Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Tiểu luận môn tài chính quốc tế Khủng hoảng tài chính- tiền tệ ở Châu Á năm 1997

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (327.71 KB, 23 trang )

MỤC LỤC
Lời mở đầu
Chương 1. Lý thuyết về khủng hoảng tài chính- tiền tệ
1.1. Khái niệm về khủng hoảng tài chính
1.2. Các loại khủng hoảng tài chính
1.2.1 Khủng hoảng ngân hàng
1.2.2 Khủng hoảng trên thị trường tài chính
1.2.3 Khủng hoảng tài chính quốc tế
1.2.4 Khủng hoảng tài chính trong tập đoàn kinh tế
1.3. Một số lý thuyết về khủng hoảng tài chính- tiền tệ
1.4. Hậu quả của khủng hoảng tài chính- tiền tệ
Chương 2. Cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ Châu Á khởi đầu là
Thái Lan năm 1997
2.1. Tình hình Đông Á trước cuộc khủng hoảng
2.1.1. Thực trạng
2.1.2. Những mất cân đối vĩ mô năm 1997
2.2. Diễn biến cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ ở Thái Lan
2.3. Tác động
2.3.1. Tác động tích cực
2.3.2. Tác động tiêu cực
Chương 3. Các biện pháp thoát khỏi khủng hoảng tài chính- tiền tệ
và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong quá trình hội nhập
3.1. Các biện pháp thoát khỏi khủng hoảng tài chính- tiền tệ
3.1.1. Ở cấp độ quốc tế
3.1.2. Ở cấp độ khu vực
3.1.3. Ở cấp độ quốc gia
3.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong quá trình hội nhập
Kết luận

Trang 1
Trang 1


Trang 1
Trang 1
Trang 2
Trang 2
Trang 2
Trang 3
Trang 5
Trang 6
Trang 6
Trang 6
Trang 6
Trang 10
Trang 12
Trang 12
Trang 12
Trang 14
Trang 14
Trang 14
Trang 14
Trang 14
Trang 17
Trang 18
LỜI MỞ ĐẦU
Một trong những sự kiện kinh tế lớn nhất xảy ra trong những năm cuối cùng
của thế kỷ 20, có thể nhắc đến là cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ Châu Á khởi
đầu là Thái Lan năm 1997. Cuộc khủng hoảng này đã gây ra những tác hại nghiêm
trọng tới nền kinh tế chính trị của hàng loạt các nước trong khu vực, nó cũng làm
đảo lộn đời sống xã hội của hàng trăm triệu người dân, hậu quả của cuộc khủng
hoảng này được so sánh với những cuộc chiến tàn khốc cho dù không có cảnh đổ
nát nào.

Cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ bắt đầu ở Thái Lan, sau đó lan sang các
nước Đông Nam Á khác, khu vực Đông Bắc Á và cuối cùng ảnh hưởng đến hầu
hết các khu vực trên thế giới. Cuộc khủng hoảng khởi đầu từ lĩnh vực tài chính tiền
tệ, tiếp theo là toàn bộ nền kinh tế và ảnh hưởng sâu sắc tới các lĩnh vực chính trị
xã hội mà hậu quả của nó cho tới nay người ta vẫn nhận thấy rõ ràng.
Tuy cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ đã đi qua, nhưng có rất nhiều băn
khoăn xung quanh sự xuất hiện của những cuộc khủng hoảng này, có lẽ băn khoăn
lớn nhất và cũng cần giải đáp tốt để có thể tránh được những cuộc khủng hoảng
khác là làm thế nào một đất nước từ trạng thái tăng trưởng cao ngay trước cuộc
khủng hoảng có thể biến chuyển rất nhanh chóng sang trạng thái khủng hoảng, sụt
giảm kinh tế trầm trọng. Đề tài “Khủng hoảng tài chính- tiền tệ ở Châu Á năm 1997” cố
gắng tìm hiểu bản chất của cuộc khủng hoảng nợ tư để thấy được sự cần thiết của
nó đối với quá trình phát triển kinh tế của nước ta đồng thời đánh giá thực trạng
đổi mới tài chính và nêu lên một số nhận xét gợi mở về định hướng phát triển thị
trường tài chính ở Việt Nam .
Phù hợp với trình tự lôgic đó, kết cấu của tiểu luận gồm ba chương:
Chương 1. Lý thuyết về khủng hoảng tài chính- tiền tệ.
Chương 2. Cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ Châu Á khởi đầu là Thái Lan
năm 1997 .
Chương 3. Các biện pháp thoát khỏi khủng hoảng và bài học kinh nghiệm cho
Việt Nam trong quá trình hội nhập.

Khủng hoảng tài chính- tiền tệ ở Châu Á năm 1997 GVHD: TS. Nguyễn Ngọc Ảnh
Chương 1
LÝ THUYẾT VỀ KHỦNG HOẢNG
TÀI CHÍNH- TIỀN TỆ
1.1. KHÁI NIỆM VỀ KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH
Khủng hoảng tài chính là sự mất khả năng thanh khoản của các tập đoàn tài chính,
dẫn tới sự sụp đổ và phá sản dây chuyền trong hệ thống tài chính.
Dấu hiệu của khủng hoảng tài chính là:

- Các Ngân hàng thương mại (NHTM) không hoàn trả được các khoản tiền gửi của
người gửi tiền.
- Các khách hàng vay vốn, gồm cả khách hàng được xếp loại A cũng không thể hoàn
trả đầy đủ các khoản vay cho ngân hàng.
- Chính phủ từ bỏ chế độ tỷ giá hối đoái cố định.
Một số nguyên nhân của việc không thực hiện được các nghĩa vụ thanh toán là do
gặp phải vấn đề thanh khoản. Tình trạng mất khả năng thanh toán bắt nguồn từ các vụ
phá sản, kinh doanh thua lỗ và các vấn đề về chi tiêu của Chính phủ. Bản thân Chính phủ
cũng gặp khó khăn trong việc tìm tài trợ khi gặp khó khăn về thanh toán do những kỳ
vọng không sáng sủa mặc dù trong điều kiện bình thường nền kinh tế hoàn toàn có khả
năng chi trả. Sự mất khả năng thanh toán thường có tính dây chuyền. Vì vậy, khủng
hoảng tài chính là điều không mong muốn.
Thành phần chính của các cuộc khủng hoảng tài chính là các thông tin không đối
xứng. Thông tin không đối xứng có vai trò chính yếu trong các giao dịch tài chính. Nó
đưa người vay tới những hành vi cơ hội nguy hiểm và là mầm mống cho những kỳ vọng
xấu của người cho vay về người đi vay. Thông tin không cân xứng khiến cho người đi
vay và người gửi tiền do họ khó khăn trong việc phân biệt giữa vấn đề thanh khoản và
tình trạng mất khả năng thanh toán, qua đó dẫn đến việc người sở hữu bán đi những tài
sản bằng ngoại tệ của nước gặp khó khăn. Vì vậy, để hạn chế những thông tin không đối
xứng thì hai bên đi vay và cho vay cần có càng nhiều thông tin càng tố về nhau thông
qua những câu hỏi và người cho vay hỏi người đi vay để tránh sự lựa chọn bất lợi cho
nhà đầu tư.
1.2. CÁC LOẠI KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH
1.2.1 Khủng hoảng ngân hàng
Đây là tình trạng diễn ra khi các khách hàng đồng loạt rút tiền ồ ạt khỏi ngân hàng.
Vì ngân hàng cho vay phần lớn số tiền gửi vào nên khi khách hàng đồng loạt rút tiền, sẽ
Trang 3
Khủng hoảng tài chính- tiền tệ ở Châu Á năm 1997 GVHD: TS. Nguyễn Ngọc Ảnh
rất khó để các ngân hàng có khả năng hoàn trả các khoản nợ. Sự rút tiền ồ ạt có thể dẫn
tới sự phá sản của ngân hàng, khiến nhiều khách hàng mất đi khoản tiền gửi của mình,

trừ phi họ được bồi thường nhờ bảo hiểm tiền gửi. Nếu việc rút tiền ồ ạt lan rộng sẽ gây
ra khủng hoảng ngân hàng mang tính hệ thống. Cũng có thể hiện tượng trên không lan
rộng, nhưng lãi suất tín dụng được tăng lên (để huy động vốn) do lo ngại về sự thiếu hụt
trong ngân sách. Lúc này, chính các ngân hàng sẽ trở thành nhân tố gây ra khủng hoảng
tài chính.
1.2.2 Khủng hoảng trên thị trường tài chính (bong bóng đầu cơ và sự sụp đỗ)
Khủng hoảng trên thị trường tài chính thường xảy ra do 2 nguyên nhân chính:
+ Do các chính sách của Nhà nước
+ Do sự tồn tại của các “bong bóng” đầu cơ.
Yếu tố các chính sách của Nhà nước. Khi nhà nước phát hành tiền nhằm trang trải
cho các khoản thâm hụt ngân sách, điều này sẽ gây ảnh hưởng tới tỷ giá cố định. Người
dân sẽ mất lòng tin vào nội tệ và chuyển sang tích trữ bằng các loại ngoại tệ. Khi đó dự
trữ ngoại tệ của Nhà nước sẽ cạn dần, Nhà nước buộc phải từ bỏ tỷ giá cố định và tỷ giá
sẽ tăng.
Yếu tố thị trường của các “bong bóng” đầu cơ, ẩn chứa nguy cơ đổ vỡ. Khi hầu hết
những người tham gia thị trường đều đổ xô đi mua một loại hàng hóa nào đó trên thị
trường tài chính (chẳng hạn như cổ phiếu, bất động sản), nhưng không nhằm mục đích
đầu tư lâu dài, mà chỉ mua với mục đích đầu cơ, với hi vọng sẽ bán ra với giá cao hơn và
thu lợi nhuận, điều này đẩy giá trị của các hàng hóa này lên cao, vượt quá giá trị thực của
nó. Tình trạng này xảy ra sẽ kéo theo những nguy cơ đổ vỡ trên thị trường tài chính, do
các nhà đầu tư ngắn hạn kiểu trên luôn mua và bán theo xu hướng chung trên thị trường:
họ mua vào khi thấy nhiều người cùng mua, tạo những cơn sốt ảo trên thị trường và bán
ra khi có nhiều người cùng bán, gây tình trạng rớt giá, họ không cần hiểu biết nguyên do
khi nào cần mua vào, khi nào cần bán ra nên gọi là “tâm lý bầy, đàn”.
1.2.3 Khủng hoảng tài chính quốc tế
Khi một quốc gia đang duy trì cơ chế tỷ giá cố định thì đột ngột buộc phải phá giá
tiền tệ do bị tấn công đầu cơ. Hiện tượng này gọi là khủng hoảng tiền tệ (currency crisis)
hay khủng hoảng cán cân thanh toán (balance of payments crisis). Khi một chính phủ
thất bại trong việc hoàn trả các khoản nợ quốc gia được gọi là sự vỡ nợ quốc gia
(sovereign default).

Một vài quốc gia có đồng tiền tham gia vào Cơ chế Tỷ giá châu Âu (European
Exchange Rate Mechanism hay ERM) đã gặp phải khủng hoảng vào năm 1992 – 1993
và đã bị buộc phải phá giá hoặc rút khỏi cơ chế này. Một cuộc khủng hoảng tiền tệ khác
Trang 4
Khủng hoảng tài chính- tiền tệ ở Châu Á năm 1997 GVHD: TS. Nguyễn Ngọc Ảnh
cũng đã nổ ra ở Đông Á 1997 – 1998. Nhiều nước Châu Mỹ La Tinh cũng đã bị vỡ nợ
vào đầu thập niên 1980. Cuộc khủng hoảng tài chính ở Nga 1998 cũng là kết quả của sự
phá giá đồng Rup và sự vỡ nợ trái phiếu Chính phủ Nga. Ví dụ gần đây nhất có lẽ là
cuộc khủng hoảng nợ của Hy Lạp.
1.2.4 Khủng hoảng tài chính trong các tập đoàn kinh tế
Các tập đoàn thường vướng vào khủng hoảng tài chính do 2 lý do chủ yếu:
+ Do các kế hoạch đầu tư không đúng đắn, không thu hồi được vốn đầu tư, dẫn tới
việc không thanh toán được các khoản vay để đầu tư dẫn tới phá sản.
+ Do bị hiệu ứng dây chuyền từ khủng hoảng chung, khi đó các doanh nghiệp không
vay được vốn để đầu tư hoặc các dự án đầu tư không thu hồi được vốn do tình trạng
khủng hoảng.
1.3. MỘT SỐ LÝ THUYẾT VỀ KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH- TIỀN TỆ
Dựa trên ý tưởng của Salant và Henderson (1978), Krugman (1979) đã nghiên cứu và
cho ra đời một mô hình cho phép giải thích khá rõ nét về cơ chế của một cuộc tấn công tiền
tệ được gọi là mô hình khủng hoảng tiền tệ thế hệ thứ nhất. Mô hình này được xây dựng
nhằm chứng minh sự thất bại của chính phủ trong nỗ lực neo giữ tỷ giá bằng nguồn dự trữ
ngoại hối của mình trước các cuộc tấn công của giới đầu cơ. Mô hình của Krugman sau đó
được hai nhà kinh tế khác là Flood và Garber phát triển thêm nhờ vào kết quả quan sát từ
các cuộc khủng hoảng ở Argentina (1981) và Mexico (1982).
Cuộc khủng hoảng tiền tệ dưới Cơ chế Tiền tệ châu Âu (ERM) 1992 mang những đặc
trưng mới mà mô hình thứ nhất không giải thích được. Thực tế cho thấy nhiều nước tham
gia ERM rơi vào khủng hoảng tiền tệ khi dự trữ ngoại tệ của họ vẫn khá dồi dào. Điều đó
cho thấy dự trữ ngoại tệ không phải là vấn đề chính của khủng hoảng mà thay vào đó chính
là sự lựa chọn chính sách. Năm 1994, Obstfeld đã nghiên cứu về vấn đề này và đề xuất một
phiên bản khác về cuộc khủng hoảng tiền tệ - gọi là mô hình khủng hoảng thế hệ thứ hai.

Theo mô hình này, chính phủ phải đánh đổi giữa các mục tiêu vĩ mô. Trong khi đó, nhà đầu
cơ sẽ phản ứng dựa vào kỳ vọng về khả năng phá giá tiền tệ của chính phủ. Kết quả là một
cuộc khủng hoảng tiền tệ có tính tự phát sinh (self-fulfilling) nổ ra.
Đến năm 1997, cuộc khủng hoảng Đông Á đã tạo cơ sở thực tiễn cho các nhà kinh tế
xây dựng nên một phiên bản mới khác về một cuộc khủng hoảng tiền tệ. Các phiên bản đầu
tiên về mô hình khủng hoảng tiền tệ trong thời gian này được nghiên cứu bởi McKinnon và
Pill (1997), Krugman (1998). Đặc trưng của khủng hoảng theo mô hình thứ ba này là sự
khủng hoảng kép (twin crisis), đó là sự song hành giữa khủng hoảng tiền tệ (currency crisis)
với khủng hoảng ngân hàng (banking crisis).
Trang 5
Khủng hoảng tài chính- tiền tệ ở Châu Á năm 1997 GVHD: TS. Nguyễn Ngọc Ảnh
Lý thuyết khủng hoảng thế hệ thứ 1 (Krugman, 1979)
Mô hình khủng hoảng tiền tệ thế hệ thứ 2
Trang 6
Khủng hoảng tài chính- tiền tệ ở Châu Á năm 1997 GVHD: TS. Nguyễn Ngọc Ảnh
Mô hình khủng hoảng tiền tệ thế hệ thứ 3
1.4. HẬU QUẢ CỦA KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH- TIỀN TỆ
Các cuộc khủng hoảng tài chính đã làm đảo lộn cuộc sống của hàng triệu con người.
Cái giá đối với con người rất nghiêm trọng, có lẽ không thể nào tính nổi và hậu quả của
khủng hoảng vẫn tiếp tục được phơi bày. Người nghèo bị tác động bởi thất nghiệp, đồng
lương bị giảm, giá cả các nhu yếu phẩm tăng cao và các dịch vụ xã hội bị thu hẹp. Trẻ
em phải rời ghế nhà trường, lương thực và thực phẩm khan hiếm, nạn bạo hành và mại
dâm tăng lên. Thất nghiệp và cạnh tranh sinh tồn làm cho cộng đồng bị rạn nứt, chính trị
trở nên bất ổn
Trang 7
Khủng hoảng tài chính- tiền tệ ở Châu Á năm 1997 GVHD: TS. Nguyễn Ngọc Ảnh
Chương 2
CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH- TIỀN TỆ
CHÂU Á KHỞI ĐẦU LÀ THÁI LAN NĂM 1997
Có thể nói rằng khủng hoảng tài chính thường đi kèm với những nỗ lực nhằm tự do

hoá thị trường tài chính.
Vậy tự do hoá tài chính có nhất thiết dẫn đến khủng hoảng tài chính không?
Việc xảy ra các cuộc khủng hoảng tài chính có thể là một lý do phản đối việc bãi bỏ
các quy định và tự do hoá tài khoản vốn ?
2.1 TÌNH HÌNH ĐÔNG Á TRƯỚC KHỦNG HOẢNG
2.1.1 Thực trạng
Từ đầu thập niên 1990, tự do hóa tài chính được tiến hành với nhịp độ từ từ ở Đông
Á. Mặc dù vậy, chính phủ vẫn can thiệp trong phân bổ tín dụng, dẫn tới tâm lý ỷ lại.
Trong giai đoạn 1990-1997, lượng vốn tư nhân chảy vào các nước đang phát triển
tăng 5 lần từ 42 tỷ USD lên 256 tỷ USD. Đông Á là nơi thu hút một lượng lớn dòng vốn
này, chiếm tới 60% tổng vốn.
Tỷ giá hối đoái được cố định.
Kết quả là :
+ Tín dụng tăng trưởng cao, tỷ lệ nợ/vốn sở hữu của khu vực doanh nghiệp rất lớn,
và bong bóng giá tài sản xuất hiện.
+ Tăng trưởng GDP cao: Giai đoạn 1990-1996 của Thái Lan, Hàn Quốc, Indonesia
và Malaysia đạt 8%.
2.1.2 Những mất cân đối vĩ mô năm 1997
+ Từ năm 1996, tốc độ tăng trưởng kinh tế của các nước Đông Á bắt đầu chững lại.
+ Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của các nước Đông Á ở mức 19-21%
trong năm 1995 giảm xuống 4% trong năm 1996.
Nguyên nhân chủ quan
a. Thâm hụt tài khoản vãng lai nền kinh tế phát triển mất cân đối, nền tảng kinh tế vĩ
mô yếu kém.
Xét về mức độ, tuy có khác nhau nhưng nhìn chung kinh tế Thái Lan và một số nước
Châu Á, tăng trưởng nóng tạo nên tốc độ phát triển kinh tế cao trung bình từ 7,5 đến 8%
trong những năm qua đã ngấm ngầm báo hiệu những sự mất cân đối dẫn đến khủng
hoảng tài chính.Trước hết thể hiện sự mất cân đối bên trong đó là mâu thuẫn giữa tốc độ
tăng trưởng quá nhanh tạo nên sức ép đối với giá cả do chi phí sản xuất kinh doanh ngày
Trang 8

Khủng hoảng tài chính- tiền tệ ở Châu Á năm 1997 GVHD: TS. Nguyễn Ngọc Ảnh
một tăng. Đối với Thái Lan chỉ số giá tiêu dùng tăng nhanh, đạt mức 5,6% năm 1996 so
với 3,4% năm 1993. Chính phủ vì thế phải tăng mức lương tối thiểu, trung bình
8,5%/năm, trong khi đó năng suất lao động chỉ tăng trung bình 3%. Đặc điểm này diễn ra
tương tự như ở Malaysia, Indonesia và Philippines. Mặt khác, các nước phải tăng vốn
vay từ bên ngoài để bù đắp cho việc thiếu hụt trong nước nhằm đẩy nhanh tốc độ hiện
đại hóa sản xuất, tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng.
Bên cạnh đó trừ Indonesia phần nào dựa vào nguồn dầu mỏ xuất khẩu, còn Thái Lan,
Malaysia rơi vào tình trạng thâm hụt tài khoản vãng lai ở mức báo động. Theo phân tích
của IMF, nếu thâm hụt trên mức 5% so với GDP sẽ đẩy nước này vào tình trạng khủng
hoảng. Thâm hụt tài khoản vãng lai còn có nghĩa là kinh tế Châu Á đã mất cân đối
nghiêm trọng đối với bên ngoài. Từ năm 1995 trở lại đây, thâm hụt tài khoản vãng lai ở
Thái Lan là 8,1%GDP năm1995 và 8,2%GDP năm1996. Tương tự, ở Malaysia là
9,7%GDP năm 1996. Đây là mức độ thâm hụt bằng với mức mà Mexico gặp phải khi
bùng nổ khủng hoảng 1994. Trong khi đó thâm hụt ở Indonesia là 4% và Philippines là
3,2% GDP năm 1996. Các nguyên nhân chủ yếu gây nên tình trạng thâm hụt đó là:
+ Do kim ngạch xuất khẩu của các nước từ năm 1995 đến nay giảm mạnh.
+ Do thâm hụt tài khoản vãng lai và thâm hụt cán cân thanh toán ngày càng nghiêm
trọng đã buộc các nước trong khu vực phải vay nóng từ các khoản vay ngắn hạn của
nước ngoài để bù đắp cho những khoản chi tiêu trong nước
+ Các dòng vốn nước ngoài kéo vào.
Chính sách tiền tệ nới lỏng và việc tự do hóa tài chính ở Mỹ, châu Âu và Nhật Bản
cuối thập niên 1980 đã khiến cho tính thanh khoản toàn cầu trở nền cao quá mức. Các
nhà đầu tư ở các trung tâm tiền tệ nói trên của thế giới tìm cách thay đổi danh mục tài
sản của mình bằng cách chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài. Trong khi đó, các nước châu
Á lại thực hiện chính sách tự do hóa tài khoản vốn. Lãi suất ở các nước châu Á cao hơn ở
các nước phát triển. Chính vì thế, các dòng vốn quốc tế đã ồ ạt chảy vào các nước Châu
Á.
b. Tỷ giá hối đoái dồn nén một cách khiên cưỡng.
Nếu vấn đề nêu trên là những nguyên nhân sâu xa dẫn đến khủng hoảng thì các

chính sách “neo giá” (ổn định tỷ giá) giữa các đồng tiền khu vực với đồng USD, tạo nên
một hệ thống tỷ giá khiên cưỡng là nguyên nhân chủ yếu dẫn tới việc phá giá hàng loạt
các đồng tiền khu vực. Mặc dù khởi phát từ việc thả nổi đồng baht Thái Lan dẫn đến
hiệu ứng lan tỏa sang các đồng Peso, Ringgit và Rupiah, nhưng trong thực tế trong
chừng mực nào đó, các đồng nội tệ này đã bị giảm giá trước xu hướng ngày tăng của
đồng USD.
Trang 9
Khủng hoảng tài chính- tiền tệ ở Châu Á năm 1997 GVHD: TS. Nguyễn Ngọc Ảnh
Xét về phương diện lý thuyết, chế độ tỷ giá hối đoái cố định theo hệ thống Bretton
Woods, có ý nghĩa tích cực trong việc ổn định hóa đòng tiền nội tệ và hỗ trợ cho quá
trình tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, nếu lạm dụng quá nhiều vào tỷ giá cố định trong
điều kiện đồng nội tệ trên thực tế bị giảm giá so với đồng tiền mạnh khác cũng như cơ
cấu kinh tế mất cân đối lớn dẫn đến nguy cơ khủng hoảng. Từ năm 1996, khi những triệu
chứng thâm hụt tài khoản vãng lai xuất hiện, Thái Lan và các nước Đông Nam Á khác
thì phải thực hiện chính sách thả nổi đồng nội tệ, trả lại giá đích thực của nó, kết hợp với
chính sách thắt chặt tài chính, chắc chắn nguy cơ khủng hoảng bị dập tắt.
Thái Lan và một số nước Đông Nam Á đã cố gắng thực hiện những gì mà các nhà
kinh tế gọi là Bộ ba bất khả thi. Họ vừa cố định giá trị đồng tiền của mình vào USD, vừa
cho phép tự do lưu chuyển vốn (tự do hóa tài khoản vốn). Kinh tế Đông Nam Á tăng
trưởng nhanh trong thập niên 1980 và nửa đầu thập niên 1990 đã tạo ra sức ép tăng giá
nội tệ. Để bảo vệ tỷ giá cố định, các ngân hàng trung ương Đông Nam Á đã thực hiện
chính sách tiền tệ nới lỏng. Kết quả là cung tiền tăng gây ra sức ép lạm phát. Chính sách
vô hiệu hóa (sterilization policy) đã được áp dụng để chống lạm phát vô hình chung đẩy
mạnh các dòng vốn chảy vào nền kinh tế.
c. Hệ thống tài chính yếu kém và vấn đề niềm tin bị tổn thương
Bài học đắt giá nhất cho kinh tế mỗi nước là nếu chỉ quan tâm đến tăng trưởng nóng
mà không chú ý kiện toàn hệ thống tài chính, hệ quả tất yếu là ngân sách nhà nước bị
thâm hụt, lạm phát tăng, nền kinh tế sớm muộn gì cũng lâm vào khủng hoảng. Hệ thống
ngân hàng tài chính là một lĩnh vực hết sức nhạy cảm và chứa đựng nhiều rủi ro, chỉ cần
một tổn thương cũng gây nên những xáo trộn lớn trong quá trình điều tiết kinh tế. Việc

duy trì quá lâu tỷ giá hối đoái cố định đã tạo nên kẻ hở trong hệ thống ngân hàng của các
nước này. Hệ thống ngân hàng hoạt động yếu kém dẫn đến kẻ hở cho nhà đầu cơ tiền tệ
vay vốn để mua ngoại tệ kiếm lời. Sự tăng giá của đồng Yên Nhật so với USD khiến cho
các ngân hàng đổ xô mua sau đó bán lại để mua USD hưởng chênh lệch giá.
Hiện tượng thất thoát vốn do đầu cơ tiền tệ ngày càng trở nên nghiêm trọng. Để duy
trì tốc độ tăng trưởng và tỷ giá hối đoái cố định ngân hàng tiếp tục vay nóng ngân hàng
nước ngoài dẫn đến giới hạn nguy hiểm khi tỷ lệ nợ vượt xa dự trữ ngoại tệ trong nước.
Các chuyên gia IMF cho biết tỷ lệ nợ /dự trữ ngoại hối ở Thái Lan, Indonesia xấp xỉ 3
lần, Philippines gấp 4 lần, hấp nhất là Malaysia là 10 tỷ USD.
Do thất thoát và ứ đọng vốn ở thị trường bất động sản dẫn đến hàng loạt ngân hàng
trong khu vực tuyên bố vỡ nợ. Điển hình như ở Thái Lan, 10 ngân hàng lớn nhất đứng
trước nguy cơ phá sản. Các Nhà đầu tư trong và ngoài nước bắt đầu có hội chứng mất
dần niềm tin, hàng loạt khách hàng rút vốn ra khỏi ngân hàng-tài chính đã làm suy giảm
thị trường chứng khoán ở các nước này.
Trang 10
Khủng hoảng tài chính- tiền tệ ở Châu Á năm 1997 GVHD: TS. Nguyễn Ngọc Ảnh
Nguyên nhân khách quan
a. Thị trường thương mại toàn cầu giảm sút, những thay đổi bất lợi của kinh tế thế giới.
Từ năm 1995 trở lại đây, tốc độ tăng trưởng kinh tế của các nước công nghiệp phát
triển giảm sút dẫn đến lượng cầu cũng suy giảm. Đặc biệt, những nước này là bạn hàng
chủ yếu, là đối tác kích thích quá trình tăng trưởng nóng hướng về xuất khẩu của các
nước Đông Nam Á. Những sản phẩm xuất khẩu chủ lực của khu vực (điện tử, sợi, dệt)
đang đứng trước nguy cơ bảo hòa của thị trường thế giới. Năm 1996, thị trường bán dẫn
quốc tế suy thoái mạnh, giá vi mạch giảm hơn 80%. Các mặt hàng điện tử dân dụng của
Nhật, các nước NICs (Các nước công nghiệp mới) Đông Nam Á giảm lượng bán hơn
40% trên thị trường thế giới. Mặt khác tính hấp dẫn của thị trường Đông Nam Á trước
các đối tác Mỹ và Tây Âu đã giảm sút trước thị trường Trung Quốc, SNG (các quốc gia
thành viên cũ của liên bang cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô Viết) ở Đông Âu và Mỹ
Litinh. Nhật Bản cũng đang lúng túng về những đồng vốn cho vay quá lớn trước những
biến động xấu của thị trường tài chính khu vực. Theo báo cáo của ngân hàng D. M.

Green Fell thì hơn một nữa số 70 tỷ USD Thái Lan nợ ngân hàng là của Nhật Bản và chủ
yếu là do vay nóng. Do vậy, khi lãi suất tăng thì không chỉ chi phí vay nợ tăng mà đồng
vốn vào Thái Lan cũng sẽ giảm đi hoặc đổi chiều.
Nhật Bản, một trong những thị trường xuất khẩu lớn nhất của các nước châu Á bị trì
trệ từ đầu thập niên 1990. Nhân dân tệ được định giá thấp so với USD từ năm 1994 cùng
nhiều nhân tố khác làm cho hàng xuất khẩu của Trung Quốc rẻ hơn so với hàng xuất
khẩu cùng loại của Đông Nam Á. Trong khi đó, nền kinh tế của Mỹ đang được khôi phục
lại sau tình trạng suy thoái đầu những năm 1990, Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ dưới sự
lãnh đạo của Alan Greenspan bắt đầu nâng lãi suất của Mỹ lên để ngăn chặn lạm phát.
Việc này làm cho Mỹ trở thành một thị trường hấp dẫn đầu tư hơn so với các nước ở
Đông Á, và do đó hấp dẫn những luồng vốn đầu tư ngắn hạn thông qua lãi suất ngắn hạn
cao và làm tăng giá đồng USD. Và do đồng tiền của các nước Đông Nam Á được neo
vào đồng USD, nên xuất khẩu của các nước này trở nên kém cạnh tranh. Từ mùa Xuân
năm 1996, tăng trưởng trong xuất khẩu của Đông Nam Á giảm xuống một cách nhanh
chóng, làm suy yếu tài khoản vãng lai của họ.
b. Hoạt động tấn công đầu cơ và rút vốn đồng loạt
Nguyên nhân trực tiếp của khủng hoảng tài chính Đông Á năm 1997 là những cuộc
tấn công đầu cơ và việc rút vốn đồng loạt khỏi các nước châu Á. Khi phát hiện những
dấu hiệu suy thoái của hệ thống ngân hàng- tài chính khu vực, nhiều nhà đầu cơ nước
ngoài đã tăng cường hợt động đầu cơ tiền tệ. Theo nguồn tin nước ngoài thì rất nhiều nhà
đầu cơ trong tổng số 2300 quỹ tín dụng tư nhân ở Mỹ, với tài sản trên 100 tỷ USD đã
nhảy vào thị trường khu vực này trong 2 tháng 7-8/1997.
Trang 11
Khủng hoảng tài chính- tiền tệ ở Châu Á năm 1997 GVHD: TS. Nguyễn Ngọc Ảnh
Những nguyên nhân sâu xa nói trên rồi cũng bộc lộ. Thị trường bất động sản của
Thái Lan đã vỡ. Một số thể chế tài chính bị phá sản. Người ta không còn tin rằng Chính
phủ đủ khả năng giữ nổi tỷ giá hối đoái cố định. Khi phát hiện thấy những điểm yếu chết
người trong nền kinh tế của các nước châu Á, một số thể chế đầu cơ vĩ mô đã tiến hành
tấn công tiền tệ châu Á. Các nhà đầu tư nước ngoài đồng loạt rút vốn ra.
2.2 DIỄN BIẾN CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH- TIỀN TỆ Ở THÁI LAN

Ở Thái Lan vì nôn nóng quá tự do hóa tài chính
(*)
, với ý nghĩ mình là vững mạnh, mình
là con rồng của Châu Á đủ mạnh để tự do hóa tài chính và khi tự do hóa tài chính (mở rộng
thị trường vốn) lúc này Chính phủ Thái Lan không kiểm soát được dòng vốn vào
(*)
Tự do hóa tài chính là quá trình giảm thiểu và cuối cùng là hủy bỏ sự kiểm soát
của Nhà nước đối với hoạt động của hệ thống tài chính quốc gia, làm cho hệ thống này
hoạt động tự do hơn và hiệu quả hơn theo quy luật thị trường. Nội dung cơ bản của tự do
hóa tài chính bao gồm: Tự do hóa lãi suất, tự do hóa hoạt động cho vay của các ngân
NHTM, tự do hóa hoạt động ngoại hối, tự do hóa hoạt động của các tổ chức tài chính
trên thị trường tài chính.
Vào thời điểm 1997- 1998 Nhật Bản là một nước thặng dư khối lượng ngoại tệ rất
lớn và khi nền kinh tế đã bão hòa, việc đầu tư trong nước không kiếm được lợi nhuận
nên Nhật Bản có xu hướng sử dụng tiền để đầu tư nước ngoài, một trong những nơi được
nhắm đến ở các nước Đông Á là Thái Lan (một con rồng của Châu Á), khi đó các
NHTM Nhật Bản cho dòng vốn chuyển dịch đầu tư vào những doanh nghiệp, những thể
chế tài chính của Thái Lan. Mà dòng dịch chuyển vốn đó rất là ồ ạt (đầu tư quá mức về
bất động sản) nhưng Chính phủ Thái Lan không thể kiểm soát được.
Thời điểm này dự trữ ngoại hối ngân hàng trung ương ở Thái Lan là 24 tỷ để giữ giá
đồng Baht, khi dòng vốn dịch chuyển vốn vào Thái Lan (một quốc gia phát triển xuất
phát từ bong bóng bất động sản) thì những khoản nợ : nợ công là nợ của Chính phủ và
nợ tư là nợ của các doanh nghiệp với các tổ chức tài chính trung gian ở bên ngoài mà
Chính phủ không kiểm soát
Xu hướng chung là khi một quốc gia có sự giàu có lên, như Thái Lan lúc bấy giờ là
an cư mới lập nghiệp, do đó phát sinh nhu cầu mua sắm nhà cửa. Lúc này thị trường bất
động sản được khuyếch đại hóa, thị trường bất động sản tăng giá thì nhà đầu tư lao vào
đầu tư bất động sản đến mức độ đẩy bong bóng bất động sản lên cao, có những khu đất
xây dựng lên rất nhiều, nhà cửa phát triển đến mức độ dân cư không đủ tiền để mua sắm
bất động sản, người nghèo không đủ tiền mua nhà xã hội với mức giá thấp, người giàu

không thể sử dụng hết những căn hộ cao cấp do vậy dẫn đến thặng dư hàng hóa bất động
sản. Hậu quả là tồn kho bất động sản gọi là đóng băng thị trường bất động sản.
Trang 12
Khủng hoảng tài chính- tiền tệ ở Châu Á năm 1997 GVHD: TS. Nguyễn Ngọc Ảnh
Như thế những khoản nợ nần của những doanh nghiệp kinh doanh bất động sản trở
nên mất khả năng chi trả. Dẫn đến các NHTM mất tính thanh khoản (sử dụng vốn tín
dụng ngắn hạn cho vay dài hạn) gây ra phá sản từ thị trường chứng khoán, qua đó nó phá
sản qua thị tiền tệ và như thế nó ảnh hưởng đến việc đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài
nhất thông qua các NHTM đầu tư dịch chuyển vốn để đầu tư vào thị trường bất động sản,
đầu tư qua các công ty bất động sản, đầu tư vào các công ty của Thái Lan rất nhiều với
việc cho vay, mà cho vay thì Chính phủ Thái Lan không kiểm soát được và lúc đó Chính
phủ vẫn giữ tỷ giá hối đoái cố định (25 đến 26 Baht/1 USD). Biến động này dẫn đến
hàng loạt các ngân hàng và công ty tài chính ở Thái Lan phải đóng cửa. Không những
thế các nhà đầu tư và nhân dân rút tiền ngân hàng hàng, bán đi đồng tiền yếu (baht Thái)
chuyển đổi thành đồng tiền mạnh (đồng USD).
Khi quá trình đại khủng hoảng xảy ra trong thị trường hối đoái tự do, lúc này các nhà
đầu tư nước ngoài tranh thủ rút vốn về (người ta bán tống bán tháo tài sản mà nhà đầu tư
nước ngoài đang có) bán ra đồng baht của Thái Lan vào NHTM để đổi lấy đồng USD,
khi có nguy cơ khủng hoảng đồng baht Thái bị mất giá rồi (ngoài thị trường tự do đã lên
đến 35 baht/USD mà ngân hàng trung ương Thái Lan vẫn giữ tỷ giá cố định 25
baht/USD, lúc này các nhà đầu tư nhanh chóng đổi ra rút vốn về. Với nghiệp vụ ngoại
hối liên tục là bán ra ngại tệ ra lấy đồng baht Thái về để đáp ứng nhu cầu của nhà đầu tư
rút vốn và rút vốn đến nỗi 24 tỷ USD của ngân hàng trung ương Thái Lan không còn,
không còn khoản dự trữ ngoại hối nào.
Sau khi chính phủ Thái Lan phát hiện ra thì đã muộn và cho thả nổi tỷ giá, lúc này tỷ
giá xuống tới mức kỷ lục 54.1 Baht/ USD ngày 6/1/1998 và Ngân hàng trung ương Thái
Lan đã cạn kiệt nguồn ngoại tệ khi lượng đầu tư nước ngoài đã rút về.
Qua đó ta có thể thấy được từ lĩnh vực bong bóng bất động sản đã làm cho phá vỡ thị
trường chứng khoán Thái Lan đóng cửa và đẩy tới thị trường tiền tệ Thái Lan khủng
hoảng (các NHTM của Thái Lan phá sản hàng loạt). Nền kinh tế lâm vào khủng hoảng

cực kỳ nghiêm trọng về mặt kinh tế tài chính và lây lan sang những quốc gia khu vực
như Korea, Maylaysia, Indonexia và Philipin. Đây chính là cuộc khủng hoàng nợ tư (Các
nhà đầu tư tư nhân vay ngân hàng để đầu tư vào thị trường bong bóng bất động sản, sau
khi thị trường bất động sản đóng băng thì họ không thanh toán nợ cho ngân hàng mà
trước đây vay)
Khảo sát về khía cạnh tự do hóa tài chính, nước Thái Lan là nước mắc bẫy muốn
nhanh chóng tự do hóa tài chính. Muốn tự do hóa tài chính nhanh nhất là mở rộng thị
trường vốn (dịch chuyển quan hệ giao dịch giữa các công ty đa quốc gia với nhau, giao
dịch giữa các tổ chức tài chính trung gian Nhật Bản với tổ chức tài chính trung gian Thái
Trang 13
Khủng hoảng tài chính- tiền tệ ở Châu Á năm 1997 GVHD: TS. Nguyễn Ngọc Ảnh
Lan, giữa các doanh nghiệp Nhật Bản với các doanh nghiệp Thái Lan) dịch chuyển vốn
không được kiểm soát, đầu ra đầu vào không kiểm soát.
2.3. TÁC ĐỘNG CỦA KHỦNG HOẢNG
2.3.1. Tác động tiêu cực
Khủng hoảng đã gây ra những ảnh hưởng vĩ mô nghiêm trọng, bao gồm mất giá tiền
tệ, sụp đổ thị trường chứng khoán, giảm giá tài sản ở một số nước châu Á. Nhiều doanh
nghiệp bị phá sản, dẫn đến hàng triệu người bị đẩy xuống dưới ngưỡng nghèo trong các
năm 1997-1998. Những nước bị ảnh hưởng nặng nề nhất là Indonesia, Hàn Quốc và Thái
Lan. Nó đánh dấu sự kết thúc của giai đoạn tăng trưởng nhanh, kéo dài và chủ yếu dựa
vào nguồn vốn nước ngoài của các nước trong khu vực, giờ đây sẽ chuyển sang giai đoạn
ôn hòa, thận trọng và dựa cvào sức mình là chính. Cuộc khủng hoảng gây thiệt hại cho
các nước Châu Á ít nhất 300 tỷ USD, bằng khoảng 20% GDP của các nước bị khủng
hoảng.
Cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ này đã làm giảm mức sống của người lao động
(do lạm phát gia tăng) còn dẫn tới mất ổn định chính trị với sự ra đi của Suharto ở
Indonesia và Chavalit Yongchaiyudh ở Thái Lan. Tâm lý chống phương Tây gia tăng
cùng với sự phê phán gay gắt nhằm vào George Soros và Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Các phòng
trào Hồi giáo và ly khai phát triển mạnh ở Indonesia khi chính quyền trung ương của nước
này suy yếu. Các nhà đầu tư nước ngoài giảm sút niềm tin, vốn FDI đổ vào Châu Á giảm

dần, họ đầu tư rụt rè và thận trọng hơn khi đầu tư ở nơi khác. Sự phá giá đồng bản tệ đã
làm tăng chi phí dịch vụ nợ và chất thêm gánh nặng nợ nần của các công ty dẫn đến phá
sản hàng loạt. tình hình bong bóng bất đọng sản vỡ tung, các ngân hàng rơi vào tình trạng
gánh chịu một đống nợ khó đòi.
Một ảnh hưởng lâu dài và nghiêm trọng, đó là GDP và GNP bình quân đầu người
tính bằng USD theo sức mua tương đương giảm đi. Nội tệ mất giá là nguyên nhân trực
tiếp của hiện tượng này. Theo sách CIA World Fact Book cho biết thu nhập bình quân
đầu người của Thái Lan đã giảm từ mức 8.800 USD năm 1997 xuống còn 8.300 USD
vào năm 2005, của Indonesia giảm từ 4.600 USD xuống 3.700 USD, của Malaysia giảm
từ 11.100 USD xuống 10.400 USD. Khủng hoảng không chỉ làm gia tăng lượng người
thất nghiệp ở các nước khu vực (tăng gấp đôi vào năm1998 ở Thái Lan, Hàn Quốc và
Indonesia…) mà còn ở các nước bạn hàng của họ do thu hẹp quy mô nhập khẩu vì khủng
hoảng.
2.3.2. Tác động tích cực
“Trong cái rủi có cái may”, cuộc khủng hoảng Châu Á 1997 không chỉ hoàn toàn
gây tác hại mà ở một chừng mực nào đó, nó là điểm dừng để mở đầu giai đoạn mới đầy
Trang 14
Khủng hoảng tài chính- tiền tệ ở Châu Á năm 1997 GVHD: TS. Nguyễn Ngọc Ảnh
triển vọng như:
+ Chuyển chính sách tỷ giá cố định sang linh hoạt sẽ giúp các Chính phủ giảm thiểu
được lượng ngoại tệ can thiệp để giữ giá bản tệ như thời gian trước đó, giúp tăng dự trữ
quốc gia và về lâu dài, với đồng bản tệ rẻ sẻ khuyến khích và tăng khả năng cạnh tranh
xuất khẩu, từ đó cải thiện những cân đối tài chính của đất nước.
+Nhiều nước như Thái lan, Indonesia, Hàn Quốc, Philippines…sẽ nhận được lượng
tín dụng quốc tế chính thức với khối lượng lớn để phục vụ các mục tiêu cải cách và phát
triển kinh tế. Cuộc khủng hoảng giúp định hướng lại và cải thiện cơ cấu đầu tư, lành
mạnh hóa hơn nền tài chính quốc gia, tạo sức ép buộc các chủ đầu tư kinh doanh phải
thay đổi thích ứng với tình hình mới, thúc đẩy sản xuất những sản phẩm mới có sức cạnh
tranh xuất khẩu cao hơn. Các khoản chi kém hiệu quả sẻ bị cắt giảm, các dự án cá nhân
được khuyến khích, quá trình tư nhân hóa, giảm thiểu khu vực Nhà nước, giảm bớt sự

độc quyền và bao cấp của Chính phủ được xúc tiến rộng rãi, tích cực hơn.
+ Góp phần và là dịp để Chính phủ và nhân dân cũng như các tổ chức tài chính-tiền
tệ bổ khuyết những thiếu sót về chính sách thể chế lẫn những yếu tố thuộc con người…từ
đó tạo ra những xung lực tích cực mới cho sự phát triển kinh tế-xã hội bền vững ở cấp
quốc gia, khu vực và quốc tế với tư cách là một chỉnh thể hữu cơ. Quá trình tự do hóa và
toàn cầu hóa sẽ được đẩy lên một nấc mới, một phần nhờ các chương trình điều chỉnh
kinh tế rộng rãi theo hướng này ở các nước khu vực sau khi đã “uống thuốc của IMF”;
phần nhờ sự chuẩn bị chu đáo thận trọng hơn và thích hợp hơn của mỗi nước; phần nữa
nhờ sự xuất hiện những cơ chế thúc đẩy và giám sát mới mang tính khu vực, sự bổ sung
của IMF và các tổ chức tài chính khu vực, đồng thời cũng là kết quả của sự hợp tác giữa
các nước khu vực trong nổ lực vượt qua khủng hoảng
Trang 15
Khủng hoảng tài chính- tiền tệ ở Châu Á năm 1997 GVHD: TS. Nguyễn Ngọc Ảnh
Chương 3
CÁC BIỆN PHÁP THOÁT KHỎI KHỦNG HOẢNG
TÀI CHÍNH- TIỀN TỆ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
CHO VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP
3.1. CÁC BIỆN PHÁP THOÁT KHỎI KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH- TIỀN TỆ
3.1.1 Ở cấp độ quốc tế
Sự hỗ trợ tài chính khẩn cấp và to lớn của cộng đồng quốc tế thông qua vai trò tổ
chức, điều phối và giám sát của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) là vô cùng quan trọng và có
hiệu lực nhanh chóng, mạnh mẽ nhất để chế ngự cuộc khủng hoảng, tránh sự đổ vỡ lan
rộng và hậu quả kéo dài ở cả trong và ngoài mỗi nước. Cụ thể là những “Chương trình
cứu trợ khẩn cấp trọn gói” mà IMF đã liên tiếp triển khai cho Thái Lan, Phillippines,
Indonesia và Hàn Quốc đã có tổng giá trị hàng trăm tỷ USD.
Sự hỗ trợ quốc tế còn được thể hiện ở những thỏa thuận giữa những con nợ và chủ
nợ trong việc hoãn nợ, đảo nợ, bảo đảm nợ nhằm cải thiện tình trạng nợ nần của các
nước đang lâm vào khủng hoảng. Sự hỗ trợ quốc tế còn là lời kêu gọi các thị trường lớn
như Mỹ, EU… mở rộng cửa cho hàng xuất khẩu của các nước đang trong khu vực khủng
hoảng để giúp làm tăng kim ngạch xuất khẩu, cải thiện cán cân thương mại và thu nhập

ngoại hối của họ.
Các tổ chức quốc tế như IMF, OECD (Tổ chức Hợp tác kinh tế và Phát triển)…còn
kêu gọi và triển khai các kế hoạch tăng cường hỗ trợ kỹ thuật, thông tin, tư vấn nhằm
nâng cao năng lực thể chế của các nước trong khu vực khủng hoảng. Ngoài ra, IMF còn
bổ sung thêm chức năng của mình thông qua việc hình thành trong nó một cơ cấu giám
sát khu vực mới, thích hợp hơn dành cho châu Á
3.1.2 Ở cấp độ khu vực
“Tự cứu mình trước khi trời cứu” là phương châm hành động của các nước trong khu
vực.Các giải pháp được sử dụng tùy thuộc vào đặc điểm của mỗi nước, nhưng cũng tập
trung vào một số giải pháp chủ yếu sau:
Tăng cường hợp tác khu vực: Ngay từ những tháng đầu xảy ra khủng hoảng, các
nước trong khu vực đã đề xuất những ý tưởng phối hợp những cố gắng với nhau để tạo ra
sức mạnh tổng hợp vượt qua cuộc khủng hoảng. Những ý tưởng này đã được cụ thể hóa
bằng việc thành lập những thể chế tài chính - tiền tệ cho khu vực như “Quỹ tín dụng
châu Á”, “Ngân hàng thanh toán bù trừ đa biên ASEAN”, hay các thỏa thuận giữa các
Bộ trưởng Tài chính ASEAN về việc khuyến khích sử dụng đồng bản tệ trong thanh toán
Trang 16
Khủng hoảng tài chính- tiền tệ ở Châu Á năm 1997 GVHD: TS. Nguyễn Ngọc Ảnh
các giao dịch thương mại nội bộ ASEAN trên cơ sở các thỏa thuận song phương nhưng
vẫn lấy giá trị USD để tham khảo tỷ giá chuyển đổi giữa các đồng tiền với nhau. Ngoài
ra, còn có những cố gắng khác nhằm đẩy mạnh hợp tác kinh tế nội khối để giảm bớt các
khó khăn do khủng hoảng gây ra như: trao đổi trực tiếp hàng lấy hàng, hoàn thiện nhanh
khu vực đầu tư ASEAN…
Thành lập cơ chế giám sát tài chính ASEAN: Một trong những nguyên nhân dẫn đến
khủng hoảng là sự yếu kém của hệ thống tài chính – ngân hàng và việc điều hành quản lý
nền kinh tế chưa theo kịp tốc độ tự do hóa, toàn cầu hóa. Do đó, để khắc phục khủng
hoảng, các nước ASEAN cần phải phối hợp hành động mới đạt được hiệu quả cao và
nhanh chóng đưa kinh tế khu vực phục hồi trở lại. Vì vậy, cơ chế giám sát ASEAN đã
được hình thành với mục tiêu trao đổi thông tin và thảo luận tình hình kinh tế - tài chính
của các nước thành viên, từ đó đưa ra một hệ thống cảnh báo sớm nhằm tăng cường ổn

định kinh tế vĩ mô và hệ thống tài chính khu vực. Ngoài ra, cơ chế giám sát ASEAN còn
giúp đề xuất các chính sách và khuyến khích các hành động đơn phương hoặc tập thể để
ngăn ngừa khủng hoảng, giám sát và thảo luận về tình hình kinh tế - tài chính toàn cầu có
thể ảnh hưởng tới khu vực và các biện pháp đối phó của từng nước, khu vực.
Nới lỏng dần chính sách tài chính - tiền tệ: Vào những ngày đầu khủng hoảng bùng
phát, các nước khu vực đã khẩn trương áp dụng các giải pháp tình thế để chống đầu cơ
và giữ ổn định tiền tệ, giảm bớt sức ép đáo hạn nợ nước ngoài và sự rút vốn nước ngoài
bằng các biện pháp chủ yếu như: tăng lãi suất, siết chặt tín dụng, siết chặt kỷ kuật tài
chính, kiểm soát ngoại hối, đóng cửa hàng loạt các tổ chức tín dụng hoạt động không có
hiệu quả…Thế nhưng, các giải pháp này lại làm phản tác dụng, khiến các doanh nghiệp
khó tiếp cận các nguồn vốn tín dụng, càng làm tăng “cơn khát vốn” của họ, ảnh hưởng
trực tiếp đến khả năng duy trì hoạt động, khả năng cạnh tranh và khả năng trả nợ của họ.
Trong khi đó, làn sóng giảm lãi suất, chống giảm phát, kích thích tăng trưởng chung do
Mỹ phát động đã được các nước G7 hỗ trợ và hưỡng ứng rộng rãi trên toàn cầu đã khích
lệ các nước trong khu vực chuyển mạnh sang các giải pháp khuyến khích phục hồi và
tăng trưởng. Lãi suất đã được giảm, tín dụng đã được nới lỏng, thuế cũng được cắt giảm
và trợ giúp tài chính từ Nhà nước cho các doanh nghiệp được gia tăng một cách thích
đáng.
Hầu hết các nước đang từ bỏ dần thái độ cực đoan trong đối xử với vấn đề tỷ
giá.Việc cố định cứng nhắc cũng như thả nổi hoàn toàn bản tệ đều không thể đưa đến
mục tiêu mong muốn là ổn định vững chắc cơ sở tiền tệ của mỗi nước. Ngoài ra, hành
động phá giá cạnh tranh tiền tệ không thể không gây tổn thương đến các khu vực khác và
tạo vòng xoáy phá giá đồng tiền cực kỳ nguy hiểm giữa các nước. Do đó, vấn đề này
cũng đang được xem xét lại một cách nghiêm túc ở cấp độ toàn khu vực.
Trang 17
Khủng hoảng tài chính- tiền tệ ở Châu Á năm 1997 GVHD: TS. Nguyễn Ngọc Ảnh
Tăng cường các nguyên tắc thị trường ngày càng được các nước ASEAN quán triệt
và thực thi đầy đủ hơn cho sự vận hành nền kinh tế. Bởi vì Chính phủ các nước ngày
càng nhận thấy rõ sự rủi ro của việc can thiệp quá sâu vào khu vực kinh doanh gây ra
tình trạng nguồn tín dụng được đem cấp thiếu cơ sở kinh tế cho các công ty tham nhũng

và được Chính phủ che chở cũng như tình trạng phát triển quá khích một lĩnh vực ngành
nghề nào đó gây tổn hại đến thị trường nội địa.
Phát huy nội lực trong nước và giảm bớt thái độ vọng ngoại: Các nước ASEAN ngày
càng giảm bớt thái độ đổ lỗi cho bên ngoài, để bình tĩnh và khách quan trong việc nhìn
nhận, sữa chữa những bất cập “nội sinh” trong chính sách và thể chế của bản thân trước
sự biến đổi mau lẹ của hoàn cảnh quốc tế. Hơn nữa, thái độ trông chờ vào vốn nước
ngoài cũng dịu bớt để đánh giá đúng mức hơn vai trò của các nguồn nội lực.
Nhận thức về thái độ tự do hóa thị trường: Các nước ASEAN đang điều chỉnh lại
nhận thức về tự do hóa thị trường và tài chính, đặc biệt là việc tách vấn đề thương mại
hàng hóa và dịch vụ ra khỏi lưu thông vốn quốc tế có thể coi là một bước phát triển mới
về nhận thức lẫn thực tiễn. Các nước trong khu vực một mặt đang tiếp tục đẩy mạnh tự
do hóa thương mại, mặt khác chú ý đúng mức hơn về tốc độ tự do hóa tài chính sao cho
phù hợp với sự phát triển của thị trường trong nước và khả năng kiểm soát của Chính
phủ.
Cải tiến và nâng cấp môi trường đầu tư: Việc tìm lại và củng cố lòng tin của giới
doanh nhân trong và ngoài nước vào thị trường khu vực là chiếc chìa khóa cho sự phục
hồi và tiếp tục tăng trưởng của mổi nước ASEAN cũng như toàn khu vực.Vì vậy, các
nước này đang tập trung tăng chế độ khuyến khích tài chính dành cho vốn đầu tư trực
tiếp, cải cách các thủ tục đầu tư, bãi bỏ, giảm thiểu các giới hạn sở hữu hoặc các lĩnh vực
độc quyền giành cho đầu tư Chính phủ hay đầu tư trong nước, tăng cường đào tạo nhân
lực, phối hợp tạo môi trường đầu tư hấp dẫn chung cho khu vực.
Nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý vĩ mô trên cơ sở nguyên tắc thị trường và Nhà
nước pháp quyền, đẩy mạnh chống tham nhũng, tăng cường dân chủ hóa đời sống kinh tế
xã hội đất nước.
Dàn xếp các bất đồng vì ổn định và thịnh vượng chung đó là dàn xếp các bất đồng
song phương và đa phương, vượt lên trên những lợi ích cá nhân, gắn lợi ích quốc gia với
lợi ích khu vực, bảo vệ hình ảnh một cộng đồng ASEAN đoàn kết, ổn định và thịnh
vượng chung.
Tăng cường giải quyết các vấn đề xã hội bên cạnh việc giải quyết các vấn đề kinh tế,
các vấn đề xã hội cũng đã được các nước ASEAN quan tâm đúng mức hơn.Các nước

ASEAN đã nhận ra rằng sự tồn tại đông đảo tầng lớp người lao động với đồng lương
Trang 18
Khủng hoảng tài chính- tiền tệ ở Châu Á năm 1997 GVHD: TS. Nguyễn Ngọc Ảnh
thấp và sự gia tăng đội quân thất nghiệp trong điều kiện hệ thống an toàn xã hội chưa
phát triển sẽ là hiểm họa cho sự ổn định cơ sở kinh tế xã hội. Do đó, các khoản chi ngân
sách cho mục tiêu xã hội đã được cải thiện hơn.
3.1.3 Ở cấp độ quốc gia
* Thái Lan: xuất phát điểm của cuộc khủng hoảng.
Đề ra “7 biện pháp khẩn trương” để phục hồi kinh tế, đặt trọng tâm vào các yêu cầu
tăng vốn, tăng khả năng thanh toán của khu vực tài chính – ngân hàng, xúc tiến hỗ trợ
đầu tư Nhà nước cho điều chỉnh cơ cấu.
Đóng cửa 56 công ty tài chính có vấn đề về khả năng thanh toán.
Cho phép chứng khoán hóa các khoản nợ ngân hàng nhằm cải thiện khả năng tiền
mặt cho ngân hàng và làm tăng kưu chuyển vốn xã hội.
Các hoạt động bảo hiểm tiền gửi, tiền cho vay, các thủ tục thế chấp, các giới hạn cho
vay tối đa mỗi ngành và phát triển các trung tâm thông tin phòng ngừa rủi ro tín dụng
được áp dụng triệt để.
Ngoài các thương lượng gia hạn nợ giữa các chủ nợ và con nợ, Chính phủ Thái Lan
còn tăng phát hành chứng khoán nhằm hỗ trợ mua lại các khoản nợ khó đòi của các ngân
hàng theo tỷ lệ chiết khấu 25%; hỗ trợ tín dụng cho người mua để làm tăng cầu trên thị
trường bất động sản, giúp các con nợ tăng khả năng trả nợ.
Thị trường tài chính mở cửa rộng hơn cho nhà đầu tư nước ngoài, xóa bỏ các giới
hạn cổ phần dưới 50% của nhà đầu tư nước ngoài, đơn giản hóa các thủ tục, cho phép
đầu tư nước ngoài tham dự nhanh, rộng và sâu hơn vào các khu vực kinh tế tài chính của
đất nước.
Để nâng cao hiệu quả vốn đầu tư xã hội, cải thiện khả năng xuất khẩu của mình,
Thái Lan, một mặt tiếp tục tăng đầu tư vào những sản phẩm xuất khẩu truyền thống để
cải thiện công nghệ, nâng cao chất lượng (gạo chất lượng cao, đồ trang sức cao cấp, vải
đặc biệt,…) và hạ giá thành sản phẩm; mặt khác, tích cực và mạnh dạn đầu tư vào các
ngành công nghệ cao, tìm kiếm và định hình những mặt hàng xuất khẩu mới ( thép cao

cấp, sản phẩm hóa dầu…).
Thái Lan cũng như những nước khủng hoảng khác đều thận trọng và khắt khe hơn
đối với những dự án đầu tư ngân sách lớn, dài hạn, tỷ lệ thu hồi vốn thấp, phụ thuộc và
làm tăng nợ bằng ngoại tệ mạnh.
* Tại các nước khác: Phillippines, Singapore, Malaysia, Indonesia.
Nhìn chung, những giải pháp tài chính thận trọng hơn nhằm điều chỉnh cơ cấu ngân
sách, tăng cường hiệu quả vốn đầu tư xã hội, tăng năng lực cạnh tranh xuất khẩu của nền
kinh tế, đề cao năng lực tư nhân và nâng cao năng lực thể chế đã được triển khai phổ
Trang 19
Khủng hoảng tài chính- tiền tệ ở Châu Á năm 1997 GVHD: TS. Nguyễn Ngọc Ảnh
biến và cũng là kế sách lâu dài của các nước khu vực, để không chỉ vượt qua khủng
hoảng mà còn tạo tiền đề tiếp tục phát triển nhanh và bền vững hơn.
Cuối năm 1998, Malaysia đã triển khai “Kế hoạch phục hồi kinh tế”, trong đó nhấn
mạnh các biện pháp của chính sách tài chính nới lỏng, phục hồi khu vực Ngân hàng.
Singapore chủ trương mở rộng nhu cầu trong nước, để bù vào sự suy giảm dung
lượng thị trường khu vực, giảm tiền thuê nhà, lệ phí thuê đất để giúp giảm chi phí sản
xuất, tăng khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp.
Chính phủ các nước cắt giảm chi ngân sách, trước hết là các khoản chi cho mua sắm
các trang thiết bị quân sự, xây dựng cơ sở giao thông vận tải và các chi tiêu xã hội ( trừ y
tế và giáo dục). Malaysia giảm ngân sách quân sự từ 10% đến 18% so với dự trù;
Phillippines cắt giảm 15%; Indonesia thì hủy bỏ một số hợp đồng mua bán vũ khí với
Nga, cắt giảm 70% biên chế nhân viên quân sự ở nước ngoài.
Chính phủ các nước đều phát động phong trào tiết kiệm, kêu gọi đóng góp của dân
cư và doanh nghiệp; phát hành trái phiếu Chính phủ để huy động vốn cho các công trình
quan trọng cần thực hiện; khuyến khích các dự án đầu tư tư nhân hoặc sự tham gia của tư
nhân vào các dự án nhà nước nhằm giảm tỷ lệ đầu tư ngân sách.
Chính phủ các nước tăng cường kiểm soát để loại bỏ những khoản tín dụng không
hoặc kém hiệu quả giữa người đi vay và người cho vay
3.2. BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH
HỘI NHẬP

Ở Việt Nam hiện đang thực hiện chính sách đóng cửa dịch chuyển vốn (tất cả các
nguồn vốn ra vào Việt Nam phải kê khai kiểm soát, với vốn FDI đầu tư bao nhiêu là phải
đăng ký và được Bộ kế hoạch đầu tư cấp giấy phép, nguồn vốn từ ngân hàng nước ngoài
vào Việt Nam phải thông qua ngân hàng trung ương, phải được kiểm tra kiểm soát của
Bộ kế hoạch đầu tư)
Về nguyên tắc khi đầu tư vào về phải có đồng bản tệ đối ứng, lúc này ngân hàng Nhà
nước buộc phải cung tiền (phải gia tăng tương ứng với sự dự trữ ngoại hối để mua đồng
ngoại tệ mạnh), có nghĩa là nhà nước cung tiền đồng ra trong khi đó hàng hóa dịch vụ
chưa sản xuất cân đối kịp thời vì giai đoạn này nhà đầu tư nước ngoài đầu tư dịch chuyển
tiền vào và ta phải cung ứng tiền đồng để nhà đầu tư trả tiền thuê quyền sử dụng đất, xây
dựng cơ sở hạ tầng, đưa máy mọc thiết bị vào. Lúc này vô hình chung ta phá giá đồng
tiền, như vậy bước đầu đã có sự lạm phát rồi. Nhưng Chính phủ phải có sự kiểm tra kiểm
soát và sau khi nhà máy đã được xây dựng lên vận hành sản xuất để tạo ra của cải vật
chất, và hàng hóa được dịch chuyển xuất ra bán để đem ngoại tệ về và phải cân đối lại tỷ
Trang 20
Khủng hoảng tài chính- tiền tệ ở Châu Á năm 1997 GVHD: TS. Nguyễn Ngọc Ảnh
giá. Sau khi hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế thì phần còn lại dịch chuyển ra nước ngoài
( lợi nhuận)
Qua đó ta thấy cơ chế dịch chuyển vốn và việc kiểm tra kểm soát dịch chuyển vốn,
thế nào là thị trường hối đoái có kiểm soát và thị trường hối đoái không kiểm soát. Tỷ
giá hối đoái của Việt Nam không phải là tỷ giá hối đoái cố định mà là tỷ giá thả nổi có
quản lý và việc quản lý này là chặt chẽ. Việt Nam khác nước ngoài là mở rộng thị trường
vốn và nhà nước có kiểm soát đồng vốn vào và đồng vốn ra. Trong khi Thái Lan vào thời
điểm năm 1997-1998 tự tin và cho rằng mình nước mạnh, là con rồng Châu Á nên chủ
quan trong việc kiểm soát vốn. Khi có sự tác động bên ngoài thì bộc lộ những khiếm
khuyết, những khuyết tật của nền kinh tế và gây ra sự đổ vỡ, đầu tiên là đổ vỡ bong bóng
bất động sản. Khi sản phẩm bất động sản, những tòa nhà biệt thự cao cấp không người ở,
mà sản phẩm này kết thành bao nhiêu công sức về đất đai, xây dựng cơ sở hạ tầng, các
dịch vụ đi kèm bị phá sản hàng loạt. Và Việt Nam hiện nay có phần khá giống kịch bản
của Thái Lan trước đây chính là nhà cao cấp thì dư thừa, nhà ở xã hội thu nhập thấp thì

không có, người cần mua giá nhà với mức giá vừa phải thì không có tiền mà trong khi
nhà ở cao cấp thì nhiều. Như vậy dẫn đến mất cân đối
Về khía cạnh nào đó khủng hoảng tài chính thường đi kèm với những nỗ lực nhằm
tự do hoá thị trường tài chính vậy có nên hạn chế tự do hóa tài chính (kiểm soát dòng
vốn đầu tư vào hoặc ra khỏi nước) không? Có thể nói rằng khi một nước chọn chính sách
hạn chế tự do hóa tài chính thì các nhà đầu tư nước ngoài khi dịch chuyển vốn ra hoặc
vào sẽ rất dè dặt vì họ cho rằng khi có khủng hoảng thì họ rút tiền ra không được, thoát
không được (chôn vốn, bỏ của chạy lấy người), từ đó nhà đầu tư ngại đầu tư.
Trang 21
KẾT LUẬN
Sau khi hiểu thêm về tính chất của cuộc khủng hoảng đặc biệt là nguyên nhân
và sự tác động to lớn tới tình hình phát triển kinh tế của khu vực, thế giới nói
chung và Việt Nam nói riêng. Cuộc khủng hoảng cũng cho thấy trong bối cảnh tự
do hóa toàn cầu, phải có sự chuẩn bị thích đáng cho quá trình này nhất là tự do hóa
tài chính- tiền tệ, vừa phải tự do hóa đồng bộ, vừa phải thận trọng và tính đầy đủ
đến tình hình thực tế mỗi nước.
Cuộc khủng hoảng cũng đòi hỏi các nước phải có chính sách bồi dưỡng và
cách nâng cao đội ngũ cán bộ nhà nước (đặc biệt là cán bộ ngân hàng) để hiểu rõ
hơn về các nguồn vốn, đầu tư cũng như những tác động tiềm tang của nó tới nền
kinh tế mỗi nước.
Việt Nam nước ta vào thời điểm năm 1997-1998 may mắn là không bị thiệt hại
lớn nhưng những bài học và phương pháp phòng ngừa hữu hiệu để hạn chế sự ảnh
hưởng của nó là rất cần thiết. Hơn thế, chúng ta còn có thể tìm ra những cơ hội để
hội nhập và phát triển nhanh hơn.

Tài liệu tham khảo:


Bài giảng Khủng hoảng tiền tệ của thầy Nguyễn Xuân Thành, 2008
Bài giảng Khủng hoảng tài chính của thầy Đỗ Thiên Anh Tuấn 2012-2013

×