Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Tài liệu ôn thi môn Lịch sử đảng cộng sản việt nam có đáp án

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.76 KB, 33 trang )

1
ÔN THI MÔN HỌC LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
A. 6 nội dung chính:
Vấn đề 1: Phân tích và chứng minh tính khoa học, tính CM của Mục
tiêu chiến lược CMVN (đường lối chiến lược CMVN) được Đảng ta đề ra
trong Cương lĩnh đầu tiên là đúng đắn). Liên hệ
Gợi ý ý chính:
- Nêu khái quát 6 nội dung của Cương lĩnh 2/1930 về mục tiêu chiến lược,
về nhiệm vụ cách mạng (vấn đề dân tộc, giai cấp), về lực lượng cách mạng, về lãnh
đạo cách mạng, về phương pháp cách mạng, về đoàn kết quốc tế.
- Mục tiêu chiến lược của cách mạng Việt Nam được Đảng ta đề ra trong
Cương lĩnh đầu tiên: “Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách
mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
- Phân tích, chứng minh mục tiêu chiến lược của cách mạng Việt Nam được
Đảng ta đề ra trong Cương lĩnh đầu tiên là đúng đắn:
* Phân tích, chứng minh xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thể kỷ XX
khi thực dân Pháp thực hiện chính sách thống trị là một xã hội thuộc địa, nửa
phong kiến.
+ Về chính trị: Chuyên chế về chính trị và chia để trị.
+ Về kinh tế: Độc quyền về kinh tế, kết hợp phương thức bóc lột tư bản với
phong kiến.
+ Về văn hóa: Ngu dân về văn hóa, ngăn cản văn hóa tiến bộ vào nước ta,
khuyến khích văn hóa độc hại, xuyên tạc lịch sử, giá trị văn hóa Việt Nam, dùng
rượu cồn và thuôc phiện đầu độc người Việt Nam.
2
* Phân tích, chứng minh trong xã hội Việt Nam thuộc địa, nửa phong kiến có
2 mâu thuẫn cơ bản:
+ Một là, mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam mất nước với thực dân Pháp
xâm lược (mâu thuẫn dân tộc).
+ Hai là, mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam mà trước hết là nông dân với
giai cấp địa chủ phong kiến (mâu thuẫn giai cấp)


Từ đó, khẳng định mâu thuẫn chủ yếu cấp bách cần giải quyết trước hết là
mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam mất nước với thực dân Pháp xâm lược (mâu
thuẫn dân tộc).
* Phân tích thái độ chính trị các giai cấp:
+ giai cấp địa chủ phong kiến: chia làm 3 hạng (đại, trung, tiểu địa chủ).
Trong đó có thể lôi kéo được trung, tiểu địa chủ có thái độ chống TD Pháp, yêu
nước.
+ giai cấp nông dân: là động lực chính của cách mạng
+ tầng lớp trí thức tiểu tư sản: có khuynh hướng yêu nước, chống TD Pháp
+ giai cấp tư sản Việt Nam: chia 2 hạng (tư sản mại bản và tư sản dân tộc),
trong đó, tư sản dân tộc có khuynh hướng chống Pháp, có thể lôi kéo về phía cách
mạng.
+ giai cấp công nhân Việt Nam: là động lực chính của cách mạng, do có đặc
điểm chung của giai cấp công nhân thế giới và có đặc điểm riêng của giai cấp công
nhân Việt Nam, có mối liên hệ chặt chẽ với nông dân.
3
Tóm lại: dù là giai cấp nào, tầng lớp nào cũng đều phải chịu ách đô hộ của
TD Pháp, đều muốn chống Pháp. Do đó, mâu thuẫn dân tộc là mâu thuẫn chủ yếu
cần giải quyết trước hết và trên hết.
- Mục tiêu chiến lược của cách mạng Việt Nam được Đảng ta đề ra trong
Cương lĩnh đầu tiên là đúng đắn:
+ Giải quyết đúng đắn hai mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam thuộc
địa, nửa phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng.
+ Đặt cách mạng Việt Nam trong phạm trù cách mạng vô sản, gắn liền mục
tiêu độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, đi đúng với lý luận cách mạng không
ngừng, xu thế phát triển tất yếu của thời đại mới.
Liên hệ:
- Trong nhận thức và công tác phải luôn giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng Chủ nghĩa Mác -Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Không ngừng ra sức rèn luyện phẩm chất đạo đức, học tập nâng cao trình

độ chuyên môn nghiệp vụ để trở thành người cán bộ lãnh đạo, quản lý tốt, luôn
luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước giao phó.
- Lãnh đạo, quản lý cơ quan, đơn vị mình; tuyên truyền động viên gia đình,
nhân dân nơi mình công tác, cư trú thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước; đoàn kết quyết tâm hoàn thành tốt các trương
trình, kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội, giữ vững an ninh, quốc phòng theo mục
tiêu chủ nghĩa xã hội.
- Luôn lãnh đạo, quản lý cơ quan, đơn vị, nhân dân chủ động đấu tranh ngăn
chặn, đập tan mọi luận điệu tuyên truyền, hoạt động chống phá công cuộc xây
4
dựng chủ nghĩa xã hội của các thế lực thù địch trong thực hiện chiến lược “diễn
biến hòa bình”.
v.v…/.
Vấn đề 2: Phân tích nội dung chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của
Đảng ta trong thời kỳ 1939 – 1945. Liên hệ
Gợi ý ý chính:
* Khái quát chủ trương của Đảng ta thời kỳ 1930 - 1939:
- Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (2/1930): về mục tiêu chiến
lược, về lực lượng cách mạng, về thành lập mặt trận đoàn kết, về chính quyền cách
mạng
- Trong Luận cương chính trị (10/1930): về mục tiêu chiến lược, về lực
lượng cách mạng, về thành lập mặt trận đoàn kết, về chính quyền cách mạng
- Thực tiễn cách mạng những năm 1930-1931, cao trào 1936-1939 đặt ra yêu
cầu phải chuyển hướng chỉ đạo chiến lược nhằm mang lại thắng lợi trong giai đoạn
cách mạng tiếp theo
* Phân tích nội dung chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng ta
trong thời kỳ 1939 – 1945:
- Hội nghị Trung ương 6 (11/1939)
+ Bối cảnh thế giới và trong nước: năm 1939, chiến tranh thế giới lần thứ hai
nổ ra, cuốn tất cả các nước vào vòng chiến. Thực dân Pháp cũng phát xít hóa sự

thống trị của mình, mâu thuẫn dân tộc đã lên đến đỉnh điểm cần giải quyết.
5
+ Trung ương Đảng họp từ ngày 6 đến 8-11-1939 tại Bà Điểm (Gia Định), do
Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ chủ trì. Hội nghị đã đưa ra nhiều chủ trương quan
trọng.
+ Nội dung: về mục tiêu chiến lược, về lực lượng cách mạng, về thành lập
mặt trận đoàn kết, về chính quyền cách mạng
- Hội nghị Trung ương 7 (11/1940)
+ Từ ngày 6 đến ngày 9-11-1940, Hội nghị Trung ương Đảng đã họp tại làng
Đình Bảng (Bắc Ninh).
+ Nội dung: về nhận thức thực hiện mục tiêu chiến lược ở Hội nghị Trung
ương 7 có phần hạn chế
- Hội nghị Trung ương 8 (5/1941)
+ Hội nghị Trung ương họp tại Pắc Bó (Cao Bằng) từ ngày 10 đến ngày 19-
5-1941 do Nguyễn Ái Quốc chủ trì
+ Nội dung: về mục tiêu chiến lược, về lực lượng cách mạng, về thành lập
mặt trận đoàn kết, về chính quyền cách mạng
+ Đánh giá: Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (5-1941) đã hoàn chỉnh đường lối
cách mạng giải phóng dân tộc.
* Ý nghĩa lịch sử của nó đối với thắng lợi của CMT8 năm 1945 và với công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay
- Sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng ta trong thời kỳ 1939 – 1945
là kết quả của sự vận dụng và sáng tạo học thuyết Mác-Lênin, đường lối của quốc
tế cộng sản và kinh nghiệm của cách mạng thế giới vào hoàn cảnh cụ thể của nước
ta.
6
- Sự chuyển hướng của Đảng rất đúng đắn, kịp thời. Đây là sự chuẩn bị tất
yếu cho thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám.
- Sự chuyển hướng của Đảng để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu trong
giai đoạn hiện nay: về giải quyết vấn đề dân tộc - giai cấp, về độc lập dân tộc với

chủ nghĩa xã hội, dân tộc với thời đại, về xác định kẻ thù, về xây dựng lực lượng,
…/.
Một số nội dung: (đọc kĩ, kiểm chứng lại)
Vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, dưới sự thống trị tàn bạo của thực dân
Pháp, xã hội Việt Nam chìm đắm trong vòng nô lệ: Dân tộc bị tước đoạt tự do, mất
độc lập; đất nước bị chia cắt; nhân dân lao động bị bần cùng hóa. Nhiều mâu thuẫn
nảy sinh phát triển, đặc biệt là mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam với đế quốc
Pháp và bọn tay sai của chúng. Mâu thuẫn này đòi hỏi cách mạng Việt Nam đồng
thời đánh đổ đế quốc thực dân Pháp và chế độ phong kiến Việt Nam, trong đó
nhiệm vụ đánh đuổi đế quốc và bọn tay sai để giành độc lập cho dân tộc phải được
đặt lên hàng đầu.
Với mục tiêu trên đã có nhiều phong trào yêu nước chống thực dân Pháp với
những nội dung và phương pháp khác nhau. Thế nhưng tất cả đều thất bại. Thất bại
ấy thể hiện sự khủng hoảng sâu sắc của cách mạng Việt Nam về con đường cứu
nước giải phóng dân tộc, chưa đáp ứng được những yêu cầu khách quan mà xã hội
đặt ra. Nói cách khác, phong trào yêu nước lúc này đều có đường lối xa rời thực
tiễn. Bên cạnh đó xã hội Việt Nam dưới tác động của chính sách khai thác thuộc
địa của Pháp đã đang diễn ra sự phân hóa sâu sắc, nhiều giai cấp mới xuất hiện.
Nhìn chung các giai cấp đương thời, trừ giai cấp công nhân và nông dân, đều đã trở
thành đối tượng, hoặc lực lượng của cách mạng ở các mức độ khác nhau. Giai cấp
công nhân lúc này, do những đặc điểm của họ, chỉ có thể trở thành giai cấp lãnh
7
đạo cách mạng Việt Nam với điều kiện: giác ngộ lý luận Mác-Lênin và tự tổ chức
ra chính đảng của mình.
Từ thực tế trên vừa là hoàn cảnh vật chất để sản sinh phong trào cách mạng,
vừa là thước đo đường lối của các tổ chức chính trị, các phong trào cách mạng Việt
Nam. Sự vận động của các phong trào yêu nước Việt Nam với những thất bại của
nó, một mặt nhấn mạnh sự cần thiết phải tìm con đường cứu nước mới; mặt khác,
lý giải vì sao phong trào yêu nước và phong trào công nhân ở Việt Nam lại gặp
nhau ở điểm lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm cẩm nang giải phóng dân tộc, giải

phóng giai cấp. Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm tất yếu của sự gặp gỡ
trên. Vì thế, ngay từ đầu, đảng ta đã xây dựng đường lối cách mạng phù hợp với
yêu cầu khách quan của dân tộc, giai cấp và xã hội đặt ra.
Chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt (cương lĩnh đầu tiên của đảng) chỉ rõ:
cách mạng Việt Nam sẽ thực hiện cuộc vận động giải phóng dân tộc rồi tiến lên
cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong giai đoạn cách mạng giải phóng dân tộc, nhân
dân Việt Nam phải đánh đổ ách thống trị của đế quốc Pháp và bọn tay sai phong
kiến, giành độc lập dân tộc, dân chủ cho nhân dân. Có nghĩa là đảng chủ trương
trong khi đồng thời đánh đổ đế quốc và phong kiến, cần ưu tiên tập trung sức mạnh
tiêu diệt bè lũ đế quốc và tay sai phản động, giành độc lập cho dân tộc; nhiệm vụ
chống phong kiến được thực hiện ở mức độ thấp hơn. Thực hiện sứ mệnh lịch sử
lãnh đạo cách mạng, giai cấp công nhân thông qua đảng cộng sản, động viên, tổ
chức những người yêu nước, có tinh thần dân tộc vào mặt trận đánh Pháp với nòng
cốt là liên minh công nông. Với đường lối đó Đảng ta đã thể hiện trình độ tư duy
năng động, sáng tạo của mình. Một mặt, vận dụng linh hoạt chủ nghĩa Mác-Lênin,
mặt khác đáp ứng chính xác những yêu cầu khách quan của xã hội Việt Nam.
Cương lĩnh đầu tiên của đảng là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng
tạo học thuyết Mác-Lênin, đường lối quốc tế vô sản và kinh nghiệm cách mạng thế
giới vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta, là sự thể hiện tập trung tư tưởng cơ bản của
8
đồng chí Nguyễn Ái Quốc về cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở nước thuộc địa nửa phong kiến.
Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 10/1930, dưới tác
động của tư tưởng “tả khuynh” trong phong trào cộng sản quốc tế, nhận thức về
cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng đã có sự thay đổi. Đảng đã thủ tiêu chính
cương vắn tắt, sách lược vắn tắt, đồng thời xác định một số quan điểm đề cao đấu
tranh giai cấp, giảm nhẹ yếu tố dân tộc trong đấu tranh giải phóng dân tộc Việt
Nam (luận cương chính trị); đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng
sản Đông Dương… Thực trạng xã hội Việt Nam lúc đó cho thấy các quan điểm
này bộc lộ nhiều nhược điểm trong việc tập hợp lực lượng dân tộc đánh Pháp, chưa

đề cao việc giải phóng dân tộc. Tuy có kế thừa chính cương vắn tắt, sách lược vắn
tắt một số điểm như: xác định đường lối chiến lược cách mạng hai giai đoạn, sự
lãnh đạo giai cấp công nhân là đảng cộng sản, muốn giành chính quyền phải dùng
bạo lực cách mạng… Nhưng Luận cương chính trị tháng 10/1930 vẫn còn những
hạn chế: chưa chỉ ra được mâu thuẫn chủ yếu trong xã hội thuộc địa; chưa xác định
nhiệm vụ giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu; trong khi nhấn mạnh vai trò
của công nông, chưa chủ yếu đúng mức đến vai trò, vị trí, khả năng cách mạng của
các giai cấp, tầng lớp khác. Những hạn chế nói trên đã được các Hội nghị Ban chấp
hành Trung ương Đảng tiếp theo khắc phục.
Cao trào cách mạng 1930-1931 và Xô viết Nghệ Tĩnh là cuộc diễn tập đầu
tiên của Đảng ta đã xác định đội quân chủ lực của cách mạng, thấu hiểu được sự
liên minh đấu tranh của hai giai cấp công nhân và nông dân, làm cho quần chúng
càng tin tưởng vào giai cấp công nhân, sức mạnh công nông được phát huy mạnh
mẽ.
Chỉ thị thành lập “Hội phản đế đồng minh Đông Dương” tháng 11/1930
khẳng định nếu chỉ thấy lực lượng cách mạng chỉ có hai giai cấp công nhân và
nông dân thì sẽ dẫn tới cô lập, hẹp hòi, hạn chế việc mở rộng lực lượng cách mạng,
thực chất là đặt nhiệm vụ chống đế quốc lên trên. Chỉ thị còn khẳng định: “Cách
9
mạng tư sản dân quyền ở Đông Dương mà không tổ chức được toàn dân lại thành
một lực lượng thật rộng, thật lớn thì cuộc cách mạng cũng khó thành công”. Nhưng
trên thực tế chỉ thị này không được đưa vào cuộc sống, nhưng dẫu sao cũng đã thể
hiện nhận thức mới, cách nhìn mới của Đảng vì giai cấp và dân tộc.
Trong thời kỳ 1930-1931 hai nhiệm vụ chiến lược chống đế quốc và chống
phong kiến đã được cụ thể hóa bằng nhiều mục tiêu trước mắt như cải thiện đời
sống, chống khủng bố trắng.
Từ năm 1936-1939 cách mạng Việt Nam diễn ra trong bối cảnh có nhiều diễn
biến phức tạp, chủ nghĩa phát xít xuất hiện, nhân loại đứng trước thảm họa chiến
tranh. Trên cơ sở quan điểm thể hiện trong nghị quyết của Quốc tế cộng sản, Hội
nghị Trung ương tháng 7/1936, Đảng ta đã xác định kẻ thù chủ yếu trước mắt là

bọn thực dân Pháp và bè lũ tay sai, mục tiêu trước mắt là đấu tranh chống bọn phản
động thuộc địa, chống phát xít và đấu tranh đòi tự do dân chủ hòa bình. Để thực
hiện mục tiêu đó Đảng chủ trương thành lập “Mặt trận dân chủ” thay cho “Mặt trận
thống nhất phản đế”, bao gồm các lực lượng tiên tiến không chỉ có công nhân và
nông dân mà còn cả tầng lớp tư sản dân tộc, địa chủ yêu nước, các đảng phái cải
lương ít nhiều tiến bộ, không chỉ trong nước mà cả Việt kiều tán thành mục tiêu
trên, lấy liên minh công nông làm nền tảng. Hội nghị cũng đã đưa ra chủ trương
mới chuyển hướng nhiệm vụ tạm thời, không nêu khẩu hiệu độc lập dân tộc và
ruộng đất cho dân cày, chỉ nêu khẩu hiệu đấu tranh can thiệp dân sinh, dân chủ,
chống phản động thuộc địa và chủ trương từ đấu tranh bí mật sang đấu tranh công
khai, kết hợp đấu tranh bán công khai và đấu tranh bí mật.
Hội nghị cũng đã xem xét lại chủ trương đồng thời chống đế quốc và phong
kiến ngang bằng nhau của Đảng, thể hiện trong luận cương chính trị tháng 10/1930
và khẳng định lại việc chống đế quốc và tay sai với chống phong kiến phải thực
hiện ngang bằng nhau mà tùy vào hoàn cảnh cụ thể đề cao nhiệm vụ này hay
nhiệm vụ kia. Những quan điểm chủ trương của đảng thể hiện có hướng nhận thức
mới về cách mạng Việt Nam theo tinh thần Cương lĩnh đầu tiên của đảng.
10
- Hội nghị lần thứ 6 tháng 11/1939:
- Bối cảnh thế giới và trong nước: năm 1939, chiến tranh thế giới lần thứ hai
nổ ra, cuốn tất cả các nước vào vòng chiến. Thực dân Pháp cũng phát xít hóa sự
thống trị của mình, mâu thuẫn dân tộc đã lên đến đỉnh điểm cần giải quyết.
Chiến tranh thế giới ảnh hưởng sâu sắc đến tình hình mọi mặt ở Đông Dương.
Thực dân Pháp điên cuồng tấn công Đảng Cộng sản Đông Dương. Thực dân Pháp
tham gia chiến tranh nên đặt Đông Dương vào trạng thái thời chiến. Chúng thủ tiêu
các quyền tự do, dân chủ tối thiểu mà nhân dân ta vừa giành được trong giai đoạn
1936-1939, tăng cường bóc lột, đàn áp và tấn công lực lượng cách mạng. Trong
bối cảnh đó, Đảng chủ trương chuyển toàn bộ tổ chức đảng vào hoạt động bí mật
và kịp thời đưa ra chủ trương phù hợp với tình hình mới.
- Trung ương Đảng họp từ ngày 6 đến 8-11-1939 tại Bà Điểm (Gia Định),

do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ chủ trì. Hội nghị đã đưa ra nhiều chủ
trương quan trọng.
Sau khi phân tích những biến động của Chiến tranh thế giới lần thứ hai,
chính sách tăng cường bóc lột, đàn áp của thực dân Pháp để phục vụ chiến
tranh làm biến động đời sống kinh tế và chính trị của các giai cấp ở Đông
Dương, mâu thuẫn giữa nhân dân Đông Dương với đế quốc và tay sai ngày
càng gay gắt, cuộc cách mạng đánh đổ đế quốc Pháp nhất định sẽ bùng nổ,
Hội nghị cho rằng cần có những thay đổi phù hợp :
• Cách mạng Đông Dương lúc này phải là cách mạng giải phóng dân tộc, đó là
một kiểu của cách mạng tư sản dân quyền. Hai nhiệm vụ chống đế quốc và
chống phong kiến là hai nhiệm vụ cơ bản của cách mạng tư sản dân quyền
luôn quan hệ khăng khít nhau – nguyên tắc không bao giờ thay đổi. Nhưng
hiện nay, « nhiệm vụ chính cốt » là đánh đổ đế quốc. Vấn đề dân tộc thành
vấn đề khẩn cấp, phải lấy quyền quyền lợi dân tộc làm tối cao, tất cả mọi
11
vấn đề của cuộc cách mạng, cả vấn đề ruộng đất cũng phải nhằm vào mục
tiêu ấy mà giải quyết. Vì vậy, chỉ nêu khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của
những địa chủ phản bội quyền lợi dân tộc.
• Nhiệm vụ cụ thể là đánh đổ đế quốc Pháp, vua chúa, tay sai của bọn đế quốc
và bọn phản bội dân tộc, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập.
• Lập chính phủ Liên bang Cộng hoà Dân chủ Đông Dương gồm tất cả các
tầng lớp trong phong trào giải phóng dân tộc.
• Tịch thu và quốc hữu hoá các nhà máy, xí nghiệp, ngân hàng của đế quốc và
bọn phản bội dân tộc giao cho công nhân quản lý. Tịch thu và quốc hữu hoá
ruộng đất của đế quốc và bọn phản bội dân tộc cùng với việc lấy đất công và
ruộng đất bỏ hoang chia cho nông dân cày cấy. Thực hiện các quyền tự do
dân chủ về kinh tế, chính trị, văn hoá.
• Thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương thay Mặt trận
dân chủ Đông Dương để đoàn kết tất cả các dân tộc Đông Dương, tất cả các
giai cấp, các đảng phái, các phần tử phản đế muốn giải phóng dân tộc, đánh

đổ đế quốc Pháp và tay sai, thực hiện độc lập hoàn toàn. Công nông phải
giương cao cây cờ dân tộc, vì quyền lợi của dân tộc mà đoàn kết với tư sản,
trung, tiểu địa chủ và những phần tử có tinh thần chống đế quốc.
• Hội nghị nhận định : « Bước đường sinh tồn của các dân tộc Đông Dương
không còn có con đường nào khác hơn là con đường đánh đổ đế quốc Pháp,
chống tất cả ách ngoại xâm, vô luận da trắng hay da vàng để giành lấy giải
phóng dân tộc. Đế quốc Pháp còn, dân chúng Đông Dương chết. Đế quốc
Pháp chết, dân chúng Đông Dương còn ». Ách bóc lột tàn bạo của đế quốc
Pháp ở Đông Dương nhằm phục vụ cho chiến tranh sẽ làm cho cuộc cách
mạng của các dân tộc Đông Dương nhất định sẽ bùng nổ và tiền đồ cách
mạng giải phóng Đông Dương nhất định sẽ tươi sáng. Do đó, Trung ương
12
chủ trương đẩy mạnh phong trào đấu tranh của quần chúng nhằm chuẩn bị
điều kiện để tiến tới bạo động giải phóng dân tộc.
• Nghị quyết nêu 12 vấn đề để xây dựng Đảng vững mạnh, trước hết là thống
nhất ý chí và hành động dựa trên lý luận Mác – Lênin.
Nghị quyết Trung ương 6 đã tiến thêm một bước quan trọng trong giải quyết
mối quan hệ giữa chống đế quốc và chống phong kiến ; gữa độc lập dân tộc và
ruộng đất của nông dân ; vấn đề chính quyền cách mạng ; việc thực hiện các
quyền tự do dân chủ đều có nhận thức mới. Tất cả nội dung của Nhị quyết
Trung ương 6 là tiếp tục chuyển hướng chỉ đạo chiến lược nhằm tiến tới khởi
nghĩa giành chính quyền ở Đông Dương.
- Hội nghị Trung ương lần thứ 7 (11/1940) : Từ ngày 6 đến ngày 9-11-
1940, Hội nghị Trung ương Đảng đã họp tại làng Đình Bảng (Bắc Ninh).
Hội nghị phân tích kĩ tình hình chiến tranh thế giới, chuyển biến về kinh tế,
chính trị ở Đông Dương và cho rằng cách mạng Đông Dương lúc này không chỉ
có tính chất dân tộc giải phóng mà phải mang tính chất cách mạng tư sản dân
quyền. Vì nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến có quan hệ khăng khít nhau
nên phải đồng thời tiến hành, không thể cái làm trước cái làm sau. Nghị quyết
phân tích hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ khăng khít với nhau nhưng chưa

linh hoạt trong chỉ đạo chiến lược nên chưa thấy vấn đề cấp bách là giải phóng
dân tộc như Hi nghị trung ương 6 đã nêu. Ưu điểm của Hội nghị trung ương 7
là chỉ rõ Pháp – Nhật và tay sai là kẻ thù cụ thể trước mắt ; thành lập Mặt trận
dân tộc phản đế ; tích cực chuẩn bị lực lượng vũ trang, phải vũ trang cho nhân
dân, tổ chức nhân dân cách mạng quân,, duy trì lực lượng khởi nghĩa Bắc Sơn
để tiến tới bạo động giành chính quyền ; hoãn khởi nghĩa Nam Kỳ vì chưa đúng
thời cơ trong cả nước.
13
Hội nghị Trung ương 6 đã bước đầu chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách
mạng, tiếp tục được khẳng định và bổ sung ở Hội nghị Trung ương 7 – mấu
chốt là giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và giai cấp, cơ sở để giải
quyết các quan hệ khác phù hợp hơn.
- Hội nghị Trung ương 8 (5/1941) : Ngày 28-1-1941, sau 30 năm hoạt
động cách mạng ở nước ngoài, đồng chí Nguyễn Ái Quốc từ nước ngoài
về Cao Bằng, triệu tập Hội nghị Trung ương họp tại Pắc Bó (Cao Bằng)
từ ngày 10 đến ngày 19-5-1941.
- Hội nghị đã thông qua những nội dung như sau:
Hội nghị phân tích kỹ tình hình chiến tranh thế giới và những biến chuyển ở
trong nước, dự báo khả năng phát triển sắp tới, đã đi đến nhận định : chính sách cai
trị của hai tên đế quốc Pháp – Nhật đã làm cho tất cả các dân tộc trên bán đảo
Đông Dương không thể nào sống được. Quyền lợi của tất cả các giai cấp bị cướp
giật, vận mệnh dân tộc nguy vong không lúc nào bằng. Nguyện vọng của nhân dân
Đông Dương là đánh đuổi Pháp – Nhật, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập,
cho nên : « Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh
tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được
vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì
chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi
của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được ». Từ đó, Hội nghị
khẳng định :
• Cách mạng Đông Dương lúc này không phải là cách mạng tư sản dân quyền,

cuộc cách mạng phải giải quyết hai vấn đề phản đế và điền địa nữa, mà là
cuộc cách mạng chỉ giải quyết một vấn đề cần kíp, đó là cuộc cách mạng dân
tộc giải phóng. Cách mạng giải phóng dân tộc không nêu khẩu hiệu đánh đổ
giai cấp địa chủ phong kiến, chia ruộng đất cho nông dân nhưng không phải
14
vì thế mà Đảng không thực hiện nhiệm vụ ruộng đất. Quyền lợi ruộng đất
của nông dân trong cách mạng giải phóng dân tộc được thực hiện bằng việc
tịch thu ruộng đất đế quốc và Việt gian chia cho nông dân, chia lại ruộng
công, giảm tô, bỏ nhiều thứ thuế và được hưởng nhiều quyền tự do dân chủ
khác cùng với dân tộc. Đó là một bước ngắn hơn để có sức mà bước một
bước dài hơn.
• Lực lượng cách mạng là toàn thể dân tộc Việt Nam được tập hợp trong Mặt
trận Việt Nam độc lập Đồng Minh, gọi tắt là Việt minh. Mặt trận chủ trương
liên hiệp hết thảy các tầng lớp nhân dân không phân biệt tôn giáo, đảng phái,
xu hướng chính trị, giai cấp, đoàn kết chiến đấu để đánh đuổi Pháp – Nhật
giành quyền độc lập cho xứ sở. Cần phải phát huy tinh thần yêu nước truyền
thống của dân tộc Việt Nam, tên gọi mặt trận phải có sức « hiệu triệu« hơn
và có tính chất dân tộc hơn nên phải thành lập Mặt trận Việt Minh. Đây là
mặt trận riêng của Việt Nam. Đồng thời phải giúp đỡ Miên, Lào thành lập
Cao Miên độc lập đồng minh và Ai Lao độc lập đồng minh.
• Sau khi thắng lợi, chính quyền mới không phải là Xôviết cũng không phải là
Liên bang Cộng hoà Dân chủ Đông Dương, mà lập Chính phủ Dân chủ
Cộng hoà. Chính quyền mới cũng thành lập riêng ở từng nước theo nguyên
tắc dân tộc tự quyết. Một Chính phủ Cộng hoà mạnh hơn không có quyền
bắt các dân tộc nhỏ yếu tham gia Chính phủ mình. Chính phủ liên bang phải
tự nguyện hoàn toàn. Ai là người sống trên đất Việt Nam, trừ bọn tay sai đế
quốc, đều được tham gia chính quyền và có nhiệm vụ bảo vệ chính quyền
ấy.
• Giành chính quyền phải bằng khởi nghĩa vũ trang. Cách mạng Đông Dương
phải kết thúc bằng cuộc khởi nghĩa vũ trang. Vì vậy, phải tổ chức các đội tự

15
vệ, các lực lượng du kích, phát triển lực lượng du kích Bắc Sơn và tranh thủ
lôi kéo binh lính địch. Điều quan trọng hơn là tập hợp lực lượng quần chúng,
đoàn kết tất cả các giai cấp, các tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, lứa tuổi trong
Mặt trận Việt Minh. Đồng thời phải tích cực lợi dụng mâu thuẫn trong hàng
ngũ kẻ thù để cô lập kẻ thù chủ yếu nhất. Với lực lượng ấy, khi có điều kiện
sẽ khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền.
• Phương thức khởi nghĩa là đi từ khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương
để mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn. Nhưng với điều kiện là
khi phe dân chủ chiến thắng phát xít ở Thái Bình Dương hoặc nhân dân
Trung Hoa chiến thắng quân Nhật ; về phía ta không cjờ đợi khách quan mà
phải chủ động chuẩn bị lực lượng để sẵn sàng đánh bại quân thù.
• Khởi nghĩa vũ trang phải đúng thời cơ cách mạng. Nội dung thời cơ được
xác định : Mặt trận cứu quốc đã thống nhất cả nước ; nhân dân không thể
sống được nữa dưới ách Pháp – Nhật ; sẵn sàng đứng lên khởi nghĩa ; lực
lượng thống trị ở Đông Dương khủng hoảng toàn diện và cực điểm ; khi lực
lượng dân chủ đánh thắng phát xít ; cách mạng Pháp hay Nhật nổi dậy hoặc
cách mạng thuộc địa ở hai nước này sôi nổi ; Đảng phải đủ mạnh và cương
quyết hành động.
• Cần nhanh chóng xây dựng Đảng vững mạnh cả số lượng và chất lượng.
Tăng cường huấn luyện, bồi dưỡng cho cán bộ để họ có đủ năng lực đảm
đương công tác lãnh đạo và công tác chuyên môn, đáp ứng yêu cầu của
phong trào, yêu cầu của khởi nghĩa vũ trang sắp tới. Việc đào tạo cán bộ trở
thành công tác gấp rút. Tất cả các cấp bộ Đảng phải đặc biệt chú trọng công
tác này, dù phải đình đốn rất nhiều bộ phận khác, việc đào tạok cán bộ cũng
không thể xao lãng được. Phải làm cho đảng viên cộng sản có tinh thần kiên
quyết hi sinh, đủ sức chỉ huy và ứng phó trước mọi tình thế.
16
Như vậy, tại hội nghị này, đường lối cách mạng được xác định là cách mạng
giải phóng dân tộc, một bước quan trọng của cách mạng tư sản dân quyền ở

Việt Nam. Những vấn đề chiến lược và phương pháp giành chính quyền được
lý giải rõ ràng có tính lý luận trên cơ sở phù hợp với hoàn cảnh của nước ta.
Những quan điểm quan trọng của Cương lĩnh đầu tiên và các Hội nghị Trung
ương được tiếp tục phát triển. Nhờ đó, Đảng ta nhanh chóng thống nhất tư
tưởng, tổ chức và hành động, vượt qua những biểu hiện « tả khuynh » hoặc
« hữu khuynh », ra sức chuẩn bị lực lượng để giành chính quyền. Toàn dân tộc
ta từ những nhà trí thức đến công, nông đều theo tiếng gọi của Việt Minh sẵn
sàng đứng lên giành độc lập.
Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (5-1941) đã hoàn chỉnh đường lối cách mạng
giải phóng dân tộc. Đó là sự chuẩn bị tất yếu cho thắng lợi của Cách mạng
Tháng Tám.
Vấn đề 3: Bài học xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc (liên minh giai cấp
công nhân, nông dân, tầng lớp trí thức hay Mặt trận dân tộc thống nhất). Liên
hệ
Gợi ý:
- Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thức rõ cách mạng Việt Nam là sự nghiệp
của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Đây là một trong những quan điểm cơ
bản của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; đồng thời là sự kế thừa
và phát triển truyền thống đoàn kết, cộng đồng của dân tộc
- Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin: Quần chúng nhân dân là lực lượng
cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội, là lực lượng quyết định, là động lực của sự
phát triển lịch sử. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng.
17
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân là vấn đề có ý nghĩa chiến
lược, là nguồn sức mạnh, quyết định sự thành công của cách mạng.
- Đại đoàn kết toàn dân tộc là một truyền thống cực kỳ quý báu và là bài học
lịch sử vô giá của dân tộc Việt Nam trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước.
Sức mạnh của dân tộc ta là sức mạnh đại đoàn kết toàn dân.
- Đại đoàn kết toàn dân tộc dựa trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng là đường lối

chiến lược của cách mạng Việt Nam
- Xây dựng liên minh công - nông - trí thức là nguyên tắc chiến lược của chủ
nghĩa Mác – Lênin, là tất yếu phổ biến đối với các cuộc cách mạng do Đảng của
giai cấp vô sản lãnh đạo.
- Ngay từ năm 1930, Đảng ta đã chủ trương thực hiện chiến lược đại đoàn kết
toàn dân tộc dựa trên nền tảng liên minh công – nông – trí do Đảng ta lãnh đạo, trải
qua các thời kỳ đấu tranh giành chính quyền, kháng chiến chống thực dân Pháp,
kháng chiến chống đế quốc Mỹ, xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta ngày càng mở
rộng, củng cố, phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
- Đại đoàn kết toàn dân tộc dựa trên nền tảng liên minh trên dưới sự lãnh đạo
của Đảng là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết
định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
- Dựa vào khối liên minh này, Đảng ta xây dựng được khối đại đoàn kết toàn
dân tộc tạo nên sức mạnh vô địch, là động lực chủ yếu bảo đảm thắng lợi bền vững
của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.
- Một trong những nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững
của cách mạng Việt Nam là Đảng ta xây dựng được khối đại đoàn kết toàn dân trên
cơ sở liên minh công - nông - trí thức do Đảng ta lãnh đạo.
18
- Phân tích, chứng minh qua các Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI,VII,
VIII, IX, X, XI, mà nhất là thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử qua 20 năm đổi
mới:
+ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã chỉ rõ bài học kinh
nghiệm lớn đầu tiên: “Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư
tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao
động ” (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI,
Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1987, trang 213).
+ Cương lĩnh tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã nêu lên
bài học kinh nghiệm lớn từ thực tiễn cách mạng Việt Nam: “Sự nghiệp cách mạng
là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên

thắng lợi lịch sử” và “không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn
Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế” (Đảng Cộng sản Việt
Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1991, trang 5).
+ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã tiếp tục khẳng định tinh
thần của Đại hội VII và khẳng định: “Sự nghiệp xây dựng đất nước đòi hỏi mở
rộng hơn nữa khối đại đoàn kết dân tộc, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng đoàn kết mọi người trong đại gia
đình dân tộc Việt Nam, dù sống ở trong nước hay định cư ở nước ngoài” (Đảng
Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, trang 43).
+ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng nhấn mạnh: “Động lực chủ
yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công
nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá
19
nhân, tập thể và xã hội” (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IX, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, trang 86).
+ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã tổng kết một cách sâu sắc
thực tiễn 20 năm đổi mới, đi đến khẳng định: “Đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền
tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới
sự lãnh đạo của Đảng là đường lối chiến lược nhất quán của cách mạng Việt
Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định
bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” (Đảng
Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, trang 40-41)
+ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng tổng kết thực tiễn 25 năm
tiến hành công cuộc đổi mới và 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã tiếp tục nhấn mạnh: “Đại đoàn kết
toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức
mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi của

sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”( Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà
Nội, 2011, trang 48).
+ Chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc dựa trên nền tảng liên minh trên dưới
sự lãnh đạo của Đảng qua 20 năm đổi mới đã đạt được những thành tựu to lớn và
có ý nghĩa lịch sử.
- Liên hệ
- Nêu lên việc làm của các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các
tổ chức chính trị - xã hội trong việc thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước đối với việc xây dựng, củng cố, phát huy khối
đại đoàn kết nhân dân địa phương.
20
- Nêu lên những ưu điểm, hạn chế cơ bản và nguyên nhân.
- Phương hướng xây dựng khối đại đoàn kết ở địa phương, đơn vị mình.
(xem thêm trang 325 – 362 Giáo trình cũ; xem thêm giáo trình mới từ trang
140 - 144)
Vấn đề 4: Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. (xem thêm giáo trình
Lịch sử Đảng cũ, chương 7, trang 297; giáo trình mới từ 135 - 140)
Gợi ý ý chính:
- Cơ sở lý luận của bài học: Cơ sở lý luận của bài học là lý luận của chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về quan niệm và cách giải quyết mối quan hệ
giữa dân tộc và giai cấp, giữa cách mạng giải phóng dân tộc với xu thế thời đại.
+ Phân tích mối quan hệ giữa dân tộc với giai cấp.
+ Phân tích mối quan hệ giữa cách mạng giải phóng dân tộc với xu thế thời đại.
- Cơ sở thực tiễn của bài học:
+ Đất nước bị đế quốc xâm lược, chống đế quốc và bọn phong kiến tay sai là
yêu cầu khách quan của lịch sử dân tộc. Sau khi giành độc lập dân tộc, thống nhất đất
nước chỉ có tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội thì độc lập dân tộc mới vững chắc.
+ Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng 10 Nga năm 1917 mở ra thời đại mới
trong lịch sử phát triển loài người qui định mọi cuộc cách mạng giải phóng dân tộc

phải tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn.
+ Cách mạng Việt Nam phải đi đúng quỹ đạo đó của lịch sử phát triển
nhân loại.
- Quá trình thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội:
21
- Thời kỳ thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên cả nước (1930 –
1954).
- Thời kỳ đồng thời thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miến Bắc và
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam (1954 – 1975).
- Thời kỳ cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội , tiến hành công cuộc đổi mới
(1976-đến nay).
- Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là quy luật phát triển của
cách mạng Việt Nam và của thời đại
- Kết hợp đúng đắn yếu tố dân tộc, giai cấp và quốc tế.
- Kết hợp chủ nghĩa yêu nước Việt Nam với chủ nghĩa Mác -Lênin.
- Kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội phải phù hợp hoàn cảnh lịch
sử của từng thời kỳ cách mạng.
- Kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội là qui luật phổ biến của thời đại.
- Liên hệ:
- Bản thân không ngừng học tập, nâng cao trình độ, rèn luyện đạo đức cách
mạng, luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước đã phân công.
- Tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, công chức trong cơ quan, đơn vị và
nhân dân, nhận thức sâu sắc độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là hoàn
toàn đúng đắn để ra sức bảo vệ và thực hiện tốt mục tiêu này.
- Luôn chủ động đấu tranh, ngăn chận, đập tan mọi luận điệu tuyên truyền
chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch trong thực hiện chiến lược
“diến biến hòa bình”.
22

Vấn đề 5: Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố chủ yếu quyết định thắng lợi của

cách mạng Việt Nam (xem thêm giáo trình LSD cũ, chương 10, trang 397; giáo
trình mới từ 157 - 164)
Gợi ý:
- Phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn của bài học:
- Cơ sở lý luận của bài học:
+ Chủ nghĩa Mác chỉ ra rằng trong cuộc đấu tranh lật đỗ sự thống trị của
giai cấp tư sản, giai cấp vô sản phải thành lập được chính đảng độc lập của mình là
Đảng Cộng sản, được vũ trang bằng lý luận sắc bén của chủ nghĩa Mác thì mới hoàn
thành sứ mệnh lịch sử của mình.
+ Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Cách mệnh trước hết phải có Đảng
cách mệnh, để trong thì vận động tổ chức quần chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc
bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công,
cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy.
- Cơ sở thực tiễn:
+ Trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, ở nước ta đã xuất hiện nhiều
tổ chức chính trị đấu tranh chống thực dân Pháp, nhưng đều thất bại, do hạn chế của
lịch sử đã không đề ra được đường lối cách mạng đúng đắn.
+ Ngày 3 tháng 2 năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với đường lối
chiến lược đúng đắn đề ra trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên, mở đường cho những
23
thắng lợi oanh liệt, ngày càng to lớn cho cách mạng Việt Nam.
- Phân tích các nội dung:
- Coi trọng xây dựng Đảng về tư tưởng, nâng cao trình độ lý luận, tăng cường
bản chất giai cấp công nhân của Đảng.
- Bảo đảm sự đúng đắn của đường lối và nâng cao bản lĩnh chính trị của
Đảng.
- Xây dựng củng cố Đảng về tổ chức, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ.
- Phát huy những truyền thống vẻ vang và những bài học lớn trong quá trình
lãnh đạo của Đảng.
- Liên hệ

- Khẳng định và quán triệt sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng
đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam cho cán bộ, công chức tại cơ
quan, đơn vị và nhân dân, để củng cố lòng tin vào vai trò lãnh đạo đúng đắn của
Đảng.
- Bản thân cán bộ lãnh đạo, quản lý phải không ngừng giữ vững lập trường
cách mạng; nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ lý luận; góp phần tốt nhất vào việc
xây dựng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; thực
hiện tốt vai trò lãnh đạo, quản lý tại cơ quan, đơn vị mình.
- Luôn chủ động ngăn ngừa, đấu tranh, đập tan mọi luận điệu xuyên tạc đường
lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước của các thế lực thù
địch chống phá Đảng ta; bảo vệ tốt đường lối đúng đắn và vai trò lãnh đạo của Đảng
trong giai đoạn cách mạng hiện nay./.
24
Vấn đề 6: Đường lối đổi mới của Đảng ta tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI (1986) và ý nghĩa
Gợi ý:
- Đổi mới là một yêu cầu khách quan của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta, nhằm nhận thức đúng hơn về chủ nghĩa xã hội, khắc phục những
mặt trì trệ, đẩy nhanh quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội một cách hợp quy luật,
đạt hiệu quả cao.
+ Đổi mới và phát triển là một quá trình thống nhất mang tính quy luật trong
sự phát triển của mọi sự vật và của xã hội/
+ Nhận thức về chủ nghĩa xã hội có nhiều nội dung chưa phù hợp với thời
kỳ quá độ và hoàn cảnh thực tiễn của Việt Nam, có những quy luật khách quan
chưa nhận thức đúng, thậm chí làm trái quy luật.
- Đối với nước ta, đổi mới là yêu cầu bức thiết của chính thực tiễn công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội, là vấn đề có ý nghĩa sống còn.
+ Từ những năm 70 của thế kỷ XX do những nguyên nhân khách quan và
chủ quan đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội, do đó đòi hỏi phải tìm
hướng đi mới, cách làm mới để đưa đất nước ra khỏi tình trạng đó.

+ Đời sống của nhân dân gặp nhiều khó khăn dẫn đến sự suy giảm niềm tin
đối với sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, đòi hỏi Đảng và Nhà nước
cần phải lắng nghe, tổng kết sáng kiến, nguyện vọng của nhân dân để điều chỉnh
quan điểm, đường lối, chính sách cho phù hợp.
25
+ Các nước xã hội chủ nghĩa từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội thấy rõ
cần thiết phải cải cách, mở cửa, cải tổ, đổi mới, nước ta cũng thể hiện xu thế chung
đó
- Phân tích nội dung đường lối đổi mới của Đảng ta đề ra tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VI:
Đổi mới cơ cấu kinh tế. Có chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các
thành phần kinh tế.
- Chính sách đó là sự vận dụng quan điểm của V.I. Lênin coi nền kinh tế có
cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ.
- Đây là một giải pháp có ý nghĩa chiến lược góp phần giải phóng và khai thác
mọi khả năng để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý.
- Các thành phần kinh tế: Kinh tế xã hội chủ nghĩa (quốc doanh, tập thể, bộ
phận kinh tế gia đình gắn liền với thành phần đó), kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa,
kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế tự nhiên tự cấp tự túc.
- Nhận thức và vận dụng đúng quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với
tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế.
- Đổi mới cơ cấu kinh tế phải đi đôi với đổi mới cơ chế quản lý kinh tế.
- Đặc trưng của cơ chế quản lý kinh tế mới là tính kế hoạch và sử dụng đầy
đủ, đúng đắn quan hệ hàng hóa - tiền tệ.
- Thực chất của cơ chế mới về quản lý kinh tế là cơ chế kế hoạch hóa theo
phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa theo nguyên tắc tập trung dân
chủ.

×