PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Những năm qua, hội nhập kinh tế quốc tế đang là một xu hướng phát
triển mạnh mẽ của bất kỳ quốc gia nào trên mọi lĩnh vực. Việt Nam cũng
không ngoài xu thế đó, Việt Nam đã tham gia vào rất nhiều tổ chức kinh tế
quốc tế mà mới gần đây nhất là Tổ chức thương mại thế giới( WTO). Việc hội
nhập kinh tế như vậy đã đặt ra cho mỗi nước những cơ hôi song cũng nhiều
thách thức. Trong lĩnh vực tài chính- tiền tệ thì Ngân hàng thương
mại( NHTM) là một tổ chức có hoạt động gần gũi nhất đối với tất cả các
thành phần trong nền kinh tế. Tại Việt Nam khi mà các dịch vụ của các
NHTM còn đơn điệu, nghèo nàn, tính tiện lợi chưa cao thì khó khăn mà các
NHTM của chúng ta gặp phải là rất lớn.
Trong các hoạt động của ngân hàng thương mại thì cho vay là hoạt động
có vai trò hết sức quan trọng và mang lại cho ngân hàng nhiều lợi nhuận nhất.
Cho vay là hình thức cấp tín dụng cho bất cứ ai có nhu cầu vốn mà thoả mãn
điều kiện vay vốn của ngân hàng. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay cho vay
của các ngân hàng thương mại đối với các DNVVN còn rất hạn chế; trong khi
đó các DNVVN đang và sẽ rất phát triển, nhưng hiện nay đang gặp khó khăn
nhiều mặt như thiết bị công nghệ lạc hậu, trình độ tổ chức và quản lý kém,
năng suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm kém, giá thành sản phẩm cao,
thị trường không ổn định, bị hàng hoá nhập lậu và hàng hóa của các doanh
nghiệp lớn cạnh tranh, trong đó khó khăn lớn nhất đối với các DNVVN là
thiếu vốn. Là một sinh viên thực tập tại NHNo & PTNT Thanh Xuân, nhận
thức thấy được vấn đề này rất cần thiết nên em đã chọn đề tài: “ Mở rộng cho
vay doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và
phát triển nông thôn quận Thanh Xuân” làm đề tài chuyên đề tốt nghiệp.
Trong bài viết này em đã nghiên cứu tình hình cho vay đối với các DNVVN
SV: NguyÔn Thanh LÞch Ng©n hµng 45B
tại chi nhánh NHNo & PTNT Thanh Xuân, tìm hiểu những hạn chế và
nguyên nhân, từ đó xin đưa ra một số ý kiến của mình nhằm mở rộng hơn nữa
việc cho vay của chi nhánh đối với loại hình DNVVN.
2. Mục đích nghiên cứu
- Hệ thống hóa những lý luận về NHTM, DNVVN, và cho vay của ngân
hàng thương mại.
- Đánh giá hoạt động cho vay của chi nhánh NHNo & PTNT Thanh
Xuân đối với các DNVVN, rút ra những hạn chế và nguyên nhân của những
hạn chế trong hoạt động này. Từ đó đưa ra những giải pháp và kiến nghị
nhằm mở rộng cho vay DNVVN tại chi nhánh.
3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu các hoạt động liên quan đến cho vay DNVVN
của chi nhánh NHNo & PTNT Thanh Xuân qua các năm 2004-2006.
4. Phương pháp nghiên cứu
Vận dụng các phương pháp điều tra, thống kê, so sánh, phân tích các số
liệu thực tiễn, từ đó đưa ra những nhận xét và các biện pháp tối ưu.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở bài và kết luận, bài viết gồm 3 phần:
Chương 1: Tổng quan về cho vay của ngân hàng thương mại đối với
doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Chương 2: Thực trạng cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng
nông nghiệp và phát triển nông thôn quận Thanh Xuân.
Chương 3: Giải pháp mở rộng cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ tại
ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn quận Thanh Xuân.
Em xin chân thành cảm ơn sự tận tình hướng dẫn của thầy TS. Trần
Đăng Khâm cùng với các cô chú, anh chị cán bộ tại ngân hàng nông nghiệp
và phát triển nông thôn quận Thanh Xuân đã giúp đỡ em trong quá trình thực
tập cũng như quá trình xây dựng và hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này.
SV: NguyÔn Thanh LÞch Ng©n hµng 45B
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
ĐỐI VỚI DNVVN
1.1. Khái quát về ngân hàng thương mại.
1.1.1. Các quan điểm về ngân hàng thương mại
Theo quan điểm của K. Marx, ngân hàng là một loại hình doanh nghiệp
đặc biệt hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ.
Luật các tổ chức tín dụng của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
thì quy định rằng: Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và
dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số
tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán.
Ở Mỹ, ngân hàng thương mại được coi là công ty kinh doanh tiền tệ,
chuyên cung cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch
vụ tài chính.
Ở Pháp, ngân hàng thương mại được quan niệm là xí nghiệp thường
xuyên nhận tiền gửi của công chúng và sử dụng số tiền đó vào nghiệp vụ chiết
khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính.
Ở Ấn Độ, thì ngân hàng thương mại được định nghĩa là: cơ sở nhận các
khoản tiền ký thác để cho vay hay tài trợ đầu tư.
Tóm lại có thể nói rằng: Ngân hàng thương mại là tổ chức tài chính cung
cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng- đặc biệt là tiết kiệm, tín
dụng, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với
bất kỳ tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
1.1.2. Sự ra đời của ngân hàng thương mại
Các ngân hàng thực sự đã ra đời từ thế kỷ XV. Hai ngân hàng đầu tiên
trên thế giới là Ngân hàng Barcelona ra đời vào năm 1401 và Ngân hàng
SV: NguyÔn Thanh LÞch Ng©n hµng 45B
Valence ra đời 1409.
Làm nghề ngân hàng đầu tiên là những người thợ vàng, những người làm
nghề đổi tiền và những người cho vay nặng lãi, với những hoạt động ngân
hàng cổ điển. Ban đầu, những người kinh doanh tiền tệ đã dùng vốn tự có của
mình để cho vay, nhưng khi họ thấy rằng: Thường xuyên có người gửi tiền
vào và có người lấy tiền ra, song tất cả người gửi tiền không rút ra cùng lúc.
Và do đó trong ngân hàng luôn có một lượng tiền dư thường xuyên, thì họ đã
dùng lượng tiền này để cho vay. Hoạt động cho vay tạo nên lợi nhuận lớn cho
ngân hàng. Do đó, các ngân hàng thời kỳ này tìm cách mở rộng cho vay. Từ
việc phục vụ cho vay với các cá nhân mà chủ yếu là quan lại địa chủ ...nhằm
mục đích phục vụ tiêu dùng sang mở rộng cho vay với vua chúa, nhằm tài trợ
một phần cho chi tiêu chiến tranh. Hình thức cho vay là thấu chi. Và khi mà
chứng chỉ tiền gửi bị lạm dụng – được phép lưu thông như vàng, các ngân
hàng đã phát hành chứng chỉ khống để cho vay. Thực trạng này đã đẩy nhiều
ngân hàng đến chỗ mất khả năng thanh toán và phá sản.
Tình trạng này đã gây khó khăn cho hoạt động thanh toán và ảnh hưởng
tới việc làm ăn của các thương gia. Trước tình hình đó, nhiều nhà buôn tự lập
ngân hàng và gọi là Ngân hàng thương mại. Ngân hàng thương mại đã ra đời
từ đó.
Như vậy, ngân hàng thương mại ra đời xuất phát từ vận động của tư bản
thương nghiệp, gắn liền với quá trình vận động của tư bản thương nghiệp.
1.1.3. Chức năng của ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại có các chức năng sau:
1.1.3.1. Trung gian tài chính
Ngân hàng là một trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển
tiết kiệm thành đầu tư, đòi hỏi sự tiếp xúc với hai loại cá nhân và tổ chức
trong nền kinh tế.
SV: NguyÔn Thanh LÞch Ng©n hµng 45B
- loại một: Các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu, tức là chi
tiêu cho tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu nhập và vì thế họ là những người
cần bổ sung vốn.
- loại hai: các cá nhân và tổ chức thặng dư trong chi tiêu, tức là thu nhập
hiện tại của họ lớn hơn các khoản chi tiêu cho hàng hoá, dịch vụ và do vậy
họ có tiền để tiết kiệm.
Sự tồn tại của hai loại cá nhân và tổ chức trên hoàn toàn độc lập với ngân
hàng. Điều tất yếu là tiền sẽ chuyển từ nhóm thứ hai sang nhóm một nếu cả
hai cùng có lợi. Nếu dòng tiền di chuyển với điều kiện phải quay trở lại với
một lượng lớn hơn trong một khoảng thời gian nhất định thì đó là quan hệ tín
dụng. Đây là quan hệ tài chính trực tiếp. Tuy nhiên, quan hệ tài chính trực tiếp
này bị giới hạn bởi quy mô, thời gian và không gian. Điều này làm nảy sinh
quan hệ tài chính gián tiếp. Thông qua quan hệ tài chính gián tiếp mà cụ thể là
thông qua ngân hàng sẽ làm giảm chi phí cho người đầu tư( người cho vay),
đồng thời giải quyết được mâu thuẫn giữa người đi vay và người cho vay
thông qua việc đa dạng hoá các danh mục đầu tư của mình.
Ngoài ra, các ngân hàng thương mại không chỉ thực hiện là trung gian tín
dụng mà còn cung cấp các dịch vụ tài chính như bảo lãnh, tư vấn, uỷ thác và
các dịch vụ tiện ích khác.
1.1.3.2. Tạo phương tiện thanh toán
Tiền- vàng có chức năng quan trọng là phương tiện thanh toán. Các ngân
hàng thương mại đã không tạo ra được tiền kim loại, ngân hàng chỉ tạo ra
được bút tệ và các phương tiện thanh toán. Ngay từ buổi đầu ra đời các ngân
hàng của những người thợ vàng đã tạo ra được phương tiện thanh toán, khi
phát hành giấy nhận nợ với khách hàng. Giấy nhận nợ do ngân hàng phát
hành với nhiều ưu điểm đã được chấp nhận rộng rãi và trở thành phương tiện
SV: NguyÔn Thanh LÞch Ng©n hµng 45B
thanh toán chính. Cơ sơ cho việc tạo ra phương tiện thanh toán của các ngân
hàng này là số lượng tiền kim loại mà ngân hàng đang nắm giữ. Với nhiều ưu
điểm như thế, giấy nợ của ngân hàng đã dần thay thế tiền kim loại làm
phương tiện lưu thông, cất trữ và nó trở thành tiền giấy.
Trong thời kì đầu, các ngân hàng đều có quyền in ra giấy bạc của riêng
mình để cho vay, do đó tồn tại nhiều loại tiền giấy trong lưu thông, gây khó
khăn trong vấn đề quản lý. Nhưng khi ngân hàng trung ương ra đời, đã chấm
dứt tình trạng đó. Lúc này việc phát hành tiền tập trung duy nhất vào ngân
hàng trung ương. Khi đó chức năng tạo tiền của ngân hàng trung ương được
thể hiện như là chức năng chính, ngân hàng trung ương thông qua nghiệp vụ
phát hành tiền đã tạo ra lượng tiền cơ sở. Và trên cơ sở đó hệ thống ngân hàng
thương mại đã tạo ra phương tiện thanh toán khi tiến hành cho vay. Khi ngân
hàng cho vay số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tăng
lên, khách hàng có thể dùng nó để mua hàng hoá dịch vụ. Do đó, bằng việc
cho vay các ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán. Hệ thống ngân hàng
cũng tạo ra phương tiện thanh toán khi các khoản tiền gửi được mở rộng từ
ngân hàng này sang ngân hàng khác trên cơ sở cho vay. Khi khách hàng tại
một ngân hàng sử dụng khoản tiền vay để chi trả thì sẽ tạo nên một khoản thu,
tức là sẽ làm tăng số dư của khách hàng khác tại một ngân hàng khác. Từ đó,
tạo ra các khoản cho vay mới. Và cứ như thế toàn bộ hệ thống sẽ tạo ra khối
lượng tiền gửi gấp bội.
1.1.3.3. Trung gian thanh toán
Thay mặt khách hàng ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hóa
dịch vụ. Để việc thanh toán nhanh chóng và thuận tiện, ngân hàng cung cấp
cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán như: uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm
thu,séc, thanh toán bằng thẻ…ngoài ra các ngân hàng còn thanh toán bù trừ
SV: NguyÔn Thanh LÞch Ng©n hµng 45B
lẫn nhau thông qua ngân hàng trung ương hoặc qua trung tâm thanh toán.
1.1.3.4. Thủ quỹ của doanh nghiệp
Ngân hàng có chức năng giống như thủ quỹ của các doanh nghiệp. Ngân
hàng là người nhận tiền gửi của doanh nghiệp, ngân hàng tiến hành cho vay
đối với các doanh nghiệp, và thực hiện thanh toán cho các doanh nghiệp.
1.1.4. Vai trò của ngân hàng thương mại
Hoạt động của ngân hàng thương mại có ảnh hưởng rất lớn đối với sự ổn
định và phát triển của nền kinh tế.
1.1.4.1. Tích tụ, tập trung vốn, phân phối vốn hiệu quả.
Các ngân hàng thương mại thông qua chức năng trung gian tài chính của
mình tích tụ, tập trung vốn, phân phối vốn có hiệu quả cho nền kinh tế, nâng
cao đời sống xã hội, góp phần làm cho quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra
liên tục và ổn định. Đặc biệt đối với các nước mà thị trường chứng khoán
chưa phát triển thì vai trò này của ngân hàng thương mại là rất quan trọng.
Ngân hàng tham gia vào sự ổn định và phát triển của thị trường tài chính.
Ngay cả những nước có thị trường chứng khoán phát triển, thì của ngân hàng
cũng góp phần vào sự phát triển của thị trường tài chính thông qua các dịch
vụ tư vấn đầu tư, cung cấp thông tin.
1.1.4.2. Chuyển thời hạn vốn
NHTM có vai trò chuyển thời hạn vốn. Ngân hàng huy động vốn trong
nền kinh tế, bao gồm nhiều loại vốn có thời hạn khác nhau như vốn ngắn hạn,
trung và dài hạn. Sau đó khi cho vay trong nền kinh tế ngân hàng sẽ có những
điều chỉnh linh hoạt về thời hạn để cho vay theo nhu cầu của nền kinh tế. Đây
là một vai trò quan trọng của ngân hàng trong việc giải quyết sự lệch pha về
các nguồn vốn trong nền kinh tế.
SV: NguyÔn Thanh LÞch Ng©n hµng 45B
1.1.4.3. Cung cấp các dịch vụ tài chính đa dạng
NHTM cung cấp các dịch vụ tài chính đa dạng. Các dịch vụ tài chính mà
NHTM thực hiện bao gồm dịch vụ uỷ thác và tư vấn, dịch vụ môi giới đầu tư
chứng khoán, các dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ đại lý. Đó là những dịch vụ đem
lại rất nhiều lợi ích và giúp cho nền kinh tế năng động hơn.
1.1.4.4. Nâng cao hiệu quả sản xuất và lưu thông hàng hóa
NHTM nâng cao hiệu quả sản xuất và lưu thông hàng hoá. Thông qua
các hoạt động của mình như nhận gửi, cho vay, thanh toán ... ngân hàng cung
cấp toàn bộ thông tin cho nền kinh tế. Thông tin từ phía ngân hàng là những
thông tin chính xác nhất. Do đó, ngân hàng đã tham gia vào việc kiểm soát
các hoạt động của nền kinh tế. Từ đó làm cho quá trình sản xuất và lưu thông
hàng hoá đươc nâng cao.
1.1.5. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
1.1.5.1. Hoạt động huy động vốn
Ngân hàng kinh doanh tiền tệ dưới hình thức huy động, cho vay, đầu tư
và cung cấp các dịch vụ khác. Huy động vốn- hoạt động tạo nguồn vốn cho
ngân hàng thương mại- đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng tới chất lượng
hoạt động của ngân hàng. Nguồn vốn của ngân hàng bao gồm vốn chủ sở hữu
và vốn nợ:
a) Vốn chủ sở hữu
Để bắt đầu hoạt động ngân hàng chủ ngân hàng phải có một khối lượng
vốn nhất định. Đây là loại vốn ngân hàng có thể sử dụng lâu dài, hình thành
nên trang thiết bị, nhà cửa cho ngân hàng. Nguồn hình thành và nghiệp vụ
hình thành loại vốn này rất đa dạng tuỳ theo tính chất sở hữu, năng lực tài
chính của chủ ngân hàng, yêu cầu và sự phát triển của thị trường.
Nguồn vốn hình thành ban đầu
Tuỳ theo tính chất của mỗi ngân hàng mà nguồn gốc hình thành vốn ban
đầu khác nhau. Nếu là ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước, ngân sách nhà nước
SV: NguyÔn Thanh LÞch Ng©n hµng 45B
cấp vốn( vốn của nhà nước). Nếu là ngân hàng cổ phần, việc phát hành cổ
phiếu cũng là một hoạt động huy động vốn, các cổ đông đóng góp thông qua
mua cổ phần hoặc cổ phiếu. Ngân hàng liên doanh do các bên liên doanh góp;
ngân hàng tư nhân là vốn thuộc sở hữu tư nhân.
Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động
Trong quá trình hoạt động, ngân hàng gia tăng vốn của chủ theo nhiều
phương thức khác nhau tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể.
Nguồn từ lợi nhuận: Trong điều kiện thu nhập ròng lớn hơn không, chủ ngân
hàng có xu hướng gia tăng vốn của chủ bằng cách chuyển một phần thu nhập
ròng thành vốn đầu tư.
Nguồn bổ sung từ phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm…để mở
rộng quy mô hoạt động, hoặc để đổi mới trang thiết bị, hoặc để đáp ứng yêu
cầu gia tăng vốn của chủ do ngân hàng nhà nước quy định…Đặc điểm của
hình thức huy động này là không thường xuyên, song giúp cho ngân hàng có
được lượng vốn sở hữu lớn vào lúc cần thiết.
Các quĩ
Ngân hàng có nhiều quĩ. Mỗi quĩ có mục đích riêng. Trước tiên là quĩ dự
phòng tổn thất. Quỹ này được trích lập hàng năm và được tích luỹ lại nhằm bù
đắp những tổn thất có thể xảy ra. Quĩ bảo toàn vốn nhằm bù đắp hao mòn của
vốn dưới tác động của lạm phát...
Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần
Các khoản vay trung và dài hạn của ngân hàng thương mại mà có khả
năng chuyển đổi thành vốn cổ phần có thể được coi là một bộ phận của vốn
chủ sở hữu của ngân hàng( vốn bổ sung).
b) Vốn nợ
Tiền gửi và các nghiệp vụ huy động tiền gửi
Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của ngân
hàng thương mại. Khi một ngân hàng bắt đầu hoạt động, nghiệp vụ đầu tiên là
SV: NguyÔn Thanh LÞch Ng©n hµng 45B
mở các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng, bằng
cách đó ngân hàng huy động tiền của các doanh nghiệp, các tổ chức và của
dân cư.
Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn
tiền của ngân hàng. Nguồn tiền gửi bao gồm có tiền gửi thanh toán; tiền gửi
có kỳ hạn của các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội; tiền gửi tiết kiệm của dân
cư, tiền gửi của các ngân hàng khác. Để gia tăng tiền gửi trong môi trường
cạnh tranh và để có được nguồn tiền có chất lượng ngày càng cao, các ngân
hàng đã đưa ra và thực hiện nhiều hình thức huy động khác nhau.
Tiền vay
Tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Tuy nhiên,
khi cần, ngân hàng thường vay mượn thêm.
Vay ngân hàng nhà nước
Đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của
ngân hàng thương mại. Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ( Thiếu dự trữ bắt
buộc, dự trữ thanh toán), ngân hàng thương mại thường vay ngân hàng nhà
nước. Hình thức cho vay của NHNN là tái chiết khấu( hoặc tái cấp vốn).
Vay các tổ chức tín dụng khác
Đây là nguồn các ngân hàng vay mượn lẫn nhau và vay của các tổ chức
tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng. Các ngân hàng đang có dự trữ
vượt yêu cầu do có kết dư gia tăng bất ngờ về các khoản tiền huy động hoặc
giảm cho vay sẽ có thể sẵn lòng cho các ngân hàng khác vay để tím kiếm lãi
suất cao hơn. Ngược lại, các ngân hàng đang thiếu hụt dự trữ có nhu cầu vay
mượn tức thời để đảm bảo thanh khoản. Như vậy nguồn vay mượn từ các
ngân hàng khác là để đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách và trong
nhiều trường hợp nó bổ sung và thay thế cho nguồn vay từ NHNN.
Vay trên thị trường vốn
Giống như các doanh nghiệp khác, các doanh nghiệp cũng vay mượn
SV: NguyÔn Thanh LÞch Ng©n hµng 45B
bằng các phát hành các giấy nợ( kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu) trên thị trường
vốn. Rất nhiều ngân hàng thương mại thiếu nguồn tiền gửi trung và dài hạn
dẫn đến không đáp ứng được nhu cầu cho vay trung và dài hạn. Do vậy, các
khoản vay trung và dài hạn nhằm bổ sung cho các nguồn tiền gửi, đáp ứng
nhu cầu cho vay và đầu tư trung dài hạn.
vốn nợ khác
loại này bao gồm nguồn vốn uỷ thác, nguồn trong thanh toán, các nguồn
khác.
1.1.5.2. Hoạt động sử dụng vốn
Là tổ chức kinh doanh tiền tệ nên NHTM không chỉ huy động vốn mà
còn phải sử dụng nguồn vốn đó sao cho có mức sinh lời lớn nhất. Sử dụng
vốn như thế nào không chỉ có ý nghĩa với ngân hàng mà còn đối với toàn bộ
nền kinh tế. Các hoạt động sử dụng vốn của NHTM chủ yếu bao gồm: dự trữ,
cho vay, đầu tư.
Dự trữ
Dự trữ hay còn gọi là ngân quỹ. Dự trữ của NHTM là những tài khoản có
tính thanh khoản cao, được thiết lập nhằm duy trì khả năng chi trả và các yêu
cầu khác của NHTM; bao gồm tiền mặt trong két, tiền gửi tại NHTW và tiền
gửi tại các tổ chức tài chính khác. Dự trữ của NHTM là tài sản không sinh lời,
song lại có tính thanh khoản cao, đáp ứng nhu cầu chi trả thường xuyên của
NHTM, đồng thời giúp cho nền kinh tế ổn định, tránh cho nền kinh tế không
bị rối loạn khi mà các NHTM không đáp ứng được yêu cầu chi trả.
Cho vay
Cho vay là việc mà ngân hàng sẽ đưa cho khách hàng một khoản tiền với
cam kết hoàn trả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định. Cho vay là một
hoạt động rất quan trọng của tín dụng. Ngân hàng không thể huy động vốn rồi
để yên đó mà phải làm cho số vốn đó sinh lãi. NHTM có nhiều hoạt động để
SV: NguyÔn Thanh LÞch Ng©n hµng 45B
tạo ra lợi nhuận nhưng cho vay vẫn là hoạt động chủ yếu nhất. Trong hoạt
động cho vay bao gồm nhiều phương thức cho vay:
Thấu chi
Thấu chi là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay
được chi trội trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất
định và trong khoảnh thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức
thấu chi.
số lãi phải trả = Lãi suất thấu chi* Thời gian thấu chi*Số tiền thấu chi
Cho vay trực tiếp từng lần
Cho vay trực tiếp từng lần là hình thức cho vay tương đối phổ biến của
ngân hàng đối với các khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên,
không có điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi.
Cho vay theo hạn mức
Đây là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thoả thuận cấp cho khách
hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kì hoặc cuối kì.
Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu
vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng.
Cho vay luân chuyển
Cho vay luân chuyển là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của
hàng hoá. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn. Ngân hàng có thể cho
vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Cho vay luân
chuyển thường áp dụng đối với các doanh nghiệp thương nghiệp hoặc doanh
nghiệp sản xuất có chu kỳ tiêu thụ ngắn ngày, có quan hệ vay trả thường
xuyên với ngân hàng.
Cho vay trả góp
Cho vay trả góp là hình thức tín dụng, theo đó ngân hàng cho phép khách
hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thoả thuận. Cho vay trả
SV: NguyÔn Thanh LÞch Ng©n hµng 45B
gúp thng c ỏp dng i vi cỏc khon vay trung v di hn.
Cho vay giỏn tip
Ngõn hng cho vay thụng qua cỏc t chc trung gian, nh qua cỏc nhúm
sn xut, hi nụng dõn, hi cu chin binh, hi ph n
u t
L mt n v kinh doanh tin t cho nờn NHTM l ngi nm vng
nhng thụng tin cng nh tỡnh hỡnh kinh t rừ nht nờn cú th núi cỏc NHTM
l ngi u t cú hiu qu nht. Cỏc NHTM thng dựng vn s hu ca
ngõn hng v cỏc vn di hn u t vo cỏc cụng ty liờn doanh, cỏc d
ỏn; tr thnh c ụng ca cụng ty c phn. Vit Nam thỡ cỏc NHTM ch
c nm gi di 10% c phiu ca cụng ty.
1.1.5.3. Hot ng trung gian
Ngoi hot ng cho vay cỏc NHTM cũn thc hin mt s nghip v
trung gian nhm ti a húa li nhun cho ngõn hng. Cỏc nghip v trung
gian nh chuyn tin, t vn u t, mụi gii u t, u thỏc, gii ngõn
1.2. Khỏi quỏt v doanh nghip va v nh
1.2.1. Khỏi nim v doanh nghip va v nh
Doanh nghip va v nh hiu theo ngha thụng thng l nhng c ơ
sở sn xut kinh doanh tng i nh vi quy mụ khụng ln lm. Tuy
nhiờn ể cú thể núi chớnh xỏc th no l quy mụ nh, khụng ln lm thỡ cú
rt nhiu ý kin khỏc nhau giữa cỏc nh kinh t trong v ngoi nc. Nhỡn
chung để xỏc nh doanh nghip va v nh ngi ta thng cn c vo
cỏc tiờu thc: Tổng s vn u t cho sn xut kinh doanh, giỏ tr ti sn
c nh, s lao ng c s dng thng xuyờn, giỏ tr bng tin ca sn
phẩm, dch v hoc li nhun....Trờn c s ú mi nc cú mt s la
chn tiờu thc khỏc nhau để đa ra doanh nghip va v nh.
Ngy 23/11/2001 chớnh ph ó ban hnh ngh nh 90/N/-CP/2001
SV: Nguyễn Thanh Lịch Ngân hàng 45B
về “Trợ giúp phát triÓn doanh nghiệp vừa và nhỏ”.Theo nghị định này thì
định nghĩa doanh nghiệp vừa và nhỏ được đưa ra như sau:“Doanh nghiệp
vừa và nhỏ là cơ së sản xuất kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh
theo phương pháp hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc
số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người. Căn cứ vào tình
hình kinh tế xã héi cụ thÓ của ngành, địa phương, trong quá trình thực
hiện các biện pháp, chư¬ng trình hỗ trợ giúp có thÓ linh hoạt áp dụng
đồng thời cả hai chỉ tiêu vốn và lao động hoặc một trong hai chỉ tiêu nói
trên”.
Bảng 1.1: Một số tiêu chí xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ đã
được áp dụng ở Việt Nam
Cơ quan tæ chức
đưa ra tiêu chí
Vốn Doanh thu Lao động
Ngân hàng Công
Thương Việt Nam
Vốn cố định dưới
10 tỷ đồng
Dưới 20 tỷ
đồng / n ¨m
Dưới 500 người
Liên bộ Lao động và tài
chính
Vốn pháp định
dưới 1 tỷ đồng
Dưới 1 tỷ
đồng/ năm
Dưới 100 người
Dự án VIE/US/95(hỗ trợ
doanh nghiệp vừa và
nhỏ ở Việt Nam của
UNIDU)
+Doanh nghiệp nhỏ
+Doanh nghiệp vừa
Vốn đăng ký dưới
0.1 triệu USD
Dưới 30 người
Quỹ hỗ trợ doanh
nghiệp vừa và nhỏ
(chương trình VIỆT
NAM – EU)
Vốn điều lệ từ
50.000USD đến
300.000 USD
Từ 10 đến 500 người
(Nguồn sè liÖu : Bộ kế hoạch và đầu tư)
SV: NguyÔn Thanh LÞch Ng©n hµng 45B
1.2.2. Những đặc điểm chủ yếu của doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.2.2.1 Những điểm mạnh của doanh nghiệp vừa và nhỏ
Trong nền kinh tế của một quốc gia, hệ thống các doanh nghiệp đóng
góp một phần không nhỏ vào sự phát triển và tăng trưởng. Hệ thống các
doanh nghiệp bao gồm các doanh nghiệp lớn, các DNVVN. Mỗi loại doanh
nghiệp đó đều có những điểm mạnh, những khó khăn của mình trong quá
trình hoạt động. Các doanh nghiệp lớn họ gặp nhiều những khó khăn về mức
độ rủi ro; bất lợi về quy mô dẫn đến khả năng thay đổi mẫu mã sản phẩm, khả
năng đa dạng hóa đầu tư, kinh phí cao, kênh phân phối, khả năng xâm nhập
thị trường; hạn hẹp trong các lĩnh vực kinh doanh; cồng kềnh về mô hình tổ
chức; khả năng hợp tác kém. Nếu như ở các doanh nghiệp khó khăn như vậy
thì ở các DNVVN họ lại có những lợi thế về những mặt đó và đang ngày càng
phát huy được những thế mạnh đó của mình.
Các DNVVN bắt đầu hoạt động chỉ cần lượng vốn đầu tư ban đầu ít, khả
năng thu hồi vốn nhanh.
Để cho một doanh nghiệp lớn đi vào hoạt động được thì cần lượng vốn
đầu tư ban đầu rất lớn, mặt khác các doanh nghiệp lớn chu kỳ sản xuất kinh
doanh thường dài, khả năng thu hồi vốn chậm, rủi ro lớn. Trong khi đó đối
với doanh nghiệp vừa và nhỏ thì chỉ cần lượng vốn ít hơn. Ngoài ra, với quy
mô vừa, nhỏ nên các doanh nghiệp chỉ đa số là sản xuất các mặt hàng có khả
năng thu hồi vốn nhanh, giảm thiểu được rủi ro do thời gian sản xuất ngắn.
Đây chính là lợi thế cho các DNVVN khi vay vốn tại các ngân hàng. Các
ngân hàng khi thực hiện cho vay họ thường phải xem xét kĩ những khoản vay
và đặc biệt khả năng thu hồi vốn nhanh, giảm thiểu được rủi ro do thời gian
sản xuất ngắn sẽ đóng góp một phần cho quyết định cho vay của ngân hàng.
Tổ chức sản xuất, bộ máy quản lý các DNVVN gọn nhẹ, tiết kiệm chi phí.
Với số lượng lao động không nhiều, việc tổ chức bộ máy cũng như bộ
SV: NguyÔn Thanh LÞch Ng©n hµng 45B
máy quản lý trong các DNVVN tương đối gọn, không có nhiều các khâu
trung gian. Điều này làm tăng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, những
chính sách nhanh chóng được phổ biến đến người lao động. Vì thế, công tác
kiểm tra, giám sát được tiến hành một cách chặt chẽ, không phải qua nhiều
khâu trung gian, tiết kiệm được chi phí cho doanh nghiệp.
Mỗi quan hệ giữa người quản lý và lao động trong DNVVN tương đối
chặt chẽ.
Do quy mô của DNVVN là không lớn nên trong doanh nghiệp người
lãnh đạo có thể nắm bắt được trình độ, chuyên môn và đời sống cũng như
những tâm tư nguyện vọng của mọi thành viên trong doanh nghiệp thông qua
việc trao đổi nói chuyện trực tiếp giữa công nhân và lãnh đạo. Từ đó, người
lãnh đạo có thể có những sắp xếp, bố trí công việc cho phù hợp với chuyên
môn và khả năng của từng người.
Các DNVVN có tính năng động cao.
Các chủ doanh nghiệp có đủ những khả năng nhất định như quyền tự chủ, sự
đam mê công việc, không quản ngại khó khăn, vất vả để thành đạt. Nhiều chủ
doanh nghiệp là những người can đảm có gan làm giàu điều đó có thể giúp họ
phát huy được tính sáng tạo của bản thân họ để bươn trải trong nền kinh tế thị
trường. Đã có rất nhiều người từ mọi tầng lớp trong xã hội như công nhân,
nông dân, tri thức, công chức, phục viên… ra nhập vào hàng ngũ DNVVN và
đã có rất nhiều người thành đạt.
DNVVN dễ đổi mới thiết bị, công nghệ và đối tượng kinh doanh.
Do vốn đầu tư nhỏ, vốn thiết bị không lớn nên khi muốn nâng cao chất
lượng sản phẩm, hạ giá thành họ có thể sẵn sàng thay thế công nghệ cũ bằng
công nghệ mới. Với mặt hàng sản xuất kinh doanh, nếu thấy thị trường có lợi
họ sẽ nhanh chóng hướng vào đó, ngược lại họ sẽ chuyển hướng nếu điều
kiện thị trường bất lợi. Đối phó với những biến động đó các DNVVN có tính
SV: NguyÔn Thanh LÞch Ng©n hµng 45B
thích ứng cao hơn so với các doanh nghiệp lớn.
DNVVN có tinh thần tự lực tự cường cao
Số lượng doanh nghiệp quá lớn, nhà nước không thể kiểm soát chắt chẽ
được hết cũng như khổng thể quan tâm hay có những tài trợ dễ dàng. Do vậy
mà buộc các doanh nghiệp phải nâng cao tinh thần tự chủ, đi lên trong cạnh
tranh.
Những điểm mạnh đó của các DNVVN đã và đang là lợi thế của họ và
với lợi thế đó họ dễ dàng hơn tiếp cận với các nguồn vốn của ngân hàng.
1.2.2.2. Những hạn chế, khó khăn của doanh nghiệp vừa và nhỏ
Năng lực quản lý và tay nghề công nhân còn hạn chế
Một thực tế là tại các DNVVN, số chủ DNVVN đã qua đào tạo chỉ
chiếm một tỷ lệ rất ít khoảng 25-35%, 20-25% các chủ doanh nghiệp đã qua
các trường dạy nghề. Năng lực và hiệu quả quản lý doanh nghiệp còn thấp,
các nhà quản lý thiếu hiểu biết đầy đủ về quản lý doanh nghiệp, chưa nhận
thức đầy đủ về thời cơ và thách thức của toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập
kinh tế quốc tế. Điều này làm cho năng suất lao động tại các DNVVN giảm
xuống và không đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hóa. Nhiều doanh nghiệp
sau khi tuyển dụng nhân công đã phải đào tạo lại cho lao động hoặc vừa trong
quá trình lao động vừa đào tạo.
Trình độ công nghệ thường yếu kém, lạc hậu, chậm đổi mới
Trình độ công nghệ của Việt Nam là rất thấp so với thế giới, theo đánh
giá của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) chỉ số xếp hạng về trình độ công
nghệ của Việt Nam là 92/104 nền kinh tế thế giới. Trình độ công nghệ của các
DNVVN ở Việt Nam hiện nay đang thua xa mặt bằng chung của thế giới, nó
còn ở mức thấp và chậm tiến bộ. Tình trạng máy móc thiết bị cũ, công nghệ
lạc hậu đã và đang là nguyên nhân chính của tình trạng lãng phí trong sử dụng
năng lượng, nguyên vật liệu và ô nhiễm môi trường, chi phí sản xuất cao.
SV: NguyÔn Thanh LÞch Ng©n hµng 45B
Thị trường tiêu thụ sản phẩm nhỏ, năng lực về thị trường còn yếu
Có thể nói DNVVN có mặt hầu hết trên các thị trường trong đó các
DNVVN hoạt động trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
chiếm 18%; xây dựng 16%; nông nghiệp 10%; dịch vụ là 56%. Tuy vậy, năng
lực về thị trường của các DNVVN ở Việt Nam còn yếu, không có chiến lược
kinh doanh dài hạn và ổn định cũng như chưa có kế hoạch về việc phát triển
thị trường của mình, thiếu hiểu biết đầy đủ về luật thương mại quốc tế và các
nước.
Năng lực cạnh tranh của DNVVN còn yếu
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nói chung cũng như DNVVN nói
riêng bao gồm rất nhiều yếu tố như khả năng đáp ứng nhu cầu của thị trường,
giá thành sản phẩm, uy tín thương hiệu, nguồn nhân lực có tay nghề cao… tuy
nhiên những yếu tố đó của các DNVVN ở Việt Nam còn yếu kém chưa tạo
được một lợi thế nhất định trên thị trường, lấy ví dụ trong các vụ kiện về các
sản phẩm như cá da trơn, cạnh tranh về thương hiệu.
khả năng tiếp cận và xử lý thông tin trên thị trường hạn chế
Do quy mô nhỏ, hoạt động trong phạm vi hẹp, thiếu mạng lưới thu thập
thông tin và các mỗi quan hệ rộng, các DNVVN thường gặp khó khăn trong
việc phân tích các thông tin thị trường về nguyên liệu, xu hướng phát triển
kinh doanh, đối thủ cạnh tranh, các chính sách hỗ trợ của nhà nước cũng như
của nước ngoài,…Hơn nữa, ngay cả khi có những thông tin thì các doanh
nghiệp cũng gặp khó khăn trong việc phân tích, đưa ra dự đoán do khả năng
có hạn.
Thiếu vốn
Một trong những vấn đề lớn nhất mà các DNVVN hiện nay đang phải
tháo gỡ đó chính là vấn đề thiếu vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh, đầu tư
nâng cao trình độ công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh. Nếu xét theo
SV: NguyÔn Thanh LÞch Ng©n hµng 45B
nguồn vốn chính thức và nguồn vốn phi chính thức thì hiện nay các DNVVN
chỉ có khoảng là 20% nguồn vốn chính thức còn lại đến 80% là từ nguồn vốn
không chính thức. Nguồn vốn chính thức là nguồn vốn vay từ ngân hàng
thương mại và nguồn vốn viện trợ của các tổ chức trong và ngoài nước, còn
nguồn vốn phi chính thức là nguồn vốn vay từ bạn bè, hay từ các đối tác kinh
doanh. Điểm khác biệt giữa hai nguồn vốn này là nguồn vốn phi chính thức
thường có lãi suất cao, rủi ro lớn, không ổn định, số lượng vốn nhỏ. Đối với
nguồn vốn chính thức thì các DNVVN gặp rất nhiều khó khăn trong việc tiếp
cận các khoản tín dụng ngắn hạn, trung hạn và dài hạn đặc biệt là các khoản
tín dụng trung và dài hạn từ các ngân hàng và các tổ chức tín dụng chính thức
khác. Khi vay vốn thì các DNVVN luôn được yêu cầu là phải có tài sản thế
chấp hoặc nếu không thì phải có 2-3 năm làm ăn có lãi và dự án đầu tư phải
khả thi. Bên cạnh đó ngân hàng có tâm lý cho vay đối với số ít các doanh
nghiệp lớn hơn là cho vay nhiều các DNVVN và nếu cho vay đối với
DNVVN thì chỉ cho vay đối với DNVVN quốc doanh vì các khoản cho vay
như vậy sẽ đảm bảo an toàn hơn.
1.2.3. Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế
Vai trò của các DNVVN đang ngày càng được khẳng định cả về nhận
thức lẫn thực tiễn và được coi là tế bào của nền kinh tế. Ngay từ năm 2004 tại
hội nghị gặp mặt các doanh nghiệp, Thủ tướng Phan Văn Khải đã đánh giá
cao vai trò của các doanh nghiệp, DNVVN trong nền kinh tế: “ Các doanh
nghiệp là xương sống của nền kinh tế, các DNVVN họ là đối tượng năng
động, nhanh nhạy với cơ chế thị trường; hoạt động sản xuất kinh doanh giữ
gìn, phát triển các ngành nghề truyền thống, tạo việc làm và thu nhập, góp
phần xóa đói giảm nghèo cho người lao động…”
SV: NguyÔn Thanh LÞch Ng©n hµng 45B
1.2.3.1. DNVVN góp phần tăng tổng thu nhập quốc nội, giải quyết
công ăn việc làm và góp phần ổn định xã hội
Sự phát triển của các DNVVN đang ngày càng mở rộng cơ hội việc làm
cho người lao động. Do có sự phân bổ rộng khắp và ngành nghề kinh doanh
đa dạng, các DNVVN thu hút được nhiều lao động ở thành thị và nông thôn.
Đặc biệt, có những thời điểm khi mà các doanh nghiệp lớn gặp khó khăn
trong việc làm hay do công nghệ thay đổi mà không kịp nắm bắt cần giảm bớt
lao động thì các DNVVN có thể trợ giúp bởi tại thị trường hoạt động của
DNVVN là rất lớn nên luôn cần nhiều lao động và như vậy khi người dân có
việc làm, đời sống được cải thiện thì các tệ nạn xã hội sẽ có chiều hướng
giảm, góp phần ổn định xã hội.
1.2.3.2. DNVVN cung cấp một phần không nhỏ các sản phẩm trong
nền kinh tế
Các DNVVN đa dạng về ngành nghề, tính nhạy cảm với thị trường cao,
có nhiều thuận lợi trong việc sản xuất và cung cấp nhiều loại sản phẩm, dịch
vụ đáp ứng nhu cầu trong nước đồng thời đẩy mạnh xuất khẩu. Việt Nam là
một nước giàu tài nguyên, có nhiều nguyên liệu quý là đầu vào cho quá trình
sản xuất, lợi thế so sánh đó cùng với lợi thế về ngành nghề thủ công truyền
thống đã tạo ra khả năng to lớn cho khu vực DNVVN tham gia sản xuất, gia
công chế biến, đại lý khai thác xuất khẩu. Để cung cấp các sản phẩm xuất
khẩu này, các doanh nghiệp quy mô lớn do hạn chế về khu vực địa lý và
phương pháp tổ chức sản xuất nên chưa thể thích ứng nhanh và chiếm lĩnh thị
trường. Các doanh nghiệp lớn muốn phát triển thị trường phải sử dụng các
DNVVN làm vệ tinh thu mua nguyên liệu, chế biến, đóng gói và thực hiện
một số công đoạn khác.
SV: NguyÔn Thanh LÞch Ng©n hµng 45B
1.2.3.3. DNVVN có vai trò tích cực trong sự phát triển kinh tế địa
phương, khai thác thế mạnh của từng vùng
Tiềm năng thế mạnh của từng vùng không phải doanh nghiệp lớn nào
cũng có khả năng khai thác một cách triệt để bởi tiềm năng này không phải
nhìn thấy ngay mà đôi khi phải do những người sống ở đó nhận ra. Nhưng các
DNVVN với sự năng động của mình chính là những doanh nghiệp sẽ khai
thác tiềm năng thế mạnh của từng vùng từ đó phát triển kinh tế địa phương.
Ngoài ra, đối với các doanh nghiệp lớn họ không thể sử dụng được các nguồn
nguyên nhiên vật liệu khi chúng chưa tập trung lại thành nguồn cung cấp đủ
lớn. Vì vậy, khi các DNVVN hoạt động, họ có thể tận dụng hết các nguồn
nguyên nhiên vật liệu này tránh lãng phí xã hội. Bên cạnh đó, các DNVVN
còn đóng vai trò khôi phục và phát triển các nghề thủ công truyền thống bởi
mô hình của DNVVN phù hợp với điều kiện sản xuất kinh doanh của làng
nghề thủ công.
1.2.3.4. Góp phần chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp hoá-
hiện đại hoá, thúc đẩy quá trình đô thị hoá
Trong nền kinh tế thị trường, không phải tất cả các doanh nghiệp lớn đều
tự mình đảm nhiệm mọi công đoạn của quá trình sản xuất. Họ luôn cần các
DNVVN cung cấp cho họ những sản phẩm phụ trợ hay làm một hay nhiều
công đoạn nào đó của quá trình sản xuất. Các DNVVN đóng vai trò tích cực,
hỗ trợ các doanh nghiệp lớn, là mạng lưới cung cấp sản phẩm cũng như tiêu
thụ những sản phẩm trung gian cho các doanh nghiệp lớn.
Các DNVVN hiện nay đang nâng cao hoạt động của mình nhiều hơn
trong các ngành dịch vụ và công nghiệp, giảm hoạt động ở các ngành nông
nghiệp. Cùng với sự đóng góp chuyển dịch cơ cấu kinh tế, các DNVVN cũng
góp phần thúc đẩy quá trình đô thị hóa bởi các DNVVN đang thu hút khối
lượng lớn lao động chuyển sang lao động công nghiệp và dịch vụ mà không
SV: NguyÔn Thanh LÞch Ng©n hµng 45B
phải chuyển lên khu vực thành thị gây nên những áp lực về các vấn đề xã hội
ở khu vực đô thị.
1.2.4. Vai trò vốn cho vay của ngân hàng đối với các doanh nghiệp
vừa và nhỏ
Có thể nói thiếu vốn là khó khăn chủ yếu của các DNVVN Việt Nam và
vì vậy vốn vay của ngân hàng có một vai trò rất quan trọng đối với các doanh
nghiệp này.
1.2.4.1. Đáp ứng nhu cầu vốn của doanh nghiệp một cách kịp thời
Nguồn vốn tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp
thường lấy từ các nguồn sau: nguồn vốn chủ sở hữu, vay từ các nguồn vốn phi
chính thức, vay ngân hàng, vay vốn qua thị trường vốn hay thuê mua.
Tăng nguồn vốn chủ sở hữu là biện pháp đơn giản nhất đối với bất cứ
doanh nghiệp nào bởi đây là nguồn vốn do cổ đông đóng góp hoặc vốn của
người chủ. Tuy nhiên giải pháp này thường không thực tế đối với DNVVN vì
thực tế người chủ doanh nghiệp hay cổ đông có nguồn tài chính hạn chế, họ
không có khả năng bỏ ra nhiều hơn số vốn mà họ góp vào doanh nghiệp.
Vay từ các nguồn vốn phi chính thức như vay từ các đối tác kinh doanh,
từ bạn bè… thường có lãi suất cao, số lượng ít, rủi ro lớn không ổn định đối
với DNVVN.
Vay trên thị trường vốn, thị trường vốn của Việt Nam đươc thể hiện
thông qua hoạt động trên thị trường chứng khoán. Mặc dù, thị trường chứng
khoán đang ngày càng chuyển biến tích cực nhưng đối với các DNVVN để có
thể vay vốn tại đó thì gặp nhiều khó khăn vì để vay vốn tại đó cần có rất nhiều
điều kiện như chế độ tài chính minh bạch, làm ăn có lãi trong 2 năm liên
tục… đây là điều mà rất ít DNVVN Việt Nam đáp ứng được.
SV: NguyÔn Thanh LÞch Ng©n hµng 45B
Thuê mua là phương thức có thể tài trợ một số thiết bị máy móc nào đó
cho doanh nghiệp. Tại các nước phát triển, thuê mua là một biện pháp phổ
biến, thuận lợi thay thế cho tín dụng trung và dài hạn, đặc biệt đối với các
DNVVN khi gặp khó khăn trong vay vốn trung dài hạn tại các ngân hàng. Tại
Việt Nam đã có một số công ty thuê mua tài chính chuyên về thực hiện hình
thức này, tuy vậy thì đây cũng là hình thức mới nên nó chưa thực sự phát
triển.
Vì vậy, vay vốn tại ngân hàng đối với các DNVVN vẫn là biện pháp lâu
dài. Ngân hàng đóng vai trò là người cung cấp vốn cho doanh nghiệp để mở
rộng sản xuất kinh doanh, đầu tư đổi mới công nghệ,…
1.2.4.2. Nâng cao việc sử dụng vốn của các doanh nghiệp
Đối với DNVVN thì vốn vay ngân hàng là nguồn vốn tài trợ có hiệu quả
hơn cả bởi nó thỏa mãn nhu cầu vốn về số lượng và thời hạn đặc biệt là chi
phí vốn vay từ ngân hàng thấp hơn chi phí vốn vay từ các nguồn không chính
thức khác. Hơn nữa, các DNVVN muốn có uy tín đối với ngân hàng để được
vay vốn , họ cần có phương án sản xuất kinh doanh khả thi. Khi vay được vốn
rồi thì ngân hàng sẽ thực hiện giám sát quá trình hoạt động của doanh nghiệp,
điều đó giúp cho doanh nghiệp phát hiện ra những nhược điểm, sai sót từ đó
có những điều chỉnh kịp thời nhằm hạn chế những rủi ro đối vơi doanh nghiệp
và kinh doanh có hiệu quả hơn. Các nguồn vay khác sẽ không có được điều
này. Như vậy, vốn vay đã ràng buộc các DNVVN với ngân hàng từ đó giúp
nâng cao năng lực quản lý vốn và quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh sao
cho có hiệu quả nhất.
1.2.4.3. Thúc đẩy các DNVVN tăng cường thực hiện chế độ hạch
toán kinh doanh
Để vay được vốn của ngân hàng, các DNVVN bắt buộc phải thực hiện
SV: NguyÔn Thanh LÞch Ng©n hµng 45B
chế độ hạch toán kinh doanh bởi các ngân hàng chỉ có thể cho vay nếu doanh
nghiệp làm ăn có lãi, điều đó thể hiện thông qua các báo cáo tài chính của
doanh nghiệp như bảng cân đối kế toán, kết quả hoạt động sản xuất kinh
doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Như vậy, ngân hàng thông qua tài trợ vốn
đã giúp các DNVVN tăng cường chế độ hạch toán kinh doanh, giúp đỡ các cơ
quan nhà nước quản lý mọi hoạt động của các DNVVN.
1.3. Cho vay của ngân hàng thương mại với các doanh nghiệp vừa
và nhỏ
Cho vay là chức năng kinh tế cơ bản của ngân hàng thương mại để tài trợ
chi tiêu cho các doanh nghiệp, cá nhân và chính phủ. Đây cũng là chức năng
lâu đời nhất của ngân hàng. Cho vay là hoạt động mang lại nhiều lợi nhuận
cho ngân hàng nhưng cũng là hoạt động mang lại nhiều rủi ro.
Trong quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng ban hanh kèm theo
quyết định số 284/2000/QĐ/NHNN ngày 25/8/2000 của Thống đốc ngân
hàng nhà nước Việt Nam, cho vay được định nghĩa như sau: “ cho vay là một
hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng một
khoản tiền để sử dụng vào mục đích nhất định trong thời gian nhất định theo
sự thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc lẫn lãi”.
1.3.1. Các phương thức cho vay của ngân hàng thương mại cho các
doanh nghiệp vừa và nhỏ
Ngân hàng thương mại cho vay đối với các DNVVN thông qua nhiều
phương thức khác nhau. Trong quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng,
Ngân hàng nhà nước quy định các phương thức cho vay mà các ngân hàng
thương mại được phép áp dụng như sau:
SV: NguyÔn Thanh LÞch Ng©n hµng 45B
Cho vay trực tiếp
Cho vay trực tiếp từng lần: là hình thức cho vay phổ biến của ngân hàng
đối với các khách hàng không có nhu cầu vay vốn thường xuyên. Các
DNVVN thường có nhu cầu thời vụ hay mở rộng sản xuất kinh doanh đặc biệt
mới vay ngân hàng, tức là vốn vay ngân hàng chỉ tham gia vào một số giai
đoạn nhất định của chu kỳ sản xuất kinh doanh. Mỗi lần vay khách hàng phải
làm đơn và trình ngân hàng phương án sử dụng vốn vay, mỗi món vay được
tách biệt ra thành các hồ sơ khác nhau.
Cho vay theo hạn mức tín dụng: áp dụng đối với những khách hàng có
nhu cầu vay vốn thường xuyên, sản xuất kinh doanh ổn định, có uy tín trong
quan hệ tín dụng với ngân hàng. Tổ chức tín dụng và khách hàng xác định và
thỏa thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong thời gian nhất định hoặc chu
kỳ sản xuất kinh doanh.
Cho vay theo dự án đầu tư: tổ chức tín dụng cho khách hàng vay vốn để
thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các dự
án phục vụ đời sống.
Cho vay trả góp: khi vay vốn, khách hàng và tổ chức tín dụng cố định và
thỏa thuận số lãi phải trả cộng thêm phần gốc vay rồi chia ra để trả nợ thành
nhiều kỳ hạn theo thời hạn cho vay. Tài sản hình thành từ vốn vay chỉ thuộc
quyền sở hữu của người vay khi mà người vay trả hết phần gốc và lãi.
Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: căn cứ vào nhu cầu vay vốn
của khách hàng, tổ chức tín dụng cam kết đảm bảo sẵn sàng cho khách hàng
vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất định. Trong thời gian hiệu lực
của hợp đồng, nếu khách hàng không hoặc không sử dụng hết hạn mức tín
dụng dự phòng, khách hàng vẫn phải trả phí cam kết.
Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng: tổ chức
SV: NguyÔn Thanh LÞch Ng©n hµng 45B