ngân hàng sẽ cấp cho khách hàng một
thẻ tín dụng với một số tiền được cài sẵn trong bộ nhớ theo hạn mức tín dụng
đã được hai bên thỏa thuận. Khách hàng loại này khơng nhất thiết phải duy trì
số dư trên tài khoản tiền gửi của mình, vì đã có hạn mức tín dụng khách hàng
sử dụng thẻ để thanh tốn hàng hóa, dịch vụ trong phạm vi hạn mức tín dụng
đã chấp thuận trong hợp đồng tín dụng. Khi cho vay phát hành và sử dụng thẻ
tín dụng, tổ chức tín dụng và khách hàng phải tuân theo các quy định của
Chính phủ và ngân hàng Nhà nước Việt Nam về phát hành và sử dụng. Nghiệp
vụ này tạo khả năng thanh tốn linh hoạt cho tồn bộ nền kinh tế.
- Cho vay theo hạn mức cho vay dự phịng: Tổ chức tín dụng cam kết
đảm bảo sẵn sàng cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng

nhất định. Tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận thời hạn hiệu lực của
hạn mức tín dụng dự phịng, mức phí trả cho hạn mức tín dụng dự phịng.
- Cho vay hợp vốn: Một nhóm tổ chức tín dụng cùng cho vay đối với
một dự án vay vốn hoặc phương án vay vốn của khách hàng, trong đó có một
tổ chức tín dụng làm đầu mối dàn xếp phối hợp với một tổ chức tín dụng khác.
Việc cho vay hợp vốn thực hiện theo quy định, quy chế cho vay của các tổ
SV: Vũ Huyền Trang

8

Lớp: K13A.NH02


Chun đề tốt nghiệp

GVHD: TS. Hồng Thị Lan Hương

chức tín dụng và quy chế đồng tài trợ của các tổ chức tín dụng do Thống đốc
ngân hàng Nhà nước ban hành.
- Cho vay khác: Ngoài các phương thức trên ngân hàng có thể cho vay
bằng các phương thức mà pháp luật không cấm, phù hợp với các quy định tại
các quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng, điều kiện kinh doanh của các tổ
chức tín dụng và đặc điểm của khách hàng vay. Ví dụ như cho vay theo dự án
đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh dịch vụ, các dự án đầu tư phục vụ đời
sống, cho vay gián tiếp ( tức là ngân hàng cho vay thông qua các tổ chức trung
gian, tổ, đội, nhóm như nhóm sản xuất, Hội nơng dân, Hội phụ nữ, Hội cựu
chiến binh…)
b) Theo thời hạn cho vay
Thời hạn cho vay là khoảng thời gian tính từ khi khách hàng nhận vốn
vay cho đến thời điểm khách hàng trả hết nợ gốc và lãi vốn vay đã được thỏa

thuận trong hợp đồng tín dụng giữa tổ chức tín dụng và khách hàng.
Căn cứ theo thời hạn cho vay thì cho vay của ngân hàng được chia làm ba
loại kỳ hạn vay vốn sau:
- Cho vay ngắn hạn: Đây là khoản vay có thời hạn tối đa đến 12 tháng.
Các khoản vay ngắn hạn thường được sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn
lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của doanh
nghiệp hoặc cá nhân. Do tính chất, đặc thù là quy mơ nhỏ, năng lực tài chính
và năng lực quản lý cịn nhiều hạn chế loại hình DNVVN phần lớn nhận được
các khoản vay ngắn hạn của các ngân hàng.
- Cho vay trung hạn: Theo quy định hiện nay của NHNN Việt Nam các
khoản vay trung hạn có thời hạn từ 12 tháng đến 5 năm.
Các khoản vay trung hạn chủ yếu để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải
tiến hoặc đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng SXKD, xây dựng các dự án mới
có quy mơ nhỏ và thời hạn thu hồi vốn nhanh. Trong nông nghiệp chủ yếu cho
vay trung hạn để đầu tư vào các đối tượng như: máy cày, máy bơm nước, xây
dựng các vườn cây cơng nghiệp…
- Cho vay dài hạn: Là hình thức cho vay có thời hạn dài trên 5 năm. Thời
hạn tín dụng tối đa có thể lên đến 40 năm tùy thuộc vào mỗi khoản vay.
Các khoản vay dài hạn được dùng để đáp ứng nhu cầu dài hạn như xây
dựng nhà xưởng, mua sắm trang thiết bị, phương tiện vận tải…
SV: Vũ Huyền Trang

9

Lớp: K13A.NH02


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS. Hoàng Thị Lan Hương


c) Theo tài sản đảm bảo
Có nhiều trường hợp khi đi vay vốn thì ngân hàng u cầu phải có tài sản
đảm bảo (TSĐB) Lý do là khách hàng luôn phải đối mặt với những rủi ro trong
kinh doanh, có thể mất khả năng trả nợ cho ngân hàng, những biến cố khơng
mong đợi có thể gây cho ngân hàng những tổn thất lớn. Chính vì vậy, trừ
những khách hàng đã có uy tín cao với ngân hàng thì nhiều khách hàng khác
phải có TSĐB khi nhận tín dụng của ngân hàng. Yêu cầu phải có TSĐB, ngân
hàng muốn có được nguồn trả nợ thứ hai khi nguồn thứ nhất là thu nhập từ
hoạt động kinh doanh không đảm bảo trả nợ. Theo đó cho vay cũng được phân
làm hai loại sau:
- Cho vay khơng có tài sản đảm bảo: là hình thức đảm bảo đối nhân,
bao gồm cho vay tín chấp và cho vay có bảo lãnh.
+ Cho vay theo tín chấp: là hoạt động cho vay khơng có tài sản thế chấp,
cầm cố hoặc sự bảo lãnh của bên thứ ba, việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của
bản thân khách hàng. Đối với những khách hàng truyền thống, trung thực trong
kinh doanh, có tiềm lực tài chính lành mạnh, quản trị hiệu quả thì ngân hàng có
thể cấp tín dụng dựa trên uy tín của bản thân khách hàng mà không cần một
nguồn thu nợ thứ hai bổ sung.
+ Cho vay có bảo lãnh: Trong hình thức này có sự xuất hiện của người
thứ ba cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính đối với ngân hàng thay cho
khách hàng khi khách hàng không thực hiện được. Đối với người bảo lãnh có
uy tín ( Nhà nước, các tổ chức tài chính lớn, các cơng ty lớn…) ngân hàng
chấp nhận bảo lãnh khơng cần có TSĐB. Trường hợp còn lại khi cho vay ngân
hàng yêu cầu phải có TSĐB.
- Cho vay có tài sản đảm bảo: Đây là hình thức cho vay có đảm bảo đối
với tài sản có thể được đảm bảo theo hình thức thế chấp hoặc cầm cố. Các tài
sản đảm bảo thường là các giấy tờ có giá, hàng hóa trong kho, nhà cửa, thiết
bị…Ngân hàng chỉ chấp nhận những tài sản hợp pháp, có khả năng bán được
làm tài sản đảm bảo.

+ Cho vay có đảm bảo theo hình thức thế chấp: là hình thức thế chấp theo
đó người nhận tài trợ phải chuyển các giấy tờ chứng nhận sở hữu của các
TSĐB sang ngân hàng nắm giữ trong thời gian cam kết song vẫn được quyền
sử dụng tài sản với cam kết giữ nguyên hiện trạng. Đảm bảo bằng thế chấp
SV: Vũ Huyền Trang

10

Lớp: K13A.NH02


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS. Hoàng Thị Lan Hương

thuận lợi cho người đi vay có thể sử dụng TSĐB để thực hiện hoạt động kinh
doanh, tuy nhiên có thể gây khó khăn cho ngân hàng trong việc quản lý và
kiểm sốt TSĐB bởi q trình sử dụng sẽ làm biến dạng tài sản hoặc khách
hàng có thể lợi dụng phân tán, làm giảm giá trị tài sản, gây thiệt hại cho ngân
hàng. Vì vậy ngân hàng phải tăng khả năng đánh giá giá trị tài sản.
+ Cho vay có tài sản đảm bảo theo hình thức cầm cố: là hình thức cho
vay theo đó người nhận tài trợ của ngân hàng phải chuyển quyền kiểm soát
TSĐB sang cho ngân hàng trong thời gian cam kết ( thường gọi là thời gian tài
trợ ). Ngân hàng quản lý toàn bộ tài sản đó, mọi chi phí liên quan đến việc
quản lý do người vay chịu. Các tài sản cầm cố thường gọn nhẹ, dễ quản lí, ít
chịu ảnh hưởng của các yếu tố mơi trường tự nhiên. Cầm cố thích hợp với
những tài sản ngân hàng có thể kiểm sốt và bảo quản tương đối chắc chắn,
đồng thời việc ngân hàng nắm giữ khơng ảnh hưởng đến q trình hoạt động
của người nhận tài trợ. Khi tài trợ dựa trên đảm bảo bằng cầm cố, ngân hàng
kiểm tra tính hợp lệ hợp pháp của vật cầm cố, sau đó ngân hàng cùng với

khách hàng định giá vật cầm cố, ký hợp đồng cầm cố quy định quyền và nghĩa
vụ liên quan đến vật cầm cố.
d) Theo mục đích sử dụng vốn
- Cho vay bất động sản: là hình thức cho vay để thanh tốn các chi phí
hợp pháp phục vụ cho các mục đích tiêu dùng cá nhân bao gồm: mua sắm nhà
cửa, xe cộ, các loại hàng hóa lâu bền như tủ lạnh, điều hòa, máy giặt, chuyển
nhượng quyền sử dụng đất, sửa chữa nhà, cho vay du học…
- Cho vay cơng nghiệp và thương mại: là hình thức cho vay ngắn hạn để
bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp,
thương mại và dịch vụ.
- Cho vay nơng nghiệp: là hình thức cho vay để trang trải các chi phí sản
xuất như giống cây trồng, phân bón, thuốc trừ sâu, thức ăn gia súc, lao động…
- Cho vay cá nhân: là hình thức cho vay đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng
như mua sắm các vật dụng đắt tiền, trang trải chi phí thơng thường của đời
sống thơng qua thẻ tín dụng.
- Th mua và các loại khác

SV: Vũ Huyền Trang

11

Lớp: K13A.NH02


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS. Hoàng Thị Lan Hương

e) Theo đối tượng cho vay
Căn cứ vào đối tượng cho vay được chia ra làm hai loại: Cho vay doanh

nghiệp lớn và cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ. Cho vay doanh nghiệp lớn là
doanh nghiệp có vốn trên 10 tỷ, quy mơ lao động trên 300 lao động, cịn lại là
những doanh nghiệp vừa và nhỏ. Việc phân loại như thế này sẽ giúp cho việc
quản lý, việc cho vay đối với những đối tượng này có hiệu quả hơn.
1.2. HOẠT ĐỘNG CHO VAY DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.2.1. Khái quát chung về doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.2.1.1. Định nghĩa doanh nghiệp vừa và nhỏ và tiêu chí xác định doanh
nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam
Trong nền kinh tế thị trường doanh nghiệp được hiểu là những đơn vị
kinh tế được thành lập bởi một cá nhân hay bởi các tổ chức, được Nhà nước
cho phép hoạt động kinh doanh trong những lĩnh vực nhất định vì mục đích
cơng ích hay lợi nhuận.
Với doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam có thể được hiểu như sau:
Doanh nghiệp vừa và nhỏ là những cơ sở sản xuất kinh doanh có tư cách cá
nhân, khơng phân biệt thành phần kinh tế, có quy mơ về vốn, tài sản, lao động,
kỹ thuật…thỏa mãn các quy định của Chính phủ đối với từng ngành nghề
tương ứng với từng thời kỳ phát triển của nền kinh tế.
Doanh nghiệp vừa và nhỏ ( Small and Medium Enterprise ) là những
doanh nghiệp có quy mơ nhỏ bé về mặt vốn, lao động hay doanh thu. DNVVN
có thể chia thành ba loại căn cứ vào quy mơ đó là doanh nghiệp siêu nhỏ
( Micro ), doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp vừa. Theo tiêu chí của nhóm
ngân hàng thế giới, doanh nghiệp siêu nhỏ là doanh nghiệp có số lao động từ
10 – 50 người, cịn doanh nghiệp vừa có từ 50 – 300 lao động. Ở mỗi nước
người ta có tiêu chí riêng để xác định DNVVN ở nước mình. Ở Việt Nam, theo
Nghị định số 56/2009/NĐ – CP ngày 30/06/2009 của Chính phủ quy định số
lượng lao động trung bình hàng năm từ 10 người trở xuống được coi là doanh
nghiệp siêu nhỏ, từ 20 – 200 lao động được coi là doanh nghiệp nhỏ, từ 200 –
300 lao động được coi là doanh nghiệp vừa.
Các tiêu chuẩn xác định quy mô doanh nghiệp về cơ bản là giống nhau ở

nhiều quốc gia, đó là: (1) Quy mơ nhân sự ; (2) Vốn sản xuất ; (3) Doanh thu
SV: Vũ Huyền Trang

12

Lớp: K13A.NH02


Chun đề tốt nghiệp

GVHD: TS. Hồng Thị Lan Hương

trung bình. Hai tiêu chí đầu tiên hay được sử dụng hơn cả, do tính ổn định
tương đối so với tiêu chí doanh thu. Quy mô doanh nghiệp là lớn hay nhỏ cịn
tùy thuộc vào trình độ phát triển kinh tế của vùng lãnh thổ hay quốc gia cũng
như mục đích phân loại trong mỗi thời điểm nhất định. Quy mô doanh nghiệp
trung bình của một nền kinh tế phát triển hơn sẽ lớn hơn và do đó giới hạn xác
định quy mơ DNVVN cũng lớn hơn. Ta có bảng số liệu sau đây:
Bảng 1.1: Tiêu chí xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam
Cơng nghiệp
Tiêu chí
DNVVN

Trong đó:
Doanh
nghiệp nhỏ

Thương mại và dịch vụ
Trong đó:
Doanh

DNVVN
nghiệp
nhỏ

Vốn sản xuất ( tỷ )

<5

<1

<2

Lao động thường
xuyên ( người )

< 300

< 50

< 200

<1
< 30

( Nguồn: Giải pháp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam – NXVB CTQG )

Số liệu ở bảng trên cho ta thấy DNVVN trong lĩnh vực cơng nghiệp là
doanh nghiệp có vốn sản xuất dưới 5 tỷ và có số lao động thường xuyên dưới
300 người, còn trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ có số vốn sản xuất dưới 2
tỷ và lao động thường xuyên dưới 200 người.

Tiêu chí xác định DNVVN được thể hiện trong Nghị định số 90/2001/NĐ
– CP ngày 23/11/2001 về trợ giúp phát triển DNVVN, Nghị định đã nêu rõ
“ Doanh nghiệp vừa và nhỏ là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập đã đăng
ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng
hoặc số lao động trung bình hàng năm khơng q 300 người ”. Căn cứ vào tình
hình kinh tế - xã hội cụ thể của từng ngành, địa phương, trong quá trình thực
hiện các biện pháp, chương trình trợ giúp có thể linh hoạt áp dụng đồng thời cả
hai chỉ tiêu vốn và lao động hoặc một trong hai chỉ tiêu nói trên. Theo Nghị
định này thì DNVVN ở Việt Nam gồm có:
+ Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo luật doanh nghiệp.
+ Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo luật doanh nghiệp Nhà
nước.
SV: Vũ Huyền Trang

13

Lớp: K13A.NH02


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS. Hoàng Thị Lan Hương

+ Các Hợp tác xã thành lập và hoạt động theo luật Hợp tác xã.
+ Các Hộ kinh doanh cá thể đăng kí theo Nghị định 02/2000/NĐ – CP
ngày 03/02/2000 của Chính phủ để đăng kí kinh doanh.
1.2.1.2. Đặc điểm của doanh nghiệp vừa và nhỏ
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam hiện nay cũng phát triển với tốc
độ tương đối nhiều như: các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu
hạn, cơng ty cổ phần…đang nhanh chóng trở thành lực lượng đáng kể trong sự

nghiệp phát triển kinh tế - xã hội.
Việc phát triển nhanh chóng các DNVVN ở các nước tư bản chủ nghĩa và
ở các nước xã hội chủ nghĩa trong thời gian gần đây là do nhiều nguyên nhân,
vì vậy ta cần hiểu rõ đặc điểm của các DNVVN:
Điểm mạnh của DNVVN:
- Doanh nghiệp vừa và nhỏ năng động, linh hoạt, sáng tạo trong kinh doanh:
Đây là một trong những ưu thế nổi bật của DNVVN so với các doanh
nghiệp lớn, ưu thế đó được thể hiện ở bộ máy quản lý gọn nhẹ, quy mô vốn
nhỏ, cơ sở vật chất không lớn…nên các doanh nghiệp này có thể dễ dàng thực
hiện chun mơn hóa nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường.
Mặt khác, các DNVVN có khả năng phản ứng nhanh trước những biến động
của thị trường, có thể chuyển đổi hướng sản xuất hay thu hẹp quy mô sản xuất
cho phù hợp với nhu cầu trên thị trường. Đây là một thế mạnh của các
DNVVN bởi các doanh nghiệp lớn thường có phương án sản xuất lâu dài, quy
mơ vốn khó có thể nhanh chóng chuyển đổi vì sẽ gây những tổn thất lớn.
- Doanh nghiệp vừa và nhỏ được tạo lập đơn giản, dễ dàng, hoạt động có
hiệu quả với chi phí cố định thấp:
Để thành lập một doanh nghiệp lớn thì vơ cùng khó khăn, phải có số vốn
đầu tư ban đầu rất lớn tuy nhiên với các DNVVN thì ngược lại, được tạo lập
một cách tương đối đơn giản, vốn đầu tư ban đầu thấp, mặt bằng sản xuất nhỏ,
khả năng thu hồi vốn cao, điều đấy trở thành ưu thế so với các doanh nghiệp
lớn khi bước vào SXKD. Với quy mô nhỏ gọn, dễ quản lý, các DNVVN linh
hoạt phát triển, có thể huy động nguồn vốn vay từ gia đình, bạn bè, người quen
dẫn đến một số doanh nghiêp được hình thành mang tính chất gia đình. Khi
gặp khó khăn, trở ngại, chủ doanh nghiệp và công nhân không phải qua nhiều
khâu trung gian, các cơng tác điều hành mang tính trực tiếp, việc kiểm tra,
SV: Vũ Huyền Trang

14


Lớp: K13A.NH02


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS. Hoàng Thị Lan Hương

giám sát được tiến hành chặt chẽ nên dễ dàng có được sự điều chỉnh phù hợp
để vượt qua khó khăn. Điều đó giúp các doanh nghiệp giảm được chi phí cố
định, tận dụng tốt lao động sẵn có.
- Có thể nhanh chóng đổi mới thiết bị, cơng nghệ, thích ứng với cuộc
cách mạng khoa học công nghệ hiện đại:
Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ là những tác động mạnh
mẽ của nó đối với nền kinh tế, trong từng phương pháp hoạt động SXKD,
trong việc trang thiết bị máy móc, tăng năng suất lao động, rút ngắn thời gian
tồn tại của một mặt hàng. Công nghệ cao hơn, sản xuất ra những mặt hàng có
nhiều ưu điểm hơn thì máy móc ln u cầu phải khấu hao nhanh để chuyển
sang sản xuất mặt hàng mới với thiết bị công nghệ mới. Như vậy với đặc điểm
nguồn vốn đầu tư ban đầu khơng lớn các DNVVN có ưu thế hơn các doanh
nghiệp lớn.
Hạn chế:
- Vốn chủ sở hữu nhỏ là một thuận lợi nhưng cũng là một khó khăn chủ
yếu của các DNVVN:
Số lượng DNVVN chiếm khoảng 97% số doanh nghiệp trong cả nước
nhưng số vốn đăng kí của các doanh nghiệp chỉ chiếm 30% tổng số vốn kinh
doanh của các doanh nghiệp trong cả nước. Sau khi luật doanh nghiệp được
ban hành, số lượng các doanh nghiệp tăng nhanh nhưng nhìn chung các doanh
nghiệp mới có số vốn đăng kí trên dưới 1 tỷ đồng, quy mơ sản xuất còn nhỏ.
Các doanh nghiệp này hoạt động chủ yếu dựa vào nguồn vốn tự có và vay trên
thị trường tài chính phi chính thức, ít được tiếp cận với các nguồn tín dụng

chính thức của các ngân hàng và các tổ chức tín dụng do khơng đảm bảo được
các điều kiện cần thiết và khơng có tài sản thế chấp. Việc thiếu vốn sẽ làm
doanh nghiệp bỏ lỡ các cơ hội kinh doanh, gặp khó khăn trong việc mua sắm
trang thiết bị máy móc, mở rộng sản xuất.
- Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam có cơng nghệ lạc hậu:
Trong bối cảnh cạnh tranh đang diễn ra gay gắt trong lĩnh vực khoa học
công nghệ thì trình độ khoa học kĩ thuật của phần lớn DNVVN Việt Nam chỉ ở
mức 7 – 9% so với 20% của thế giới. Hạn chế này cũng bắt nguồn từ việc
thiếu vốn của doanh nghiệp. Sản phẩm làm ra thường có giá trị cơng nghiệp
thấp, hàm lượng chất xám ít, giá trị thương mại và sức cạnh tranh kém so với
SV: Vũ Huyền Trang

15

Lớp: K13A.NH02


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS. Hoàng Thị Lan Hương

sản phẩm cùng loại của các quốc gia trong khu vực cũng như trên thế giới.
Tình trạng máy móc thiết bị cũ, cơng nghệ lạc hậu đã và đang là ngun nhân
chính của tình trạng lãng phí trong sử dụng năng lượng, nguyên vật liệu và ô
nhiễm môi trường, đặc biệt là trong sản xuất công nghiệp. Ngay như đối với
các doanh nghiệp đang hoạt động trong lĩnh vực dệt là lĩnh vực có nhiều khả
năng và cố gắng trong đổi mới cơng nghệ nhưng vẫn cịn gần 50% thiết bị dệt
đã sử dụng trên 20 năm và hầu như đã hết khấu hao, chất lượng hàng dệt thấp
hơn so với tiêu chuẩn quốc tế. Ngành may mặc thiết bị máy móc của ta lạc hậu
từ 5 – 7 năm, phầm mềm điều khiển lạc hậu từ 15 – 20 năm so với các nước

như Thái Lan, Trung Quốc.
- Năng lực quản lý, điều hành của người lãnh đạo và chất lượng lao
động tác nghiệp còn thấp:
Việt Nam khoảng 74% người lao động chưa học hết phổ thông và 30%
chủ doanh nghiệp chưa qua trường lớp đào tạo nào. Năng lực và hiệu quả quản
lý doanh nghiệp vẫn chưa cao. Khơng ít doanh nghiệp chưa xây dựng nội quy,
chưa thực hiện đầy đủ và nghiêm túc các quyền dân chủ của cổ đơng, của
người đóng góp, thiếu tơn trọng vai trị của hội đồng quản trị…Các doanh
nhân, các nhà quản lý doanh nghiệp chưa được đào tạo, thiếu hiểu biết đầy đủ
để quản trị doanh nghiệp trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Một số
DNVVN có vị thế độc quyền chậm cải tiến quản lý, hạ giá thành, không thực
hiện công khai, minh bạch trong quản lý đối với khách hàng cũng như trong
nội bộ doanh nghiệp. Tỷ lệ lao động được đào tạo cịn thấp, khơng đáp ứng
được u cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, lao động có trình độ cao cịn q
ít so với nhu cầu đang tăng nhanh, hiện tượng khan hiếm lao động ở khu trung
tâm công nghiệp, các khu công nghiệp khá phổ biến dẫn đến tình trạng tranh
giành lao động có chất lượng giữa các doanh nghiệp. Người lao động chưa
được đào tạo và chuẩn bị tốt về tác phong công nghiệp nên thường phải đào
tạo lại để đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp… Những hạn chế đó làm tăng chi
phí về sử dụng lao động, trong khi đó nhiều doanh nghiệp chưa có chiến lược
về nhân sự, chưa quan tâm đến đào tạo bồi dưỡng lao động.
- Doanh nghiệp vừa và nhỏ có thị trường chỉ chiếm một thị phần nhỏ,
nên họ gặp nhiều áp lực về thâu tóm, xóa sổ từ phía các doanh nghiệp lớn::
Thị trường tiêu thụ sản phẩm của các DNVVN gặp khơng ít khó khăn
SV: Vũ Huyền Trang

16

Lớp: K13A.NH02



Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS. Hoàng Thị Lan Hương

xuất phát từ nhiều nguyên nhân chủ yếu là quyền sở hữu công nghiệp chưa
được thực hiện nghiêm túc, sản phẩm dịch vụ của các doanh nghiệp luôn bị tấn
công do việc xuất hiện các mặt hàng làm giả, hàng nhái, hàng nhập lậu. Cùng
với sự độc quyền của một số doanh nghiệp lớn khiến sức cạnh tranh của
DNVVN lại càng nhỏ trên thị trường nội địa. Các DNVVN chưa thật sự chú
trọng đến việc mở rộng thị trường, chưa chú trọng đầu tư vào khâu phân tích,
dự đốn xu thế chung của thị trường để phát triển và xây dựng những chiến
lược lâu dài mà chủ yếu chỉ kinh doanh mang tính chất thời vụ đáp ứng nhu
cầu tức thì của thị trường. Đối với các doanh nghiệp luôn hướng sản phẩm của
mình chủ yếu dành cho xuất khẩu, nhiều vấn đề nảy sinh cần được khắc phục
như việc hạn chế về công nghệ dẫn đến mặt hàng xuất khẩu chưa đa dạng, chất
lượng và tính cạnh tranh chưa cao. Rất ít doanh nghiệp tham gia thị trường trên
mạng internet, giới thiệu và chào hàng, tham gia hội chợ triển lãm… Khi ký hợp
đồng thường bị ép giá qua các đối tác trung gian, việc thiếu am hiểu luật pháp
quốc tế và thương mại quốc tế cũng khiến doanh nghiệp chịu nhiều thiệt thòi.
1.2.1.3. Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế thị trường
Ở mỗi nền kinh tế của quốc gia hay vùng lãnh thổ, các DNVVN có thể
giữ vai trị ở nhiều mức độ khác nhau. Thực tế đã chứng minh DNVVN ln
giữ một vị trí quan trọng nhằm thúc đẩy và mở rộng cạnh tranh và đảm bảo ổn
định nền kinh tế. Trong xu thế hội nhập và tồn cầu hóa hiện nay thì các nước
đều chú ý hỗ trợ các DNVVN nhằm huy động tối đa các nguồn lực và tập
trung kĩ thuật, công nghệ sản xuất sản phẩm chất lượng không thua kém các
doanh nghiệp lớn. Sự phát triển chun mơn hóa, đặc biệt là mơ hình sản xuất
kiểu vệ tinh, trong đó các DNVVN là vệ tinh của các doanh nghiệp lớn tỏ ra
phù hợp và là hướng kinh doanh có hiệu quả. Đối với Việt Nam, vị trí của

DNVVN lại càng thể hiện được tầm quan trọng trong việc giải quyết những
mục tiêu kinh tế - xã hội dưới đây:
Một là, đóng góp quan trọng vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế. Các DNVVN được đánh giá là một bộ phận năng
động, hoạt động có hiệu quả của nền kinh tế. DNVVN chiếm tỷ trọng lớn trong
tổng số các doanh nghiệp, sự phát triển nhanh của các doanh nghiệp này đã
đóng góp đáng kể vào tăng trưởng kinh tế và sự gia tăng thu nhập cho các
nước. Các DNVVN ở Việt Nam cung cấp ra thị trường nhiều loại hàng hóa
SV: Vũ Huyền Trang

17

Lớp: K13A.NH02


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS. Hoàng Thị Lan Hương

khác nhau đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước. DNVVN hoạt
động đa dạng ở mọi ngành nghề, trong mọi thành phần kinh tế, sức lan tỏa của
những doanh nghiệp này vào các lĩnh vực đời sống xã hội là rất lớn. Với ưu thế
là quy mô nhỏ, các DNVVN có thể hoạt động ở trong cả các lĩnh vực mà các
doanh nghiệp lớn khơng muốn tham gia, có thể thâm nhập vào mọi ngõ ngách
thị trường mà các doanh nghiệp lớn khó có thể vươn tới nên nó có khả năng
thỏa mãn mọi nhu cầu, dịch vụ dù nhỏ nhất của mọi tầng lớp xã hội. Như nền
kinh tế đang phát triển của nước ta, DNVVN chiếm tới 97% trên tổng số doanh
nghiệp và đóng góp trên 40% GDP. Đóng góp vào ngân sách Nhà nước thơng
qua nộp thuế khoảng 64% tổng ngân sách hàng năm. Điều quan trọng hơn cả là
DNVVN có vai trị rất lớn trong mối quan hệ vệ tinh gắn kết, hỗ trợ thúc đẩy

phát triển các doanh nghiệp có quy mơ lớn hơn.
Hai là, doanh nghiệp vừa và nhỏ là nơi tạo ra nhiều việc làm chủ yếu ở
Việt Nam, góp phần giải quyết tình trạng thất nghiệp. Những năm qua cho thấy
tồn bộ các DNVVN mà phần lớn là khu vực ngoài quốc doanh tạo ra cơng ăn
việc làm chính cho tất cả các lĩnh vực với chi phí thấp, thu hút trên 50% tổng
số lao động cả nước ( Nguồn: Báo Kinh tế nông thôn - 2012 ). Tạo nguồn thu
nhập ổn định và thường xuyên cho dân cư, hình thành sự phát triển tương đối
đồng đều giữa các vùng trên đất nước, cải thiện mối quan hệ giữa các vùng
kinh tế với nhau bằng việc giảm bớt chênh lệch về thu nhập của các bộ phận
dân cư các vùng, nâng cao mức sống cho người dân.
Ba là, hình thành và phát triển đội ngũ các nhà kinh doanh năng động. Sự
xuất hiện và khả năng phát triển của mỗi doanh nghiệp phụ thuộc vào rất nhiều
những nhà sáng lập ra chúng. Do đặc thù là số lượng DNVVN rất lớn và
thường xun phải thay đổi để thích nghi với mơi trường xung quanh, phản
ứng với những tác động bất lợi do sự phát triển, xu hướng tích tụ và tập trung
hóa sản xuất. Sự sáp nhập, giải thể và xuất hiện của các DNVVN thường
xuyên diễn ra trong mọi giai đoạn. Đó là sức ép lớn buộc những người quản lý
và sáng lập ra chúng phải có tính linh hoạt cao trong quản lý và điều hành, dám
nghĩ, dám làm và chấp nhận sự mạo hiểm. Sự có mặt của đội ngũ những người
quản lý này cùng với khả năng, trình độ, nhận thức của họ về tình hình thị
trường và khả năng nắm bắt cơ hội kinh doanh sẽ tác động lớn đến hoạt động
của từng DNVVN. Họ luôn là người đi đầu trong đổi mới, tìm kiếm phương
SV: Vũ Huyền Trang

18

Lớp: K13A.NH02


Chuyên đề tốt nghiệp


GVHD: TS. Hoàng Thị Lan Hương

thức mới, đặt ra nhiệm vụ chuyển đổi cho phù hợp với mơi trường kinh doanh.
Đối với một quốc gia thì sự phát triển của nền kinh tế phụ thuộc rất lớn vào sự
có mặt của đội ngũ này, và chính đội ngũ này sẽ tạo ra một cơ cấu kinh tế năng
động, linh hoạt phù hợp với thị trường.
Bốn là, khai thác và phát huy tốt các nguồn lực tại chỗ. Từ các đặc trưng
hoạt động SXKD của DNVVN đã tạo ra cho doanh nghiệp lợi thế về địa điểm
hoạt động SXKD. Thực tế cho thấy DNVVN đã có mặt ở hầu hết các vùng, địa
phương, chính điều này đã giúp cho doanh nghiệp khai thác và tận dụng tốt các
nguồn lực tại chỗ. Chúng ta có thể chứng minh thơng qua nguồn lực lao động:
DNVVN đã sử dụng gần ½ lực lượng sản xuất lao động phi nông nghiệp
(49%) trong cả nước, tại một số vùng DNVVN còn sử dụng tối đa lực lượng
sản xuất lao động phi nông nghiệp ( Nguồn: Báo Kinh tế nơng thơn - 2012 ).
Ngồi lao động ra DNVVN cịn sử dụng nguồn tài chính của dân cư trong
vùng, nguồn nguyên liệu trong vùng để SXKD.
Năm là, doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng góp cho nền kinh tế một khối
lượng lớn hàng hóa và dịch vụ, đặc biệt là mặt hàng tiêu dùng. DNVVN đã
làm ra 40% hàng hóa tiêu dùng xuất khẩu và ngày càng chiếm tỷ trọng lớn
trong tổng sản phẩm quốc nội ( Nguồn: Báo Kinh tế nông thôn - 2012 ). Sự
phát triển đa dạng về ngành nghề, quy mơ, hình thức tổ chức kinh doanh của
DNVVN đã góp phần to lớn trong việc lấp chỗ trống cho những thiếu hụt từ
khu vực kinh tế quốc doanh phát triển sản xuất, tạo điều kiện thu hút vốn đầu
tư nước ngồi, đóng góp đáng kể cho quỹ tiêu dùng, đáp ứng nhu cầu xuất
khẩu, đặc biệt là mặt hàng tiểu thủ công nghiệp.
Kết luận: Qua các phân tích ở trên chúng ta có thể thấy rõ vị trí quan
trọng của DNVVN trong việc huy động tối đa vào nguồn lực SXKD, sản xuất
hàng tiêu dùng, xuất khẩu, giải quyết việc làm và nộp ngân sách cho Nhà nước.
Các DNVVN đang là động lực cho phát triển kinh tế, đẩy nhanh quá trình

chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Góp phần tạo cơng ăn việc làm và thúc đẩy sản
xuất nơng nghiệp, hình thành những tụ điểm, cụm công nghiệp để tác động
chuyên môn hóa nơng nghiệp theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Vì
những lý do đó nên Chính phủ đã ban hành Nghị định số 90/2001/NĐ – CP về
trợ giúp phát triển DNVVN; Chỉ thị số 40/2005/CT – TTg về việc tiếp tục đẩy
mạnh công tác trợ giúp phát triển DNVVN; Chỉ thị số 09/2005/CT - TTg về
SV: Vũ Huyền Trang

19

Lớp: K13A.NH02


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS. Hoàng Thị Lan Hương

tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi và hỗ trợ doanh nghiệp phát triển.
Việc khuyến khích, hỗ trợ các DNVVN này đã tạo điều kiện cho các DNVVN
phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng hoạt động trong thời gian qua.
Nhờ vậy thực hiện thành công chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo
cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế nước ta.
1.2.2. Những vấn đề ngân hàng thương mại cần lưu ý khi cho vay đối
với doanh nghiệp vừa và nhỏ
Hiện nay, các DNVVN chưa thật sự quan tâm đến việc minh bạch tài
chính khiến cho các ngân hàng thiếu niềm tin vào doanh nghiệp và dè dặt trong
cho vay. Các NHTM Việt Nam hiện nay cho vay chủ yếu dựa trên tài sản đảm
bảo. Điều này là cần thiết nhưng đôi khi lại hạn chế khả năng phát triển của
doanh nghiệp. Các doanh nghiệp này vừa cần nguồn vốn trung và dài hàn để
mở rộng nhà xưởng, nâng cấp máy móc thiết bị, vừa cần nguồn vốn ngắn hạn

để sản xuất hàng xuất khẩu. Vì vậy trong nhiều trường hợp giá trị tài sản
không đủ đảm bảo cho các khoản vay, dẫn đến việc các ngân hàng không thể
đáp ứng đủ nhu cầu vốn cho doanh nghiệp.
Hơn nữa, do hiệu quả không cao mà độ rủi ro lại rất lơn nên các NHTM
còn e ngại khi cho các DNVVN vay. Các DNVVN chưa biết cách xây dựng dự
án, khả năng tài chính kế tốn cịn hạn chế, các bản báo cáo tài chính, sổ sách
kế tốn chưa rõ ràng minh bạch nên nhìn vào khơng đánh giá được năng lực
của DNVVN. Và đây là rủi ro rất lớn khi NHTM cho vay.
Chính vì lý do đó nên muốn cho các DNVVN vay vốn các NHTM thường
yêu cầu phải có tài sản thế chấp. Nhưng tài sản của DNVVN thường không lớn
nên vấn đề NHTM cho DNVVN vay là không dễ.
1.3. PHÁT TRIỂN CHO VAY DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.3.1. Quan điểm về phát triển cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ
Phát triển cho vay nói chung là vấn đề ln được quan tâm của các ngân
hàng, vì dư nợ cho vay tăng tức là doanh thu tăng và theo đó lợi nhuận đạt
được tăng, vị trí của ngân hàng ngày càng được nâng cao trên thị trường.
Việc mở rộng cho vay song song với việc nâng cao chất lượng tín dụng có
ý nghĩa rất lớn và là vấn đề sống còn đối với sự tồn tại và phát triển của ngân
hàng. Ngân hàng là một doanh nghiệp kinh doanh loại hàng hóa đặc biệt là
SV: Vũ Huyền Trang

20

Lớp: K13A.NH02


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS. Hoàng Thị Lan Hương


tiền, là nơi cung cấp vốn, đồng thời cũng là nơi tiêu thụ vốn của khách hàng.
Tất cả hoạt động mua bán này được thông qua một số công cụ nghiệp vụ của
ngân hàng. Phát triển cho vay được thể hiện ở hai khía cạnh, đó là: Phát triển
về số lượng và Phát triển về chất lượng.
+ Phát triển về số lượng là ngân hàng thực hiện các biện pháp nhằm tăng
các chỉ tiêu phản ánh sự gia tăng quan hệ đối với các DNVVN như: số các
DNVVN có quan hệ tín dụng với ngân hàng, số dư nợ, tỷ trọng dư nợ, tốc độ
tăng trưởng dư nợ…
+ Phát triển về chất lượng nghĩa là ngân hàng làm tăng chất lượng và hiệu
quả của các món vay, phát triển về mặt chất lượng không phản ánh trực tiếp sự
phát triển cho vay với các DNVVN nhưng nó lại rất quan trọng để đánh giá sự
an toàn và hiệu quả của việc phát triển cho vay.
Do đó, để tìm cách tối đa hóa lợi nhuận thì phát triển cho vay phải đi liền
với giảm thiểu rủi ro trong hoạt động kinh doanh và buộc các NHTM phải
nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ và phát triển cho vay đối với những đối
tượng khách hàng mà khi cấp tiền vay thì rủi ro nhỏ nhất. Trong đó các
DNVVN là đối tượng đầy tiềm năng.
Việc phát triển hoạt động cho vay của NHTM có vai trò rất quan trọng
đối với DNVVN, với nền kinh tế và với chính bản thân ngân hàng đó. Cụ thể
như sau:
- Đối với DNVVN phát triển hoạt động cho vay của NHTM giúp cho
doanh nghiệp khắc phục được nhược điểm vốn có của mình: khả năng tài
chính cịn yếu, máy móc thiết bị cịn lạc hậu, một vấn đề khá nan giải đối với
DNVVN thì bây giờ đã có tín dụng ngân hàng.
• Tín dụng ngân hàng là nguồn tài trợ quan trọng cho các DNVVN.
• Tín dụng ngân hàng giúp các DNVVN nâng cao hiệu quả SXKD.
• Tín dụng ngân hàng tăng khả năng cạnh tranh và uy tín của các
DNVVN.
Hoạt động cho vay của ngân hàng cịn giúp các DNVVN mở rộng giao

lưu quốc tế, hội nhập với thế giới. Tiếp nữa trình độ của các DNVVN cịn yếu,
khả năng nắm bắt thơng tin cịn thiếu, thì bây giờ đã có ngân hàng hỗ trợ tư
vấn. Qua đó, NHTM khơng chỉ là nhà cung cấp vốn thơng thường mà còn là
một người bạn đồng hành đáng tin cậy của mỗi doanh nghiệp, giúp cho
SV: Vũ Huyền Trang

21

Lớp: K13A.NH02


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS. Hoàng Thị Lan Hương

DNVVN đứng vững và ngày càng đóng vai trị quan trọng trong sự phát triển
chung của nền kinh tế, xã hội.
- Đối với ngân hàng, phát triển hoạt động cho vay DNVVN có những ích
lợi sau:
• Phân tán được rủi ro.
• Làm tăng doanh thu và lợi nhuận từ lãi vay và phí dịch vụ khác.
• Giúp cho ngân hàng ngày càng hoàn thiện hơn cả về đội ngũ cán bộ và
chất lượng dịch vụ.
- Đối với nền kinh tế:
• Là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, tín dụng với sự đa dạng về hình thức
và chủng loại sẽ góp phần điều hòa vốn trong nền kinh tế, đồng thời tăng
cường chất lượng hoạt động tín dụng sẽ giảm thiểu lượng tiền trong lưu thơng,
điều đó khơng chỉ giải quyết mối quan hệ cung cầu về vốn trong nền kinh tế,
mà cịn tạo điều kiện để mở rộng tín dụng, mở rộng các hình thức thanh tốn
khơng dùng tiền mặt, từ đó tiết kiệm chi phí lưu thơng cho xã hội.

• Tạo đà cho việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh, tăng uy tín cho
ngân hàng, cho quốc gia, đồng thời góp phần kiềm chế và đẩy lùi lạm phát,
thực hiện ổn định tiền tệ.
• Thực hiện các quy hoạch, chương trình phát triển kinh tế của tồn bộ
nền kinh tế quốc dân của từng vùng, từng địa phương, từng ngành kinh tế.
• Góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, xóa
đói giảm nghèo, khơi dậy các tiềm năng phát triển kinh tế địa phương, phát
huy và làm sống lại nhiều ngành nghề truyền thống.
• Góp phần mở rộng sản xuất và lưu thơng hàng hóa, tăng hiệu quả sản
xuất xã hội, đảm bảo sự phát triển cân đối giữa các ngành, các vùng trong cả
nước, ổn định và phát triển nền kinh tế.
1.3.2. Chỉ tiêu phản ánh sự phát triển cho vay doanh nghiệp vừa và
nhỏ
Vì các chỉ tiêu định tính rất khó xác định hiệu quả thực hiện nên người ta
thường sử dụng các chỉ tiêu định lượng làm các chỉ tiêu chủ yếu để đánh giá
chất lượng của hoạt động cho vay. Đây là các chỉ tiêu rất quan trọng với các
NHTM, thơng qua các chỉ tiêu này, ngân hàng có thể xác định một cách tương
đối chính xác về chất lượng cho vay DNVVN của NHTM là phát triển hay
SV: Vũ Huyền Trang

22

Lớp: K13A.NH02


×