Tải bản đầy đủ (.doc) (204 trang)

PHÂN TÍCH ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP CÔNG NGHIỆP NHỎ VÀ VỪATRONG NHỮNG NĂM TIẾP THEO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.76 MB, 204 trang )

[1]
MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu
Trong những năm gần đây, Đan Phượng đã đạt được nhiều thành
tựu trong phát triển kinh tế, xã hội. Kinh tế tiếp tục phát triển toàn diện,
duy trì tốc độ tăng trưởng cao. Tốc độ giá trị sản xuất (Giá cố định 1994)
tăng bình quân 5 năm 2008-2012 là 10,46%, trong đó công nghiệp tăng
22,7%, dịch vụ tăng 22,6%. GDP bình quân đầu người năm 2012 đạt 17,0
triệu đồng, tăng 1,5 lần so với năm 2008, tốc độ tăng năm 2012 không
cao, nguyên nhân do ảnh hưởng khó khăn khủng hoảng kinh tế, tăng
trưởng GDP của huyện có tốc độ tăng trưởng khá so với trung bình của
Thành phố. Văn hoá - xã hội có bước phát triển mới, đời sống nhân dân
được cải thiện, nâng cao rõ rệt; quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội
được đảm bảo.
Những kết quả đạt được đó có sự góp phần quan trọng của các
doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) trên địa bàn huyện, trong đó các
doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa (DNCNNVV) chiếm trên 70%
tổng số doanh nghiệp. DNCNNVV được đánh giá là năng động, hoạt
động hiệu quả, đóng góp 46% trong GDP và sử dụng khoảng 38% lực
lượng lao động địa phương. Đây là bộ phận có vai trò quan trọng trong
quá trình phân phối, lưu thông hàng hoá, cung ứng dịch vụ và đặc biệt
hơn cả là vai trò dẫn dắt các doanh nghiệp tham gia quá trình phát triển
kinh tế xã hội. DNCNNVV còn là tiền thân của quá trình tích tụ tập trung
vốn, trở thành những công ty kinh tế lớn cho nền kinh tế trong tương lai.
Đây là bộ phận kinh tế quan trọng trong nền kinh tế hội nhập.
Từ khi Luật Doanh nghiệp có hiệu lực (01/01/2000) tạo điều kiện
thuận lợi cho việc thành lập doanh nghiệp, đã dẫn đến số lượng doanh
nghiệp đăng ký thành lập mới hàng năm tăng lên nhanh chóng. Tính đến
thời điểm hết năm 2012, trên địa bàn huyện Đan Phượng 757 doanh
nghiệp đang hoạt động (không bao gồm doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài) vốn đăng ký ước đạt trên 3.000 tỷ đồng.


Sự phát triển của khu vực DN ngoài nhà nước mà trong đó chủ yếu
là các DNNVV đã được Chính phủ thừa nhận là một động lực của tăng
trưởng kinh tế và được khuyến khích, tạo điều kiện phát triển. Từ năm
2001 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 90/2001/NĐ-CP về trợ giúp
phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. Chính phủ coi “Phát triển doanh
nghiệp nhỏ và vừa là một nhiệm vụ quan trọng trong Chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”.
Tháng 3 năm 2002, hội nghị lần thứ 5 của Ban chấp hành Trung ương
khoá IX đã ban hành Nghị quyết số 14 NQ/TW về tiếp tục đổi mới cơ
chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân.
Nghị quyết quan trọng này đã khẳng định khu vực kinh tế tư nhân là một
bộ phận quan trọng của nền kinh tế quốc dân và mọi thành phần kinh tế
phải được đối xử bình đẳng. Nghị quyết cũng đã đề ra một chương trình
2
toàn diện, cụ thể hoá khá đầy đủ chủ trương chính sách của Đảng về tiếp
tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển
kinh tế tư nhân.
Quán triệt và thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng
và Chính phủ về khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân,
trong những năm qua huyện Đan Phượng đã tiến hành nhiều cải cách
nhằm tạo ra một môi trường kinh doanh thuận lợi để thu hút đầu tư và
thúc đẩy phát triển doanh nghiệp. Các chính sách về đất đai và mặt bằng
sản xuất đã giúp doanh nghiệp chủ động trong việc nắm bắt quy hoạch,
xin giao đất, thuê đất; chính sách về khuyến khích đưa tiến bộ kỹ thuật
vào sản xuất, nhiều doanh nghiệp đã lập và thực hiện quy trình đổi mới
công nghệ để tăng năng suất, hiệu quả và nâng cao sức cạnh tranh của sản
phẩm. Chính sách hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực cho các DNNVV đã
giúp cho doanh nghiệp nâng cao trình độ nhận thức về pháp luật, kiến
thức về quản lý cho đội ngũ cán bộ quản lý; chính sách hỗ trợ xúc tiến
xuất khẩu đã giúp doanh nghiệp xúc tiến thương mại, tiếp cận thị trường

trong nước và quốc tế. Tuy nhiên, việc ban hành và triển khai thực hiện
các chính sách hỗ trợ DNNVV của huyện vẫn còn nhiều bất cập, chưa
đồng bộ. Ngân sách dành cho các chương trình hỗ trợ vẫn còn phân tán
dàn trải, một số chương trình hiệu quả còn thấp.
Trong thời gian qua đã có nhiều công trình nghiên cứu về doanh
nghiệp nói chung, DNNVV nói riêng, nhưng chưa có một công trình nào
3
nghiên cứu về DNCNNVV được công bố. Ở một góc độ nhất định, liên
quan đến vấn đề này có thể kể đến các công trình như: cuốn sách “Đổi mới
cơ chế chính sách hỗ trợ phát triển DNNVV ở Việt Nam”, Nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia năm 2000, đã phân tích thực trạng các chích sách hỗ trợ
DNNVV, từ đó đề xuất một số điều kiện để phát triển DNNVV ở Việt
Nam. TS. Chu Thị Thuỷ với Luận án Tiến sĩ kinh tế “Một số giải pháp
nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của DNNVV Việt Nam”, đã đi
sâu nghiên cứu những vấn đề bên trong hoạt động của DN để phát triển các
DN bằng cách nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tiết kiệm chi phí, tăng
doanh thu. TS. Phạm Văn Hồng với Luận án Tiến sĩ kinh tế “Phát triển
DNNVV ở Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế” đã đi sâu phân tích
lý luận về DNNVV, cơ hội và thách thức của các DNNVV, đề ra một số
biện pháp phát triển DNNVV Việt Nam. TS. Lê Thị Mỹ Linh với Luận án
Tiến sĩ Kinh tế “ Phát triển nguồn nhân lực trong DNNVV ở Việt Nam
trong quá trình hội nhập kinh tế’ đã đi sâu về phát triển nguồn nhân lực
trong DNNVV ở Việt Nam và có gắn với quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế.
Trong bối cảnh cạnh tranh hiện nay, các DNNVV nói chung,
DNNVV hoạt động lĩnh vực công nghiệp nói riêng của huyện Đan
Phượng vẫn bị đánh giá là còn nhiều hạn chế như công nghệ sản xuất lạc
hậu, trình độ quản lý yếu, thiếu thông tin, khả năng tiếp cận và thâm nhập
vào thị trường xuất khẩu còn hạn chế, các dịch vụ phát triển kinh doanh
4

tại địa phương chưa phát triển cho nên năng lực cạnh tranh của các
DNNVV nói chung còn thấp. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả kinh doanh
cho các DNNVV thì các chính sách hỗ trợ vẫn đóng một vai trò rất quan
trọng.
Nhận thức được tầm quan trọng của các chính sách hỗ trợ các
DNNVV, đặc biệt các DNNVV lĩnh vực công nghiệp trong việc nâng cao
năng lực cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh trong thời gian tới, phù hợp
với chương trình học tập, tôi nghiên cứu đề tài: “PHÂN TÍCH ĐÁNH
GIÁ THỰC TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT
TRIỂN DOANH NGHIỆP CÔNG NGHIỆP NHỎ VÀ VỪATRONG
NHỮNG NĂM TIẾP THEO” nhằm đánh giá hiệu quả các chính sách hỗ
trợ DNNVV trong giai đoạn 2008 - 2012 để tổng kết những mặt đã làm
tốt, những mặt còn hạn chế, rút ra những bài học kinh nghiệm và đề xuất
ra một số giải pháp chính sách nhằm vận dụng vào việc xây dựng, ban
hành và triển khai thực hiện các chính sách hỗ trợ DNNVV lĩnh vực công
nghiệp trong thời gian tới đạt hiệu quả cao.
Ở ngoài nước, các DNNVV đã ra đời và phát triển cách đây nhiều
thập kỷ. Hiện có một số tài liệu và thông tin liên quan thu thập được qua
học tập, nghiên cứu, về DNNVV Việt Nam nhưng chưa thấy có công
trình nghiên cứu về DNCNNVV ở Việt Nam và trên phạm vi địa phương.
5
Vì vậy việc nghiên cứu về DNCNNVV và các chính sách hỗ trợ
DNCNNVV rất cần được nghiên cứu, hệ thống hoá, hoàn thiện các chính
sách hỗ trợ một cách trong điều kiện thực tiễn Việt Nam hiện nay.
2. Mục đích nghiên cứu của Luận văn
Đề tài đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển doanh
nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa huyện Đan Phượng giai đoạn 2012-2020
và những năm tiếp theo góp phần phát triển kinh tế - xã hội của huyện
toàn diện và vững chắc.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Luận văn

Đối tượng nghiên cứu: Doanh nghiệp nhỏ và vừa hoạt động trong
lĩnh vực công nghiệp.
Phạm vi nghiên cứu: Thực trạng phát triển doanh nghiệp công
nghiệp nhỏ và vừa huyện Đan Phượng giai đoạn 2008 - 2012, nghiên cứu
giải pháp phát triển doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa giai đoạn 2012-
2020 và những năm tiếp theo.
4. Nhiệm vụ của Luận văn-Hệ thống lý luận về phát triển DNVVN
Xác định và tổng hợp kết quả của các chính sách khuyến khích và
hỗ trợ phát triển DNNVV của huyện Đan Phượng giai đoạn 2008 - 2012.
Đánh giá về những mặt được và những mặt còn tồn tại của các
chính sách khuyến khích và hỗ trợ phát triển DNNVV của huyện Đan
Phượng giai đoạn 2008 - 2012.
6
Đưa ra khuyến nghị về các chính sách khuyến khích và hỗ trợ phát
triển DNCNNVV giai đoạn 2012 – 2020 và những năm tiếp theo.
5. Phương pháp tiến hành nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử làm phương pháp nghiên cứu cơ bản.
Ngoài ra, để thu thập thông tin tương đối đầy đủ và khách quan về
các vấn đề quan trọng liên quan, nhiều kỹ thuật thu thập, phân tích và
tổng hợp số liệu khác nhau đã được áp dụng và dựa trên nền tảng thu hút
sự tham gia rộng rãi của các đối tượng liên quan. Đánh giá đã căn cứ trên
nhiều quan điểm, chủ trương đường lối lãnh đạo của Đảng, cơ chế, chính
sách, quy định của nhà nước, định hướng và chiến lược phát triển kinh tế
của huyện, năng lực quản lý và điều hành của cơ quan chủ trì thực hiện,
nhu cầu và mức độ thoả mãn của các đối tượng hưởng lợi là các
DNCNNVV.
Đề tài đồng thời sử dụng các phương pháp thống kê, phân tích,
tổng hợp, so sánh điểm mạnh, điểm yếu.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn

- Ý nghĩa khoa học
Đề tài hệ thống hoá và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về các
chính sách phát triển DNCNNVV.
- Ý nghĩa thực tiễn
7
+ Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ cung cấp những căn cứ lý luận,
thực tiễn và kiến nghị để Thành phố hoạch định chính sách phát triển bền
vững cho huyện Đan Phượng.
+ Đối với Trung ương, các sản phẩm nghiên cứu của đề tài sẽ là
những tài liệu tham khảo cho các cơ quan quản lý và hoạch định chính
sách trong việc phát triển DNCNNVV.
+ Ngoài ra, việc nghiên cứu và giảng dạy ở các Viện, các trường có
thể tìm thấy trong các kết quả nghiên cứu của đề tài những vấn đề phục
vụ thiết thực cho các mục tiêu nghiên cứu và đào tạo của mình về vấn đề
tương tự với nội dung nghiên cứu của đề tài.
7. Cấu trúc nội dung của Luận văn
Chương 1- Tổng quan lý luận, thực tiễn về phát triển doanh nghiệp
nhỏ và vừa và doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam.
Chương 2 - Đánh giá thực trạng phát triển DNCNNVV huyện Đan
Phượng giai đoạn 2008-2012.
Chương 3- Giải pháp phát triển DNCNNVV trên địa bàn huyện
Đan Phượng, thành phố Hà Nội giai đoạn 2012 – 2020 và những năm tiếp
theo.
8
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN LÝ LUẬN, THỰC TIỄN VỀ
PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA Ở VIỆT NAM
1.1. Một số vấn đề lý luận về doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa
1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa
Theo Nghị định 90/2001/NĐ-CP ngày 23/01/2001 của Chính phủ

thì DNNVV Việt Nam được hiểu là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập,
được đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không
quá 10 tỷ đồng, hoặc sử dụng lao động trung bình hàng năm không quá
30 người.
Khái niệm doanh nghiệp vẫn còn những điểm khác biệt nhất định
giữa các nước nhưng có thể hiểu doanh nghiệp là một đơn vị kinh tế được
thành lập hợp pháp, có tên riêng, có địa điểm sản xuất kinh doanh ổn
định, hoạt động kinh doanh trên thị trường nhằm mục tiêu lợi nhuận. Để
thuận tiện cho việc quản lý, hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển, người ta
thường sử dụng tiêu chí quy mô để phân loại doanh nghiệp. Theo tiêu chí
này các doanh nghiệp được chia làm ba loại: doanh nghiệp lớn, doanh
nghiệp vừa và doanh nghiệp nhỏ. Tuy nhiên, do có nhiều đặc điểm giống
nhau giữa doanh nghiệp vừa và doanh nghiệp nhỏ nên để đơn giản hoá,
nhiều nước trên thế giới (trong đó có Việt Nam) thường gộp chung hai
loại hình doanh nghiệp này thành doanh nghiệp nhỏ và vừa (tại Việt
9
Nam, các văn bản chính thức của Chính phủ và các cơ quan nhà nước
thống nhất cách gọi là doanh nghiệp nhỏ và vừa).
Các tiêu chí được sử dụng nhiều nhất để xác định DNNVV là vốn
(hoặc tài sản), lao động và doanh thu. Tuy nhiên, mỗi quốc gia tuỳ theo
điều kiện, trình độ phát triển cũng như các chính sách đối với DNNVV
của mình mà có thể chỉ dùng một, hai hoặc cả ba tiêu chí trên. Ngoài ra,
tuỳ từng lĩnh vực kinh doanh mà một số nước còn có những quy định
khác nhau cho các tiêu chí. Chúng ta có thể tham khảo tiêu chí phân loại
DNNVV ở một số nước trong Bảng 1.1
10
Bảng 1.1. Chỉ tiêu xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa ở một số
nước
Nước
Tiêu chí phân loại

Số lao động (người)
Bình quân
Tổng giá trị tài
sản
Doanh
thu/năm
Nhật Bản
< 300 người đối với
ngành sản xuất
< 100 người đối với
ngành bán buôn
< 50 người đối với ngành
bán lẻ và dịch vụ
< 100 triệu JPY
(883.180USD)
< 30 triệu JPY
(264.909 USD)
< 10 triệu JPY
(88.318 USD)
Mỹ < 500
Canada < 500
< 20 triệu
CAD
(19.828.000
USD)
Indonesia < 100
< 0,6 tỷ Rupi
(63.906 USD)
< 2 tỷ Rupi
(213.020

USD)
Mexico < 250 < 7 triệu USD
Thái Lan < 100
< 20 triệu Baht
(654.599 USD)
Hàn
Quốc
< 300 (ngành chế tạo, khai
khoáng)
< 200 (ngành xây dựng)
11
< 20 (ngành dịch vụ)
(Nguồn:Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
DNNVV ở Việt Nam là cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh
theo quy định pháp luật, được chia thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo
quy mô tổng nguồn vốn (tổng nguồn vốn tương đương tổng tài sản được
xác định trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp) hoặc số lao động
bình quân năm (tổng nguồn vốn là tiếu chí ưu tiên).
Nghị định 56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009 của Chính phủ về trợ
giúp phát triển DNNVV đã nêu định nghĩa DNNVV là cơ sở kinh doanh
đã đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật, được chia thành ba
cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng nguồn vốn (tương đương tổng
tài sản được xác định trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp) hoặc
số lao động bình quân.
Cụ thể như sau:
- Doanh nghiệp siêu nhỏ có số lao động từ 10 người trở xuống.
- Doanh nghiệp nhỏ có tổng nguồn vốn từ 20 tỷ đồng trở xuống
hoặc có số lao động từ trên 10 người đến 200 người. Đối với doanh
nghiệp hoạt động thương mại và dịch vụ thì tiêu chí tổng nguồn vốn được
xác định là từ 10 tỷ đồng trở xụống, hoặc có số lao động từ trên 10 người

đến 50 người.
- Doanh nghiệp vừa có tổng nguồn vốn từ trên 20 tỷ đồng đến 100
tỷ đồng, hoặc có số lao động từ trên 200 người đến 300 người. Đối với
12
doanh nghiệp hoạt động thương mại và dịch vụ thì tiêu chí tổng nguồn
vốn được xác định là từ trên 10 tỷ đồng đến 50 tỷ đồng, hoặc có số lao
động từ trên 50 người đến 100 người.
Bảng 1.2. Chỉ tiêu xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt
Nam
Quy mô Khu
vực
Doanh
nghiệp siêu
nhỏ
Doanh nghiệp nhỏ
Doanh nghiệp
vừa
Số lao động
Tổng
nguồn
vốn
Số lao
động
Tổng
nguồn
vốn
Số lao
động
I. Nông, lâm
nghiệp và thuỷ

sản
10 người
trở xuống
20 tỷ
đồng trở
xuống
Từ trên
10
người
đến 200
người
Từ trên
20 tỷ
đồng
đến 100
tỷ đồng
Từ
trên
200
người
đến
300
người
II. Công
nghiệp và xây
dựng
10 người
trở xuống
20 tỷ
đồng trở

xuống
Từ trên
10
người
đến 200
người
Từ trên
20 tỷ
đồng
đến 100
tỷ đồng
Từ
trên
200
người
đến
13
300
người
III. Thương
mại và dịch vụ
10 người
trở xuống
10 tỷ
đồng trở
xuống
Từ trên
10
người
đến 50

người
Từ trên
10 tỷ
đồng
đến 50
tỷ đồng
Từ
trên
50
người
đến
100
người
(Nguồn:Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
Tùy theo phạm vi hoạt động mà người ta chia ra: Doanh nghiệp
nông nghiệp, doanh nghiệp công nghiệp, doanh nghiệp xây dựng, vv…
Như vậy, doanh nghiệp công nghiệp là một loại hình doanh nghiệp hoạt
động trong lĩnh vực công nghiệp mà tập thể người lao động sử dụng máy
móc, nguyên vật liệu và những tư liệu sản xuất khác để khai thác, chế tạo
sản phẩm công nghiệp.
Trong luận văn này, doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa được
hiểu là các cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh
theo pháp luật hiện hành hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp có số vốn
đăng ký không quá 100 tỷ đồng và số lao động trung bình hàng năm
không quá 300 người.
1.1.2. Đặc điểm của doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa
14
So với các loại hình doanh nghiệp sản xuất, các doanh nghiệp công
nghiệp có các đặc trưng sau:
Nếu xét trên góc độ tổng hợp các mối quan hệ của con người trong

hoạt động sản xuất, thì quá trình sản xuất là sự tổng hợp của 2 mặt: Mặt
kỹ thuật của sản xuất và mặt kinh tế - xã hội của sản xuất. Trong lĩnh vực
sản xuất vật chất của xã hội, do sự phân công lao động xã hội, nền kinh tế
chia thành nhiều ngành như nông nghiệp, công nghiệp, lâm nghiệp, ngư
nghiệp, xây dựng… Song xét trên phương diện tính chất tương tự của
công nghệ sản xuất có thể coi đó là tổng thể của hai ngành cơ bản: nông
nghiệp và công nghiệp, còn các ngành khác có thể là các dạng đặc thù của
hai ngành đó. Vì vậy, doanh nghiệp công nghiệp có những đặc trưng cơ
bản về mặt kỹ thuật sản xuất, cũng như đặc trưng kinh tế - xã hội khác
với các loại hình doanh nghiệp khác ở các khía cạnh chủ yếu sau:
- Trong các doanh nghiệp công nghiệp, quá trình sản xuất chủ yếu
là quá trình tác động trực tiếp bằng phương pháp cơ, lý hoá của con người
thông qua một công nghệ sản xuất nhất định, làm thay đổi các đối tượng
lao động thành các sản phẩm thích ứng với nhu cầu của con người (khác
với doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp quá trình sản xuất lại bằng
phương pháp sinh học là chủ yếu).
- Các đối tượng lao động của các doanh nghiệp công nghiệp, sau
mỗi chu kỳ sản xuất được thay đổi hoàn toàn về chất từ công dụng cụ thể
này chuyển sang các sản phẩm có công dụng cụ thể khác. Hoặc một loại
15
nguyên liệu sau quá trình sản xuất có thể tạo ra nhiều loại sản phẩm có
công dụng khác nhau (nếu so sánh với các doanh nghiệp nông nghiệp thì
đối tượng lao động của doanh nghiệp nông nghiệp bao gồm các động vật
và thực vật sau quá trình sản xuất chỉ có sự thay đổi về lượng là chủ yếu).
- Sản phẩm của các doanh nghiệp công nghiệp có khả năng đáp
ứng nhiều loại nhu cầu ở các trình độ ngày càng cao của xã hội, là hoạt
động duy nhất tạo ra các sản phẩm thực hiện chức năng là các tư liệu lao
động trong các ngành kinh tế.
Với đặc điểm về mặt kỹ thuật của sản xuất của các doanh nghiệp
công nghiệp nêu trên, trong quá trình phát triển, doanh nghiệp công

nghiệp luôn có điều kiện phát triển về kỹ thuật, tổ chức sản xuất; dễ dàng
tạo ra được một đội ngũ lao động có tính tổ chức, tính kỷ luật cao, có tác
phong “công nghiệp”; đồng thời, có điều kiện và cần thiết phải phân công
lao động ngày càng sâu, tạo điều kiện tiền đề để phát triển nền sản xuất
hàng hóa ở trình độ và tính chất cao hơn so với doanh nghiệp ở các ngành
khác.
Ngoài những đặc điểm chung của doanh nghiệp công nghiệp,
DNCNNVV có những đặc điểm nhất định trong quá trình phát triển. Có
thể nhận thấy DNCNNVV có một số đặc điểm cơ bản sau:
- Thứ nhất: tính dễ khởi sự. Luật doanh nghiệp hiện nay không
quy định mức vốn điều lệ hoặc vốn đầu tư tối thiểu, số lao động tối thiểu
bắt buộc khi đăng ký doanh nghiệp. Cùng với môi trường kinh doanh
16
đang được cải thiện thì số lượng các DNCNNVV đăng ký gia tăng nhanh
chóng. Trong một chừng mực nhất định, khi việc thực thi của quy định về
phá sản và giải thể doanh nghiệp chưa thuận lợi nên một số DNCNNVV
thay vì rút lui khỏi thị trường một cách chính thức thì chọn phương án
đơn giản là ngừng hoạt động. Cũng chính vì lý do đó việc thống kê số
lượng DNCNNVV đang hoạt động trên thị trường gặp nhiều khó khăn và
khó đưa ra con số chính xác.
- Thứ hai: là tính linh hoạt cao theo cơ chế thị trường. Đây là đặc
điểm gắn liền với các DNCNNVV. Do quy mô không lớn nên đầu tư của
các DNCNNVV vào các dây chuyền và máy móc công nghệ không
nhiều, chính vì lẽ đó nên sau một thời gian hoạt động nếu nhận thấy một
ngành hay một mặt hàng kinh doanh nào đó không có lợi thì lập tức các
DNCNNVV sẽ chuyển hướng sang các mặt hàng và dịch vụ hiệu quả
hơn. Một số DNCNNVV sau một thời gian khẳng định được uy tín và
thương hiệu đã tiến hành các biện pháp tích luỹ vốn và mở rộng quy mô
để trở thành các doanh nghiệp lớn. Tuy nhiên nhiều chủ DNCNNVV
bằng lòng với quy mô doanh nghiệp mình và thể hiện tính linh hoạt cao

để khẳng định vị trí thương trường. Nếu như các doanh nghiệp lớn
chuyên kinh doanh một số sản phẩm hoặc dịch vụ nhất định thì khi gặp
suy thoái hoặc các tác động bất lợi từ bên ngoài thì sẽ rất khó xoay sở.
- Thứ ba: Là tính linh hoạt trong cạnh tranh. Với xuất phát điểm là
khả năng dễ tham gia vào thị trường cũng như rút khỏi thị trường. Trong
17
các chuỗi giá trị ngành hàng thì các DNCNNVV có thể khá dễ dàng tìm
cho mình phân khúc phù hợp trong hợp tác với doanh nghiệp lớn. Dễ phát
huy bản chất hợp tác sản xuất, dễ dàng thu hút lao động với chi phí thấp,
do đó tăng hiệu quả sử dụng vốn, có thể sử dụng lao động tại nhà hoặc
xung quanh do đó góp phần tăng thêm thu nhập cho một bộ phận dân cư
có mức sống thấp, ít xảy ra xung đột giữa người lao động và người sử
dụng lao động; Có thể huy động tiềm lực của thị trường trong nước.
Bên cạnh đó, chúng ta cũng có thể kể đến hàng loạt các điểm yếu
của các DNCNNVV là: khởi đầu thường thiếu các nguồn lực phát triển,
đặc biệt là các nguồn lực về tài chính và con người trong đầu tư công
nghệ, đào tạo công nhân, chủ doanh nghiệp. Đối với một số ngành hàng
thì các DNCNNVV không tận dụng các lợi thế về quy mô. Còn một điểm
nữa đó là sự hình thành và phát triển của các DNCNNVV phụ thuộc vào
các chủ doanh nghiệp nên khó thu hút trí tuệ tập thể trong các quyết định
dài hạn và chiến lược của các doanh nghiệp. Điều này thể hiện qua cách
thức đưa ra quyết định quan trọng mang tính chiến lược của doanh
nghiệp. Tại các doanh nghiệp lớn các quyết định mang chiến lược được
thực hiện theo quy trình và có hệ thống, tuy nhiên tại các DNCNNVV thì
quyết định này trong nhiều trường hợp mang nặng ý kiến chủ quan của
chủ doanh nghiệp.
1.1.3. Sự cần thiết hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ vừa
18
1.1.3.1. Vai trò của doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa trong quá trình
phát triển kinh tế - xã hội

Ở Việt Nam cũng như nhiều nước khác trên thế giới, các
DNCNNVV đóng vai trò rất quan trọng việc thúc đẩy sự phát triển kinh
tế và trong mạng lưới sản xuất toàn cầu và chuỗi cung ứng hàng hoá và
dịch vụ. Trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam hiện nay vai trò của các
DNCNNVV được thể hiện ở các khía cạnh khác nhau:
- Thứ nhất: Đóng góp vào kết quả hoạt động của nền kinh tế, góp
phần làm tăng GDP. Cũng như DNCNNVV ở tất cả các nước,
DNCNNVV ở Việt Nam cung cấp ra thị trường nhiều loại hàng hoá khác
nhau đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước, trang thiết bị và
linh kiện cần thiết cho các ngành sản xuất hàng tiêu dùng và các ngành
thủ công nghiệp cũng như các hàng hoá tiêu dùng khác. Theo số liệu của
Tổng cục Thống kê trong những năm vừa qua trung bình hàng năm
DNCNNVV đã đóng góp 12% tổng sản phẩm quốc dân (GDP) của cả
nước. Ngoài ra, DNCNNVV Việt Nam còn tham gia phân phối sản phẩm
cho nhiều ngành công nghiệp truyền thống thu hút nhiều lao động như
giầy dép, chiếu cói Việc mở rộng và phát triển các DNCNNVV sẽ góp
phần không nhỏ trong việc làm tăng GDP.
- Thứ hai: Thu hút vốn của các nguồn lực có sẵn có trong dân cư.
Vốn đầu tư là một yếu tố cơ bản của quá trình kinh doanh. Vốn là yếu tố
cơ bản để khai thác và phối hợp các yếu tố khác trong kinh doanh như lao
19
động, công nghệ và quản lý…để tạo ra lợi nhuận. Tuy nhiên một nghịch
lý hiện nay là trong khi có nhiều DN đang thiếu vốn trầm trọng thì vốn
nhàn rỗi trong dân cư còn nhiều nhưng không huy động được. Khi chính
sách tài chính tín dụng của Chính phủ và các ngân hàng chưa thực sự tạo
được niềm tin đối với những người có tiền đứng ra đầu tư kinh doanh,
thành lập DN. Dưới khía cạnh đó, DNCNNVV có vai trò to lớn trong
việc huy động vốn để phát triển kinh tế.
- Thứ ba: Giúp nền kinh tế phát triển ổn định và hiệu quả hơn.
Trong quá trình kinh doanh, nhiều DNCNNVV có thể hỗ trợ cho các DN

lớn, cung cấp những bán thành phẩm hay nguyên liệu đầu vào cho DN
lớn hoặc thâm nhập vào mọi ngõ ngách thị trường mà DN lớn khó có thể
với tới để phân phối các sản phẩm cuả DN lớn. Bên cạnh đó, khi số
DNCNNVV tăng lên sẽ kéo theo sự gia tăng nhanh chóng cung cấp số
lượng các sản phẩm và dịch vụ mới trong nền kinh tế. Nhờ hoạt động với
quy mô nhỏ và vừa, các DNCNNVV có ưu thế là chuyển hướng kinh
doanh nhanh từ những mặt hàng này sang mặt hàng khác, thỏa mãn nhu
cầu linh hoạt của dân cư. Chính sự phát triển đó của các DNCNNVV đã
làm tăng tính cạnh tranh, tính linh hoạt và làm giảm bớt mức độ rủi ro
trong nền kinh tế.
- Thứ tư: Góp phần tăng cường và phát triển các mối quan hệ kinh tế.
Các DNCNNVV hình thành và phát triển kinh doanh trong những ngành
nghề khác nhau luôn có mối quan hệ mật thiết với nhau và có mối liên kết
20
với các DN lớn. Nhiều DN nhỏ khi mới ra đời chỉ nhằm mục đích làm vệ
tinh cung cấp các sản phẩm cho các DN lớn. Mối quan hệ giữa DNCNNVV
và các DN lớn cũng chính là nguyên nhân thành công của nền kinh tế Nhật
Bản trong nhiều thập kỷ qua. Do đó, khi các DNCNNVV Việt Nam phát
triển sẽ góp phần tăng cường các mối quan hệ liên kết lẫn nhau giữa các
DNCNNVV và giữa các DNCNNVV với các DN lớn. Nhờ đó mà các rủi ro
kinh doanh sẽ chia sẻ và góp phần tăng hiệu quả kinh tế xã hội chung.
- Thứ năm: Tạo cơ hội cơ sở để hình thành các DN lớn. Kinh
nghiệm phát triển kinh tế ở nhiều nước cho thấy hiện nay phần lớn các
công ty và các tập đoàn kinh tế đa Quốc gia đều trưởng thành từ các
DNCNNVV. Với cách xem xét đó DNCNNVV chính là nguồn tích luỹ
ban đầu và là “lồng ấp” cho các DN lớn. Hầu hết các cơ sở kinh doanh ở
Việt Nam khi mới ra đời do thiếu kinh nghiệm và chưa thật hiểu biết về
thị trường nên họ thường lựa chọn quy mô kinh doanh vừa và nhỏ để bắt
đầu sự nghiệp kinh doanh. Sau một thời gian tích luỹ thêm vốn, kinh
nghiệm và khẳng định được vị thế của mình trên thị trường, họ mới tiến

hành mở rộng kinh doanh và phát triển với quy mô lớn hơn. Ngoài ra,
DNCNNVV còn là nơi đào tạo tay nghề và trau dồi kinh nghiệm cho các
cán bộ quản lý của DN lớn vì lao động thường có xu hướng chỉ làm các
DNCNNVV một thời gian, sau khi có đủ kinh nghiệm và khả năng họ sẽ
chuyển sang các DN lớn để làm việc, hưởng thu nhập cao hơn. Nhờ thế,
DN lớn tiết kiệm được nhiều chi phí đào tạo khi tuyển được các nhân
21
viên có tay nghề từ các DNCNNVV chuyển sang. Như vậy có thể các
DNCNNVV còn là nơi đào tạo lao động cho các DN lớn.
- Thứ sáu: Tạo việc làm cho người lao động, góp phần giảm tỉ lệ
thất nghiệp. Đặc điểm chung của các DNCNNVV là ít vốn và sử dụng
nhiều lao động, do đó DNCNNVV ở tất cả các nước có thể tạo ra công ăn
việc làm cho một số lượng lớn người lao động. Ở nhiều nước trên thế
giới, kể cả các nước phát triển, DNCNNVV nơi tạo ra nhiều việc làm
nhất. Khi các DNCNNVV phát triển để tạo nhiều cơ hội tăng việc làm,
thu hút lao động và giảm tỉ lệ thất nghiệp trong nền kinh tế, qua đó góp
phần giải quyết các vấn đề xã hội mang lại lợi ích cho cộng đồng dân cư
kể cả người thất nghiệp, phụ nữ và người tàn tật. Với tính chất kinh
doanh nhỏ, chi phí để tạo ra một chỗ để làm việc thấp, các DNCNNVV
Việt Nam có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tạo ra và tăng thêm
việc làm cho nền kinh tế, góp phần giảm tỉ lệ thất nghiệp và ổn định xã
hội bằng cách thu hút nhiều lao động với chi phí thấp và chủ yếu bằng
vốn của dân.
- Thứ bảy: Nâng cao thu nhập của dân cư góp phần xóa đói giảm
nghèo, thực hiện công bằng xã hội. Việt Nam là nước nông nghiệp, năng
suất của một nền sản xuất xã hội cũng như thu nhập của dân cư thấp. Thu
thập của dân cư nông thôn chủ yếu dựa vào nền nông nghiệp thuần nông.
Việc phát triển các DNCNNVV ở thành thị cũng như ở nông thôn là một
trong những biện pháp cơ bản đóng góp phần tăng nhanh thu nhập của
22

các tầng lớp dân cư. Thông qua việc phát triển các DNCNNVV, lao động
ở nông thôn sẽ được thu hút vào các DN nhờ đó mà thu nhập của dân cư
được đa dạng hoá nâng cao. Cuộc sống của người dân nông thôn sẽ ổn
định hơn và mức sống của dân cư sẽ được nâng cao góp phần xoá đói
giảm nghèo, giảm khoảng cách về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư và
tăng mức độ công bằng trong nền kinh tế. Hơn nữa, do có tính năng động
và linh hoạt khi các DNCNNVV phát triển sẽ góp phần giúp phát triển
các ngành sản xuất truyền thống ở địa phương. Việc phát triển các
DNCNNVV là một trong các giải pháp thực hiện Đề án xây dựng nông
thôn mới của các xã trong toàn quốc hiện nay.
- Thứ tám: Tạo điều kiện phát triển các tài năng kinh doanh. Ngoài
ra các vai trò như đã nói ở trên, các DNCNNVV còn có vai trò trong việc
phát triển các tài năng kinh doanh. Trong nhiều năm qua, đội ngũ cán bộ
kinh doanh đã gắn nhiều với cơ chế cao cấp, chưa có kinh nghiệm làm
việc trong nền kinh tế thị trường. Sự phát triển của các DNCNNVV có
tác dụng đào tạo, chọn lọc và thử thách đội ngũ doanh nhân. Sự ra đời của
các DNCNNVV làm xuất hiện rất nhiều tài năng kinh doanh, đó là doanh
nhân thành đạt biết cách làm giàu cho bản thân mình và xã hội. Bằng sự
tôn vinh những doanh nhân giỏi, kinh nghiệm quản lý của họ sẽ được
nhân ra và truyền bá tới nhiều cá nhân trong xã hội dưới nhiều kênh
thông tin khác nhau, qua đó sẽ tạo ra nhiều tài năng mới cho đất nước.
23
Với khía cạnh như vậy, DNCNNVV có vai trò không nhỏ trong việc đào
tạo lớp doanh nhân mới ở Việt Nam cũng như các nước trên thế giới.
1.1.3.2. Những khó khăn, thách thức do chính sự hạn chế của doanh
nghiệp công nghiệp nhỏ vừa Việt Nam.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay các DNCNNVV chiếm số
lượng đáng kể trong tổng số doanh nghiệp, thu hút được rất nhiều lao
động của xã hội, có rất nhiều tiềm năng và lợi thế để phát triển và đa dạng
hoá ngành hàng, mặt hàng và thị trường, nhưng đồng thời cũng có rất

nhiều khó khăn và hạn chế khi tham gia nền kinh tế đang trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Những khó khăn và hạn chế đó cụ thể
như sau:
- Một là, DNCNNVV hạn chế về vốn và khả năng tiếp cận với các
nguồn vốn tín dụng so với các DN lớn, những quy định chặt chẽ về việc
tiếp cận các nguồn tài chính cần thiết cho sản xuất kinh doanh thực sự
gây khó khăn cho các DNCNNVV. Các pháp lý tài chính, tín dụng,
thường xem các DNCNNVV là những con nợ rủi ro cao. Hơn nữa các
DNCNNVV và các tổ chức tài chính Ngân hàng thường không có mối
quan hệ chặt chẽ, nên các DNCNNVV rất khó tiếp cận các nguồn vốn
chính thức. Việc huy động vốn từ các nguồn không chính thức thường là
lãi suất cao, khiến cho chi phí vốn trở lên đắt đỏ và DN không còn đảm
bảo được tính cạnh tranh. Thực tế này được phản ánh trong nhiều báo cáo
điều tra mới đây về DNCNNVV ở một số nước lựa chọn. Kết quả điều tra
24
cho thấy tài chính là vấn đề khó khăn nhất hiện nay đối với các DNNVV
nói chung, DNCNNVV nói riêng.
Thực tế này cũng đúng đối với các DNCNNVV khi mà khả năng
và điều kiện tiếp cận các nguồn vốn trên thị trường tài chính, tín dụng của
họ bị hạn chế và gặp nhiều khó khăn như: Không đủ tài sản thế chấp;
không đủ độ tin cậy và rủi ro cao; các lô hàng và các món vay thường nhỏ
lẻ, vụn vặt, không thường xuyên, thủ tục ít chặt chẽ nên các Ngân hàng
và các tổ chức tín dụng thường không muốn cho vay vì hiệu quả vay thấp.
Mức lãi suất cho vay còn quá cao so với mức lợi nhuận có thể thu
được từ kinh doanh; Số lượng vốn được vay ít; Thời hạn được vay quá
ngắn không phù hợp với chu kỳ kinh doanh sản phẩm; Hình thức và pháp
lý tín dụng nghèo nàn, đơn điệu, hiệu quả pháp lý thấp…
- Hai là, DNCNNVV thường khó khăn, lúng túng và chịu chi phí
cao trong tác nghiệp các nghiệp vụ kinh doanh cụ thể, đặc biệt là trong
các khâu bảo quản, giao nhận và vận tải hàng hoá. Đặc điểm cơ bản của

DNCNNVV là đội ngũ nhân lực yếu, trình độ chuyên môn hoá thấp, thiếu
các cán bộ nghiệp vụ giỏi, nhất là cán bộ có nghiệp vụ về thị trường,
đồng thời các cơ sở vật chất kỹ thuật của phần lớn các DN này là nghèo
nàn lạc hậu, thiếu các trang thiết bị cần thiết như kho tàng, phương tiện
vận tải, phương tiện thông tin… nên khi thực hiện một số lô hàng, đặc
biệt các loại hàng nông sản, hải sản, thủ công mỹ nghệ khó bảo quản, dễ
bị xuống cấp, gặp nhiều khó khắn và lúng túng trong các khâu đóng gói,
25

×