Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

Phân tích tài chính doanh nghiệp tại Công ty Cổ phần than Hà Lầm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (481.36 KB, 99 trang )

Khóa luận tốt nghiệp Viện đại học Mở-Khoa Kinh Tế
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Trong điều kiện kinh tế hiện nay, công tác phân tích tài chính của các
doanh nghiệp được chú trọng hơn bởi qua phân tích tài chính, các nhà quản
lý biết được tình trạng tài chính hay trạng thái tài chính cụ thể cũng như xu
thế phát triển của doanh nghiệp cả về an ninh tài chính, về mức độ độc lập
tài chính, về chính sách huy động và sử dụng vốn, về tình hình và khả năng
thanh toán. Đồng thời, cũng qua xem xét tình hình tài chính hiện tại, các nhà
quản lý có thể dự báo được những chỉ tiêu tài chính chủ yếu trong tương lai,
dự báo được những thuận lợi hay khó khăn mà doanh nghiệp có thể phải
đương đầu.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc phân tích tình hình tài chính
đối với sự phát triển của doanh nghiệp kết hợp với kiến thức lý luận được
tiếp thu ở nhà trường và tài liệu tham khảo thực tế cùng với sự giúp đỡ
hướng dẫn nhiệt tình của các thầy, cùng toàn thể các cô chú trong Công ty
Cổ phần than Hà Lầm, em đã chọn chuyên đề “Phân tích tài chính doanh
nghiệp tại Công ty Cổ phần than Hà Lầm”.
Nội dung của chuyên đề gồm 3 phần:
Phần I: Cơ sở lý luận về phân tích tài chính doanh nghiệp.
Sinh viên: Lê Thị Mai-K17QT1
1
Khóa luận tốt nghiệp Viện đại học Mở-Khoa Kinh Tế
Phần II: Phân tích tài chính tại Công ty Cổ phần than Hà Lầm.
Phần III: Các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng tài chính tại
Công ty Cổ phần than Hà Lầm.
Do thời gian thực hiện, kiến thức và khả năng cũng như kinh nghiệm
còn hạn chế nên chắc chắn chuyên đề không thể tránh khỏi những thiếu sót
và tồn tại. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo, hướng dẫn, đóng góp ý kiến
của các thầy cô trong khoa Kinh Tế - Viện đại học Mở Hà Nội, các cô chú,
các anh chị trong Công ty cổ phần than Hà Lầm và đặc biệt giáo viên hướng


dẫn GS.TS.Nguyễn Kim Truy để chuyên đề của em được hoàn thiện.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên: Lê Thị Mai-K17QT1
2
Khóa luận tốt nghiệp Viện đại học Mở-Khoa Kinh Tế
PHẦN I:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
1. Khái niệm phân tích tài chính doanh nghiệp:
Phân tích tài chính là sử dụng các phương pháp và các công cụ cho
phép xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác về quản lý nhằm đánh
giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp, đánh giá mức độ rủi ro và chất
lượng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp đó. Hay nói cách khác, phân
tích tài chính là việc thu thập, phân tích các thông tin kế toán và các thông
tin khác để đánh giá thực trạng và xu hướng tài chính, khả năng tiềm lực của
doanh nghiệp nhằm mục đích đảm bảo an toàn vốn tín dụng. Yêu cầu của
phân tích tài chính là đánh giá những điểm mạnh và điểm yếu về tình hình
tài chính và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp qua đó đánh giá tổng
quát tình hình hoạt động của doanh nghiệp, dự báo những bất ổn trong hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp.
Phân tích hoạt động tài chính chủ yếu là phân tích các Báo cáo tài
chính. Ðó là quá trình xem xét, kiểm tra đối chiếu và so sánh số liệu về tình
hình tài chính hiện hành với quá khứ. Thông qua phân tích, các nhà quản trị
doanh nghiệp thấy được thực trạng tài chính hiện tại và những dự đoán cho
tương lai. Phân tích các báo cáo tài chính được nhiều đối tượng quan tâm
Sinh viên: Lê Thị Mai-K17QT1
3
Khóa luận tốt nghiệp Viện đại học Mở-Khoa Kinh Tế
như các nhà quản lý, các chủ sở hữu, hay người cho vay Mỗi nhóm người
này khi phân tích có xu hướng tập trung vào các khía cạnh khác nhau, nhưng
lại thường liên quan với nhau về bức tranh thực trạng tài chính của doanh

nghiệp. Tóm lại, phân tích các báo cáo tài chính nhằm mục đích phản ánh
tính sinh động của các “con số” trong báo cáo để những người sử dụng
chúng có thể đánh giá đúng tình hình tài chính của doanh nghiệp.
2. Mục đích phân tích tài chính:
Việc thường xuyên tiến hành phân tích tài chính sẽ cung cấp thông tin
cho người sử dụng từ các góc độ khác nhau, vừa đánh giá toàn diện, vừa
tổng hợp khái quát, vừa xem xét một cách chi tiết hoạt động tài chính của
doanh nghiệp để nhận biết, phán đoán và đưa ra quyết định tài chính, quyết
định đầu tư và quyết định tài trợ phù hợp. Phân tích tình hình tài chính thông
qua các báo cáo tài chính của doanh nghiệp là mối quan tâm của nhiều nhóm
người. Các nhà quản lý, các nhà đầu tư, các cổ đông, các chủ nợ, các khách
hàng, các nhà cho vay tín dụng, các cơ quan chính phủ và người lao động
mỗi nhóm người này có nhu cầu thông tin khác nhau.
Đối với các chủ doanh nghiệp và các nhà quản trị doanh nghiệp mối
quan tâm hàng đầu của họ là tìm kiếm lợi nhuận và khả năng trả nợ. Một
doanh nghiệp bị lỗ liên tục sẽ bị cạn nguồn lực và buộc phải đóng cửa. Mặt
khác, nếu doanh nghiệp không có khả năng thanh toán cũng buộc phải đóng
cửa.
Đối với các chủ ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng mối quan tâm
hàng đầu của họ chủ yếu là khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Vì vậy, họ
đặc biệt quan tâm đến lượng tiền và các khoản có thể chuyển nhanh thành
tiền từ đó so sánh với nợ ngắn hạn để biết được khả năng thanh toán tức thời
Sinh viên: Lê Thị Mai-K17QT1
4
Khóa luận tốt nghiệp Viện đại học Mở-Khoa Kinh Tế
của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các chủ ngân hàng và các nhà cho vay tín
dụng cũng biết quan tâm tới số lượng vốn chủ sở hữu bởi vì nguồn vốn này
là khoản bảo hiểm cho họ trong trường hợp doanh nghiệp bị rủi ro trong
thanh toán.
Đối với các nhà cung cấp vật tư, hàng hoá, dịch vụ cho doanh nghiệp,

họ cần biết được khả năng thanh toán của doanh nghiệp hiện tại và trong
thời gian sắp tới để ra các quyết định xem có cho phép khách hàng được
mua chịu hàng hay không.
Đối với các nhà đầu tư, mối quan tâm của họ là thời gian hoàn vốn,
mức sinh lãi và sự rủi ro. Vì vậy, họ cần các thông tin về điều kiện tài chính,
tình hình hoạt động, hiệu quả kinh doanh và tiềm năng tăng trưởng của các
doanh nghiệp. Ngoài ra, các cơ quan tài chính, thống kê, thuế, cơ quan chủ
quản, các nhà phân tích tài chính, hoạch định chính sách, những người lao
động cũng rất quan tâm tới các thông tin tài chính của doanh nghiệp.
Như vậy, có thể nói mục tiêu tối cao và quan trọng nhất của phân tích
tình hình tài chính là giúp đưa ra quyết định lựa chọn phương án kinh doanh
tối cao và đánh giá chính xác thực trạng tiềm năng tài chính của doanh
nghiệp.
3. Nội dung phân tích tài chính:
Xuất phát từ mục tiêu phân tích tài chính cũng như bản chất và nội
dung các quan hệ tài chính doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, nội
dung phân tích tài chính doanh nghiệp được chia thành những nhóm sau:
Một là, phân tích cấu trúc tài chính và cân bằng tài chính. Nội dung
phân tích này nhằm đánh giá khái quát cấu trúc tài sản, cấu trúc nguồn vốn
của đơn vị, qua đó phát hiện những đặc trưng trong việc sử dụng vốn, huy
động vốn. Trong điều kiện kinh tế thị trường, các doanh nghiệp có tính tự
Sinh viên: Lê Thị Mai-K17QT1
5
Khóa luận tốt nghiệp Viện đại học Mở-Khoa Kinh Tế
chủ cao trong huy động vốn và sử dụng vốn nên phân tích tài chính còn quan
tâm đến cân bằng tài chính của doanh nghiệp.
Hai là, phân tích hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Hoạt động
trong cơ chế thị trường, mỗi doanh nghiệp có những hướng chiến lược phát
triển riêng trong từng giai đoạn. Lợi nhuận là mục tiêu cuối cùng nhưng mục
tiêu đó luôn gắn liền với mục tiêu thị phần. Do vậy, doanh thu và lợi nhuận

là hai yếu tố quan trọng khi đánh giá hiệu quả. Hiệu quả của doanh nghiệp
cần xem xét một cách tổng thể trong sự tác động giữa hoạt động kinh doanh
và hoạt động tài chính. Phân tích hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp
không chỉ xem xét hiệu quả cá biệt mà còn xem xét hiệu quả tổng hợp.
Ba là, phân tích rủi ro của doanh nghiệp. Bản chất của hoạt động kinh
doanh luôn mang tính mạo hiểm nên bất kỳ nhà phân tích nào cũng quan tâm
đến rủi ro của doanh nghiệp. Qua đó, phát hiện những nguy cơ tiềm ẩn trong
hoạt động kinh doanh, trong huy động vốn và công tác thanh toán.
Bốn là, phân tích giá trị của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị
trường, hoạt động tài chính doanh nghiệp với hai chức năng cơ bản là huy
động vốn và sử dụng vốn nhưng hướng đến mục tiêu là tối đa hóa giá trị
doanh nghiệp. Giá trị doanh nghiệp được nâng cao không chỉ là kết quả tổng
hợp từ sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của doanh nghiệp mà còn liên
quan đến thái độ, trách nhiệm của doanh nghiệp trước cộng đồng. Đó chính
là phương cách để doanh nghiệp nâng cao vị trí của mình trên thị trường, từ
đó tác động ngược lại đến hoạt động tài chính.
4. Các phương pháp phân tích tài chính:
Để phân tích tài chính, doanh nghiệp có thể sử dụng một hay tổng hợp
các phương pháp khác nhau trong hệ thống các phương pháp phân tích tài
chính doanh nghiệp. Những phương pháp phân tích tài chính được sử dụng
phổ biến: phương pháp so sánh, phương pháp loại trừ, phương pháp thay thế
Sinh viên: Lê Thị Mai-K17QT1
6
Khóa luận tốt nghiệp Viện đại học Mở-Khoa Kinh Tế
liên hoàn, phương pháp liên hệ cân đối, phương pháp đồ thị…. Tuy nhiên
hiện nay khi phân tích tài chính có thể sử dụng một số phương pháp cơ bản
sau:
4.1 Phương pháp so sánh:
So sánh là một trong những phương pháp nhằm nghiên cứu biến động
và xác định mức độ biến động của chỉ tiêu phân tích. Đây là phương pháp

được sử dụng phổ biến nhất trong phân tích kinh tế nói chung và phân tích
tài chính nói riêng. Trong phân tích thường hay sử dụng 2 kỹ thuật so sánh:
kỹ thuật so sánh bằng số tuyệt đối để thấy được sự biến động về số tuyệt đối
của chỉ tiêu phân tích và kỹ thuật so sánh bằng số tương đối để thấy được
thực tế so với kỳ gốc chỉ tiêu tăng giảm bao nhiêu %.
Nội dung phương pháp này bao gồm:
- So sánh giữa số thực tế kỳ phân tích với số thực tế của kỳ kinh
doanh trước nhằm xác định rõ xu hướng thay đổi về tình hình hoạt động tài
chính của doanh nghiệp. Đánh giá tốc độ tăng trưởng hay giảm đi của hoạt
động tài chính của doanh nghiệp.
- So sánh giữa số thực tế kỳ phân tích với số kỳ kế hoạch nhằm xác
định mức phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ kế hoạch trong mọi mặt của hoạt
động tài chính của doanh nghiệp.
` - So sánh giữa số liệu của doanh nghiệp với số liệu trung bình tiên
tiến của ngành, của doanh nghiệp khác nhằm đánh giá tình hình hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tốt hay xấu, khả quan hay không khả
quan.
Quá trình phân tích theo phương pháp so sánh được thể hiện bằng 3
hình thức:
Sinh viên: Lê Thị Mai-K17QT1
7
Khóa luận tốt nghiệp Viện đại học Mở-Khoa Kinh Tế
- So sánh theo chiều ngang: là việc so sánh, đối chiếu tình hình biến
động cả về số tuyệt đối và số tương đối trên từng chỉ tiêu, trên từng báo cáo
tài chính. Thực chất của việc phân tích này là phân tích sự biến động về quy
mô của từng khoản mục, trên từng báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Qua
đó, xác định được mức biến động (tăng hay giảm) về quy mô của chỉ tiêu
phân tích và mức độ ảnh hưởng của từng chỉ tiêu nhân tố đến chỉ tiêu phân
tích. Chẳng hạn, phân tích tình hình biến động về quy mô tài sản, nguồn
hình thành tài sản (số tổng cộng), tình hình biến động về quy mô của từng

khoản, từng mục ở cả 2 bên tài sản và nguồn hình thành tài sản trên bảng cân
đối kế toán của doanh nghiệp.
- So sánh theo chiều dọc là việc sử dụng các tỷ lệ, các hệ số thể hiện
mối tương quan giữa các chỉ tiêu trong từng báo cáo tài chính, giữa các báo
cáo tài chính của doanh nghiệp. Thực chất của việc phân tích theo chiều dọc
trên các báo cáo tài chính là phân tích sự biến động về cơ cấu hay những
quan hệ tỷ lệ giữa các chỉ tiêu trong hệ thống báo cáo tài chính doanh
nghiệp. Chẳng hạn, phân tích tình hình biến động về cơ cấu tài sản và nguồn
vốn trên bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp, hoặc phân tích các mối
quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận với doanh thu, với tổng giá vốn hàng bán, với
tổng tài sản,… trên các báo cáo tài chính doanh nghiệp.
- So sánh xác định xu hướng và tính chất liên hệ giữa các chỉ tiêu.
Điều đó được thể hiện: Các chỉ tiêu riêng biệt hay các chỉ tiêu tổng cộng trên
báo cáo tài chính được xem xét trong mối quan hệ với các chỉ tiêu phản ánh
quy mô chung và chúng có thể được xem xét trong nhiều kỳ để phản ánh rõ
hơn xu hướng phát triển của các hiện tượng, kinh tế - tài chính của doanh
nghiệp.
4.2 Phương pháp loại trừ:
Sinh viên: Lê Thị Mai-K17QT1
8
Khóa luận tốt nghiệp Viện đại học Mở-Khoa Kinh Tế
Loại trừ là một phương pháp nhằm xác định mức độ ảnh hưởng lần
lượt từng nhân tố đến chỉ tiêu phân tích và được thực hiện bằng cách khi xác
định sự ảnh hưởng của nhân tố này thì phải loại trừ ảnh hưởng của nhân tố
khác.
Các nhân tố có thể làm tăng, có thể làm giảm, thậm chí có những nhân
tố không có ảnh hưởng gì đến các kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Nó
có thể là những nhân tố khách quan, có thể là nhân tố chủ quan, có thể là
nhân tố số lượng, có thể là nhân tố thứ yếu, có thể là nhân tố tích cực, có thể
là nhân tố tiêu cực…

Để xác định được mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến kết quả
của các hoạt động tài chính, phương pháp loại trừ có thể được thực hiện
bằng 2 cách:
- Cách một: dựa vào sự ảnh hưởng trực tiếp của từng nhân tố và được
gọi là “Phương pháp số chênh lệch”.
- Cách hai: thay thế sự ảnh hưởng lần lượt từng nhân tố và được gọi là
“Phương pháp thay thế liên hoàn”.
Phương pháp số chênh lệch và phương pháp thay thế liên hoàn được
sử dụng để xác định mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến chỉ tiêu phân
tích, khi các chỉ tiêu nhân tố có quan hệ với chỉ tiêu phân tích phải được biểu
hiện dưới dạng tích số hoặc thương số, hoặc kết hợp cả tích số và thương số.
Nội dung và trình tự của từng phương pháp được thể hiện, như sau:
4.2.1 Phương pháp số chênh lệch:
Phương pháp số chệnh lệch là phương pháp dựa vào sự ảnh hưởng
trực tiếp của từng nhân tố đến chỉ tiêu phân tích. Có thế khái quát mô hình
chung phương pháp số chênh lệch nhằm xác định sự ảnh hưởng lần lượt
từng nhân tố đến chỉ tiêu phân tích như sau:
Nếu gọi X là chỉ tiêu cần phân tích. X phụ thuộc vào 3 nhân tố ảnh
hưởng và được sắp xếp theo thứ tự: a, b, c.
Sinh viên: Lê Thị Mai-K17QT1
9
Khóa luận tốt nghiệp Viện đại học Mở-Khoa Kinh Tế
Trường hợp 1: Các nhân tố này có quan hệ tích số với các chỉ tiêu
phân tích X. Như vậy, chỉ tiêu X được xác định cụ thể như sau: X = a.b.c
Nếu quy ước kỳ kế hoạch là k, còn kỳ thực hiện được ký hiệu bằng số
1. Từ quy ước này, chỉ tiêu X kỳ kế hoạch và kỳ thực hiện lần lượt được xác
định:
X
1
= a

1
.b
1
.c
1
và X
k
= a
k
.b
k
.c
k
Đối tượng cụ thể của phân tích được xác định:
- Số tuyệt đối: ∆X = X
1
- X
k

∆X
- Số tương đối: . 100
X
k
∆X là số chênh lệch tuyệt đối của chỉ tiêu phân tích giữa kỳ thực hiện
so với kỳ kế hoạch. Bằng phương pháp số chênh lệch, có thể xác định sự ảnh
hưởng lần lượt từng nhân tố a, b, c đến chỉ tiêu phân tích X như sau:
- Ảnh hường của nhân tố a
∆X
a
= (a

1
– a
k
).b
k
.c
k
- Ảnh hưởng của nhân tố b
∆X
b
= (b
1
– b
k
).a
1
.c
k
- Ảnh hưởng của nhân tố c
∆X
c
= (c
1
– c
k
).a
1
.b
1
Cuối cùng là tổng hợp, phân tích và kiến nghị:

∆X = ∆X
a
+ ∆X
b
+ ∆X
c
Trường hợp 2: Các nhân tố: a, b, c có quan hệ với chỉ tiêu phân tích X
được biểu hiện dưới dạng kết hợp cả tích số và thương số. Chỉ tiêu phân tích
X có thể được xác định cụ thể như sau:
a
X = . c
b
a
k
Kỳ kế hoạch là X
k
= . c
k
Sinh viên: Lê Thị Mai-K17QT1
10
Khóa luận tốt nghiệp Viện đại học Mở-Khoa Kinh Tế
b
k

a
1
Kỳ thực hiện là X
1
= . c
1

b
1

Đối tượng phân tích:
a
1
a
k
- Số tuyệt đối: ∆X = X
1
- X
k
= .c
1
- . c
k
b
1
b
k
∆X
- Số tương đối: . 100
X
k
Các nhân tố ảnh hưởng được xác định như sau:
- Do ảnh hưởng của nhân tố a
c
k
∆X
a

= (a
1
– a
k
).
b
k
- Do ảnh hưởng của nhân tố b
1 1
∆X
b
= - (a
1
. c
k
)
b
1
b
k
- Do ảnh hưởng của nhân tố c
a
1
∆X
c
= (c
1
– c
k
).

b
1
Tổng hợp, phân tích và kiến nghị: ∆X = ∆X
a
+ ∆X
b
+ ∆X
c
4.2.2 Phương pháp thay thế liên hoàn:
Phương pháp thay thế liên hoàn là tiến hành lần lượt thay thế từng
nhân tố theo một trình tự nhất định. Nhân tố nào được thay thế nó sẽ xác
định mức độ ảnh hưởng của nhân tố đó đến chỉ tiêu phân tích. Còn các chỉ
tiêu chưa được thay thế phải giữ nguyên kỳ kế hoạch, hoặc kỳ kinh doanh
trước (gọi tắt là kỳ gốc). Đối với chỉ tiêu phân tích, có bao nhiêu nhân tố ảnh
hưởng thì có bấy nhiêu nhân tố phải thay thế và cuối cùng tổng hợp sự ảnh
hưởng của tất cả các nhân tố bằng một phép cộng đại số. Số tổng hợp đó
cũng chính bằng đối tượng cụ thể của phân tích mà đã được xác định ở trên.
Sinh viên: Lê Thị Mai-K17QT1
11
Khóa luận tốt nghiệp Viện đại học Mở-Khoa Kinh Tế
Có thể khái quát mô hình chung phương pháp thay thế liên hoàn nhằm
xác định sự ảnh hưởng lần lượt từng nhân tố đến chỉ tiêu phân tích, như sau:
Đối tượng phân tích:
- Số tuyệt đối: ∆X = X
1
- X
k
∆X
- Số tương đối: . 100
X

k
Các nhân tố ảnh hưởng
- Do ảnh hưởng của nhân tố a
∆X
a
= a
1
b
k
c
k
- a
k
b
k
c
k
- Do ảnh hưởng của nhân tố b
∆X
b
= a
1
b
1
c
k
– a
1
b
k

c
k
- Do ảnh hưởng của nhân tố c
∆X
c
= a
1
b
1
c
1
– a
1
b
1
c
k
Tổng hợp, phân tích và kiến nghị: ∆X = ∆X
a
+ ∆X
b
+ ∆X
c
4.3 Phương pháp liên hệ cân đối:
Cơ sở phương pháp này là sự cân bằng về lượng giữa 2 mặt của các
yếu tố và quá trình kinh doanh. Dựa vào nguyên lý của sự cân bằng về lượng
giữa 2 mặt của các yếu tố và quá trình kinh doanh, người ta có thể xây dựng
phương pháp phân tích mà trong đó, các chỉ tiêu nhân tố có quan hệ với chỉ
tiêu phân tích được biểu hiện dưới dạng là tổng số hoặc hiệu số. Như vậy,
khác với phương pháp số chênh lệch và phương pháp thay thế liên hoàn,

phương pháp liên hệ cân đối được vận dụng để xác định mối quan hệ giữa
các chỉ tiêu nhân tố với chỉ tiêu phân tích được biểu hiện dưới dạng tổng số
hoặc hiệu số. Bởi vậy, để xác định sự ảnh hưởng và mức độ ảnh hưởng của
từng nhân tố đến chỉ tiêu phân tích chỉ cần xác định mức chênh lệch của
từng nhân tố giữa 2 kỳ (thực tế so với kế hoạch, hoặc thực tế so với các kỳ
kinh doanh trước), giữa các nhân tố mang tính độc lập. Có thể khái quát mô
Sinh viên: Lê Thị Mai-K17QT1
12
Khóa luận tốt nghiệp Viện đại học Mở-Khoa Kinh Tế
hình chung của phương pháp liên hệ cân đối, nhằm xác định sự ảnh hưởng
của từng nhân tố đến chỉ tiêu phân tích, như sau:
Bằng những giả định như trên, giả sử chỉ tiêu cần phân tích là A chịu
ảnh hưởng của các nhân tố x, y, z và mối quan hệ giữa 3 chỉ tiêu nhân tố với
chỉ tiêu phân tích được biểu hiện dưới dạng tổng số kết hợp với hiệu số, như
sau:
A = x + y – z
Ta có:
- Kỳ kế hoạch: A
k
= x
k
+ y
k
- z
k
- Kỳ thực hiện: A
1
= x
1
+ y

1
– z
1
Đối tượng phân tích
- Số tuyệt đối: ∆A = A
1
- A
k
∆A
- Số tương đối: . 100
A
k
Các nhân tố ảnh hưởng:
- Ảnh hưởng của nhân tố x
∆A
x
= x
1
- x
k
- Ảnh hưởng của nhân tố y
∆A
y
= y
1
- y
k
- Ảnh hường của nhân tố z
∆A
z

= z
1
- z
k
Tổng hợp, phân tích và kiến nghị: ∆A = ∆A
x
+ ∆A
y
+

∆A
z
Trên cơ sở xác định sự ảnh hưởng và mức độ ảnh hưởng của từng
nhân tố đến chỉ tiêu phân tích cần rút ra những nguyên nhân và kiến nghị
những giải pháp nhằm đưa các quá trình sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp tiếp theo đạt được những kết quả cao hơn.
4.4 Mô hình Dupont:
Sinh viên: Lê Thị Mai-K17QT1
13
Khóa luận tốt nghiệp Viện đại học Mở-Khoa Kinh Tế
Trong phân tích tài chính, người ta thường vận dụng mô hình Dupont
để phân tích mối liên hệ giữa các chỉ tiêu tài chính. Chính nhờ sự phân tích
mối liên kết giữa các chỉ tiêu mà người ta có thể phát hiện ra những nhân tố
đã ảnh hưởng đến chỉ tiêu phân tích theo một trình tự logic chặt chẽ. Mô
hình Dupont thường được vận dụng trong phân tích tài chính có dạng:
Lợi nhuận thuần Lợi nhuận thuần Doanh thu thuần
Tỉ suất sinh = = x
lợi của tài sản Tổng tài sản Doanh thu thuần Tổng tài sản
Từ mô hình phân tích trên cho thấy, để nâng cao khả năng sinh lời của
một đồng tài sản mà doanh nghiệp đang sử dụng, nhà quản trị doanh nghiệp

phải nghiên cứu và xem xét có những biện pháp gì cho việc nâng cao không
ngừng khả năng sinh lời của quá trình sử dụng tài sản của doanh nghiệp.
Phân tích báo cáo tài chính dựa vào mô hình Dupont có ý nghĩa rất
lớn đối với quản trị doanh nghiệp. Điều đó không chỉ được biểu hiện ở chỗ:
Có thể đánh giá hiệu quả kinh doanh một cách sâu sắc, toàn diện. Đồng thời,
đánh giá đầy đủ và khách quan đến những nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả
kinh doanh của doanh nghiệp. Từ đó, đề ra được hệ thống các biện pháp tỉ
mỉ và xác thực nhằm tăng cường công tác cải tiến tổ chức quản lý doanh
nghiệp, góp phần không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp ở các kỳ kinh doanh tiếp theo.
Mô hình phân tích tài chính Dupont được biểu hiện bằng sơ đồ sau đây:
Tỷ suất lợi nhuận theo tài sản
Tỷ lệ lãi theo Vòng quay
doanh thu của tài sản
Sinh viên: Lê Thị Mai-K17QT1
14
Khóa luận tốt nghiệp Viện đại học Mở-Khoa Kinh Tế
Lợi nhuận Doanh thu Doanh thu Tổng
thuần thuần thuần tài sản
Doanh thu Tổng Tổng tài sản Tổng tài sản
thuần chi phí ngắn hạn dài hạn
Chi phí ngoài Chi phí Vốn vật tư Vốn bằng tiền,
sản xuất sản xuất hàng hóa phải thu
4.5 Phương pháp đồ thị:
Đồ thị là một phương pháp nhằm phản ánh trực quan các số liệu phân
tích bằng biểu đồ hoặc đồ thị. Qua đó, mô tả xu hướng, mức độ biến động
của chỉ tiêu phân tích, hoặc thể hiện mối quan hệ kết cấu của các bộ phận
trong một tổng thể nhất định.
Như vậy, phương pháp đồ thị có tác dụng minh họa kết quả tài chính
đã tính toán được và được biểu thị bằng biểu đồ hay đồ thị, giúp cho việc

đánh giá bằng trực quan, thể hiện rõ ràng và mạch lạc diễn biến của chỉ tiêu
phân tích qua từng thời kỳ. Từ đó, đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả của hoạt động tài chính doanh nghiệp.
Phương pháp đồ thị có thể phản ánh dưới những góc độ sau:
- Biểu thị quy mô (độ lớn) các chỉ tiêu phân tích qua thời gian, như:
tổng tài sản, tổng doanh thu, sản lượng, hiệu quả sử dụng vốn, hiệu quả sử
dụng chi phí, tỷ suất lợi nhuận….hoặc có thể biểu hiện tốc độ tăng trưởng
của chỉ tiêu phân tích qua thời gian, như: tốc độ tăng tài sản, tốc độ tăng chủ
sở hữu, tốc độ tăng hiệu quả sử dụng vốn, tốc độ tăng vốn đầu tư….
Sinh viên: Lê Thị Mai-K17QT1
15
Khóa luận tốt nghiệp Viện đại học Mở-Khoa Kinh Tế
- Biểu hiện mối quan hệ giữa các chỉ tiêu phân tích với các chỉ tiêu
nhân tố, như: tỷ suất sinh lời của tổng tài sản chịu ảnh hưởng của tỷ suất
sinh lời của tổng doanh thu thuần và tốc độ chu chuyển của tổng tài sản hoặc
sức sinh lời của tài sản dài hạn phụ thuộc vào hệ số của tài sản dài hạn với
sức sinh lời của vốn chủ sở hữu.
5. Hệ thống các chỉ tiêu phân tích tài chính doanh nghiệp:
5.1 Tài liệu làm căn cứ phân tích tài chính doanh nghiệp:
Phân tích tình hình tài chính sử dụng mọi nguồn thông tin có khả năng
làm rõ mục tiêu của dự đoán tài chính trong đó chủ yếu thông tin từ các báo
cáo tài chính: bảng cân đối kế toán, bảng báo cáo kết quả kinh doanh, báo
cáo lưu chuyển tiền tệ.
5.1.1 Bảng cân đối kế toán:
Bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính chủ yếu nhằm phản ánh
tổng quát tình hình tài sản của doanh nghiệp theo giá trị ghi sổ của tài sản và
nguồn hình thành tài sản tại một thời điểm cuối năm. Nội dung của bảng cân
đối kế toán thể hiện qua hệ thống các chỉ tiêu phản ánh tài sản và nguồn hình
thành tài sản. Các chỉ tiêu được phân loại, sắp xếp thành từng loại, mục và
từng chỉ tiêu cụ thể. Các chỉ tiêu được mã hóa để thuận tiện cho việc kiểm

tra, đối chiếu cũng như việc xử lý trên máy vi tính và được phản ánh theo số
đầu năm và số cuối năm.
Bảng cân đối kế toán thường có kết cấu 2 phần:
+ Phần tài sản: Phản ánh toàn bộ giá trị tài sản hiện có của doanh
nghiệp tại thời điểm lập báo cáo theo cơ cấu tài sản và hình thức tồn tại
trong quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tài sản được chia
thành 2 phần: Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn, Tài sản cố định và đầu
tư dài hạn.
Sinh viên: Lê Thị Mai-K17QT1
16
Khóa luận tốt nghiệp Viện đại học Mở-Khoa Kinh Tế
+ Phần nguồn vốn: Phản ánh nguồn hình thành tài sản hiện có của
doanh nghiệp tại thời điểm lập báo cáo. Các chỉ tiêu nguồn vốn thể hiện
trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp đối với tài sản đang quản lý và sử
dụng tại doanh nghiệp. Nguồn vốn được chia thành nợ phải trả và nguồn vốn
chủ sở hữu.
5.1.2 Bảng báo cáo kết quả kinh doanh:
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh là một báo cáo tài chính phản
ánh tóm lược các khoản doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh của doanh
nghiệp cho một năm kế toán nhất định, bao gồm kết quả hoạt động kinh
doanh (hoạt động bán hàng và cung cấp dịch vụ, hoạt động tài chính) và hoạt
động khác.
Báo cáo kết quả kinh doanh cho biết sự dịch chuyển của tiền trong quá
trình sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp và cho phép dự tính khả năng
hoạt động của doanh nghiệp trong tương lai. Báo cáo kết quả kinh doanh
giúp các nhà phân tích so sánh doanh thu với số tiền thực nhập quỹ khi bán
hàng hoá, dịch vụ; so sánh tổng chi phí phát sinh với số tiền thực xuất quỹ
để vận hành doanh nghiệp. Trên cơ sở doanh thu và chi phí, có thể xác định
được kết quả hoạt động kinh doanh là lỗ hay lãi trong một thời kỳ.
Như vậy, báo cáo kết quả kinh doanh phản ánh kết quả hoạt động sản

xuất kinh doanh, phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp trong thời
kỳ nhất định. Nó cung cấp những thông tin tổng hợp về tình hình tài chính
và kết quả sử dụng các tiềm năng về vốn, lao động kỹ thuật và trình độ quản
lý sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp, có các khoản mục chủ yếu:
doanh thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh; doanh thu từ hoạt động tài
chính; doanh thu từ hoạt động bất thường và các chi phí tương ứng.
Sinh viên: Lê Thị Mai-K17QT1
17
Khóa luận tốt nghiệp Viện đại học Mở-Khoa Kinh Tế
5.1.3 Báo cáo lưu chuyển tiền tệ:
Lưu chuyển tiền tệ là báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh việc hình
thành và sử dụng lượng tiền phát sinh trong kỳ báo cáo của doanh nghiệp.
Thông tin về lưu chuyển tiền tệ của doanh nghiệp cung cấp cho người sử
dụng thông tin có cơ sở để đánh giá khả năng tạo ra các khoản tiền và việc
sử dụng những khoản tiền đã tạo ra đó trong hoạt động sản xuất – kinh
doanh của doanh nghiệp.
Tiền phản ánh trong báo cáo lưu chuyển tiền tệ bao gồm tiền tại quỹ,
tiền đang chuyển, các khoản tiền gửi không kỳ hạn và các khoản tương
đương tiền là các khoản đầu tư ngắn hạn (không quá 3 tháng kể từ ngày mua
khoản đầu tư đó), có khả năng chuyển đổi dễ dàng thành một lượng tiền xác
định và không có nhiều rủi ro trong chuyển đổi thành tiền (kỳ phiếu ngân
hàng, tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi….).
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ có thể lập theo phương pháp gián tiếp hoặc
phương pháp trực tiếp. Theo phương pháp trực tiếp, báo cáo lưu chuyển tiền
tệ được lập bằng cách xác định và phân tích trực tiếp các khoản thực thu,
thực chi bằng tiền theo từng nội dung thu, chi trên các sổ kế toán tổng hợp
và chi tiết của doanh nghiệp. Theo phương pháp gián tiếp, báo cáo lưu
chuyển tiền tệ được lập bằng cách điều chỉnh lợi nhuận trước thuế thu nhập
doanh nghiệp của hoạt động sản xuất – kinh doanh khỏi ảnh hưởng của các
khoản mục không phải bằng tiền, các thay đổi trong kỳ của hàng tồn kho,

các khoản phải thu, phải trả từ hoạt động kinh doanh và các khoản mà ảnh
hưởng về tiền của chúng thuộc hoạt động đầu tư. Sau đó, luồng tiền từ hoạt
động đầu tư được tiếp tục điều chỉnh với sự thay đổi vốn lưu động, chi phí
trả trước dài hạn và các khoản thu, chi khác từ hoạt động kinh doanh.
5.2 Hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính doanh nghiệp:
Sinh viên: Lê Thị Mai-K17QT1
18
Khóa luận tốt nghiệp Viện đại học Mở-Khoa Kinh Tế
- Khả năng thanh toán nợ ngắn hạn, dài hạn: Ngày nay, mục tiêu kinh
doanh đang được các nhà kinh tế nhìn nhận lại một cách trực tiếp hơn, đó là:
trả được công nợ, và có lợi nhuận. Vì vậy, khả năng thanh toán được coi là
những chỉ tiêu tài chính được quan tâm hàng đầu và được đặc trưng bởi: hệ
số thanh toán ngắn hạn, hệ số thanh toán nhanh và hệ số thanh toán lãi vay.
+ Hệ số thanh toán ngắn hạn: Là mối quan hệ giữa tài sản lưu động
cộng với đầu tư ngắn hạn và các khoản nợ ngắn hạn. Hệ số thanh toán ngắn
hạn thể hiện mức độ đảm bảo của tài sản lưu động với nợ ngắn hạn. Nợ ngắn
hạn là các khoản nợ phải thanh toán trong kỳ, do đó doanh nghiệp phải dùng
tài sản thực của mình để thanh toán bằng cách chuyển đổi một bộ phận tài
sản thành tiền. Trong tổng số tài sản mà hiện doanh nghiệp đang quản lý, sử
dụng và sở hữu, chỉ có tài sản lưu động trong kỳ là có khả năng chuyển đổi
thành tiền. Do đó, hệ số thanh toán ngắn hạn được xác định theo công thức:
Tổng tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn
Hệ số thanh toán ngắn hạn=
Nợ ngắn hạn
+ Hệ số thanh toán nhanh: là thước đo về khả năng trả nợ ngay, không
dựa vào việc bán lại các loại vật tư hàng hóa, được tính theo công thức:
Tiền + Tài sản tương đương tiền
Hệ số thanh toán nhanh =
Nợ ngắn hạn
Tài sản tương đương tiền là các khoản có thể chuyển đổi thành một

lượng tiền biết trước (thương phiếu, các loại chứng khoán). Vì vậy, các
khoản đầu tư chứng khoán ngắn hạn là tương đương tiền khi có thị trường
chứng khoán, các khoản thu là tương đương tiền khi có tín dụng thương mại.
+ Hệ số thanh toán lãi vay: Lãi vay phải trả là một khoản chi phí cố
định, nguồn để trả lãi vay là lãi thuần trước thuế. So sánh giữa nguồn để trả
Sinh viên: Lê Thị Mai-K17QT1
19
Khóa luận tốt nghiệp Viện đại học Mở-Khoa Kinh Tế
lãi vay với lãi vay phải trả sẽ cho chúng ta biết doanh nghiệp đã sẵn sàng trả
tiền lãi vay ở mức độ nào:
Lãi thuần trước thuế + Lãi vay phải trả
Hệ số thanh toán lãi vay =
Lãi vay phải trả
- Khả năng độc lập về mặt tài chính được đánh giá thông qua tính và
phân tích tỷ số nợ và tỷ suất tự tài trợ nguồn vốn (cơ cấu vốn).
+ Tỷ số nợ là một chỉ tiêu tài chính phản ánh trong một đồng vốn hiện
nay của doanh nghiệp đang sử dụng có tỷ trọng nợ phải trả là bao nhiêu.
Nợ phải trả
Tỷ số nợ =
Tổng nguồn vốn
+ Tỷ suất tự tài trợ là một chỉ tiêu tài chính đo lường số vốn góp của
chủ sở hữu trong tổng số vốn hiện có của doanh nghiệp.
Nguồn vốn chủ sở hữu
Tỷ suất tự = = 1- tỷ số nợ
tài trợ Tổng nguồn vốn
Qua nghiên cứu 2 chỉ tiêu tài chính này, ta thấy được mức độ độc lập
hay phụ thuộc của doanh nghiệp đối với các chủ nợ, mức độ tự tài trợ của
doanh nghiệp đối với vốn kinh doanh của mình. Tỷ suất tài trợ càng lớn
chứng tỏ doanh nghiệp có nhiều vốn tự có, tính độc lập cao đối với các chủ
nợ, do đó không bị ràng buộc hoặc bị sức ép của các khoản nợ vay. Nhưng

khi tỷ số nợ lớn thì doanh nghiệp lại có lợi vì được sử dụng một lượng tài
sản lớn mà chỉ đầu tư một lượng vốn nhỏ và các nhà tài chính sử dụng nó
như một chính sách tài chính để gia tăng lợi nhuận.
Sinh viên: Lê Thị Mai-K17QT1
20
Khóa luận tốt nghiệp Viện đại học Mở-Khoa Kinh Tế
- Tỷ suất đầu tư là tỷ lệ giữa tài sản cố định (giá trị còn lại) với tổng
tài sản của doanh nghiệp.
Giá trị còn lại TSCĐ và đầu tư dài hạn
Tỷ suất đầu tư =
Tổng giá trị tài sản
Tỷ suất này càng lớn càng thể hiện mức độ quan trọng của tài sản cố
định trong tổng số tài sản của doanh nghiệp, phản ánh tình hình trang bị cơ
sở vật chất kỹ thuật, năng lực sản xuất và xu hướng phát triển lâu dài cũng
như khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Tuy nhiên để kết luận tỷ suất
này là tốt hay xấu còn tùy thuộc vào ngành kinh doanh của từng doanh
nghiệp trong một thời gian cụ thể.
- Tỷ suất tự tài trợ tài sản cố định: Phân tích tỷ suất này sẽ cung cấp
dòng thông tin cho biết vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp dùng để trang bị
tài sản cố định là bao nhiêu.
Vốn chủ sở hữu
Tỷ suất tự tài trợ =
TSCĐ Giá trị TSCĐ và đầu tư dài hạn
- Khả năng thanh toán các khoản phải thu được phản ánh qua các chỉ
tiêu sau:
+ Vòng quay các khoản phải thu phản ánh tốc độ chuyển đổi các
khoản phải thu thành tiền mặt của doanh nghiệp và được xác định theo công
thức sau:
Doanh thu thuần
Vòng quay các =

khoản phải thu Số dư bình quân các khoản phải thu
Số dư bình quân các khoản phải thu được tính bằng cách cộng số phải
thu đầu kỳ với cuối kỳ (trên bảng cân đối kế toán) rồi chia 2.
Sinh viên: Lê Thị Mai-K17QT1
21
Khóa luận tốt nghiệp Viện đại học Mở-Khoa Kinh Tế
Doanh thu thuần được lấy ở báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
trong kỳ.
+ Kỳ thu tiền trung bình phản ánh số ngày cần thiết để thu được các
khoản phải thu (số ngày của một vòng quay các khoản phải thu). Vòng quay
các khoản phải thu càng lớn thì kỳ thu tiền trung bình càng nhỏ, và ngược
lại. Kỳ thu tiền trung bình được xác định theo công thức:
360
Kỳ thu tiền =
trung bình Vòng quay các khoản phải thu
Số dư BQ các khoản phải thu
Kỳ thu tiền = x 360
trung bình Doanh thu thuần
Tuy nhiên, kỳ thu tiền trung bình cao hay thấp trong nhiều trường hợp
chưa thể có kết luận chắc chắn mà phải xem xét lại các mục tiêu và chính
sách của doanh nghiệp như: mục tiêu mở rộng thị trường, chính sách tín
dụng của doanh nghiệp. Mặt khác, chỉ tiêu này có thể được đánh giá là khả
quan nhưng doanh nghiệp cũng cần phải phân tích kỹ hơn vì tầm quan trọng
của nó và vì kỹ thuật tính toán đã che đi các khuyết tật trong việc quản trị
các khoản phải thu.
- Tốc độ chu chuyển vốn hàng hóa của doanh nghiệp được phản ánh
qua các chỉ tiêu:
+ Số vòng quay hàng tồn kho là số lần hàng hóa tồn kho bình quân
được bán ra trong kỳ. Số vòng quay hàng tồn kho cao thì việc kinh doanh
được đánh giá càng tốt, bởi lẽ doanh nghiệp chỉ đầu tư hàng tồn kho thấp

nhưng vẫn đạt được doanh số cao. Số vòng quay hàng tồn kho được xác định
theo công thức:
Giá vốn hàng bán
Số vòng quay =
Sinh viên: Lê Thị Mai-K17QT1
22
Khóa luận tốt nghiệp Viện đại học Mở-Khoa Kinh Tế
hàng tồn kho Hàng tồn kho bình quân
+ Số ngày một vòng quay hàng tồn kho phản ánh số ngày trung bình
của một vòng quay hàng tồn kho, công thức xác định là:
Số ngày theo lịch của kỳ phân tích
Độ dài bình quân 1 vòng =
quay hàng tồn kho Số vòng quay hàng tồn kho
+ Số vốn lưu động tiết kiệm (hay lãng phí) do tốc độ chu chuyển hàng
hóa (giá vốn) nhanh hay chậm gây ra (ký hiệu ∆V), được xác định theo công
thức:
GV
1
∆V = (D
1
- D
0
).
N
Trong đó:
GV
1
: Tổng giá vốn hàng bán kỳ phân tích.
N: Số ngày trong kỳ.
D

1
: Số ngày chu chuyển thực tế.
D
0
: Số ngày chu chuyển kỳ gốc.
- Mức độ sinh lời của hoạt động kinh doanh: Lợi nhuận là mục đích cuối
cùng của quá trình kinh doanh. Lợi nhuận càng cao, doanh nghiệp càng
khẳng định vị trí và sự tồn tại của mình. Song nếu chỉ đánh giá qua chỉ tiêu
lợi nhuận thì nhiều khi kết luận về chất lượng kinh doanh có thể bị sai lầm
bởi có thể số lợi nhuận này chưa tương xứng với lượng vốn và chi phí bỏ ra,
lượng tài sản đã sử dụng. Vì vậy các nhà phân tích sử dụng tỷ số để đặt lợi
nhuận trong mối quan hệ với doanh thu, vốn mà doanh nghiệp đã huy động
vào kinh doanh.
Các tỷ suất lợi nhuận (hay mức doanh lợi) luôn luôn được các nhà
quản trị tài chính quan tâm. Chúng là cơ sở quan trọng để đánh giá kết quả
hoạt động sản xuất kinh doanh trong một kỳ nhất định, là đáp số sau cùng
Sinh viên: Lê Thị Mai-K17QT1
23
Khóa luận tốt nghiệp Viện đại học Mở-Khoa Kinh Tế
của hiệu quả kinh doanh và còn là một luận cứ quan trọng để các nhà hoạch
định đưa ra các quyết định tài chính trong tương lai. Phân tích mức độ sinh
lời của hoạt động kinh doanh được thực hiện thông qua tính và phân tích các
chỉ tiêu:
+ Tỷ suất lợi nhuận của kết quả kinh doanh (thường được tính trên
doanh thu thuần) thể hiện trong một đồng doanh thu thuần mà doanh nghiệp
thực hiện trong kỳ có mấy đồng lợi nhuận. Công thức xác định:
Lãi thuần trước thuế + Lãi vốn vay
Tỷ suất lãi trước thuế =
so với doanh thu thuần Doanh thu thuần


Lãi thuần sau thuế
Tỷ suất lãi sau thuế =
so với doanh thu thuần Doanh thu thuần
+ Tỷ suất lợi nhuận vốn kinh doanh là chỉ tiêu đo lường mức độ sinh
lời của đồng vốn. Chỉ tiêu này phản ánh 1 đồng vốn bình quân được sử dụng
trong kỳ tạo ra được mấy đồng lợi nhuận. Công thức xác định:
Lãi thuần trước thuế + Lãi vốn vay
Tỷ suất lợi nhuận toàn =
bộ vốn kinh doanh Tổng nguồn vốn bình quân
Lãi thuần trước thuế
Tỷ suất lợi nhuận =
vốn chủ sở hữu Vốn chủ sở hữu bình quân
Giữa lợi nhuận và vốn kinh doanh có mối quan hệ chặt chẽ theo
phương trình sau:
Lãi trước thuế (hoặc sau thuế) Lãi trước thuế Doanh thu thuần
Sinh viên: Lê Thị Mai-K17QT1
24
Khóa luận tốt nghiệp Viện đại học Mở-Khoa Kinh Tế
= x
Tổng tài sản bình quân Doanh thu thuần Tổng tài sản BQ
Hoặc:
Khả năng sinh lời = Mức doanh lợi x Vòng quay tổng tài sản
tổng tài sản doanh thu thuần
Phương trình trên cũng có thể tính cho quan hệ: lợi nhuận doanh thu
thuần và vốn chủ sở hữu:
Lãi trước thuế Lãi trước thuế
(hoặc sau thuế) (hoặc sau thuế) Doanh thu thuần
= x
Vốn chủ sở hữu BQ Doanh thu thuần Vốn chủ sở hữu BQ
PHẦN II:

PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN THAN HÀ LẦM
1. Giới thiệu về Công ty Cổ phần than Hà Lầm:
1.1 Giới thiệu chung về Công ty Cổ phần than Hà Lầm:
1.1.1 Quá trình hình thành và phát triển:
Công ty Cổ phần than Hà lầm - TKV tiền thân là mỏ than Hà lầm,
được thành lập vào tháng 8/1960. Mỏ được tách ra từ xí nghiệp quốc doanh
than Hòn Gai tiếp quản từ thời Pháp để lại. Mỏ được thành lập dựa vào các
văn bản pháp lý thành lập mỏ, văn bản thoả thuận cấp đất và tài nguyên đã
được các cơ quan có thẩm quyền phê duyệt.
Năm 1993, Bộ Năng lượng có Quyết định số 402 NL/TCCBLĐ ngày
30/6/1993 về việc Mỏ Than Hà Lầm trực thuộc Công ty than Hòn Gai.
Đến năm 1997, Mỏ Than Hà Lầm được chuyển từ trực thuộc Công ty
than Hòn Gai thành doanh nghiệp nhà nước thành viên, hạch toán độc lập
Sinh viên: Lê Thị Mai-K17QT1
25

×