Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

Phát triển các dịch vụ ngân hàng thương mại Việt Nam trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (413.1 KB, 67 trang )

-1-

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thế giới đang bước vào kỷ nguyên của hội nhập kinh tế và xu hướng tồn cầu
hố diễn ra rộng khắp. Trong nền kinh tế tồn cầu hố, các yếu tố của quá trình tái sản
xuất hàng hố và dịch vụ được dịch chuyển tự do hơn từ nước này sang nước khác,
thông qua các cam kết mở cửa thị trường.
Quá trình tồn cầu hóa là q trình chứa đựng nhiều mâu thuẫn, có sự xung đột
lợi ích giữa các nước, các nhóm nước và là một quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh
nhằm thiết lập một trật tự kinh tế thế giới hợp lý hơn, công bằng hơn. Khi gia nhập
vào các tổ chức thương mại trong khu vực và trên thế giới, mỗi quốc gia đều có
những mục đích riêng, nhưng nhìn chung thì các nước đều muốn hướng tới một nền
kinh tế phát triển, một xã hội văn minh, hiện đại, đời sống xã hội được cải thiện. Do
đó tồn cầu hố vẫn tiến về phía trước, như một tất yếu khách quan. Từ thực tế này,
một câu hỏi được đặt ra trong chính sách thương mại và đầu tư của mỗi quốc gia là
tham gia vào tiến trình tồn cầu hố hay đứng ngồi tiến trình ấy? Tham gia vào tiến
trình tồn cầu hố, tiến cùng thời đại tuy thách thức là rất lớn, nhưng cơ hội cũng rất
nhiều. Khơng tham gia vào tiến trình ấy, trở thành người ngồi cuộc sẽ bị phân biệt
đối xử trong tiếp cận thị trường về hàng hố, dịch vụ và đầu tư.
Tồn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra trên nhiều lĩnh vực như : trao
đổi hàng hóa, dịch vụ, chuyển giao cơng nghệ giữa các quốc gia và khu vực, lưu
chuyển vốn quốc tế,… tạo điều kiện cho các quốc gia có thể hợp tác, trao đổi kinh
nghiệm, kỹ thuật công nghệ,… trong hoạt động kinh doanh.
Việt Nam đã có những chủ động và đang từng bước tham gia vào quá trình hội
nhập quốc tế. Trong lĩnh vực ngân hàng, hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo ra động lực
thúc đẩy công cuộc đổi mới của hệ thống ngân hàng Việt Nam, tạo điều kiện trao đổi
kinh nghiệm về vốn, kinh nghiệm quản lý, công nghệ, hoạch định chính sách tiền tệ,
… Từ đó có giải pháp phòng ngừa hoặc giảm thiểu rủi ro, nâng cao hiệu quả kinh
doanh, nâng cao uy tín kinh doanh trên thị trường tài chính quốc tế . Trong lĩnh vực
ngân hàng, với chức năng và vai trò là kênh huy động và cung ứng vốn chủ yếu cho




-2-

nền kinh tế, các ngân hàng thương mại đã không ngừng mở rộng quy mô hoạt động
và đối tượng khách hàng thơng qua các quan hệ tín dụng tiền tệ và phát triển các hoạt
động dịch vụ ngân hàng khác.
Trong lịch sử ngành ngân hàng, chưa có thời điểm nào các ngân hàng thương
mại lại phát triển mạnh như hiện nay. Ngồi 5 ngân hàng thương mại Nhà nước, cịn
có 37 ngân hàng thương mại cổ phần, 13 công ty tài chính, 26 chi nhánh ngân hàng
nước ngồi, 4 ngân hàng liên doanh và một hệ thống cả ngàn quỹ tín dụng nhân dân từ
trung ương đến cơ sở.
Để có thể nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh trong q trình hội nhập
kinh tế quốc tế, địi hỏi các ngân hàng thương mại Việt Nam phải từng bước chuyên
môn hóa sâu hơn các nghiệp vụ ngân hàng, nâng cao hiệu quả sử dụng đồng vốn,
nhanh chóng tiếp cận và phát triển các hình thức dịch vụ ngân hàng hiện đại, đào tạo
và đào tạo lại đội ngũ cán bộ ngân hàng nhằm nâng cao trình độ chun mơn nghiệp
vụ, có khả năng đáp ứng được yêu cầu phát triển của ngành ngân hàng trong nền kinh
tế hiện đại. Hơn bất cứ ngành nào, lĩnh vực ngân hàng cần phải tăng tốc nâng cao
năng lực cạnh tranh. Tuy nhiên, sự lớn mạnh này vẫn chưa đủ trong cuộc cạnh tranh
với ngân hàng khu vực và trên thế giới. Dịch vụ ngân hàng được dự báo là lĩnh vực
cạnh tranh khốc liệt khi vòng bảo hộ cho ngân hàng thương mại trong nước khơng
cịn.
Xuất phát từ u cầu của hội nhập, một trong những giải pháp để nâng cao
năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại Việt Nam là “ Phát triển các
dịch vụ ngân hàng thương mại Việt Nam trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế ”
chính là lý do mà tơi chọn đề tài này.
2. Xác định vấn đề
Hệ thống ngành ngân hàng Việt Nam sau một thời gian gia nhập WTO đã có
những sự phát triển mạnh và rất nhanh, song nhìn chung dịch vụ ngân hàng thương

mại Việt Nam vẫn còn rất nhiều hạn chế, còn quá sơ khai và đi sau các nước khác rất
nhiều, hạn chế về số lượng dịch vụ nghèo nàn, đơn điệu, hạn chế về chất lượng dịch
vụ thật sự vẫn chưa đáp ứng được những nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Việc
chính thức gia nhập WTO đã đưa ngành ngân hàng thương mại Việt Nam vào tình


-3-

trạng cạnh tranh khốc liệt với các ngân hàng nước ngồi khi các ngân hàng thương mại
trong nước chưa đủ sức để cạnh tranh như về qui mơ vốn, trình độ quản lý, hệ thống
công nghệ thông tin, sự hiểu biết các nghiệp vụ của một ngân hàng hiện đại trên thế
giới….
Vấn đề trọng tâm mà Luận văn muốn đề cập là làm thế nào để phát triển các
dịch vụ để ngân hàng thương mại Việt Nam có thể nâng cao năng lực cạnh tranh cho
hệ thống ngân hàng trong thời kỳ Việt Nam hội nhập quốc tế. Nghiên cứu thực trạng
hệ thống dịch vụ ngân hàng thương mại trong nước và hệ thống dịch vụ ngân hàng
nước ngồi để từ đó có thể đưa ra được những định hướng và giải pháp thích hợp
nhằm phát triển dịch vụ ngân hàng thương mại trong nước về số lượng cũng như chất
lượng trong những năm tiếp theo.
3. Mục đích nghiên cứu
Việt Nam có hơn 86 triệu dân và những người có thể tiếp cận với dịch vụ
ngân hàng rất ít. Nhưng số lượng ngân hàng đang họat động và tiềm năng thực sự
nhưng chưa được sử dụng hết. hầu hết các ngân hàng quy mơ cịn nhỏ, dịch vụ cịn
thơ sơ. Ngân hàng thương mại Việt Nam tham gia hội nhập trong bối cảnh trình độ
phát triển kinh tế và cơng nghệ thấp, đặc biệt các dịch vụ ngân hàng còn hết sức
nghèo nàn, chưa đa dạng, phong phú, chủ yếu là các dịch vụ mang tính truyền thống (
huy động vốn và cho vay ), chất lượng dịch vụ thấp, mức độ phổ biến của dịch vụ
không cao, đối tượng sử dụng dịch vụ còn phân tán. Trong hoạt động ngân hàng, xu
thế mở rộng dịch vụ ngân hàng hiện đại đã và đang là mục tiêu phấn đấu, là lĩnh vực
cạnh tranh hiệu quả giữa các ngân hàng.

Trong khi điểm mạnh của các ngân hàng nước ngồi là sự đa dạng của các loại
hình dịch vụ (chiếm hơn 50% trên tổng thu nhập) thì thu nhập từ hoạt động cấp tín
dụng vẫn cịn phổ biến ở hầu hết các ngân hàng thương mại Việt Nam. So sánh dịch
vụ hiện có của các ngân hàng thương mại Việt Nam và dịch vụ của một số ngân
hàng nước ngồi ở các nước phát triển như Citibank, HSBC, UOB, Wachovia,
American Express …. qua đó đưa ra định hướng và giải pháp cho sự phát triển dịch
vụ ngân hàng hiện đại đáp ứng u cầu cạnh tranh trong q trình hội nhập chính là
mục đích nghiên cứu của luận văn.


-4-

4. Phạm vi nghiên cứu luận văn
Nhằm giới hạn phạm vi nghiên cứu như mục tiêu đã đề ra, Luận văn tập trung
xem xét, phân tích và đánh giá theo các phạm vi sau:
- Thời gian được chọn nghiên cứu là 2003 – 2007.
- Không gian: các ngân hàng thương mại Việt Nam.
- Hai đối tượng được xem xét như đại diện tiêu biểu để so sánh hệ thống ngân
hàng thương mại Việt Nam và ngân hàng nước ngồi là ngân hàng thương mại cổ
phần Á Châu ( ACB ) và ngân hàng HSCB Canada. Vì đây là hai trong số những
ngân hàng thương mại cổ phần mạnh nhất tại Việt Nam và trên thế giới tại thời điểm
nghiên cứu.

5. Phương pháp nghiên cứu luận văn
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận một cách có hệ thống
của vấn đề cần nghiên cứu:
Dịch vụ ngân hàng là gì và vì sao phải phát
triển dịch vụ ngân hàng khi nền kinh tế Việt
Nam hội nhập quốc tế


Thực trạng của hệ thống dịch vụ ngân hàng
Việt Nam khi so sánh với các nước phát triển
và tìm hiểu nguyên nhân của nó

Định hướng để phát triển dịch vụ
ngân hàng và các giải pháp cụ thể
Khi nghiên cứu luận văn, phương pháp nghiên cứu dữ liệu thứ cấp được vận
dụng để đánh giá thực trạng hoạt động dịch vụ của các ngân hàng thương mại Việt


-5-

Nam trong các năm qua cho đến hiện nay và so sánh với hệ thống ngân hàng của các
nước phát triển khác.
Ngồi ra, luận văn còn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, tức đưa ra
định hướng và đề xuất các giải pháp phát triển dịch vụ ngân hàng trên cơ sở đã phân
tích thực trạng và những nguyên nhân tồn tại của hệ thống dịch vụ ngân hàng thương
mại Việt Nam nhằm đánh giá được bản chất của vấn đề đang nghiên cứu.
6. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài
Dịch vụ ngân hàng hết sức đa dạng, với nhu cầu ngày càng cao của xã hội thì
dịch vụ ngân hàng cũng không ngừng cải tiến về chất lượng và phát triển về số
lượng, nên không thể giới hạn hay nêu cụ thể tất cả các dịch vụ mà ngân hàng thương
mại Việt Nam cần phải thực hiện bởi môi trường hoạt động, năng lực hoạt động của
mỗi ngân hàng là khác nhau. Đề tài nghiên cứu cần hướng đến là làm thế nào để dịch
vụ ngân hàng ngày càng trở nên đa năng và hiện đại trong thời kỳ Việt Nam hội
nhập nền kinh tế quốc tế.
7. Nội dung luận văn
Ngồi phần mở đầu và kết luận, luận văn bao gồm 3 chương:
- Chương 1 – Tổng quan về dịch vụ ngân hàng thương mại Việt Nam.
- Chương 2 – Hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam một năm sau gia nhập

WTO.
- Chương 3 – Các khuynh hướng ảnh hưởng đến hoạt động ngân hàng và đề xuất giải
pháp phát triển các dịch vụ của ngân hàng thương mại Việt Nam.


-6-

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ DỊCH VỤ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
1.1. Ngân hàng thương mại :
1.1.1 Khái niệm
Đạo luật Ngân hàng của Cộng hòa Pháp 1941 đã định nghĩa : “ Ngân hàng
thương mại là những cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là nhận tiền bạc của công
chúng dưới hình thức ký thác, hoặc dưới các hình thức khác, và sử dụng nguồn lực
đó cho chính họ trong các nghiệp vụ về chiết khấu, tín dụng và tài chính”.
Nghị định của Chính phủ số 49/2000/NĐ-CP ngày 12/9/2000 định nghĩa: “
Ngân hàng thương mại là ngân hàng được thực hiện tồn bộ họat động ngân hàng và
các hoạt động kinh doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận, góp phần thực
hiện các mục tiêu kinh tế của Nhà nước ”.
1.1.2 Các lọai hình ngân hàng thương mại
1.1.2.1 Phân lọai theo hình thức sở hữu
- Ngân hàng thương mại quốc doanh
- Ngân hàng thương mại cổ phần
- Ngân hàng thương mại liên doanh
- Chi nhánh ngân hàng thương mại nước ngồi
- Ngân hàng thương mại nước ngồi
1.1.2.2 Căn cứ vào sản phẩm ngân hàng cung cấp cho khách hàng
- Ngân hàng bán buôn
- Ngân hàng bán lẻ



-7-

- Ngân hàng vừa bán buôn vừa bán lẻ
1.1.2.3 Căn cứ vào lĩnh vực hoạt động
- Ngân hàng chuyên doanh
- Ngân hàng đa năng
1.2 Các dịch vụ ngân hàng :
1.2.1 Khái niệm
1.2.1.1 Nghiệp vụ ngân hàng
Nghiệp vụ ngân hàng là việc cụ thể hóa các họat động chủ yếu mà Luật các tổ
chức tín dụng cho phép ngân hàng thương mại có thể thực hiện.
Các nghiệp vụ ngân hàng gồm :
+ Các nghiệp vụ trong bảng tổng kết tài sản
+ Các nghiệp vụ ngồi bảng tổng kết tài sản
1.2.1.2 Dịch vụ ngân hàng
Cho đến nay, ở nước ta vẫn chưa có một khái niệm nào được nêu cụ thể về dịch
vụ ngân hàng. Có khơng ít quan niệm cho rằng dịch vụ ngân hàng không thuộc
phạm vi kinh doanh tiền tệ và các hoạt động nghiệp vụ ngân hàng theo chức năng
của một trung gian tài chính ( huy động tiền gởi, cho vay…), chỉ những hoạt động
ngân hàng không thuộc nội dung trên mới gọi là dịch vụ ngân hàng như dịch vụ
chuyển tiền, thu hộ ủy thác, mua bán hộ, môi giới kinh doanh chứng khốn … Một
số khác lại cho rằng tất cả hoạt động của ngân hàng phục vụ cho khách hàng là cá
nhân và doanh nghiệp đều gọi là dịch vụ ngân hàng.
Ngay cả Hệ thống tài khoản kế tốn của ngân hàng hiện nay cũng đã có sự phân
biệt dịch vụ ngân hàng khơng có hoạt động từ tín dụng và các ngân hàng thương mại
khi công bố thông tin về tỷ lệ thu dịch vụ trên tổng thu nhập cũng đã bao hàm thu
dịch vụ khơng có thu nhập từ tín dụng. Đối với hoạt động huy động vốn và cho vay,
các ngân hàng thường tránh né sử dụng thuật ngữ “dịch vụ” mà thay vào đó là cụm từ
“sản phẩm”.

Theo Luật các tổ chức tín dụng do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành,
dịch vụ ngân hàng cũng không được định nghĩa và giải thích cụ thể. Tại khoản 1 và
khoản 7, điều 20 thì hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng bao hàm cả


-8-

ba nội dung: nhận tiền gởi, cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ thanh tốn, nhưng đâu là
kinh doanh tiền tệ và đâu là dịch vụ ngân hàng thì vẫn chưa được phân định rõ ràng.
Như vậy, dịch vụ ngân hàng sẽ được hiểu theo hai nghĩa: nghĩa rộng và nghĩa
hẹp.
Theo nghĩa rộng, lĩnh vực dịch vụ ngân hàng là tồn bộ hoạt động tiền tệ, tín
dụng, thanh tốn, ngoại hối…của hệ thống ngân hàng đối với khách hàng là doanh
nghiệp và cá nhân ( nhưng không bao gồm hoạt động tự làm cho mình của các tổ
chức tín dụng ). Quan niệm này được sử dụng để xem xét lĩnh vực dịch vụ ngân hàng
trong cơ cấu của nền kinh tế quốc dân của một quốc gia. Quan niệm này phù hợp với
cách phân ngành dịch vụ ngân hàng trong dịch vụ tài chính của WTO và của Hiệp
định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ, cũng như của nhiều nước phát triển trên Thế
giới.
Theo nghĩa hẹp, dịch vụ ngân hàng chỉ bao gồm những hoạt động ngồi chức
năng truyền thống của định chế tài chính trung gian ( huy động vốn và cho vay ).
Quan niệm này chỉ nên dùng trong phạm vi hẹp, khi xem xét hoạt động của một ngân
hàng cụ thể để xem các dịch vụ mới, phát triển như thế nào, cơ cấu ra sao trong hoạt
động của mình.
Khi nói lĩnh vực dịch vụ ngân hàng đối với nền kinh tế, các nước đều quan
niệm dịch vụ ngân hàng theo nghĩa rộng. Trong thực tế, một ngân hàng bán lẻ lớn
thường có trên 300 dịch vụ khác nhau cho khách hàng cá nhân hay doanh nghiệp.
Dịch vụ ngân hàng ngày càng hiện đại và khơng có giới hạn khi nền kinh tế ngày
càng phát triển, xã hội ngày càng văn minh và nhu cầu của con người ngày càng cao
và đa dạng.

Theo Tổ chức thương mại Thế Giới ( WTO ): một dịch vụ tài chính là bất kỳ
dịch vụ nào có tính chất tài chính, được một nhà cung cấp dịch vụ tài chính cung cấp.
Dịch vụ tài chính bao gồm mọi dịch vụ bảo hiểm và dịch vụ liên quan đến bảo hiểm,
mọi dịch vụ ngân hàng và dịch vụ tài chính khác ( ngoại trừ bảo hiểm). Như vậy dịch
vụ ngân hàng là một bộ phận cấu thành nên dịch vụ tài chính và cũng khó phân định
rõ đâu là dịch vụ ngân hàng và đâu là dịch vụ tài chính như :
- Nhận tiền gởi


-9-

- Tất cả các loại hình cho vay
- Cho thuê tài chính
- Dịch vụ thanh tốn và chuyển tiền
- Bảo lãnh và cam kết
- Bn bán cho chính tài khoản của mình hoặc cho tài khoản của người tiêu dùng
hoặc là tại sở giao dịch, tại thị trường phi tập trung hoặc ở các nơi khác các sản phẩm
sau: các công cụ của thị trường tiền tệ, ngoại tệ, các sản phẩm phái sinh, tỷ giá và các
công cụ lãi suất, các chứng khốn chuyển nhượng được, các công cụ mua bán được
khác và các tài sản chính
- Tham dự vào tất cả các vấn đề liên quan đến chứng khốn, bao gồm nhận bảo
lãnh và đầu tư như một đại lý và cung cấp các dịch vụ có liên quan
- Môi giới tiền tệ
- Quản lý tài sản
- Các dịch vụ thanh tốn đối với tài sản chính
- Các dịch vụ tư vấn và phụ trợ khác
- Cung cấp và chuyển thơng tin tài chính và xử lý các dữ liệu tài chính và phần
mềm liên quan được cung cấp bởi các nhà cung ứng dịch vụ tài chính khác.
Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ và Hiệp định khung ASEAN về
dịch vụ ( AFAS ) đã được ký kết cũng hiểu và phân loại dịch vụ tài chính ( trong đó

có dịch vụ ngân hàng ) tương tự như WTO.
Tóm lại, dịch vụ ngân hàng là một bộ phận của dịch vụ tài chính và cần phải
được hiểu theo nghĩa rộng như Luận văn đã đề cập ở phần trên.
1.2.1.3 Phân biệt nghiệp vụ ngân hàng và dịch vụ ngân hàng
Nghiệp vụ ngân hàng là các công việc chuyên môn mà cán bộ, công nhân viên
chức ngành ngân hàng phải thực hiện trong quá trình tác nghiệp. Dịch vụ ngân hàng
là các công việc ngân hàng phục vụ trực tiếp cho những nhu cầu nhất định của các cá
nhân, tổ chức và được thu phí.
1.2.2 Các loại dịch vụ ngân hàng


-10-

Dịch vụ ngân hàng là một bộ phận của dịch vụ tài chính nên dịch vụ ngân
hàng rất đa dạng. Với nhu cầu ngày càng cao của xã hội, dịch vụ ngân hàng ngày
càng phát triển kể cả về mặt lượng và chất, nên không thể thống kê hết tồn bộ các
dịch vụ ngân hàng. Mặt khác việc áp dụng từng loại dịch vụ ngân hàng còn tuỳ thuộc
vào năng lực, quy mô… của từng ngân hàng khác nhau và tập quán, thói quen, cách
sống, thu nhập của người dân nhưng cơ bản dịch vụ ngân hàng bao gồm những loại
dịch vụ như huy động tiền gởi, cấp tín dụng, dịch vụ thanh tốn và ngân quỹ và các
dịch vụ khác.
1.2.2.1 Dịch vụ truyền thống của ngân hàng
a/- Thực hiện trao đổi ngoại tệ. Lịch sử cho thấy rằng một trong những dịch vụ
ngân hàng đầu tiên được thực hiện là trao đổi ngoại tệ - một nhà ngân hàng đứng ra
mua, bán một loại tiền này, chẳng hạn USD lấy một loại tiền khác, chẳng hạn Euro
hay Pesos và hưởng phí dịch vụ. Sự trao đổi đó là rất quan trọng đối với khách du
lịch vì họ sẽ cảm thấy thuận tiện và thoải mái hơn khi có trong tay đồng bản tệ của
quốc gia hay thành phố họ đến. Trong thị trường tài chính ngày nay, mua bán ngoại
tệ thường chỉ do các ngân hàng lớn nhất thực hiện bởi vì những giao dịch như vậy có
mức độ rủi ro cao, đồng thời u cầu phải có trình độ chuyên môn cao.

b/- Chiết khấu thương phiếu và cho vay thương mại. Ngay ở thời kỳ đầu, các ngân
hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế là cho vay đối với các doanh nhân địa
phương những người bán các khoản nợ ( khoản phải thu ) của khách hàng cho ngân
hàng để lấy tiền mặt. Đó là bược chuyển tiếp từ chiết khấu thương phiếu sang cho
vay trực tiếp đối với các khách hàng, giúp họ có vốn để mua vật tư, hàng hóa dự trữ
hoặc mua sắm thiết bị sản xuất và xây dựng văn phòng .
c/- Nhận tiền gửi. Cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao, do đó các ngân
hàng đã tìm kiếm mọi cách để huy động nguồn vốn cho vay. Một trong những nguồn
vốn quan trọng là các khoản tiền gửi tiết kiệm của khách hàng – một quỹ sinh lợi
được gửi tại ngân hàng trong khoảng thời gian nhiều tuần, nhiều tháng, nhiều năm,
đôi khi được hưởng mức lãi suất tương đối cao. Trong lịch sử đã có những kỷ lục về
lãi suất, chẳng hạn các ngân hàng Hy Lạp đã trả lãi suất 16% một năm để thu hút các


-11-

khoản tiết kiệm nhằm mục đích cho vay đối với các chủ tàu ở Địa Trung Hải với lãi
suất gấp đôi hay gấp ba lãi suất tiết kiệm.
d/- Bảo quản vật có giá trị: Ngay từ thời Trung Cổ, các ngân hàng đã bắt đầu thực
hiện việc lưu giữ vàng và các vật có giá khác cho khách hàng trong kho bảo quản.
Một điều hấp hẫn là các giấy chứng nhận do ngân hàng ký phát cho khách hàng ( ghi
nhận về các tài sản đang được lưu giữ ) có thể được lưu hành như tiền – đó là hình
thức đầu tiên của séc và thẻ tín dụng. Ngày nay, nghiệp vụ bảo quản vật có giá trị cho
khách hàng thường do phòng “Bảo quản” của ngân hàng thực hiện.
e/- Tài trợ các hoạt động của Chính phủ. Trong thời kỳ Trung Cổ và vào những
năm đầu cách mạng Công nghiệp, khả năng huy động và cho vay với khối lượng lớn
của ngân hàng đã trở thành trọng tâm chú ý của các Chính phủ Âu – Mỹ. Thơng
thường, ngân hàng được cấp giấy phép thành lập với điều kiện là họ phải mua trái
phiếu Chính phủ theo một tỷ lệ nhất định trên tổng lượng tiền gửi mà ngân hàng huy
động được. Các ngân hàng đã cam kết cho Chính phủ Mỹ vay trong thời kỳ chiến

tranh. Ngân hàng Bank of North America được Quốc hội cho phép thành lập năm
1781, ngân hàng này được thành lập để tài trợ cho cuộc đấu tranh xóa bỏ sự đơ hộ
của nước Anh và đưa Mỹ trở thành quốc gia có chủ quyền. Cũng như vậy, trong thời
kỳ nội chiến, Quốc hội đã lập ra một hệ thống ngân hàng liên bang mới, chấp nhận
các ngân hàng quốc gia ở mọi tiểu bang miễn là các ngân hàng này phải lập Quỹ phục
vụ chiến tranh.
f/- Cung cấp các tài khoản giao dịch. Cuộc cách mạng công nghiệp ở Châu Âu và
Châu Mỹ đã đánh dấu sự ra đời những hoạt động và dịch vụ ngân hàng mới. Một
dịch vụ mới, quan trong nhất được phát triển trong thời kỳ này là tài khoản tiền gửi
giao dịch ( demand deposit ) – một tài khoản tiền gửi cho phép người gửi tiền viết séc
thanh tốn cho việc mua hàng hóa và dịch vụ. Việc đưa ra loại tài khỏan tiền gửi mới
này được xem là một trong những bước đi quan trọng nhất trong cơng nghiệp ngân
hàng bởi vì nó cải thiện đáng kể hiệu quả của quá trình thanh tốn, làm cho các giao
dịch kinh doanh trở nên dễ dàng hơn, nhanh chóng hơn và an tồn hơn.
g/- Cung cấp dịch vụ ủy thác. Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã thực hiện việc
quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính cho cá nhân và doanh nghiệp thương


-12-

mại. Theo đó ngân hàng sẽ thu phí trên cơ sở giá trị của tài sản hay quy mô họ quản
lý. Chức năng quản lý tài sản này được gọi là dịch vụ ủy thác ( trust service ). Hầu
hết các ngân hàng đều cung cấp cả hai loại: dịch vụ ủy thác thơng thường cho cá
nhân, hộ gia đình; và ủy thác thương mại cho các doanh nghiệp.
Thông qua phịng Ủy thác cá nhân, các khách hàng có thể tiết kiệm các khoản tiền để
cho con đi học. Ngân hàng sẽ quản lý và đầu tư khoản tiền đó cho đến khi khách
hàng cần. Thậm chí phổ biến hơn, các ngân hàng đóng vai trị là người được ủy thác
trong di chúc quản lý tài sản cho khách hàng đã qua đời bằng cách công bố tài sản,
bảo quản các tài sản có giá, đầu tư có hiệu quả, và đảm bảo cho người thừa kế hợp
pháp việc nhận được khoản thừa kế. Trong phòng ủy thác thương mại, ngân hàng

quản lý danh mục đầu tư chứng khốn và kế hoạch tiền lương cho các công ty kinh
doanh. Ngân hàng đóng vai trị như những người đại lý cho các công ty trong hoạt
động phát hành cổ phiếu, trái phiếu. Điều này đòi hỏi phòng ủy thác trả lãi hoặc cổ
tức cho chứng khốn của công ty, thu hồi các chứng khốn khi đến hạn bằng cách thanh
tốn tồn bộ cho người nắm giữ chứng khốn.
1.2.2.2 Những dịch vụ ngân hàng mới phát triển gần đây
a/- Cho vay tiêu dùng. Trong lịch sử, hầu hết các ngân hàng không tích cực cho
vay đối với cá nhân và hộ gia đình bởi vì họ tin rằng các khoản cho vay tiêu dùng nói
chung có quy mơ rất nhỏ với rủi ro vỡ nợ tương đối cao và do đó làm cho chúng trở
nên có mức sinh lời thấp. Đầu thế kỷ này, các ngân hàng bắt đầu dựa nhiều hơn vào
tiền gửi của khách hàng để tài trợ cho những món vay thương mại lớn. Và rồi sự cạnh
tranh khốc liệt trong việc giành giật tiền gửi và cho vay đã buộc các ngân hàng phải
hướng tới người tiêu dùng như là một khách hàng trung thành tiềm năng. Cho tới
những năm 1920 và 1930, nhiều ngân hàng lớn do Citicorp và Bank of America dẫn
đầu đã thành lập những phịng tín dụng tiêu dùng lớn mạnh. Sau chiến tranh thế giới
thứ hai, tín dụng tiêu dùng đã trở thành một trong những loại hình tín dụng có mức
tăng trưởng nhanh nhất. Mặc dầu vậy, tốc độ tăng trưởng này gần đây đã chậm lại do
cạnh tranh về tín dụng tiêu dùng ngày càng trở nên gay gắt trong khi nền kinh tế đã
phát triển chậm lại. Tuy nhiên, người tiêu dùng vẫn tiếp tục là nguồn vốn chủ yếu của
ngân hàng và tạo ra một trong số những nguồn thu quan trọng nhất.


-13-

b/- Tư vấn tài chính: Các ngân hàng từ lâu đã được khách hàng yêu cầu thực hiện
hoạt động tư vấn tài chính, đặc biệt là về tiết kiệm và đầu tư. Ngân hàng ngày nay
cung cấp nhiều dịch vụ tư vấn tài chính đa dạng, từ chuẩn bị về thuế và kế hoạch tài
chính cho các cá nhân đến tư nhân về các cơ hội thị trường trong nước và ngồi nước
cho các khách hàng kinh doanh của họ.
c/- Quản lý tiền mặt. Qua nhiều năm, các ngân hàng đã phát hiện ra rằng một số

dịch vụ mà họ làm cho bản thân mình cũng có ích đối với các khách hàng. Một trong
những ví dụ nổi bật nhất là dịch vụ quản lý tiền mặt, trong đó ngân hàng đồng ý quản
lý việc thu và chi cho một công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền
mặt tạm thời vào các chứng khoản sinh lợi và tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách
hàng cần tiền mặt để thanh tốn.
Trong khi các ngân hàng có khuynh hướng chun mơn hóa vào dịch vụ quản
lý tiền mặt cho các tổ chức, hiện nay có một xu hường đang gia tăng về việc cung cấp
các dịch vụ tương tự cho người tiêu dùng. Sở dĩ khuynh hướng này đang lan rộng là
do các công ty môi giới chứng khốn, các tập đồn tài chính khác cũng cấp cho người
tiêu dùng tài khoản môi giới với hàng loạt dịch vụ tài chính liên quan. Một ví dụ là tài
khoản quản lý tièn mặt của Merrill Lynch, cho phép khách hàng của nó mua và bán
chứng khốn, di chuyển vốn trong nhiều quĩ tương hỗ, viết séc, và sử dụng thẻ tín
dụng cho khoản vay tức thời.
d/- Dịch vụ thuê mua thiết bị. Rất nhiều ngân hàng tích cực cho khách hàng kinh
doanh quyền lựa chọn mua các thiết bị, máy móc cần thiết thơng qua hợp đồng thuê
mua, trong đó ngân hàng mua thiết bị và cho khách hàng thuê. Ban đầu các qui định
yêu cầu khách hàng sử dụng dịch vụ thuê mua thiết bị phải trả tiền thuê ( mà cuối
cùng sẽ đủ để trang trải chi phí mua thiết bị ) đồng thời phải chịu chi phí sửa chữa và
thuế. Năm 1987, quốc hội Mỹ đã bỏ phiếu cho phép ngân hàng quốc gia sở hữu ít
nhất một số tài sản cho thuê sau khi hợp đồng thuê mua đã hết hạn. Điều đó có lợi
cho các ngân hàng cũng như khách hàng bởi vì bới tư cách là một người chủ thực sự
của tài sản cho thuê, ngân hàng có thể khấu hao chúng nhằm làm tăng lợi ích về thuế.
e/- Cho vay tài trợ dự án. Các ngân hàng ngày càng trở nên năng động trong việc
tài trợ cho chi phí xây dựng nhà máy mới đặc biệt là trong các ngành công nghệ cao.


-14-

Do rủi ro trong loại hình tín dụng này nói chung là cao nên chúng thường được thực
hiện qua một công ty đầu tư, là thành viên của công sở hữu ngân hàng, cùng với sự

tham gia của các nhà thầu, là thành viên của công ty sở hữu ngân hàng, cùng với sự
tham gia của các nhà đầu tư khác để chia sẻ rủi ro. Những ví dụ nổi bật về loại hình
cơng ty đầu tư này là Bankers Trust Venture Capital and Citicorp Venture,Inc.
f/- Bán các dịch vụ bảo hiểm. Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã bán bảo hiểm
tín dụng cho khách hàng, điều đó bảo đảm việc hòan trả trong trường hợp khách hàng
vay vốn bị chết hay bị tàn phế. Trong khi các quy định ở Mỹ cấm ngân hàng thương
mại trực tiếp bán các dịch vụ bảo hiểm, nhiều ngân hàng hi vọng có thể đưa ra các
hợp đồng bảo hiểm cá nhân thông thường và hợp đồng bảo hiểm tổn thất tài sản như
ôtô hay nhà cửa trong tương lai. Hiện nay, ngân hàng thường bảo hiểm cho khách
hàng thông qua các liên doanh hoặc các thỏa thuận đại lý kinh doanh độc quyền theo
đó một cơng ty bảo hiểm đồng ý đặt một văn phòng đại lý tại hành lang của ngân
hàng và ngân hàng sẽ nhận một phần thu nhập từ các dịch vụ ở đó. Một số bang như
Delawake và South Dakota đã cho phép ngân hàng cung cấp các dịch vụ bảo hiểm
được quy định trên tồn quốc. Những ngân hàng hoạt động trên tồn quốc nếu được
phép sẽ có thể cung cấp các dịch vụ về bảo hiểm thông qua các chi nhánh riêng biệt,
những quy mô đầu tư của nó chỉ được giới hạn ở mức 10% tổng số vốn chủ sở hữu.
Gần đây, Citicorp đã thông báo kế hoạch sáp nhập với công ty bảo hiểm Travelers
tromg một số nỗ lực nhằm đưa ra các dịch vụ bảo hiêm đa dạng hơn.
g/- Cung cấp các kế hoạch hưu trí: Phịng ủy thác ngân hàng rất năng động trong
việc quản lý kế hoạch hưu trí mà hầu hết các doanh nghiệp lập cho người lao động,
đầu tư vốn và phát lương hưu cho những người đã nghỉ hưu hoặc tàn phế. Ngân hàng
cũng bán các kế hoạch tiền gửi hưu trí ( được biết như IRAS và Keogle ) cho các cá
nhân và giữ nguồn tiền gửi cho đến khi người sở hữu các kế hoạch này cần đến.
h/- Cung cấp các dịch vụ môi giới đầu tư chứng khốn. Trên thị trường tài chính
hiện nay, nhiều ngân hàng đang phấn đấu để trở thành một “ bách hóa tài chính ”
thực sự, cung cấp đủ các dịch vụ tài chính cho phép khách hàng thỏa mãn mọi nhu
cầu tại một địa điểm. Đây là một trong những lý do chính khiến các ngân hàng bắt
đầu bán các dịch vụ môi giới chứng khốn, cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ



-15-

phiếu, trái phiếu và các chứng khốn khác mà không phải nhờ đến người kinh doanh
chứng khốn. Trong một vài trường hợp, các ngân hàng mua lại một công ty mơi giới
đang hoạt động ( ví dụ Bank of America mua Robertson Stephens Co.) hoặc thành
lập các liên doanh với một công ty môi giới.
i/- Cung cấp dịch vụ quỹ tương hỗ và trợ cấp. Do ngân hàng cung cấp các tài
khoản tiền gửi truyền thống với lãi suất quá thấp, nhiều khách hàng đã hướng tới việc
sử dụng cái gọi là sản phẩm đầu tư ( investment products ) đặc biệt là các tài khoản
của quỹ tương hỗ và hợp đồng trợ cấp, những loại hình cung cấp triển vọng thu nhập
cao hơn tài khoản tiền gửi dài hạn cam kết thanh tốn một khoản tiền mặt hàng năm
cho khách hàng bắt đầu từ một ngày nhất định trong tương lai ( chẳng hạn ngày nghỉ
hưu ). Ngược lại, quỹ tương hỗ bao gồm các chương trình đầu tư được quản lý một
cách chuyên nghiệp nhằm vào việc mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khốn phù
hợp với mục tiêu của quỹ ( ví dụ: Tối đa hóa thu nhập hay đạt được sự tăng giá trị
vốn ). Trong khi quá trình phát triển của các kế hoạch trợ cấp diễn ra khá chậm do
những vụ kiện tụng bởi các đối thủ cạnh tranh chống lại sự mở rộng của ngân hàng
sang lĩnh vực dịch vụ mới này thì việc cung cấp cổ phiếu trong quỹ vốn ngân hàng
quản lý chiếm 15% tổng giá trị tài sản của quỹ tương hỗ trong những năm 90 của thế
kỷ trước. Một vài ngân hàng đã tổ chức những chi nhánh đặc biệt để thực hiện nhiệm
vụ này ( ví dụ: Citicorp’s Investment Services ) hoặc liên doanh với các nhà kinh
doanh và môi giới chứng khốn. Gần đây, hoạt động cung cấp nghiệp vụ quỹ tương hỗ
của ngân hàng đã có nhiều giảm sút do mức thu nhập khơng cịn cao như trước, do
những qui định nghiêm ngắt hơn và đồng thời do sự thay đổi trong quan điểm đầu tư
của công chúng.
j/- Cung cấp dịch vụ ngân hàng đầu tư và ngân hàng bán buôn. Ngân hàng ngày
nay đang theo chân các tổ chức tài chính hàng đầu trong việc cung cấp dịch vụ ngân
hàng đầu tư và dịch vụ ngân hàng bán buôn cho các tập đồn lớn. Những dịch vụ này
bao gồm xác định mục tiêu hợp nhất, tài trợ mua lại Công ty, mua bán chứng khốn
cho khách hàng (ví dụ: bảo lãnh phát hành chứng khốn ), cung cấp công cụ

Marketing chiến lược, các dịch vụ hạn chế rủi ro để bảo vệ khách hàng. Các ngân
hàng cũng dấn sâu vào thị trường bảo đảm, hỗ trợ các khoản nợ do chính phủ và cơng


-16-

ty phát hành để những khách hàng này có thể vay vốn với chi phí thấp nhất từ thị
trường tự do hay từ các tổ chức cho vay khác.
Ở Mỹ, các dịch vụ ngân hàng đầu tư ( như bảo lãnh phát hành chứng khốn )
liên quan tới việc mua bán cổ phiếu mới và nợ do ngân hàng thương mại thực hiện
thay mặt cho các công ty đã bị cấm sau khi Quốc hội thông qua các Đạo luật GlassSteagall năm 1933. Tuy nhiên, trước áp lực lớn từ các công ty ngân hàng trong nước
hàng đầu, và do thành công của các đối thủ cạnh tranh nước ngồi, vào những năm 80
của thế kỷ XX Cục Dự trữ liên bang đã bắt đầu nới lỏng các quy định đối với việc
ngân hàng kinh doanh chứng khốn do khách hàng của chúng phát hành. Thông qua
nghiệp vụ bảo lãnh phát hành, ngân hàng đã tạo cho các công ty một kênh huy động
vốn mới bên cạnh hình thức cho vay vốn truyền thống. Nhiều công ty đã đánh giá rất
cao nghiệp vụ này của ngân hàng, hơn cả hình thức cho vay truyền thống bởi vì nó
cung cấp cho họ một nguồn vốn dài hạn với chi phí thấp hơn. Cho tới cuối những
năm 90 của thế kỷ XX, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ đã cấp cho hơn 40 ngân hàng đặc
quyền cung cấp dịch vụ bảo lãnh phát hành chứng khốn. Trên thực tế, điều này cho
phép nhân viên tín dụng ngân hàng cộng tác chặt chẽ với giới kinh doanh chứng khốn
trong quá trình tìm nguồn tài trợ cho khách hàng. Năm 1996, Cục quản lý tiền tệ Mỹ
ra quy định mới cho phép các ngân hàng có giấy phép hoạt động trên tồn quốc có thể
cung cấp dịch vụ bảo lãnh phát hành nếu như dịch vụ này được thực hiện thông qua
các công ty con, với điều kiện ngân hàng không được đầu tư quá 10% vốn cổ phần
vào một công ty. Một sự nới lỏng hơn nữa trong lĩnh vực kinh doanh chứng khốn và
như vậy, ngân hàng có thể cung cấp tồn bộ dịch vụ tài trợ và tư vấn quản lý đối với
hoạt động kinh doanh chứng khốn. Một ví vụ gần đây là sự kiện ngân hàng
NationBank mua Mortgetary Security Inc., Bank America mua công ty Robertson
Stephens và ngân hàng Banker Trust of New York mua công ty Alex Brao.

Tổng hợp tất cả các dịch vụ ngân hàng, rõ ràng là không phải tất cả mọi ngân
hàng đều cung cấp nhiều dịch vụ tài chính như danh mục dịch vụ mà chúng tôi đã
miêu tả ở trên, nhưng quả thật danh mục dịch vụ ngân hàng đang tăng lên nhanh
chóng. Nhiều loại hình tín dụng và tài khoản tiền gửi mới đang được phát triển, các
loại dịch vụ mới như giao dịch qua Internet và thẻ thông minh ( Smart ) đang được


-17-

mở rộng và các dịch vụ mới ( như bảo hiểm và kinh doanh chứng khốn ) được tung ra
hàng năm. Nhìn chung, dạnh mục các dịch vụ đầy ấn tượng do ngân hàng cung cấp
tạo ra sự thuận lợi rất lớn hơn cho khách hàng. Khách hàng có thể hồn tồn thỏa mãn
tất cả các nhu cầu dịch vụ tài chính của mình thơng qua một ngân hàng và tại một địa
điểm. Thực sự ngân hàng đã trở thành
“ bách hóa tài chính ” ở kỷ ngun hiện đại, công việc hợp nhất các dịch vụ ngân
hàng, bảo hiểm, mơi giới chứng khốn… dưới một mái nhà chính là xu hướng mà
người ta thường gọi là Universal Banking ở Mỹ, Canada và Anh, là Allginanz ở Đức,
và là Bancassurance ở Pháp.
1.3 Tác động của q trình tồn
cầu hóa đến họat động và phát
triển các dịch vụ của ngân hàng
thương mại Việt Nam

1.3.1 Hội nhập Quốc tế
1.3.1.1 Gia nhập WTO
Quá trình gia nhập WTO của Việt Nam khơng chỉ liên quan đến lĩnh vực kinh
tế đối ngoại mà còn tác động trực tiếp đến sự phát triển kinh tế - xã hội và góp phần
thực hiện mục tiêu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam.
Tổ chức Thương mại thế giới ( WTO ) thành lập ngày 01/01/1995 là kết quả

của vòng đàm phán Uruguay kéo dài trong suốt 8 năm ( 1986 – 1994 ). Sự ra đời của
tổ chức này nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của thương mại thế giới. Nó kế thừa
Hiệp định chung về thuế quan và thương mại ( GATT ) năm 1947. Nhưng nó mở
rộng các lĩnh vực thương mại về nông nghiệp, hàng dệt may, dịch vụ, đầu tư sở hữu
trí tuệ mà GATT chưa đề cập đến. Sự ra đời của WTO tạo nên một cơ chế pháp lý
tương đối hồn chỉnh, điều chỉnh các quan hệ thương mại và hàng hóa tồn cầu. WTO
là một tổ chức liên chính phủ hoạt động độc lập với tổ chức Liên hiệp quốc ( UN ).


-18-

Cơ quan cao nhất củaWTO là Hội nghị Bộ trưởng kinh tế thương mại của tất cả các
thành viên, thường hai năm họp một lần.
Việt Nam đã nộp đơn xin gia nhập WTO vào năm 1995 và chính thức gia
nhập WTO vào tháng 11 năm 2006.
Việc tiếp cận khu vực ngân hàng là do các quy định của GATS trong phụ lục
về dịch vụ tài chính. Các lĩnh vực cam kết là: tiếp cận thị trường và đối xử quốc gia.
Nguyên tắc của WTO về tối huệ quốc ( MFN ) đòi hỏi tất cả các thành viên
phải được đối xử như nhau. Điều này khiến cho các cam kết trong USVNBTA trở
thành mức tối thiểu của GATS. Các trường hợp ngoại lệ về nguyên tắc tối huệ quốc
vẫn được chấp nhận, nhưng thông thường đối xử theo MFN cần phải áp dụng vào
một thời gian được xác định trong tương lai.
1.3.1.2 Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ
Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ được đại diện của hai Chính phủ
ký ngày 13-7-2000, Quốc hội Việt Nam phê chuẩn ngày 28-11-2001, và có hiệu lực
vào ngày 10-12-2001. Các cam kết của Việt Nam trong lĩnh vực tài chính ngân hàng
được đề cập chủ yếu tại Chương III: Thương mại dịch vụ ( cam kết chung ). Các cam
kết cụ thể về ngành dịch vụ tài chính ngân hàng được thể hiện tại phụ lục F và G.
Theo hiệp định, sau 9 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, các ngân hàng Hoa Kỳ
được phép thành lập ngân hàng con 100% vốn Hoa Kỳ tại Việt Nam và hầu hết các

hạn chế về hoạt động sẽ được bãi bỏ . Với trình độ cơng nghệ thơng tin và truyền
thống hoạt động có uy tín trên tồn thế giới sẽ cho phép các ngân hàng Hoa Kỳ chiếm
ưu thế hơn so với các ngân hàng Việt Nam trong việc cung cấp thơng tin tài chính và
xử lý các dữ liệu tài chính của các nhà cung cấp dịch vụ tài chính khác.
Đối với dịch vụ ngân hàng:. Việt Nam đồng ý thực hiện các biện pháp tự do
như sau: Trong vòng 9 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, các ngân hàng của Mỹ
được phép thành lập liên doanh với các đối tác Việt nam, trong đó phần vốn góp của
Hoa Kỳ từ 30% đến 49% vốn pháp định của liên doanh. Sau 9 năm, được phép thành
lập ngân hàng 100% vốn đầu tư của Hoa Kỳ.
1.3.1.3 Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ


-19-

Hiệp định khung của ASEAN về dịch vụ ( AFAS ) được xây dựng vào năm 1995.
Việt Nam gia nhập ASEAN vào tháng 7 năm 1995. Các nước ASEAN là thành viên
của WTO ( trong đó có Việt Nam ) cam kết thực hiện các yêu cầu như:
- Xây dựng môi trường pháp lý về ngân hàng phù hợp với thông lệ quốc tế.
- Không hạn chế số lượng nhà cung cấp dịch vụ ngân hàng.
- Không hạn chế về tổng giá trị các giao dịch về dịch vụ ngân hàng.
- Không hạn chế về tổng các hoạt động tác nghiệp hay tổng số lượng dịch vụ ngân
hàng.
- Không hạn chế về tổng số người được tuyển dụng của các tổ chức tài chính
nước ngồi.
- Khơng có các biện pháp hạn chế hay yêu cầu phải mang một hình thức pháp
nhân nào cụ thể.
- Không hạn chế việc tham gia góp vốn của bên nước ngồi dưới hình thức tỷ lệ
phần trăm tối đa số cổ phiếu nước ngồi được nắm giữ theo nguyên tắc thoả thuận.
Các thành viên mới như Việt Nam được phép có thêm thời gian để đạt được
các cam kết chung trong hiệp định. Đối với Việt Nam, thời gian miễn trừ thực hiện

đối xử tối huệ quốc là 3 năm.
1.3.2 Ảnh hưởng của việc hội nhập quốc tế đối với ngân hàng
1.3.2.1 Hội nhập ngân hàng là một phần của phát triển kinh tế
Phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Vai trò của hội nhập quốc tế trong phát triển tài chính vẫn cịn là điều đang còn nhiều
tranh cải. Sự tham gia của các ngân hàng nước ngồi trong việc cung cấp các dịch vụ
tài chính cho một quốc gia và sự tham gia vào thị trường quốc tế của các ngân hàng
trong nước đều tạo động lực và điều kiện để chuyển giao công nghệ giữa các quốc
gia với nhau. Đối với một số quốc gia với xuất phát điểm là khơng có hệ thống ngân
hàng thương mại ( hệ thống ngân hàng nói chung là sự mở rộng của chính sách tài
khố của chính phủ trong nền kinh tế mệnh lệnh ), sự chuyển giao công nghệ diễn ra
trên tồn bộ các dịch vụ ngân hàng. Đối với các nước khác, chuyển giao công nghệ là
đưa ra các sản phẩm và kỹ thuật quản lý mới.


-20-

Hệ thống tài chính và ngân hàng cạnh tranh và mở cửa là những hệ thống tài
chính tốt nhất cho phát triển và tăng trưởng kinh tế. Các cuộc tranh luận về tăng
trưởng kinh tế và phát triển tài chính đều ủng hộ công cuộc cải cách nhằm tạo ra các
điều kiện, theo đó sự cạnh tranh có thể lớn mạnh giữa các nhà cung cấp dịch vụ tài
chính ngân hàng nước ngồi và trong nước được giám sát và quản lý an tồn.
Bằng chứng rõ ràng là sự cạnh tranh sẽ làm cho hệ thống ngân hàng lớn hơn,
hoạt động hiệu quả hơn và lành mạnh hơn. Điều này sẽ tạo thuận lợi cho phát triển và
tăng trưởng kinh tế. Do vậy, các nước đang phát triển nói chung mong muốn cải thiện
hệ thống ngân hàng như một phần nỗ lực của họ nhằm phát triển kinh tế. Cho phép
các nhà cung cấp dịch vụ ngân hàng nước ngồi hoạt động ở thị trường trong nước
thường là một cách hiệu quả để áp dụng cạnh tranh và đẩy mạnh phát triển tài chính.
Hội nhập quốc tế là một phần quan trọng và không thể thiếu trong chiến lược phát
triển kinh tế của một nước. Hội nhập tồn cầu sẽ mở ra và thúc đẩy sự phát triển và sử

dụng nguồn lực tiềm năng và tạo ra các cơ hội tăng trưởng từ sự chuyên môn hố, mà
nếu không hội nhập sẽ không được khai thác sử dụng.
1.3.2.2 Tác động của hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng
Đối với ngành ngân hàng, hội nhập quốc tế mở ra nhiều cơ hội để trao đổi,
hợp tác quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng như hoạch định chính sách tiền tệ, đề ra các
biện pháp phòng ngừa rủi ro, qua đó nâng cao uy tín và vị thế của hệ thống ngân hàng
Việt Nam trong các giao dịch tài chính quốc tế.
Ngành ngân hàng Việt Nam có nhiều điều kiện để tranh thủ vốn, công nghệ,
kinh nghiệm quản lý, đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ, có khả năng theo kịp yêu
cầu phát triển thị trường tài chính trong nước và nước ngồi.
Các ngân hàng thương mại Việt Nam bắt buộc phải chun mơn hóa sâu hơn
các nghiệp vụ ngân hàng, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, nhanh chóng tiếp cận và
phát triển dịch vụ ngân hàng hiện đại.
Trong quá trình hội nhập, các ngân hàng thương mại Việt Nam cũng chịu tác
động mạnh từ thị trường tài chính quốc tế trong khi phải thực hiện nhiều nghĩa vụ và
các cam kết quốc tế, chính điều này đặt ra cho các ngân hàng thương mại Việt Nam
nhiều thách thức:


-21-

Thứ nhất, các ngân hàng thương mại Việt Nam ngày càng chịu áp lực trong
việc giữ và mở rộng thị phần của mình ngay trên lãnh thổ Việt Nam. Hiện nay, các
ngân hàng thương mại Việt Nam phải chịu áp lực cạnh tranh không chỉ bởi các ngân
hàng nước ngồi mà còn phải chịu áp lực cạnh tranh với các tổ chức tài chính trung
gian khác và định chế tài chính khác như thị trường chứng khốn, cho thuê tài chính,
bảo hiểm. Ngồi ra, việc phải loại bỏ dần những hạn chế đối với ngân hàng nước ngồi
có nghĩa là các ngân hàng nước ngồi sẽ từng bước tham gia đầy đủ vào mọi lĩnh vực
hoạt động ngân hàng tại Việt Nam.
Thứ hai, cạnh tranh trong việc huy động vốn ngày càng gay gắt. Thực hiện

hội nhập đòi hỏi chúng ta phải thực hiện lộ trình cởi bỏ những hạn chế đối với các
ngân hàng nước ngồi trong việc huy động vốn. Ngày 16.9.2004, Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam đã điều chỉnh tỷ lệ huy động vốn tiền gởi VNĐ đối với chi nhánh
ngân hàng nước ngồi hoạt động ở Việt Nam từ 25% lên 50%. Việt Nam cũng đang
cam kết mở cửa thị trường dịch vụ tài chính- ngân hàng theo lộ trình nới lỏng dần và
tiến tới xố bỏ các hạn chế đối với hoạt động ngân hàng. Giai đoạn từ 2001 đến 2010,
các ngân hàng Mỹ sẽ được thành lập các ngân hàng liên doanh với số vốn từ 30% 49%, tới năm 2010 được thành lập ngân hàng với vốn 100% của Mỹ. Hội nhập ngân
hàng đòi hỏi các ngân hàng thương mại Việt Nam phải nhanh chóng tăng quy mơ, đầu
tư cơng nghệ, cải tiến trình độ quản lý…..Cơng nghệ hiện đại và trình độ quản lý
cũng như tiềm lực tài chính dồi dào của những ngân hàng nước ngồi sẽ là những ưu
thế cơ bản tạo sức ép cạnh tranh trong ngành ngân hàng và buộc các ngân hàng Việt
Nam phải tăng thêm vốn, đầu tư kỹ thuật, cải tiến phương pháp quản trị, hiện đại hố
hệ thống thanh tốn mà đặc biệt là cải tiến và phát triển dịch vụ ngân hàng để nâng cao
hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh.
Thứ ba, cạnh tranh trong việc sử dụng lao động ngày càng gay gắt. Mọi sự
thành công của một doanh nghiệp đều xuất phát từ yếu tố con người. Hiện nay, chế
độ đãi ngộ cho lao động đặc biệt là lao động có trình độ cao ở các ngân hàng thương
mại Việt Nam chưa đủ sức thuyết phục để lôi kéo những lao động có trình độ chun
mơn cao.


-22-

Thứ tư, cạnh tranh trong việc cung cấp dịch vụ ngân hàng cũng ngày càng
quyết liệt. Ngày nay, ngồi những nghiệp vụ truyền thống như tín dụng và huy động
vốn thì dịch vụ ngân hàng cũng tạo nên sắc thái mới cho ngân hàng trong chiến lược
cạnh tranh và tạo thị phần cho mình. Do đó, các ngân hàng thương mại Việt Nam cũng
phải chịu áp lực tạo nên phong cách văn hố cho ngân hàng mình, tạo nên phong cách
phục vụ riêng thể hiện nét đặc thù của mình mới hy vọng tạo thế đứng vững chắc trên
thị trường.

1.3.2.3 Hội nhập ngân hàng là xu thế tất yếu
Việt Nam đã đi đúng con đường hội nhập quốc tế. Với Hiệp định thương mại
song phương đã ký với Mỹ ( USVN BTA ), các nghĩa vụ trong khuôn khổ Hiệp định
khung về dịch vụ ASEAN và các cuộc đàm phán gia nhập Hiệp định chung về
Thương mại dịch vụ của Tổ chức thương mại thế giới ( WTO – GATS), Việt Nam
cam kết nới lỏng các hạn chế đối với hoạt động của các ngân hàng nước ngồi. Chẳng
hạn như, trong Hiệp định thương mại Việt - Mỹ cho phép ngân hàng và chi nhánh
ngân hàng của Mỹ được phép huy động vốn bằng đVNĐ. Với tư cách là hội viên của
WTO, không chỉ ngân hàng Mỹ mà các ngân hàng nước ngồi cũng có quyền tự do đó
và có thể cung cấp các dịch vụ ngân hàng tại Việt Nam.
Có rất ít các quốc gia khơng có kế hoạch hội nhập quốc tế đối với lĩnh vực
ngân hàng. Những quốc gia không cố gắng hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng
thì ít có khả năng hội nhập ở những lĩnh vực khác trong nền kinh tế của mình. Một
khi đã mở cửa thương mại, các doanh nghiệp sẽ yêu cầu được cung cấp dịch vụ tài
chính tốt hơn, khách hàng được nhiều quyền lựa chọn các nhà cung cấp dịch vụ tài
chính mang tính cạnh tranh hơn. Các cơng ty đa quốc gia cũng muốn có các dịch vụ
tài chính trong nước hỗ trợ cho vốn đầu tư trực tiếp ra nước ngồi của mình. Các nước
Liên Xơ cũ đang vật lộn với khó khăn, khơng tạo các điều kiện để khuyến khích hội
nhập đã có những kết quả khơng tốt, trong khi đó nhiều nước Đơng Aâu nhanh chóng
hội nhập quốc tế đang phát triển rất tốt.
Tóm lại, chương I đi sâu vào tìm hiểu thế nào là dịch vụ của ngân hàng
thương mại, so sánh điểm khác biệt giữa nghiệp vụ và dịch vụ của ngân hàng thương
mại, những dịch vụ truyền thống và các dịch vụ mới phát triển gần đây của một ngân


-23-

hàng. Từ đó tìm hiểu lý do vì sao phải phát triển dịch vụ của ngân hàng thương mại
trong nền kinh tế hội nhập quốc tế.


CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG VỀ CÁC DỊCH VỤ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA.
2.1 Thực trạng về các dịch vụ ngân hàng thương mại Việt Nam trong thời gian
qua:
Nền kinh tế Việt Nam trong 5 năm qua đã có nhiều bước tăng trưởng đáng kể, tốc
độ tăng trưởng GDP tăng dần hàng năm như năm 2003 là 7,34%, năm 2004 là
7,79%, năm 2005 là 8,44%, năm 2006 là 8,17%, năm 2007 là 8,48%.

Điều

này đã tạo điều kiện thuận lợi giúp môi trường hoạt động ngân hàng ngày càng phát
triển. Hệ thống ngân hàng đã có những cải thiện đáng kể về năng lực, thể chế, tài
chính, hoạt động, cơng nghệ, quản trị điều hành, cơ cấu tổ chức và mạng lưới hoạt
động. Nhu cầu về số lượng và chất lượng dịch vụ ngân hàng Việt Nam ngày càng
tăng. Một số dịch vụ ngân hàng hiện đại đã được triển khai và xã hội chấp nhận
( ngân hàng điện tử: home banking, mobile banking, phone banking, thẻ ATM…). Số


-24-

lượng các tổ chức cung cấp dịch vụ ngân hàng ngày càng tăng cùng với quá trình tự
do hố kinh tế và mở cửa thị trường tài chính trong nước.
Trong thời gian qua, hệ thống ngân hàng đã huy động và cho vay một khối
lượng vốn lớn cho nền kinh tế, hỗ trợ khu vực kinh tế tư nhân phát triển, phát triển
kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu, thực hiện công nghiệp
hố, hiện đại hố và giải quyết các vấn đề xã hội. Với vai trị nịng cốt trong hệ thống
tài chính, hệ thống ngân hàng là kênh huy động và phân bổ nguồn lực tài chính chủ
chốt, góp phần tạo nên những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam
trong thời gian qua. Giai đoạn 2002 - 2006, dư nợ tín dụng tăng trưởng bình qn

25% / năm, đạt qui mô tại thời điểm cuối năm 2006 và tăng trưởng tiền gửi bình quân
37% / năm, đạt qui mô tại thời điểm cuối năm 2006. Doanh số thanh tốn trong nước
tăng nhanh nhờ phát triển các hệ thống thanh tốn điện tử ( thanh tốn liên ngân hàng,
bù trừ, chuyển tiền ), bình quân gần 34% / năm. Hệ thống thanh tốn điện tử liên ngân
hàng đã đi vào hoạt động từ tháng 5 năm 2002, đạt khối lượng giao dịch thanh tốn
trung bình.
Mặc dù có những bước tiến quan trọng về qui mơ và trình độ phát triển, song
hệ thống dịch vu ïngân hàng vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế và bất cập như:
2.1.1 Hạn chế về số lượng và chất lượng dịch vụ:
Dịch vụ của hầu hết các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện cịn khá thơ sơ,
chủng loại nghèo nàn, chủ yếu là những dịch vụ mang tính truyền thống như nhận
tiền gửi, cho vay và thanh tốn.
2.1.1.1 Huy động vốn:
Tính đến cuối năm 2007, tăng trưởng huy động vốn của tồn hệ thống ngân
hàng đạt 47,64% so với năm 2006, cao hơn so với tốc độ tăng trưởng 36,53% của
năm 2006. Trong đó, huy động vốn bằng VND tăng 53,99%, cao hơn so với mức
41,15% của năm 2006; huy động bằng ngọai tệ đạt 29,66% cao hơn so với mức
25,31% của năm 2006.


-25-

Biểu đồ 2.1. Huy động vốn từ nền kinh tế

(1)

(1)

Nguồn


số liệu:
Báo cáo thường niên Ngân hàng Nhà nước năm 2007

Nghiệp vụ huy động vốn của các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay
vẫn chủ yếu dưới dạng tiền gởi tiết kiệm có kỳ hạn của khách hàng cá nhân ( bình
quân chiếm hơn 70% tổng nguồn vốn huy động ), chỉ trừ một số ít ngân hàng như
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam hiện là trung tâm thanh tốn của các tổ chức tín
dụng ( ngồi Ngân hàng Nhà Nước, phần lớn các tổ chức tín dụng đều mở tài khoản
tại Ngân hàng Ngoại thương để tiện giao dịch ).Tiền gởi thanh tốn chiếm tỷ trọng khá
thấp trong tổng nguồn huy động với đa số là tiền gởi định kỳ. Một trong những ngân
hàng thương mại lớn là TMCP Á Châu tỷ trọng tiền gửi thanh tốn cũng khá thấp
chưa đến 20%.
Bảng 2.1. Tiền gởi của khách hàng và các TCTD khác
tại Ngân hàng TMCP Á Châu (2)
Chỉ tiêu

- Tiền gởi không kỳ hạn (thanh tốn)

Năm 2006

Năm 2007

(triệu VNĐ)

1. Tiền gởi của các TCTD khác:

Năm 2005

(triệu VNĐ)


(triệu VNĐ)

1.103.576

2.733.133

6.994.030

13.242

17.895

25.275

- Tiền ký quỹ
- Tiền gởi có kỳ hạn

16.056
1.090.334

2.715.238

6.952.699


×