Tải bản đầy đủ (.doc) (221 trang)

Hoàn thiện chính sách phát triển dịch vụ phân phối bán lẻ hàng hóa ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 221 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ, HỘP
DANH MỤC BẢNG BIỂU, BIỂU ĐỒ, HỘP
BẢNG
Bảng 1.1: Cơ sở và khung khổ chính sách phát triển DVPPBL trong điều kiện hội
nhập quốc tế Error: Reference source not found
Bảng 1.2: Tỷ trọng doanh thu bán lẻ qua hệ thống bán lẻ hiện đại và truyền thống
của Thái Lan năm 2006 Error: Reference source not found
Bảng 1.3: Tiêu chuẩn siêu thị của Trung Quốc Error: Reference source not found
Bảng 1.4: Tóm tắt các quy định chính sách áp dụng đối với các cơ sở bán lẻ nước
ngoài tại Indonesia, Malaysia, Thái Lan (2004) Error: Reference source
not found
Bảng 2.1. Quy mô và tốc độ tăng trưởng tổng mức bán lẻ hàng hóa thời kỳ 1996 – 2010
Error: Reference source not found
Bảng 2.2. Đóng góp của thương mại trong nước vào GDP tính theo giá so sánh 1994
Error: Reference source not found
Bảng 2.3. Tỷ trọng các loại hình kinh doanh dịch vụ phân phối trong tổng số cơ
sở kinh doanh dịch vụ phân phối tại các vùng trong cả nước năm 2009
Error: Reference source not found
Bảng 2.4: Tỷ trọng cơ sở kinh doanh DVPP phân theo loại hình kinh doanh và
phân theo thành thị, nông thôn đến năm 2009 Error: Reference source
not found
Bảng 2.5. Quy mô kinh doanh của các doanh nghiệp bán lẻ thời kỳ 2000 – 2009
Error: Reference source not found
Bảng 2.6. Kết quả rà soát, điều chỉnh quy định chính sách thực hiện cam kết
WTO đối với DVPP của Việt Nam Error: Reference source not found
Bảng 2.7: Vốn FDI đăng ký vào dịch vụ bán buôn, bán lẻ tại Việt Nam giai đoạn
2002 – 2009 Error: Reference source not found
Bảng 2.8: Tổng mức bán lẻ hàng hóa theo giá thực tế thời kỳ 1996-2010 Error:
Reference source not found
Bảng 3.1. Triển vọng phát triển DVPPBL Việt Nam đến năm 2020 Error:


Reference source not found
BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1. Mối tương quan giữa tăng trưởng bán lẻ thực (đã loại trừ giá) với tăng
trưởng GDP, giá trị tăng thêm của thương mại trong nước và tiêu dùng
cuối cùng của nền kinh tế Việt Nam thời kỳ 2000 – 2010 (ngay trước
và sau khi ký BTA và gia nhập WTO) Error: Reference source not
found
Biểu đồ 2.2. Số doanh nghiệp đang hoạt động kinh doanh bán lẻ tại thời điểm 31/12
hàng năm trong giai đoạn trước và sau khi Việt Nam gia nhập WTO
Error: Reference source not found
SƠ ĐỒ
Sơ đồ 1.1. Các kênh lưu thông hàng hoá và các cấp trung gian thương mại trong
nền kinh tế thị trường [57;5] Error: Reference source not found
Sơ đồ 1.2. Phân loại dịch vụ phân phối bán lẻ hàng hoá trên thị trường trong nước
theo phương thức phục vụ Error: Reference source not found
Sơ đồ 1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của dịch vụ phân phối bán lẻ
hàng hoá Error: Reference source not found
HỘP
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài Luận án
Trong nền kinh tế thị trường hiện đại và trong điều kiện hội nhập quốc tế, lĩnh
vực phân phối là sự kết nối sống còn giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng. Nó đóng
vai trò là một trong những “trung gian” để sâu chuỗi các khâu trong toàn bộ quá
trình tái sản xuất mở rộng các ngành sản phẩm nông - công nghiệp, từ cung ứng đầu
vào đến tiêu thụ đầu ra trên thị trường, góp phần phát triển các chuỗi giá trị của các
ngành sản phẩm trong nước, kết nối với các chuỗi giá trị toàn cầu.
Hoạt động phân phối mang bản chất của hoạt động dịch vụ. Theo phân loại
của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), dịch vụ phân phối (DVPP) là một trong số
11 ngành dịch vụ chính, gồm 4 phân ngành: dịch vụ bán buôn (DVBB), dịch vụ bán
lẻ (DVBL), dịch vụ đại lý hoa hồng và nhượng quyền kinh doanh. Trong đó, dịch vụ

chính do nhà bán buôn và nhà bán lẻ thực hiện. DVBB bao gồm việc bán hàng cho
những người bán lẻ, những doanh nghiệp sử dụng hàng hóa của những ngành công
nghiệp, thương mại, các tổ chức đơn vị chuyên môn hoặc cho người bán buôn khác.
Những người bán lẻ phục vụ mục đích tiêu dùng cá nhân hoặc hộ gia đình. Nói cách
khác, bán buôn là việc bán hàng hóa (thường là các dịch vụ kèm theo) cho đối
tượng người mua để sản xuất, để bán lại hoặc tiêu dùng vì mục đích sự nghiệp hoặc
kinh doanh; bán lẻ là hoạt động có nghiệp vụ chủ yếu là bán hàng hóa cùng các dịch
vụ kèm theo cho người tiêu dùng cuối cùng, đó là tiêu dùng cá nhân và gia đình,
tiêu dùng không mang tính kinh doanh. Ngày nay dịch vụ bán lẻ đóng góp đáng kể
vào tăng trưởng kinh tế và hướng mạnh mẽ tới người tiêu dùng.
Sự phát triển của DVPPBL theo hướng hiện đại không chỉ gắn với việc cung
cấp các sản phẩm ngày càng phong phú, đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của
người tiêu dùng, mà còn cung cấp cho người tiêu dùng một loạt các dịch vụ bổ sung
là những dịch vụ giúp cho sự lựa chọn chính xác hơn và tăng thêm sự thuận tiện
hơn khi mua hàng. Đồng thời, nó cũng cung cấp cho nhà sản xuất nhiều thông tin
cần thiết từ phía cầu để điều chỉnh những quyết định của họ theo nhu cầu của người
tiêu dùng. Do đó, sự thất bại của ngành DVPP nói chung, DVPPBL nói riêng trong
việc thực hiện đầy đủ vai trò, chức năng phân phối của mình có thể dẫn tới những
sai lệch lớn trong hệ thống phân bổ nguồn lực của xã hội và thiệt hại cho nền kinh
1
tế trong cả ngắn hạn cũng như trong dài hạn. Cho nên, để tránh cho nền kinh tế vấp
phải thất bại đó của thị trường, nhà nước phải can thiệp điều tiết và quản lý sự phát
triển của dịch vụ phân phối bán lẻ (DVPPBL). Đồng thời, phạm vi của lĩnh vực
PPBL trong thương mại quốc tế đã phát triển nhanh chóng thông qua đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI) và việc phát triển những công nghệ mới đặc biệt là công nghệ
thông tin. Trong xu thế tự do hóa thương mại toàn cầu, phần lớn các nước, trước hết
là những thành viên WTO, đều phải mở cửa thị trường DVPP, thực hiện nguyên tắc
đãi ngộ quốc gia (NT), dẫn đến sự phát triển nhanh của mạng lưới phân phối toàn
cầu với chủ thể chính chi phối và lãnh đạo là các tập đoàn phân phối đa quốc gia.
Mặt khác, trong chuỗi giá trị toàn cầu của các ngành sản phẩm, khâu phân phối bán

lẻ là khâu có giá trị gia tăng cao, tỷ suất lợi nhuận cao nên có sự cạnh tranh ngày
càng quyết liệt của các nhà phân phối bán lẻ trong và ngoài nước. Vì thế, sự quản
lý, điều tiết của nhà nước đối với sự phát triển DVPPBL càng trở nên cần thiết để
đảm bảo lợi ích quốc gia trong quá trình hội nhập quốc tế.
Trong thời đại toàn cầu hóa, sự hình thành và phát triển dịch vụ phân phối bán lẻ
không chỉ luôn gắn với các dịch vụ chính khác (bán buôn, đại lý uỷ quyền, nhượng
quyền ), mà còn luôn gắn với cả các dịch vụ phụ trợ có liên quan đến hoạt động bán
lẻ hàng hoá, không chỉ bao hàm hệ thống phân phối bán lẻ truyền thống mà còn bao
hàm cả hệ thống phân phối bán lẻ hiện đại.
Đối với Việt Nam, công cuộc Đổi mới đất nước được bắt đầu sớm nhất và sâu
sắc nhất trong lĩnh vực thương mại bán lẻ hàng hoá (bắt đầu từ Nghị quyết TW6,
khóa VI năm 1987). Quán triệt tư tưởng chỉ đạo trong Nghị quyết số 12/NQ-TW
ngày 03/01/1996 của Bộ Chính trị (Khoá VII), thực hiện Quyết định 311/QĐ-TTg
ngày 20/3/2003 của Thủ tướng Chính phủ, Nghị định số 02/2003/NĐ-CP, Quyết
định số 27/2007/QĐ-TTg và các văn bản chỉ đạo khác của Đảng và Chính phủ về
phát triển thương mại trong nước, Bộ Thương mại trước đây và hiện nay là Bộ
Công Thương đã tổ chức thực hiện tốt cơ chế quản lý và các chính sách phát triển
hệ thống phân phối bán lẻ hàng hoá, nhất là trong phát triển kết cấu hạ tầng cho
hoạt động thương mại bán lẻ hàng hoá phát triển Dưới tác động của cơ chế, chính
sách Đổi mới, hoạt động dịch vụ phân phối bán lẻ và thị trường bán lẻ Việt Nam đã
phát triển nhanh theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước.
Thị trường bán lẻ hàng hoá Việt Nam có tốc độ tăng trưởng vào loại cao nhất
thế giới từ sau năm 2001, bình quân tăng 25%/năm và có xu hướng ngày càng tăng
2
cao (năm 2007 tăng 27,3%, năm 2008 tăng trên 30%, năm 2009 trong điều kiện suy
giảm kinh tế nhưng vẫn tăng 18% và năm 2010 tăng 24,5%, nếu loại trừ yếu tố tăng
giá thì vẫn tăng 13% ). Sau trên 15 năm từng bước mở cửa thị trường dịch vụ phân
phối, hệ thống phân phối bán lẻ hàng hoá ở Việt Nam đã từng bước phát triển theo
hướng hiện đại, kết nối giữa hệ thống trong nước với các kênh xuất, nhập khẩu hàng
hoá, giữa các trung tâm phân phối lớn với các cửa hàng tiện lợi, bám sát khu dân cư,

giữa các hình thức phân phối truyền thống với các hình thức mới hiện đại, đáp ứng
nhu cầu hàng hoá ngày càng đa dạng của các tầng lớp dân cư. Việt Nam đang trở
thành thị trường bán lẻ đầy tiềm năng, có sức hấp dẫn cao với các nhà đầu tư nước
ngoài. Đây vừa là thời cơ vừa là nguy cơ đối với các doanh nghiệp phân phối Việt
Nam trong điều kiện mở cửa thị trường dịch vụ phân phối, các tập đoàn phân phối
lớn của nước ngoài đang không ngừng tăng cường thế lực để mở rộng thị phần bán
lẻ ở Việt Nam, nhất là trên các đô thị lớn.
Quy mô thị trường bán lẻ ngày càng lớn. Năm 2010 tổng mức lưu chuyển
hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ xã hội (LCHHBL&DTDVXH) đạt trên
1.561,6 ngàn tỷ đồng, gấp khoảng 6 lần năm 2001, nâng mức bình quân đầu người
từ 2,54 triệu đồng năm 2001 lên 17,7 triệu đồng năm 2010. Trong giai đoạn 2006-
2010 quy mô thị trường bán lẻ đã bằng khoảng 65% GDP trong cùng giai đoạn,
phản ánh DVPPBL có vai trò rất lớn trong đời sống kinh tế - xã hội của đất nước.
Thị trường dịch vụ phân phối Việt Nam (bán buôn, bán lẻ, đại lý uỷ quyền và
nhượng quyền thương mại) đã từng bước mở cửa theo các cam kết quốc tế đa
phương, song phương, bắt đầu từ sau khi Việt Nam gia nhập ASEAN (Tháng
7/1995). Từ khi gia nhập WTO (Tháng 11/2006), nhất là từ sau 1/1/2009, thị trường
dịch vụ phân phối Việt Nam về cơ bản đã mở cửa như cam kết của Việt Nam với
Hoa Kỳ trong Hiệp định thương mại song phương (BTA). Trong đó, từ 1/1/2009
cho phép thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, tương tự như BTA, Việt
Nam không mở cửa thị trường phân phối xăng dầu, dược phẩm, sách báo, tạp chí,
băng hình, thuốc lá, gạo, đường và kim loại quí cho nước ngoài; nhiều sản phẩm
nhạy cảm như sắt thép, phân bón, xi măng Việt Nam chỉ mở cửa thị trường sau 3
năm gia nhập WTO, hạn chế khả năng mở điểm bán lẻ của các doanh nghiệp FDI;
nhà phân phối nước ngoài chỉ được thành lập liên doanh góp vốn nước ngoài không
quá 49% ngay sau khi Việt Nam gia nhập WTO
3
Mặc dù đã đạt được những thành tựu quan trọng, nhưng thị trường bán lẻ và
hệ thống phân phối bán lẻ hàng hoá trên thị trường trong nước đang bộc lộ những
yếu kém không nhỏ. Thị trường phát triển không bền vững, các hệ thống phân phối

còn mỏng manh dễ bị tổn thương trước các tác động giá cả thị trường thế giới và
quan hệ cung – cầu trong nước. Kết cấu hạ tầng thương mại tuy đã có bước cải
thiện đáng kể nhưng xét về tổng thể vẫn còn lạc hậu, thiếu đồng bộ nên chưa đáp
ứng được nhu cầu phát triển nhanh của thương mại trong nước. Cơ sở hậu cần phân
phối logistics (cảng, kho, vận chuyển ) vừa ít, vừa yếu và thiếu đồng bộ, chưa
đảm bảo hỗ trợ và phục vụ tốt cho khâu bán buôn, bán lẻ. Các phương thức kinh
doanh tiến bộ, hiện đại như liên kết “chuỗi”, trung tâm mua sắm, chuỗi siêu thị,
chuỗi cửa hàng tiện lợi, bán hàng qua mạng, chợ “ảo” chỉ mới manh nha hình
thành, chưa nhiều và chưa mạnh. Cơ cấu kênh phân phối hàng hoá nói chung và các
mặt hàng quan trọng, đặc thù nói riêng còn mang nặng tính tự phát, thiếu tính
chuyên nghiệp. Lực lượng thương nhân trên thị trường bán lẻ Việt Nam tuy tăng
nhanh về số lượng và biến đổi mạnh về cơ cấu trong quá trình hội nhập, nhưng
thiếu những doanh nghiệp lớn, có thương hiệu mạnh, có tính chuyên nghiệp cao;
quá trình tích tụ và tập trung nguồn lực của doanh nghiệp bán lẻ nhìn chung diễn ra
chậm.
Nhìn chung, các nhà phân phối bán lẻ Việt Nam vẫn chưa tạo được các “khớp
nối” linh hoạt giữa các khâu sản xuất – phân phối – tiêu dùng, giữa các kênh lưu
thông hàng hoá trong nước với các kênh xuất khẩu, nhập khẩu, chưa đóng vai trò là
“trung gian” để xâu chuỗi các khâu trong toàn bộ chu trình tái sản xuất mở rộng các
ngành sản phẩm công – nông nghiệp, từ cung ứng đầu vào đến sản xuất và tiêu thụ
đầu ra trên thị trường trong và ngoài nước nhằm phát triển các chuỗi giá trị của các
ngành sản phẩm trong nước, kết nối với các chuỗi giá trị toàn cầu.
Có nhiều nguyên nhân của tình trạng nêu trên, trong đó có nguyên nhân quan
trọng là những bất cập, yếu kém về quản lý vĩ mô lĩnh vực phân phối bán lẻ của
Nhà nước và những yếu kém này chậm được khắc phục. Các chính sách hỗ trợ,
khuyến khích để củng cố và phát triển kết cấu hạ tầng cho phát triển dịch vụ phân
phối bán lẻ còn rất ít, thiếu tính liên tục, nhất quán và đồng bộ. Hầu như chưa có
chính sách ưu đãi (thuế, đất đai, tín dụng ) cho đầu tư dịch vụ phân phối bán lẻ.
Phân công và qui định chức năng, nhiệm vụ quản lý Nhà nước về thị trường bán lẻ
còn có những bất hợp lý, thiếu rành mạch, chồng chéo giữa các cơ quan, đơn vị,

4
trong khi lại chưa có người “nhạc trưởng” …v v
Bối cảnh, đặc điểm và xu hướng nêu trên đặt ra những yêu cầu mới trong công
tác quản lý Nhà nước đối với quá trình hình thành, phát triển DVPPBL trên thị
trường trong nước, trước hết là trong xây dựng và hoàn thiện chính sách phát triển
dịch vụ dịch vụ bán lẻ. Trong đó, đối tượng và phạm vi tác động của chính sách
phát triển DVPPBL không chỉ gồm dịch vụ chính là hoạt động bán lẻ, được gắn kết
với các dịch vụ phân phối chính khác (bán buôn, đại lý uỷ quyền, nhượng quyền
thương mại) mà còn bao gồm cả các dịch vụ phụ trợ có liên quan đến hoạt động bán
lẻ hàng hoá.
Đại hội XI của Đảng đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (sửa đổi, bổ sung 2011), trong đó đã xác định
rõ:”Nhà nước quản lý nền kinh tế, định hướng, điều tiết, thúc đẩy sự phát triển kinh
tế - xã hội bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng
vật chất…”. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011-2020 vừa được Đại hội XI
của Đảng thông qua cũng đã đề ra định hướng “Phát triển khu vực dịch vụ đạt tốc
độ tăng trưởng cao hơn các khu vực sản xuất và tăng mức độ cao hơn GDP…; mở
rộng thị trường nội địa, phát triển thương mại trong nước…; chủ động tham gia
vào mạng phân phối toàn cầu, phát triển hệ thống phân phối các sản phẩm có lợi
thế cạnh tranh ở cả trong và ngoài nước, phát triển thương hiệu hàng hóa Việt
nam…; phải tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, bảo
đảm ổn định kinh tế vĩ mô”….”Thực hiện hệ thống cơ chế và chính sách phù hợp,
đặc biệt là cơ chế, chính sách tài chính tiền tệ nhằm nâng cao chất lượng tăng
trưởng đảm bảo sự phát triển an toàn, lành mạnh của nền kinh tế”.
Như thế, để phát triển DVPPBL ở Việt Nam theo hướng hiện đại, hiệu quả,
các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam có năng lực cạnh tranh cao với các Tập đoàn
phân phối bán lẻ nước ngoài trên thị trường bán lẻ Việt Nam trong điều kiện tự do
hoá thương mại và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, tạo khớp nối linh hoạt giữa
nhà sản xuất và người tiêu dùng thì yêu cầu bức thiết đang đặt ra là phải tăng
cường quản lý Nhà nước trong lĩnh vực dịch vụ phân phối bán lẻ. Trong đó, cần tiếp

tục hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển DVPPBL ở thị trường trong nước.
Vì vậy, nghiên cứu: “Hoàn thiện chính sách phát triển dịch vụ phân phối
bán lẻ hàng hóa ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập” được chọn làm đề tài Luận án
5
Tiến sĩ kinh tế nhằm giải quyết vấn đề cấp thiết nêu trên.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài nghiên cứu trong
và ngoài nước
2.1. Tình hình nghiên cứu đề tài ở trong nước
Đến nay ở trong nước đã có một số công trình nghiên cứu ở các góc độ khác
nhau về bán buôn, bán lẻ, về dịch vụ bán lẻ, về hệ thống phân phối hàng hóa và về
từng loại hình dịch vụ phân phối bán lẻ hàng hóa (Chợ, siêu thị, trung tâm thương
mại…). Tuy nhiên, đến nay chưa có công trình khoa học nào đi sâu nghiên cứu trực
diện, có tính hệ thống và toàn diện về chính sách phát triển dịch vụ phân phối bán lẻ
hàng hóa, về đổi mới và hoàn thiện chính sách phát triển DVPPBL trong điều kiện
hội nhập quốc tế ở Việt Nam. Một số công trình tiêu biểu liên quan đến đề tài luận
án này gồm:
- Một số công trình nghiên cứu về hệ thống phân phối, lưu thông hàng hóa, về
dịch vụ bán buôn, bán lẻ, về các loại hình tổ chức hoạt động phân phối bán lẻ
• Đề tài Khoa học cấp Bộ “Các loại hình kinh doanh văn minh hiện đại,
định hướng quản lý nhà nước đối với siêu thị ở Việt Nam”do Vụ chính sách thị
trường trong nước (Bộ Thương mại) chủ trì thực hiện năm 2001. Trong đó, chỉ tập
trung nghiên cứu sâu về loại hình kinh doanh bán lẻ văn minh, hiện đại và đề ra
định hướng quản lý nhà nước loại hình này, chưa đề cập đến quàn lý nhà nước toàn
bộ lĩnh vực dịch vụ phân phối bán lẻ.
• Đề tài cấp Bộ “Phát triển hệ thống phân phối hàng hóa ở Việt Nam trong
bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế” do Viện Nghiên cứu thương mại chủ trì năm 2002
(PGS.TS. Lê Trịnh Minh Châu làm chủ nhiệm). Trong đó, đã nghiên cứu kỹ cơ sở lý
luận, đánh giá thực trạng và đề xuất phương hướng phát triển hệ thống phân phối
hàng hóa ở nước ta nhưng chưa đi sâu nghiên cứu cơ chế quản lý và đề xuất chính
sách cụ thể và đồng bộ cho sự phát triển đó.

• Sách chuyên khảo “Phát triển hệ thống phân phối hàng hóa ở Việt Nam
trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế” do TS. Lê Trịnh Minh Châu cùng tập thể
tác giả biên soạn trên cơ sở bổ sung, nâng cấp kết quả nghiên cứu đề tài cấp Bộ nêu
trên, NXB Lý luận chính trị ,Hà Nội phát hành năm 2004
• Đề tài cấp Bộ “Thực trạng và giải pháp phát triển hệ thống siêu thị của
6
nước ta hiện nay” do Viện nghiên cứu thương mại chủ trì năm 2005, TS. Nguyễn
Thị Nhiễu làm chủ nhiệm đề tài. Trong đó, chỉ nghiên cứu sâu về hệ thống siêu thị
và đề ra giải pháp phát triển cho loại hình này, chưa nghiên cứu toàn diện về dịch
vụ bán lẻ và quản lý nhà nước đối với lĩnh vực dịch vụ này.
• Sách chuyên khảo “Siêu thị - phương thức kinh doanh bán lẻ hiện đại ở
Việt Nam” do TS. Nguyễn Thị Nhiễu cùng tập thể tác giả biên soạn, NXB Lao động
– xã hội Hà nội phát hành năm 2006. Trong đó đã bổ sung, nâng cấp kết quả nghiên
cứu đề tài Khoa học cấp Bộ nêu trên.
• Đề tài cấp Bộ “Đánh giá thực trạng và định hướng tổ chức các kênh phân
phối một số mặt hàng chủ yếu ở nước ta” do Viện nghiên cứu Thương mại chủ trì
thực hiện năm 2006, PGS.TS. Đinh Văn Thành làm chủ nhiệm. Trong đó đi sâu
nghiên cứu về kênh phân phối một số mặt hàng chủ yếu (rau quả, thịt, hàng may
mặc, sắt thép, phân bón, xi măng…), chưa nghiên cứu phân phối và dịch vụ phân
phối đối với tất cả các nhóm hàng để đề xuất cơ chế, chính sách quản lý các kênh
phân phối hàng hóa.
• Đề tài cấp Bộ “Giải pháp phát triển cửa hàng tiện lợi vận doanh theo
chuỗi ở Việt Nam đến năm 2010” do Trường cán bộ Thương mại Trung ương chủ
trì thực hiện năm 2005. Trong đó chỉ đi sâu nghiên cứu về cửa hàng tiện lợi và đề
xuất giải pháp phát triển, chưa nghiên cứu về lĩnh vực dịch vụ phân phối bán lẻ và
đề xuất cơ chế, chính sách quản lý sự phát triển đó
• Đề tài cấp Bộ “Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển kết cấu hạ
tầng thương mại (hệ thống chợ)” do Viện Nghiên cứu thương mại chủ trì thực hiện
năm 2005, CN. Phạm Hồng Tú là chủ nhiệm. Trong đó chỉ đi sâu nghiên cứu về đầu
tư cho phát triển kết cấu hạ tầng hệ thống chợ, chưa nghiên cứu cơ chế, chính sách

quản lý sự phát triển chợ nói riêng, lĩnh vực phân phối bán lẻ nói chung.
• Dự án cấp Bộ “Điều tra thực trạng hệ thống mua bán, lưu thông phân phối
các ngành hàng xi măng, phân bón, sắt thép ở nước ta trong thời kỳ 2000-2005 và
đề xuất các kiến nghị giải pháp phát triển đến năm 2010” do Viện nghiên cứu
Thương mại chủ trì thực hiện năm 2006. PGS.TS. Nguyễn Văn Nam làm chủ nhiệm
dự án. Trong đó, phạm vi vấn đề được điều tra khá rộng, thu nhận được cả thông tin
phản hồi từ doanh nghiệp và địa phương về chính sách và cơ chế quản lý lưu thông
phân phối nhưng chỉ tập trung vào 3 mặt hàng, chưa đủ tính đại diện cho tất cả lĩnh
7
vực lưu thông phân phối và mua bán hàng hóa.
• Sách chuyên khảo “Giải pháp phát triển hệ thống phân phối liên kết dọc
các nhóm hàng lương thực thực phẩm” do PGS.TS. Lê Trịnh Minh Châu cùng tập
thể tác giả biên soạn, NXB Thế giới phát hành năm 2006. Trong đó đã đề xuất một
số giải pháp vĩ mô, nâng cao vai trò của chính phủ để phát triển hệ thống phân phối
liên kết dọc bao gồm cả khâu bán lẻ nhưng chỉ giới hạn vào nhóm hàng lương thực,
thực phẩm.
• Đề tài cấp Bộ “ Một số giải pháp phát triển hệ thống siêu thị trên địa bàn
Hà nội” do trường Đại học Thương mại chủ trì thực hiện năm 2006, PGS.TS Trần
Hùng làm chủ nhiệm. Trong đó, chỉ đề cập đến các giải pháp trung mô để phát triển
siêu thị ở Hà Nội, chưa nghiên cứu chính sách, cơ chế quản lý siêu thị trên địa bàn
cả nước.
• Đề tài cấp Bộ “ Nghiên cứu dịch vụ bán buôn, bán lẻ của một số nước và
khả năng vận dụng vào Việt Nam” do Viện Nghiên cứu thương mại chủ trì thực
hiện năm 2007, TS. Nguyễn Thị Nhiễu làm chủ nhiệm. Trong đó, chủ yếu giới thiệu
các mô hình kinh doanh bán lẻ của một số tập đoàn phân phối nước ngoài và các
định chế pháp lý để quản lý chưa đi sâu nghiên cứu kinh nghiệm về hoạch định cơ
chế, chính sách của Chính phủ các nước để quản lý quá trình phát triển dịch vụ bán
buôn, bán lẻ nhằm rút ra bài học hữu ích cho Chính phủ Việt Nam.
• Dự án cấp Bộ “ Điều tra đánh giá thực trạng doanh nghiệp bán lẻ nhỏ và vừa
trong nước” do Viện Nghiên cứu thương mại chủ trì băm 2007 do PGS.TS. Nguyễn

Văn Nam là chủ nhiệm dự án. Trong đó chủ yếu thu thập thông tin về thương nhân và
chính sách phát triển thương nhân, chưa đề cập đến các vấn đề về cơ chế, chính sách
đối với toàn bộ lĩnh vực bán lẻ ở trong nước.
• Đề tài cấp Bộ “Giải pháp phát triển hộ kinh doanh thương mại thích ứng
với điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế” do Viện Nghiên cứu
thương mại Chủ trì thực hiện năm 2008, ThS. Nguyễn Thị Thanh Hà là chủ nhiệm
trong đó mới chỉ đề cập đến giải pháp phát triển hộ kinh doanh bán lẻ từ góc độ
chính sách thương nhân, chưa đề ra chính sách phát triển thương nhân trong lĩnh
vực bán lẻ.
• Đề tài cấp Bộ “Nghiên cứu kinh nghiệm các nước về tập đoàn bán lẻ và bài
8
học cho Việt Nam" do Viện Nghiên cứu thương mại chủ trì năm 2008, TS. Nguyễn
Văn Long làm chủ nhiệm. Trong đó, chủ yếu giới thiệu một số mô hình tập đoàn phân
phối bán lẻ lớn của nước ngoài, chưa nghiên cứu kinh nghiệm của Chính phủ các nước
về chính sách và cơ chế quản lý sự phát triển của thương nhân trong lĩnh vực phân phối
bán lẻ để rút ra bài học cho Việt Nam
• Luận văn Thạc sỹ kinh tế “ Phát triển hệ thống phân phối bán lẻ của Tổng
công ty thương mại Hà Nội” của Nguyễn Văn Tuấn thực hiện tại Trường Đại học
kinh tế quốc dân năm 2008. Trong đó chỉ đề cập đến quản lý hệ thống bán lẻ ở cấp
độ vi mô, chưa đề cập quản lý phân phối bán lẻ ở cấp độ vĩ mô.
• Luận án Tiến sỹ kinh tế “Giải pháp phát triển các loại hình tổ chức bán lẻ
văn minh, hiện đại ở Việt Nam” của Phạm Hữu Thìn thực hiện tại Viện Nghiên cứu
thương mại năm 2008. Trong đó, chỉ đề cập đến quản lý nhà nước đối với Siêu thị,
trung tâm thương mại, cửa hàng tiện lợi. Chưa đi sâu đề xuất hoàn thiện cơ chế,
chính sách quản lý lĩnh vực dịch vụ phân phối bán lẻ.
• Đề tài cấp Bộ “Hoàn thiện môi trường kinh doanh nhằm phát triển dịch vụ
bán buôn, bán lẻ của Việt Nam” do Viện Nghiên cứu thương mại chủ trì thực hiện
năm 2009, TS. Từ Thanh Thủy làm chủ nhiệm. Trong đó, đã nghiên cứu tổng quan
về dịch vụ bán buôn, buôn lẻ ở Việt Nam, đánh giá thực trạng và đề xuất hoàn thiện
môi trường kinh doanh cho lĩnh vực dịch vụ này theo một số tiêu chí chủ yếu từ góc

độ thuận lợi hóa thương mại cho thương nhân, chưa đi sâu nghiên cứu dịch vụ bán
lẻ từ các góc độ cơ cấu dịch vụ phân phối bán lẻ, chính sách mặt hàng, chính sách
và cơ chế quản lý giá cả, quản lý thị trường theo địa bàn lãnh thổ và các thiết chế
quản lý đối với lĩnh vực dịch vụ phân phối bán lẻ.
• Đề tài cấp Bộ “Nghiên cứu giải pháp phát triển thị trường bán lẻ hàng tiêu
dùng ở nông thôn Việt Nam thời kỳ 2010-2020” do Viện Nghiên cứu thương mại
chủ trì thực hiện năm 2010, CN. Phạm Hồng Tú làm chủ nhiệm. Trong đó, chủ yếu
đi sâu nghiên cứu về thị trường bán lẻ hàng tiêu dùng ở nông thôn Việt Nam từ góc
độ cấu trúc thị trường và thương mại, chưa đi sâu nghiên cứu từ góc độ quản lý nhà
nước đối với sự phát triển dịch vụ phân phối bán lẻ ở thị trường nông thôn.
• Đề tài cấp Bộ “Kinh doanh bán lẻ trên mạng” do Viện nghiên cứu thương
mại chủ trì thực hiện năm 2009, Nguyễn Thị Thanh Hà làm chủ nhiệm. Trong đó đã
đề cập đến môi trường pháp lý cho kinh doanh bán lẻ trên mạng, nhưng chưa
9
nghiên cứ để xuất cơ chế, chính sách cụ thể để quản lý sự phát triển kinh doanh bán
lẻ trên mạng nói riêng, quản lý sự phát triển hệ thống phân phối bán lẻ nói chung.
• Đề tài cấp Bộ “Đánh giá chiến lược đối với quy hoạch tổng thể phát triển
thương mại Việt Nam giai đoạn 2009-2015, định hướng đến 2025” do Viện nghiên
cứu thương mại chủ trì thực hiện năm 2009, PGS.TS. Nguyễn Văn Lịch làm chủ
nhiệm. Trong đó đã từ góc độ môi trường chiến lược để xác định luận cứ cho các
phương án quy hoạch phát triển thương mại, dự báo khả năng tác động của việc
thực hiện quy hoạch phát triển thương mại và đề xuất giải pháp hoàn thiện môi
trường chiến lược cho việc thực hiện các phương án quy hoạch phát triển thương
mại, chưa đi sâu nghiên cứu đề xuất cơ chế, chính sách cho phát triển dịch vụ phân
phối bán lẻ hàng hóa.
• Đề tài cấp Bộ “Giải pháp tiếp tục hoàn thiện môi trường kinh doanh của
Việt Nam” do Viện nghiên cứu thương mại chủ trì thực hiện năm 2010, TS. Nguyễn
Thị Nhiễu làm chủ nhiệm. Trong đó, đã nghiên cứu tương đối toàn diện về thể chế
môi trường kinh doanh trên tất cả các lĩnh vực kinh tế ở Việt Nam từ góc độ tự do
hóa kinh tế, thuận lợi hóa kinh doanh, thuận lợi hóa thương mại nhưng chưa đi sâu

nghiên cứu thể chế môi trường kinh doanh dịch vụ phân phối bán lẻ hàng hóa để đề
ra các giải pháp cụ thể về hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý sự phát triển lĩnh
vực dịch vụ phân phối bán lẻ.
• Đề tài cấp Bộ “Nghiên cứu xây dựng chỉ số mức độ hài lòng của khách
hàng đối với doanh nghiệp thương mại Việt Nam” do Viện Nghiên cứu thương
mại chủ trì thực hiện năm 2010, ThS. Lê Huy Khôi làm chủ nhiệm. Trong đó,
chủ yếu nghiên cứu đánh giá cảm nhận của khách hàng đối với doanh nghiệp
thương mại, trong đó có người tiêu dùng đối với doanh nghiệp bán lẻ, chưa
nghiên cứu mối quan hệ giữa nhà nước – nhà bán lẻ - người tiêu dùng.
• Nhiệm vụ nhà nước về bảo vệ môi trường “Điều tra, khảo sát tình hình
quản lý môi trường tại Chợ của Việt Nam; xây dựng dự thảo quy chế bảo vệ môi
trường của các loại hình và cấp độ chợ” do Viện nghiên cứu thương mại chủ trì
thực hiện năm 2010. KS. Doãn Công Khánh làm chủ nhiệm. Trong đó, đã thu thập
thông tin và đánh giá tình hình môi trường chợ từ góc độ phát triển thương mại bền
vững, chưa nghiên cứu cơ chế, chính sách phát triển chợ và các loại hình kinh
doanh bán lẻ khác.
10
- Một số dự án, đề án nghiên cứu từ góc độ quản lý nhà nước đối với lĩnh vực
phân phối hàng hóa trong quá trình hội nhập quốc tế ở Việt Nam
• Đề án nghiên cứu “Phát triển thương mại trong nước đến năm 2010 và
định hướng đến năm 2020” do Vụ chính sách thị trường trong nước (Bộ thương
mại) chủ trì thực hiện năm 2007 (Sau đó được thủ tướng chính phủ phê duyệt tại
Nghị quyết số 27/2007/QĐ-TTg). Trong đó, đã nghiên cứu đề ra định hướng tổng
thể phát triển thương mại trong nước, quản lý thương mại trong nước, bao gồm cả
quản lý sự phát triển của thương mại bán lẻ nhưng chưa đi sâu nghiên cứu đề ra cơ
chế, chính sách cụ thể về quản lý dịch vụ phân phối bán lẻ cùng các thiết chế quản
lý cụ thể để điều tiết hoạt động của thương nhân, điều tiết tương quan giữa phát
triển các loại hình bán lẻ truyền thống với các loại hình bán lẻ hiện đại.
• Dự án nghiên cứu “Quy hoạch tổng thể phát triển thương mại Việt Nam
giai đoạn 2011 – 2020 và định hướng đến năm 2030” do Viện nghiên cứu thương

mại chủ trì thực hiện năm 2010, PGS.TS. Nguyễn Văn Lịch làm chủ nhiệm được
phê duyệt tại Quyết định số 3098/QĐ-BCT ngày 24/06/2011 của Bộ trưởng Bộ
Công Thương.
• Dự án “Nghiên cứu xây dựng khung khổ pháp lý cho hệ thống phân phối”
do Bộ thương mại và GTZ phối hợp chủ trì thực hiện năm 2005. Trong đó đã xây
dựng một số chuyên đề nghiên cứu.
 Môi trường pháp lý cho phát triển dịch vụ phân phối ở Việt Nam (tháng
11/2005)
 Thực trạng và phương hướng hoàn chỉnh các văn bản pháp luật và kinh
doanh hàng hóa – dịch vụ trong nước (tháng 12/2005)
 Đánh giá thực trạng tổ chức phân phối hàng hóa ở Việt Nam hiện nay
(tháng 12/2005)
Các chuyên đề nghiên cứu này chủ yếu đề cập đến khía cạnh pháp lý và môi
trường pháp lý cho hoạt động phân phối trong đó có dịch vụ phân phối bán lẻ ở Việt
Nam, chưa đi sâu nghiên cứu về cơ chế, chính sách quản lý sự phát triển DVPPBL
ở Việt nam
• Đề án Nghiên cứu “Chiến lược tổng thể phát triển khu vực dịch vụ của Việt
Nam đến năm 2020” do Bộ Kế hoạch và đầu tư chủ trì thực hiện. Trong đó, có đề
11
cập đến phát triển dịch vụ phân phối ở góc độ chiến lược khung chưa có cơ chế
chính sách cụ thể.
- Một số bài báo khoa học công bố trên các kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia:
 Tập tài liệu Hội thảo quốc gia “Việt Nam- WTO: mở cửa thị trường trong
lĩnh vực dịch vụ phân phối – bán lẻ” do Hiệp hội các nhà bán lẻ Việt Nam và Ủy ban
quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế phối hợp tổ chức thực hiện tại Hà Nội năm 2008
 Tập tài liệu hội thảo quốc gia “Việt Nam 20 năm đổi mới” do Bộ Thương
mại và Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đồng tổ chức tại Hà Nội năm 2007
2.2. Tình hình nghiên cứu đề tài ở nước ngoài
Đến nay, trên thế giới đã có khá nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến
dịch vụ bán lẻ nhưng có rất ít công trình nghiên cứu liên quan đến cơ chế, chính

sách phát triển dịch vụ phân phối bán lẻ. Một số công trình tiêu biểu là
- Các công trình nghiên cứu liên quan đến phát triển dịch vụ phân phối bán lẻ
• American Heritage , Dictionary of the English language, Fourth Edition
Copyright 2000 by Houghton Mifflin Company. Updated in 2003. Published by
Houghton Mifflin Company. Theo từ điển Tiếng Anh này của Hoa kỳ thì bán lẻ
được định nghĩa “Bán lẻ là bán hàng cho người tiêu dùng, thường là với khối lượng
nhỏ và không bán lại”
• Francis Kwong (2002) A retail – Led distribution Model (Mô hình bán lẻ
hàng đầu), China Resourcer Enterprise Ltd.
• AT Kearney, “Những cánh cửa hy vọng cho bán lẻ toàn cầu – chỉ số phát
triển bán lẻ toàn cầu 2009” AT Kearney 2009
• Tạp chí phố Wall (Mỹ) và quỹ Heritage: Index of Economic Freedom –
IEF (chỉ số tự do kinh tế)
• Harvard University and WEF:”Chỉ số thuận lợi thương mại”
- Các công trình nghiên cứu liên quan đến quản lý nhà nước đối với lĩnh vực
dịch vụ phân phối bán lẻ
 L.T Abankin “Phép biện chứng của kinh tế xã hội chủ nghĩa” Nhà xuất
bản Tư tưởng (Tiếng Nga), Matxcơva 1981. Theo tác giả: Cơ chế kinh tế xuất hiện
12
như là phân hệ của quan hệ sản xuất được hợp thức hóa nhất định, hơn nữa còn là
lớp bên ngoài (trên bề mặt) của quan hệ sản xuất được phân bổ trong lĩnh vực hoạt
động và các mối liên hệ kinh tế cụ thể . Cơ chế quản lý kinh tế là một hệ thống đặc
biệt, hoàn chỉnh bao gồm khâu cơ cấu và những nhân tố riêng biệt tương đối độc lập
nhưng đồng thời cũng tác động lẫn nhau một cách chặt chẽ. Chẳng hạn như kế
hoạch hóa, hạch toán kinh tế, kích thích hình thành giá cả. Cơ chế quản lý kinh tế có
một cơ cấu quản lý phức tạp với những mặt cắt cơ bản; 1) Những bộ phận cơ cấu cơ
bản của cơ chế kinh tế (kế hoạch hóa, tổ chức tiền lương, kích thích, hạch toán kinh
tế, hình thành giá cả…); 2) Cơ cấu chức năng của cơ chế quản lý kinh tế nói lên
phương thức tác động của nó đến việc thực hiện chức năng kinh tế quan trọng nhất:
phối hợp sản xuất với tiêu dùng, đảm bảo tính cân đối trong nền kinh tế quốc dân,

quản lý toàn bộ khoa học – kỹ thuật, tiết kiệm các nguồn lao động, vật tư và tài
nguyên thiên nhiên, nâng cao hiệu quả của nền kinh tế - xã hội, kết hợp các lợi ích
của xã hội với lợi ích của tập thể và lợi ích cá nhân.; 3) Cơ cấu theo cấp độ của cơ
chế quản lý kinh tế: các phương thức thực hiện chức năng chiến lược và chức năng
trước mắt của quản lý kinh tế, tác động lẫn nhau giữa cơ quan lãnh đạo với người
thực hiện, việc quản lý các cấp của nền kinh tế quốc dân, ở cấp ngành, vùng của
khâu kinh tế cơ sở và tổ chức các mối liên hệ giữa chúng, cùng các mối liên hệ kinh
tế theo chiều ngang giữa các ngành, các liên hiệp, giữa người sản xuất và người tiêu
dùng.; 4) Cơ cấu tổ chức của nền kinh tế quốc dân, trong phạm vi cơ chế kinh tế
được thực hiện, biểu hiện các quan điểm đã hình thành đối với việc xây dựng các cơ
quan quản lý kinh tế, hình thành việc quản lý theo ngành và theo lãnh thổ, hình
thành các tổ hợp kinh tế và các khâu kinh tế cơ sở.; 5) Những yếu tố xác định đặc
điểm hoạt động chủ yếu nhất và những phương thức cơ bản của sự phát triển cơ chế
kinh tế, sự tác động của nó đến việc thực hiện tất cả các quá trình sản xuất, tái sản
xuất mở rộng (bao hàm cả khâu phân phối, lưu thông hàng hóa), đến hiệu quả của
sự phát triển kinh tế theo chiều sâu, đến việc tăng phúc lợi của nhân dân, gắn liền
với việc thực hiện trong quá trình thực tiễn các nguyên tắc nền tảng của kinh tế xã
hội chủ nghĩa: nguyên tắc tập trung dân chủ, trả công theo lao động, phát triển nền
kinh tế một cách có kế hoạch, hạch toán kinh tế, gắn liền với việc bảo đảm sự kết
hợp lợi ích xã hội, lợi ích tập thể và lợi ích cá nhân. 6) Những hình thức cụ thể của
quan hệ sản xuất như: kế hoạch, tiêu chuẩn, định mức, đánh giá các nguồn lực về
mặt kinh tế, hạch toán kinh tế, giá cả, lợi nhuận, tiền lương, tài chính, tín dụng…
những hình thức cụ thể của quan hệ sản xuất này đồng thời là những phạm trù kinh
13
tế khách quan, những công cụ quản lý kinh tế, các đòn bẩy quản lý, những hình
thức vận động của quy luật kinh tế của Chủ nghĩa xã hội.
 Fels, Allan “Quản lý bán lẻ - bài học từ các quốc gia đang phát triển”,
Asia Pacific Business Review, quyển 15, số 1 năm 2009
 Mutebi, Alex M “Những thay đổi về quản lý đối với bán lẻ xuyên quốc gia
quy mô lớn ở các thành phố Đông Nam Á”, Nghiên cứu đô thị, số 44 kỳ 2 năm 2007

 Trương Tuệ Mẫn “Đại từ điển kinh tế thị trường” của Trung Quốc, trong
các nghiên cứu về lưu thông phân phối hàng hóa đã xác định 4 khâu cơ bản của quá
trình lưu thông hàng hóa từ sản xuất tới tiêu dùng (thu mua, vận tải, tồn trữ và tiêu
thụ). Trương Tuệ Mẫn không sử dụng khái niệm “hệ thống phân phối bán lẻ” mà
dùng khái niệm “mạng lưới thương nghiệp bán lẻ” là sự phân bố các hình thức tổ
chức thương nghiệp bán lẻ để bán hàng trực tiếp cho cư dân, cơ quan đoàn thể và xí
nghiệp công nghiệp ở thành thị và nông thôn, là mạng lưới thương nghiệp trực tiếp
phục vụ người tiêu dùng. Dựa theo hình thức phục vụ phân ra mạng lưới bán lẻ cố
định; phân theo quy mô có siêu thị, đại siêu thị, trung tâm thương mại, trung tâm
mua sắm, chợ, cửa hàng chuyên doanh, siêu thị chuyên doanh, cửa hàng tổng hợp,
siêu thị tổng hợp… Thể chế lưu thông hàng hóa gồm hai loại lớn là thể chế kinh
doanh và thể chế quản lý.
Như vậy, đến nay ở cả trong nước và ở nước ngoài chưa có công trình khoa
học nào đã công bố về đề tài Chính sách phát triển dịch vụ phân phối bán lẻ hàng
hóa ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế
3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài Luận án
3.1. Mục tiêu nghiên cứu: Xây dựng luận cứ Khoa học cho việc hoàn thiện
chính sách phát triển dịch vụ phân phối bán lẻ hàng hóa ở Việt Nam trong
điều kiện hội nhập quốc tế thời kỳ tới năm 2020
3.2. Nhiệm vụ của Luận án:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về hoàn thiện chính sách phát triển dịch vụ phân
phối bán lẻ hàng hóa trong bối cảnh hội nhập quốc tế
- Đánh giá thực trạng chính sách phát triển dịch vụ phân phối bán lẻ hàng hóa
ở Việt Nam hiện nay
- Đề xuất phương hướng, giải pháp chủ yếu hoàn thiện chính sách phát triển
14
dịch vụ phân phối bán lẻ hàng hóa thời kỳ tới năm 2020
4. Đối tượng và giới hạn phạm vi nghiên cứu đề tài Luận án
4.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận án là Chính sách phát triển dịch
vụ phân phối bán lẻ hàng hóa của Việt Nam trong thời kỳ hội nhập

4.2. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài Luận án
- Về nội dung: Tập trung nghiên cứu các chính sách tác động trực tiếp đến sự
phát triển dịch vụ phân phối bán lẻ ở Việt Nam nhue: Chính sách hội nhập và mở
cửa thị trường dịch vụ phân phối; Chính sách phát triển mặt hàng và thị trường bán
lẻ; Chính sách phát triển thương nhân bán lẻ, chính sách phát triển kết cấu hạ tầng
dịch vụ phân phối bán lẻ, Chính ách đào tạo phát triển nguồn nhân lực cho lĩnh vực
bán lẻ, Chính ách phát triển các loại hình kinh doanh dịch vụ phân phối bán lẻ,
Chính sách phát triển khách hàng và bảo vệ người tiêu dùng trong phát triển dịch vụ
phân phối bán lẻ
- Về không gian nghiên cứu: Dịch vụ phân phối bán lẻ của Việt Nam và nghiên
cứu kinh nghiệm hoàn thiện chính sách phát triển dịch vụ phân phối bán lẻ của một số
nước như (Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Nhật Bản, Hoa Kỳ)
- Về thời gian: Phân tích, đánh giá thực trạng Chính sách phát triển dịch vụ
phân phối bán lẻ từ khi Việt Nam thực hiện hội nhập quốc tế (sau năm 1995), trọng
tâm là sau năm 2000 và đề xuất hoàn thiện chính sách cho thời kỳ đến năm 2020.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu: Hệ thống hóa và khái quát
hóa, Logích- lịch sử, phân tích, tổng hợp, chứng minh, diễn dịch, quy nạp, thống kê
– so sánh. Đồng thời Nghiên cứu sinh cũng kết hợp hình thức nghiên cứu tại bàn
với kế thừa kết quả của một số dự án điều tra thực tiễn có liên quan đến dịch vụ
phân phối bán lẻ do Viện nghiên cứu thương mại chủ trì, thực hiện và một số cơ
quan trong và ngoài Bộ Công Thương cụ thể:
- Sử dụng phương pháp hệ thống hóa để kế thừa có chọn lọc các kết quả
nghiên cứu của các công trình Khoa học đã công bố về những nội dung liên quan
đến đề tài Luận án trên cơ sở đó sử dụng phương pháp khái quát hóa để rút ra
những vấn đề lý luận và thực tiễn có tính logích của đề tài đồng thời dùng phương
pháp tổng hợp để xây dựng các luận cứ khoa học có tính độc lập và rút ra các kết
15
luận khoa học của Luận án.
- Sử dụng phương pháp logích – lịch sử kết hợp với phân tích, chứng minh,

thống kê – so sánh và quy nạp để đánh giá tiến trình đổi mới chính sách của Nhà
nước ta đối với phân phối bán lẻ hàng hóa từ khi tiến hành hội nhập quốc tế đến
nay; phát hiện những khiếm khuyết cần điều chỉnh, bổ sung hoàn thiện chính sách
phát triển dịch vụ phân phối bán lẻ hàng hóa của Việt Nam trong thời kỳ tới.
- Phương pháp thống kê – so sánh và diễn dịch được sử dụng chủ yếu kết hợp
với phương pháp phân tích chứng minh để làm rõ những tác động của chính sách
của Nhà nước đối với sự phát triển của dịch vụ phân phối bán lẻ nói chung, các loại
hình kinh doanh dịch vụ phân phối bán lẻ hiện đại trong tương quan với các loại
hình bán lẻ truyền thống, các hệ thống phân phối của các nhà bán lẻ nước ngoài với
hệ thống phân phối của các nhà bán lẻ Việt Nam trên thị trường trong nước.
- Sử dụng kết quả điều tra, khảo sát của một số dự án điều tra về thương nhân, về
lĩnh vực phân phối và tiêu dùng ở Việt Nam đã được các tổ chức trong và ngoài nước
Công bố, trước hết là các dự án điều tra do Viện Nghiên cứu thương mại thực hiện.
6. Những đóng góp mới về khoa học của Luận án
- Xác lập được khung khổ lý thuyết cơ bản về hoàn thiện chính sách phát triển
dịch vụ phân phối bán lẻ hàng hóa ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập
- Tổng kết thực tiễn quá trình đổi mới chính sách của nhà nước ta đối với lĩnh
vực dịch vụ phân phối bán lẻ sau khi hội nhập quốc tế (1995) một cách toàn diện, có
tình hệ thống để từ đó rút ra các nhận định khoa học và một số bài học kinh nghiệm
cho thời kỳ tới.
- Đề xuất được khuôn khổ tổng thể về hoàn thiện chính sách phát triển dịch vụ
phân phối bán lẻ hàng hóa ở Việt Nam thời kỳ đến năm 2020, từ quan điểm,
phương hướng đến các chính sách cụ thể như: Chính sách hội nhập quốc tế và mở
cửa thị trường dịch vụ phân phối, Chính sách phát triển mặt hàng và thị trường dịch
vụ phân phối bán lẻ, Chính sách phát triển thương nhân bán lẻ, Chính sách phát
triển kết cấu hạ tầng dịch vụ phân phối bán lẻ, Chính sách đào tạo và phát triển
nguồn nhân lực cho lĩnh vực dịch vụ phân phối bán lẻ, Chính sách phát triển các
loại hình kinh doanh dịch vụ phân phối bán lẻ, Chính sách phát triển khách hàng
dịch vụ phân phối bán lẻ và chính sách bảo vệ người tiêu dùng trong phát triển dịch
16

vụ phân phối bán lẻ.
- Kiến nghị các biện pháp tổ chức thực hiện và hoàn thiện và thực thi chính
sách phát triển DVPPBL với các cơ quan quản lý Nhà nước.
7. Kết cấu nội dung Luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục chữ viết
tắt, danh mục bảng, biểu đồ, hình vẽ và phụ lục, nội dung Luận án kết cấu thành 3
chương
Chương 1: Cơ sở lý luận về hoàn thiện chính sách phát triển dịch vụ phân
phối bán lẻ trong điều kiện hội nhập quốc tế
Chương 2: Thực trạng chính sách phát triển dịch vụ phân phối bán lẻ
trong quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam
Chương 3: Phương hướng và biện pháp hoàn thiện chính sách phát triển
dịch vụ phân phối bán lẻ hàng hóa ở Việt Nam thời kỳ tới
năm 2020
17
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOÀN THIỆN
CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ PHÂN PHỐI BÁN LẺ
TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ
1.1. Tổng quan về dịch vụ phân phối bán lẻ trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội
nhập quốc tế
1.1.1. Khái niệm và phân loại dịch vụ phân phối bán lẻ
1.1.1.1. Khái niệm về dịch vụ phân phối bán lẻ
Hoạt động phân phối bán lẻ hàng hoá thuộc lĩnh vực lưu thông, trao đổi hàng
hoá. Lưu thông hàng hoá là chỉ quá trình chuyển dịch hàng hoá từ khu vực sản xuất
đến khu vực tiêu thụ. Đây là một quá trình vô cùng phức tạp, trong quá trình này có
ba nhân tố tham gia: Người sản xuất, người phân phối và người tiêu thụ. Trong
vòng quay lưu thông hàng hoá, hoạt động phân phối được thực hiện trong suốt quá
trình hàng hoá được chuyển từ khu vực sản xuất sang khu vực tiêu dùng. Trong điều
kiện xã hội hoá sản xuất và lưu thông hàng hoá ngày càng phát triển, hàng hoá từ

sản xuất tới tiêu dùng thường phải qua 4 khâu chủ yếu: Khâu thu mua, khâu vận tải,
khâu tồn giữ, khâu tiêu thụ. Nếu như thông qua khâu thu mua, sản phẩm của người
sản xuất chuyển thành hàng hoá và thoát ly khỏi khu vực sản xuất đi vào lĩnh vực
lưu thông, thì ở khâu tiêu thụ, hàng hoá được chuyển từ lĩnh vực lưu thông vào lĩnh
vực tiêu dùng; đó là cách thức để thoả mãn nhu cầu của sản xuất và cũng là điều
kiện tất yếu của sản xuất hàng hoá.
Trong các nền kinh tế thị trường hiện đại, lĩnh vực phân phối là sự kết nối
sống còn giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng. Hoạt động của lĩnh vực này ảnh
hưởng mạnh mẽ tới lợi ích của người tiêu dùng. Hiệu quả và tính cạnh tranh tăng
trong hệ thống phân phối có thể dẫn đến việc giảm giá, đặc biệt khi chiết khấu phân
phối chiếm phần đáng kể trong giá bán của các sản phẩm cuối cùng, và giảm được
sự méo mó trong cơ cấu giá. Hơn nữa, việc cung cấp sản phẩm cũng ngày càng
18
phong phú, đáp ứng nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng. Tuy nhiên, lĩnh vực phân
phối không chỉ đơn thuần là người giao hàng hay chỉ có một vai trò duy nhất. Hoạt
động phân phối còn cung cấp cho người tiêu dùng một loạt các dịch vụ bổ sung (địa
điểm thuận lợi, đảm bảo về giao hàng, các thông tin và môi trường kinh doanh) là
những dịch vụ giúp cho sự lựa chọn chính xác hơn, và tăng thêm sự thuận tiện hơn
khi mua hàng. Đồng thời, nó cũng cung cấp cho nhà sản xuất nhiều thông tin cần
thiết để điều chỉnh những quyết định của họ theo nhu cầu của người tiêu dùng. Sự
thất bại của ngành phân phối trong việc thực hiện đầy đủ vai trò của mình có thể
dẫn tới những sai lệch lớn trong việc phân bổ nguồn lực và thiệt hại về kinh tế, như
đã xảy ra ở nhiều nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung.
Việc thừa nhận rằng chính sự cạnh tranh ngày càng tăng, cả ở thị trường trong
và ngoài nước, có thể cải thiện hoạt động của lĩnh vực phân phối sẽ đưa đến việc
giảm bớt các qui định và tăng cường tự do hoá trong lĩnh vực này. Đồng thời, phạm
vi của lĩnh vực phân phối trong thương mại quốc tế đã được phát triển nhanh chóng
thông qua việc mở rộng đầu tư trực tiếp nước ngoài và việc phát triển các công nghệ
mới, đặc biệt là công nghệ thông tin. Các cuộc đàm phán về dịch vụ phân phối của
vòng Urugoay đã phản ánh cố gắng đầu tiên để củng cố xu hướng mở cửa thị

trường này và tạo thuận lợi cho quá trình từng bước tự do hoá. Tuy nhiên, người ta
vẫn còn hoài nghi rằng vẫn còn những khoảng cách đáng kể cần tiếp tục tự do hoá
và chuyển thành các cam kết đa phương. [42;1-5]
Hoạt động phân phối hàng hoá mang bản chất của hoạt động dịch vụ. Nó là
hoạt động lao động có tính chất phục vụ và mang tính xã hội của con người để tạo
ra những sản phẩm có giá trị và giá trị sử dụng, đóng góp trực tiếp hoặc gián tiếp
vào việc thoả mãn nhu cầu sản xuất hay đời sống của con người và là một thực thể
quan trọng cấu tạo nên GDP của nền kinh tế quốc dân.
Trong Danh mục Phân loại Các ngành dịch vụ, tài liệu mã số MTN.GNS/W/120
(W/120) (trong khuôn khổ của WTO) được xây dựng trong Vòng Uruguay và phần
lớn dựa trên Danh mục Phân loại tạm thời các sản phẩm chính của Liên Hiệp Quốc
(CPC), lĩnh vực dịch vụ phân phối được định nghĩa bao gồm bốn nhóm dịch vụ
chính: Dịch vụ đại lý uỷ quyền, dịch vụ bán buôn, dịch vụ bán lẻ và nhượng quyền
19
(franchising). Các đại lý uỷ quyền khác với những nhóm còn lại ở chỗ họ tiến hành
giao dịch thay mặt cho người khác, ví dụ họ bán những mặt hàng được cung cấp và
thông thường những hàng này thuộc sở hữu của người khác cho những người bán
buôn, bán lẻ hoặc các cá nhân. Dịch vụ bán buôn bao gồm việc bán hàng cho những
người bán lẻ, những doanh nghiệp sử dụng của các ngành công nghiệp, thương mại,
các tổ chức hoặc các đơn vị chuyên môn, hoặc cho những người bán buôn khác.
Những người bán lẻ bán hàng phục vụ mục đích tiêu dùng cá nhân hoặc hộ gia đình.
Những người nhượng quyền bán một số quyền và ưu đãi cụ thể, ví dụ như quyền sử
dụng một mô hình bán lẻ cụ thể hoặc một thương hiệu.
Danh mục CPC xác định rằng “Dịch vụ chính do các nhà bán buôn và bán lẻ
thực hiện là bán lại hàng hoá, kèm theo hàng loạt các dịch vụ phụ trợ có liên quan
khác, như: Bảo quản lưu kho hàng hoá; lắp rắp, sắp xếp và phân loại đối với hàng
hoá khối lượng lớn, bốc dỡ và phân phối lại đối với hàng hoá khối lượng nhỏ; dịch
vụ giao hàng; dịch vụ bảo quản lạnh; các dịch vụ khuyến mãi do những người bán
buôn thực hiện; và các dịch vụ liên quan đến việc kinh doanh của người bán lẻ như
chế biến phục vụ cho bán hàng, dịch vụ kho hàng và bãi đỗ xe”. [42;2]

Trong thực tế, sự phân phối giữa các nhóm nhà phân phối có thể không rõ
ràng. Nhiều doanh nghiệp thực hiện một vài chức năng, hoặc nhà sản xuất cũng
có thể tự mình thực hiện chức năng phân phối. Hơn nữa, định nghĩa về dịch vụ
phân phối có thể chưa thực sự phản ánh đầy đủ vai trò ngày càng rộng của nhiều
doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này. Ví dụ, sự thay đổi trong lĩnh vực sản
xuất hướng tới các kỹ thuật sản xuất được kiểm soát chặt chẽ đã khiến hệ thống
phân phối trở nên phức tạp. Bên cạnh những hoạt động mà danh mục CPC phần
nào đã tiên lượng trước như bảo quản lưu kho, quảng cáo và đóng gói, các nhà
phân phối phải thực hiện thêm một số chức năng như đặt cọc trước, kiểm soát và
quản lý chất lượng.
20
Sơ đồ 1.1. Các kênh lưu thông hàng hoá và các cấp trung gian
thương mại trong nền kinh tế thị trường [57;5]
- “Bán buôn” theo cơ quan Thống kê của Liên Hợp quốc (UNSTATS) là việc
bán lại (bán mà không có chế biến) hàng mới và hàng đã qua sử dụng, cho các nhà
bán lẻ, các nhà công nghiệp, thương mại, các đối tượng sử dụng chuyên nghiệp, hay
các tổ chức, hay các nhà buôn khác, gồm cả các đại lý và môi giới mua hoặc bán
hàng cho các đối tượng kể trên. Theo Từ điển kinh tế thị trường( tra cứu trực tuyến)
thì bán buôn được định nghĩa là hình thức “bán hàng của người sở hữu hàng hoá
cho người sản xuất để chế biến ra sản phẩm hoàn chỉnh hoặc chế biến lại nhằm
nâng cao phẩm chất, phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng, hoặc bán cho
thương nhân khác để bán lẻ cho người tiêu dùng”. Trong lĩnh vực bán buôn, hàng
hoá chưa đi vào lĩnh vực tiêu dùng cá nhân mà còn nằm trong lĩnh vực lưu thông
hoặc đi vào một quá trình sản xuất mới để trở lại lưu thông dưới hình thái hàng hoá
khác. Hoạt động bán buôn là một công đoạn của quá trình lưu thông hàng hoá và
thường chi phối công đoạn bán lẻ. Bán buôn thường thực hiện với số lượng lớn và
giá cả thấp hơn giá bán lẻ, tức là giá trị đầy đủ của hàng hoá. Người bán buôn
không phải là người trực tiếp sản xuất ra sản phẩm hay sở hữu sản phẩm. Người bán
21
Người sản

xuất/
Nhập khẩu
Người
tiêu dùng
Nguời sản
xuất/
Nhập khẩu
Người
bán lẻ
Người
tiêu dùng
Nguời sản
xuất/
Nhập khẩu
Nguời
bán buôn
Người
bán lẻ
Nguời
tiêu dùng
Kênh
trực
tiếp
Kênh
ngắn
Kênh
trung
bình
Kênh
dài

Người
sản xuất/
Nhập
khẩu
Đại lý,
môi
giới
Người
bán
buôn
Người
bán lẻ
Người
tiêu
dùng
buôn đóng vai trò trung gian trong việc chuyển hàng hoá từ người sản xuất đến
người bán lẻ.
- “Bán lẻ” theo từ điển kinh tế thị trường(tra cứu trực tuyến) là hình thức “bán
hàng trực tiếp cho người tiêu dùng nhằm thoả mãn nhu cầu cá nhân của họ, từ đây
hàng hoá kết thúc quá trình lưu thông và đi vào lĩnh vực tiêu dùng cá nhân; giá trị
hàng hoá được thực hiện đầy đủ”.
Ngoài ra còn có khá nhiều định nghĩa khác nhau về bán lẻ:
 Theo Đại từ điển Tiếng Việt, bán lẻ là hình thức “bán từng cái, từng ít một
trực tiếp cho người tiêu dùng”. [25;95]
 Theo danh mục phân loại ngành dịch vụ của tài liệu số TN.GNS/W/120
(W/120) của vòng đàm phán Uruguay của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và
danh mục sản phẩm chính tạm thời của Liên Hợp quốc (CPC) định nghĩa: “Bán lẻ
là hoạt động bán hàng hoá cho người tiêu dùng hoặc các hộ tiêu dùng từ một địa
điểm cố định (cửa hàng, kiốt) hay một địa điểm khác (bán trực tiếp) và các dịch vụ
phụ liên quan”. [42;2]

 Trong cuốn sách “Quản trị Marketing” Philip Kotler đã định nghĩa bán lẻ
như sau: “Bán lẻ bao gồm tất cả những hoạt động liên quan đến việc bán hàng hoá
hay dịch vụ trực tiếp cho người tiêu dùng cuối cùng để họ sử dụng vào mục đích cá
nhân, không kinh doanh”. [43;628]
 Từ điển Bách khoa toàn thư mở Wikipedia đưa ra định nghĩa: “Bán lẻ bao gồm
việc bán hàng cho cá nhân hoặc hộ gia đình để họ tiêu dùng, tại một địa điểm cố định,
hoặc không tại một địa điểm cố định mà qua các dịch vụ liên quan”.
Như vậy, mặc dù có thể định nghĩa bán lẻ theo nhiều cách khác nhau nhưng tất
cả đều thể hiện một đặc điểm chung của bán lẻ đó là việc đưa hàng hoá đến tay
người tiêu dùng cuối cùng (Tiêu dùng trong sản xuất và tiêu dùng của cá nhân hay
gia đình). Nghĩa là, bán lẻ là công đoạn cuối cùng trong khâu lưu thông để sản
phẩm đến với người tiêu dùng. Lĩnh vực thương mại bán lẻ, bao gồm những cơ sở
kinh doanh bán lẻ hàng hoá và cung cấp các dịch vụ hỗ trợ cho bán hàng; gồm hai
loại nhà bán lẻ chính là các nhà bán lẻ qua chợ, cửa hàng, và các nhà bán lẻ không
qua cửa hàng.
- Cơ sở bán lẻ là các hình thức tổ chức kinh doanh dịch vụ bán lẻ cố định với
cac loại hình doanh nghiệp thương mại bán lẻ hoặc điểm bán lẻ được phân loại chủ
yếu theo ngành hàng, mặt hàng, mức giá, phương thức phục vụ, diện tích kinh
doanh, địa điểm gắn với các không gian lãnh thổ, khu vực địa lý cụ thể. Các loại
22

×