Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

PHƯƠNG PHÁP SỬ DỤNG TRANH ẢNH VÀ LƯỢC ĐỒ TRONG SÁCH GIÁO KHOA LỊCH 9 Bài 27

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (479.96 KB, 14 trang )

PHƯƠNG PHÁP SỬ DỤNG TRANH ẢNH VÀ LƯỢC
ĐỒ TRONG SÁCH GIÁO KHOA LỊCH SỬ- sử 9-
Bài 27
Bài 27
Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược kết thúc (1953-1954)
1.Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp quyết định chủ trương tác chiến Đông Xuân
1953-1954

Bộ Chính trị trung ương Đảng họp quyết định chủ trương tác chiến Đông Xuân.

Do việc Pháp – Mỹ thực hiện âm mưu mới với việc đề ra kế hoạch quân sự Na-va trong
cuộc chiến tranh Đông Dương, tháng 9/1953, Bộ chính trị Ban chấp hành trung ương
Đảng đã họp tại khu Núi Hồng huyện Định Hoá, tỉnh Thái Nguyên (thuộc căn cứ địa Việt
Bắc) để bàn về chủ trương tác chiến Đông Xuân năm 1953 – 1954.
Trong ảnh là cảnh chủ tịch Hồ Chí Minh, Tổng bí thư Trường Chinh và các uỷ viên Bộ
chính trị đang bàn về kế hoạch tác chiến.
Đứng từ trái qua phải là Nguyễn Chí Thanh, Phạm Văn Đồng, Hồ Chí Minh, Trường
Chinh và cuối cùng là Võ Nguyên Giáp. Ở trên bàn là bản đồ quân sự. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đang cầm thước chỉ trên bản đồ. Tất cả những người khác ở trong ảnh đang chăm
chú theo dõi và suy nghĩ để đi đến quyết định phương án tác chiến cuối cùng. Đại tướng
Võ Nguyên Giáp thay mặt Tổng quân uỷ trình bày 2 phương án tác chiến do Bộ tổng
tham mưu chuẩn bị :
Thứ nhất, phương án tập trung toàn bộ hay phần lớn chủ lực đối phó với địch ở đồng
bằng Bắc bộ.
Thứ 2, phương án điều động lực lượng mở các cuộc tiến công vào các hướng khác. Bộ
chính trị đã phân tích tình hình, chỉ ra chỗ mạnh, chỗ yếu của địch, cũng như của ta, cuối
cùng quyết định đưa bộ đội chủ lực ta lên hướng Tây bắc, buộc địch phải phân tán lực
lượng đối phó, ta nhân đó tranh thủ tiêu diệt sinh lực của chúng, đồng thời đẩy mạnh hoạt
động ở các chiến trường sau lưng địch.
-Hướng dẫn sử dụng
GV cho HS quan sát bức tranh và giới thiệu khái quát về bức tranh. Sau đó tổ chức cho


HS trả lời câu hỏi sau:
Trước âm mưu mới của Pháp- Mĩ Bộ chính trị đã có quyết định mới gì trong Đông
–Xuân 1953-1954?
Nội dung bức ảnh thể hiện không khí như thế nào?
Em có biết gì về những nhân vật trong bức ảnh đó?
2. Hình thái chiến trường trên các mặt trận Đông –Xuân (1953-1954)


Hình thái chiến trường trên các mặt trận Đông – Xuân
-Nội dung:
Để cứu vãn tình thế, đế quốc Pháp, Mỹ đã đề ra “kế hoạch Na va” nhằm chuyển bại thành
thắng. Điểm mấy chốt của kế hoạch này là tăng quân số và tập trung quân xây dựng lực
lượng cơ động chiến lược mạnh, nhằm giành lại quyền chủ động.
Để đập tan “Kế hoạch Na va” ngay từ bước đầu ta đã chủ trương đánh vào những nơi sơ
hở của địch, buộc chúng phải phân tán lực lượng, tranh thủ tiêu diệt thật nhiều sinh lực
địch…. Do vậy, sau đồng bằng Bắc Bộ, ta đã buộc địch phải phân tán ra các hướng:
* Giữa tháng 11/1953, bộ đội chủ lực của ta tiến lên Tây Bắc nhằm giải phóng Lai Châu,
uy hiếp Điện Biên Phủ. Na va buộc phải tăng quân cho Điện Biên Phủ, biến nơi đây
thành nơi tập trung quân thứ 2 của địch.
* Cuối năm 1953, liên quân Việt – Lào tiến đánh địch ở Trung Lào, giải phóng được 4
vạn km
2
đất đai. Địch hốt hoảng phải điều quân từ đồng bằng Bắc bộ đến cứu nguy và
biến Sê-nô thành nơi tập trung quân thứ 3 của địch. Quân ta thừa thắng đánh xuống hạ
Lào, rồi cùng quân giải phóng Campuchia đánh thông cả miền Đông và Đông bắc
Campuchia.
*Đầu năm 1954, ta tấn công địch ở Tây Nguyên, giải phóng Kon tum và cả vùng Bắc Tây
Nguyên, buộc địch phải ngừng cuộc tấn công liên khu V để điều quân lên tây nguyên,
biến Plâyku thành nơi tập trung binh lực thứ 4 của địch.
* Tiếp đó, liên quân Lào – Việt tấn công Thượng Lào, uy hiếp Luông pha băng, Nava

buộc phải dùng cầu hàng không đưa quân từ đồng bằng Bắc Bộ lên, biến Luông Pha
Băng và Mường Sài thành nơi tập trung quân thứ 5 của địch.
Phối hợp với bộ đội chính quy trên các chiến trường, ở vùng sau lưng địch, chiến tranh
du kích phát triển mạnh, góp phần phân tán lực lượng địch”.
Đến đây, giáo viên có thể hỏi học sinh: “Nhìn trên bản đồ, em hãy nhận xét kết quả các
cuộc tấn công của ta và hình thái chiến trường Đông Dương?” Sau khi học sinh trao đổi,
giáo viên chốt lại:
- Các cuộc tấn công của ta đã buôc địch từ một nơi tập trung quân phải phân tán thành 5
nơi, kế hoạch Nava bước đầu bị phá sản.
- Vùng giải phóng của ta ngày càng mở rộng, vùng chiếm đóng của địch càng bị thu hẹp.
+Phương pháp sử dụng:
Trước hết, GV yêu cầu HS quan sát lược đồ và tổ chức cho HS trả lời các câu hỏi:
Trình bày cuộc tiến công của ta trong Đông xuân 1953-1954
Nhận xét về thắng lơi của ta trong Đông Xuân 1953-1954
Sau khi HS trả lời, Gv nhận xét, bổ sung và kết luận như nội dung trên
3. Lược đồ các đợt tấn công của quân ta vào Điện Biên Phủ


-Nôị dung:
Điện Biên Phủ là một cánh đồng rộng lớn, nằm dọc theo sông Nậm Rốm, ở giữa vùng
rừng núi Tây Bắc, dài chừng 18km, rộng từ 6 – 8 km, giữa là Châu Lị Mường Thanh. Đế
quốc Pháp, Mỹ coi Điện Biên Phủ là một địa bàn chiến lược hết sức quan trọng. Địch xây
dựng ở đây 8 cụm cứ điểm, chia làm 3 khu phòng thủ: trung tâm, Bắc và Nam với 49 cứ
điểm, 2 sân bay.
- Phân khu trung tâm Mường Thanh tập trung 2/3 lực lượng địch, có cơ quan chỉ huy,
trận địa pháo, sân bay, hậu cần và hệ thống cứ điểm trên cao.
-Phân khu Bắc gồm các cứ điểm độc lập, Bản Kéo, và cụm cứ điểm Him Lam.
-Phân khu Nam là một cụm cứ điểm có trận địa pháo và sân bay Hồng Cúm.
Mỗi cụm cứ điểm là một hệ thống hoả lực nhiều tầng, các đường hào chi chít lối những
cứ điểm lại với nhau. Toàn bộ cơ quan chỉ huy, nơi đặt súng đạn, chỗ ngủ đều nằm chìm

dưới mặt đất. Mỗi cứ điểm đều được bao bọc bằng nhiều tuyến chiến hào, những ụ súng
chi chít, đất đắp dày trên 3m và một rừng dây thép gai xung quanh dày từ 20-50m, có bãi
mìn dày đặc, có lưới dây điện sát mặt đất. Lực lượng của địch ở đây lên tới 16.200 tên,
gồm đủ các binh chủng: bộ binh, pháo binh, công binh, thiết giáp, không quân”.
Đây là một tập đoàn cứ điểm mạnh, vì lực lượng quân địch đông, trang bị vũ khí hiện đại,
công sự và cách bố phòng rất kiên cố. Vì vậy, địch coi “con nhím khổng lồ Điện Biên
Phủ” là “một pháo đài bất khả xâm phạm.

Đối với đợt tấn công thứ nhất, giáo viên lược thuật trên bản đồ: “ngày 13/3, quân ta tấn
công Him Lam. Sau một đợt pháo bắn yểm hộ, bộ binh ta tiến lên chiếm các cứ điểm. Đại
đội bộc phá của anh Phan Đình Giót được lệnh tiến lên trước. Địch bắn ráo riết, tuy bị
thương vong nhiều, nhưng các chiến sĩ bộc phá vẫn tiến và phá được 4 hàng rào, một
mảng lô cốt 1. Anh Giót đã bị thương xong lô cốt 3 vẫn phụt lửa như mưa, ngăn bức tiến
của đồng đội. Anh quyết định bò lên dưới làn mưa đạn, đến tận chân tường lô cốt 3, rồi
nhổm lên áp chặt lưng vào lỗ châu mai. Hoả lực của địch tắt hẳn, xung kích của ta ào ạt
xông lên. Nửa giờ sau lá cờ chiến thắng của ta phất cao trên cứ điểm Him Lam. Giải
phóng xong Him Lam, ta tiến đánh Độc Lập, Bản Kéo (ở đây cần sử dụng chân dung
Phan Đình Giót để lược thuật). Sau 5 ngày chiến đấu, ta đã diệt 2 nghìn địch, hạ 12 máy
bay, uy hiếp trực tiếp sân bay Mường Thanh. Tên Pirốt chỉ huy pháo binh địch ở Điện
Biên Phủ phải dùng lựu đạn tự tử”.
Đợt 2 từ (30/3 đến 24/4), ta tấn công vào khu đông Mường Thanh. Giáo viên dựa vào
sách giáo khoa kết hợp với bản đồ để trình bày.
Đợt 3 (từ 1/5 đến 7/5) ta chiếm các cao điểm còn lại ở phía Đông và tấn công trung tâm
Mường Thanh – Hồng Cúm. Giáo viên dựa vao bản đồ để tường thuật: “Tối 1/5, quân ta
xung phong bất ngờ tiêu diệt địch, chiếm toàn bộ đồi C1 và một số cao điểm khác, thu
hẹp phạm vi chiếm đóng của địch ở phía Tây. Chiều 6/5 ta đào đường ngầm vào tận đỉnh
đồi A1, tiếng nổ của khối bộc phá 1nghìn kg thuốc nổ đã phá tan điểm cao cuối cùng
nguy hiểm này, đồng thời mở đầu hiệu lệnh tổng công kích của quân ta. 17 giờ 30 ngày
7/5, quân ta đánh thẳng vào trung tâm Mường Thanh. Như một cơn nốc, các chiến sĩ của
đại đội Tạ Quốc Luật vượt qua cầu Mường Thanh, theo vết xe tăng địch mà tiến sâu vào

khu trung tâm. một tên sĩ quan nguỵ bị bắt, đã chỉ cho các anh hầm Đờ cát x tơ ri. Đó là
cái núi những bao tải đất chồng chất lên nhau. Khi các anh tiến đến gần, 4 chiếc xe tăng
đỗ quanh hầm nhả đạn để bảo vệ chỉ huy. Vinh và Nhỏ đã bò sát tới gần ném lựu đạn vào
xe, một chiếc bốc cháy, một chiếc đứt xích, còn lại 2 chiếc khác bỏ chạy, để lại hầm chỉ
huy không người bảo vệ. Đại đội trưởng Tạ Quốc Luật cùng với Vinh, Nhỏ và một số
chiến sĩ khác xông vào cửa hầm và ném lựu đạn. Trong đám khói mịt mù, một tên lính
Pháp giơ tay hàng. Họ giáp mặt tướng Đờ cát xtơ ri quần áo sạch sẽ,đeo một cặp huân
chương trên ngực, mặt tái nhợt. Bộ tham mưu của tập đoàn cứ điểm đứng quanh phía sau.
Chiến sĩ Vinh xông tới chĩa mũi lê sáng quắc vào ngực y và quát “giơ tay lên!”. Theo
lệnh Đại đội trưởng Tạ Quốc Luật, Đờ cát xtơ ri cùng với bộ tham mưu của y lủi thủi
chui ra khỏi hầm, cúi đầu đi giữa những lòng súng của các chiến sĩ Vinh, Nhỏ… Về Sở
chỉ huy của ta, Đờ cát xtơ ri và toàn bộ bộ chỉ huy bị bắt sống. Lá cờ quyết chiến, quyết
thắng của ta tung bay trên nóc hầm Đờ cát xtơ ri. Đêm hôm đó, ta tiêu diệt nốt Hồng
Cúm. Chiến dịch Điện Biên Phủ hoàn toàn thắng lợi”.
Kết thúc phần diễn bíên, giáo viên có thể đọc một đoạn thơ của Tố Hữu trong bài “Hoan
hô chiến sĩ Điện Biên”, hoặc bài thơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Quan ta toàn thắng ở
Điện Biên Phủ”:
… “Hơn 50 ngày ta đánh đồn,
ta chiếm một đồn lại một đồn.
Quân giặc chống cự tuy rất hăng,
Quân ta anh dũng ít ai bằng.
Na Va, Cô Nhi đều méo mặt,
Quân giặc tan hoang, ta vây chặt
Giăc kéo từng loạt ra hàng ta,
Quân ta vui hát “khải hoàn ca”.
Mười ba quan năm đầu hàng nốt,
Tên tướng chỉ hu y cũng bị nhốt.
Một vạn sáu ngàn tên giặc tây,
Đều là tù binh hoặc bỏ thây…”
-Hướng dẫn sử dụng:

GV cho HS quan sát lược đồ nêu các câu hỏi:
Hãy cho biết vị trí của Điên Biên Phủ?
Trình bày trên lược đồ diễn biến chiến dịch Điên Biên Phủ.
Ý nghĩa của chiến dịch Điên Biên Phủ?
Sau khi HS trả lời, GV nhận xét và kết luận như trên.
4. Hình. Bộ đội ta kéo pháo vào Điện Biên Phủ
Quân ta kéo pháo lên các điểm cao - Điều mà pháo binh Pháp không thể ngờ

-Nội dung :
Bộ đội ta kéo pháo vào trận địa. Ảnh: Tư liệu.
Trong ảnh là cảnh bộ đội của đại đoàn 351 đang kéo pháo vào Điện Biên Phủ. Đường
Tuần Giáo đi Điện Biên Phủ dài 80km. Đoạn đường này hẹp lại nhiều cua, có đến hơn
100 cầu lớn, nhỏ nhưng đều bị hỏng, muốn xe ôtô và pháo lên được Điện Biên Phủ thì
phải gấp rút mở lại đường. Ta đã điều 2 trung đoàn bộ binh từ lực lượng bao vây ra cùng
trung đoàn công binh 151 tập trung làm suốt ngày đêm. Sau 11 ngày, đường Tuần Giáo đi
Điện Biên Phủ đã được khai thông. Tuy vậy, đường vẫn còn rất xấu.
Đầu tháng 1/1954, đại đoàn 351 pháo binh tiến vào tuyến đường Tuần Giáo - Điện Biên
Phủ. Đến km 69, vì đường làm gấp, nhiều chỗ không thể cho xe pháo qua được, nên phải
dùng sức người kéo với đoạn đường dài 15km. Việc dùng sức người để kéo khối sắt thép
nặng hàng tấn vượt qua núi cao, vực thẳm là một việc làm vô cùng khó khăn nhưng cũng
thật là vĩ đại và kỳ công. Ta dự định trong 3 đêm sẽ đưa pháo vào đến bản Nghịu, nhưng
trong thực tế đã kéo tới 7 đêm mà pháo vẫn chưa đến được vị trí tập kết. Trước tình hình
đó, Bộ chỉ huy chiến dịch đã quy định: Đại đoàn 351 pháo binh đưa lực lượng vào khu
vực Nà Tim, Nà Hi để giảm khoảng 3 ngày đường kéo pháo.
Trong ảnh, chúng ta thấy các chiến sĩ pháo binh đang gò lưng kéo khẩu pháo lên đèo, cả
người và pháo đều phải nguỵ trang bằng lá cây. Đường rừng thì hẹp, bề ngang chỉ vừa đủ
bề ngang của khẩu pháo. Các chiến sĩ đã buộc dây chão vào khẩu pháo và đứng thành 2
hàng, người nọ đứng sát vào người kia. Quan sát kỹ bức ảnh, ta còn thấy ở đuôi khẩu
pháo còn có chiến sĩ đẩy pháo và pháo kéo dến đâu thì phải có người chèn pháo đến đấy,
đề phòng pháo trượt xuống dốc. Ngoài ra, có một chiến sĩ đứng ngoài 2 hàng hô: 1,2,3 hò

dô ta…! cứ thế, cứ thế với lòng yêu nước, quyết tâm tiêu diệt giặc, các chiến sĩ pháo binh
của quân đội ta đã kéo được các khẩu pháo vào trận địa, sẵn sàng nã những đòn sấm sét
xuống đầu quân thù.
-Hướng dẫn sử dụng:
GV cho HS quan sát bức tranh và tổ chức HS trả lời các câu hỏi sau:
Hãy cho biết công cuộc chuẩn bị cho chiến dịch Điện Biên Phủ diễn ra như thế
nào?
Ý nghĩa của việc chuẩn bị đó?
Sau khi HS trả lời GV kết luận như nội dung trên
5.Hình. Lá cờ chiến thắng bay trên nóc hầm tướng Đờ Cát -xtơ-ri

Bộ đội ta phất cờ trên nóc hầm của tướng DE CASTRIES.

-Nội dung :
Đây là hình ảnh các chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Nam đứng trên nóc hầm của tướng
Đờ Cat-xtơ-ri, một chiến sĩ tay cầm cờ đỏ sao vàng, đang phất đi phất lại, lá cờ tung bay
trước gió; còn 2 chiến sĩ kia đang cầm chắc tay súng, lắp hầm được làm bằng thép uốn
cong, xếp liền khít với nhau thành hình mái vòm; xung quanh hầm, đất cát ngổn ngang,
thỉnh thoảng nhô lên những chiếc cặp, có lẽ là vết tích của hàng rào dây thép gai.
Chấp hành mệnh lệnh của bộ chỉ huy chiến dịch, tranh thủ thời cơ tổng công kích vào tập
đoàn cứ điểm, từ hướng Đông, Trung đoàn 209 tiến thẳng vào Mường Thanh. ở phía Tây,
trung đoàn 36 tiến vào cứ điểm cuối cùng che trở cho sở chỉ huy của giặc. Trung đoàn 88
cũng mở đường qua sân bay để tiến vào xào huyệt cuối cùng của chúng. Thế của ta như
nước vỡ bờ, bộ đội ta đánh đến đâu, địch phải kéo cờ trắng đầu hàng tới đó. Nhiều toán
địch lũ lượt kéo nhau ra nộp vũ khí. 17 giờ 15 phút, một cánh quân của đại đoàn 312 tiến
tới sát nắp hầm chỉ huy địch. Trung đội trưởng Chu Bá Thệ phát hiện trên lắp hầm của
Đờ Cat -xtơ-ri có một lá cờ trắng đang phất. Đại đội trưởng Tạ Quốc Lập lập tức cùng 2
chiến sĩ Vinh và Nhỏ tiến vào sở chỉ huy địch. 17 giờ 30 phút thiếu tướng Đờ Cat -xtơ-ri
cùng toàn bộ Bộ tham mưu bị bắt sống. Chính lúc ấy, lá cờ quyết chiến quyết thắng của
quân đội ta tung bay trên lắp hầm sở chỉ huy địch

-Hướng dẫn sử dụng:
Cho HS quan sát bức tranh tổ chức cho HS tìm hiểu nội dung như trình bày ở trên.

6. Tô Vĩnh Diện(1924-1953)


Anh sinh năm 1924 tại xã Nông Trường, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hoá, trong một
gia đình nông dân nghèo, phải đi ở kiếm ăn. Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, anh
tham gia dân quân ở địa phương, năm 1949 xung phong vào bộ đội.
Để chuẩn bị cho chiến dịch Điện Biên Phủ, Tô Vĩnh Diện được điều về làm tiểu đội
trưởng một đơn vị cao xạ pháo. Trên đường đơn vị hành quân hơn 1000km tới vị trí tập
kết để tham gia chiến dịch, anh luôn luôn gương mẫu làm mọi việc nặng nhọc, động viên
giúp đỡ đồng đội đưa pháo tới đích an toàn. Có lệnh kéo pháo ra, anh lại đi sát từng
người, động viên giải thích rõ nhiệm vụ, giúp anh em quyết tâm khắc phục khó khăn.
Đêm tối, đường dốc, dây kéo pháo đứt, pháo lao nhanh xuống dốc. Trước cảnh hiểm
nghèo đó, anh hô anh em: “thà hi sinh, quyết bảo vệ pháo”, và buông tay lái xông lên
trước, lấy thân mình lao vào chèn bánh xe pháo. Pháo bị vướng nghiêng tựa vào bờ, nhờ
đó đơn vị giữ được pháo không rơi xuống vực.
Anh được quốc hội, chính phủ truy tặng Huân chương chiến công hạng nhất, huân
chương quân công hạng hai và danh hiệu anh hùng lực lượng vũ tranh nhân dân.
7. Phan Đình Giót (1920-1954)

Anh sinh năm 1920, quê huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà tĩnh.
Nhà rất nghèo, bố mất sớm, anh phải đi ở, làm thuê từ năm 13 tuổi.
Cách mạng tháng Tám thành công, anh tham gia tự vệ chiến đấu, đến năm 1950 xung
phong vào bộ đội chủ lực.
Trong chiến đấu, anh luôn luôn nêu cao tinh thần quả cảm, kiên quyết vượt mọi khó
khăn, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ.
Mùa đông năm 1953, đơn vị anh tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ. Chiều ngày 13-3-
1954, có lệnh nổ súng tiêu diệt vị trí Him Lam, sau nhiều loạt pháo bắn dọn đường, các

chiến sĩ ta xông lên liên tiếp đánh bộc phá. Địch tập trung hoả lực, bắn như trút đạn
xuống trận địa làm cho đồng đội bị thương vong nhiều. Mặc dù bị thương ở đùi, Phan
Đình Giót vẫn ôm bộc phá lao lên đánh tiếp. Lợi dụng thời cơ địch đang hoang mang,
anh vọt lên bám chắc lô cốt, ném pháo, bắn kiềm chế cho đơn vị tiến vào. Bị thương vào
vai, máu chảy đầm đìa, anh cố gắng nhích dần người đến lô cốt số ba, rồi dùng hết sức
còn lại lao cả thân mình vào bịt kín lỗ châu mai địch. Hoả điểm của địch bị dập tắt, toàn
đơn vị ào ạt xông lên như vũ bão, tiêu diệt gọn cứ điểm Him Lam.
Anh được Quốc hội và Chính phủ trao tặng Huân chương Quân công hạng hai và danh
hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân .
8. HẦM ĐỜ CÁT

Chứng tích của một sức mạnh được đánh bại lớp lớp, tầng tầng trên lòng chảo Điện Biên.
Có những cứ điểm còn nguyên vẹn những bãi mìn, những lớp rào kẽm gai, những lô cốt,
hoả điểm bắn thẳng, bắn chéo, bắn lướt sườn, hầm ngầm, điểm tựa, sở chỉ huy… Có
những cứ điểm bị đập nát từng mảng, những đống vỏ đạn dày có ngọn, bông băng, vỏ đồ
hộp, vải dù, tăng bạt xen lẫn với những tranh ảnh khoả thân và những cuốn sách tình ướt
át, những cuốn nói về người lính Lê Dương, kinh thánh, lịch bỏ túi của tướng Na-va dạy
lính cách sống ở Việt Nam. Một chiếc máy bay hen-cát cắm đầu xuống một đoạn hào
giao thông trục, thân nát vụn. Những chiếc xe tăng đứt xích bị lật nghiêng bên cạnh
những khẩu súng máy nát vụn….
Chúng tôi vào hầm Đờ-cát. Trên nắp hầm là những bao cát. Xung quanh hầm là những
thùng phuy đổ đầy đất, xếp bao cát. dưới lớp bao cát dày trên 2m là những tấm tôn thép
uốn cong rồi đến những tấm vỉ sắt lót sân bay. Dưới cùng là những tấm gỗ thân dày. Hầm
có 4 gian dài khoảng 9m, rộng 4m, cao 2,5m. Mỗi ngăn có tường ngăn cách dày 1m. một
hành lang chạy dọc nối các gian hầm. Tường hầm nối ván gỗ, căng vải dù. Sàn cũng chải
vải dù. Những chiếc cột chắc chắn bằng gỗ lim đã lên nước bóng nhoáng. Đó là những
cột nhà của nhân dân Long Nhai, Cà Mi. Phía Nam có đường thông sang tổng đài. Gian
nào cũng có giường gấp căng vải bạt, ghế gấp, bàn gấp kiểu bàn ghế giã ngoại, lại có cả
bồn tắm, máy điều hoà. Thật là một sở chỉ huy có đầy đủ tiện nghi cho sinh hoạt của con
người và đầy đủ phương tiện chỉ huy, vừa hiện đại, vừa an toàn. Anh em quân báo của bộ

làm nhiệm vụ thu thập tài liệu trên bàn Đờ cát đã tìm thấy một mệnh lệnh của Đờ cát ký
ngày 20/4/1954: “Sự cần thiết về tiếp tế đạn dược bắt buộc phải rút xuống mức tối thiểu
yêu cầu về lương thực hàng ngày”…
Như vậy là Đờ cát cũng đã biết bắt lính bớt ăn để lấy đạn đánh lại quân ta.
(Theo: Lê Trọng Tấn, từ Đồng Quan đến Điện Biên NXB Quân đội nhân dân,)

9. BẮT SỐNG TƯỚNG ĐỜ CÁT

15 giờ ngày 7 tháng 5 năm 1954, đại tướng Võ Nguyên Giáp thông báo: “Tất cả các đơn
vị đã được lệnh tổng công kích”. Lê Trọng Tấn ra lệnh cho trung đoàn 141 tiến sau đội
hình trung đoàn 209. Lúc này, trung đoàn phó Thăng Bình đã ra lệnh cho đại đội 360 phát
triển sang 508, 509. Lê Trọng Tấn ra lệnh cho Hoàng Cầm bám sát địch, thọc thẳng vào
mường Thanh. Đại đội 360 như một mũi tên chạy xuống cầu sắt bắc qua sông Nậm Rốm.
Tiếng hô: “Bắt sống Đờ cát!” đã cổ vũ anh em xông lên. Khẩu đại liên 4 lòng của địch
nồng lộn bắn sang. Đạn cối nổ trên mặt cầu. Tạ Quốc Luật chỉ huy tổ đi đầu ném pháo
sang. Vừa lúc đó một loạt pháo của ta dập chúng trận địa hoả lực địch bên kia cầu. Tổ 3
người vọt tiến sang bên kia cầu. Một quả bom địch ném chúng mặt đường. Tổ đi đầu
dừng lại trước ngã ba. Vừa lúc đó có tên cai dõng chạy qua.Anh em hỏi hầm Đờ cát. Tên
cai dõng chỉ vào ụ cao to xung quanh co 4 xe tăng đang bắn ra loạn xạ. Luật cho đánh thủ
pháo đứt xích 1 xe tăng. Một chiếc bốc cháy, 2 chiếc còn lại bỏ chạy. Luật ra lệnh đánh
hầm. Vinh và Nhỏ phân công nhau: Nhỏ bịt một cửa hầm, Vinh tiến vào cửa hầm chính.
Theo hiệu lệnh chung Vinh và Nhỏ ném 2 quả thủ pháo. Khói vừa tan thì một sĩ quan
trong bộ tham mưu của tướng Đờ cát giơ tay xin hàng. Đại đội trưởng Tạ Quốc Luật
suống hầm cùng 2 chiến sĩ Vinh và Nhỏ bắt sống toàn bộ chỉ huy tập đoàn cứ điểm Điện
Biên Phủ, trong đó có thiếu tướng Đờ cát. Đó là lúc Đờ cát vừa ra lệnh đầu hàng và qua
nàn sóng điện từ biệt vợ con. Câu đầu tiên Đờ cát nói với Tạ Quốc Luật là: “Xin đừng
bắn tôi!”.
(Theo: Lê Trọng Tấn, từ Đồng Quan đến Điện Biên. Sđd)

Đoàn thị Hồng Điệp sưu tầm và tổng hợp


×