Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

Tên đề tài: Di chuyển vốn quốc tế các nguồn lực

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (328.94 KB, 48 trang )

Tên đề tài: Di chuyển vốn quốc tế các nguồn lực
Giới thiệu
Các chương trước, chúng ta mới chỉ nghiên cứu sự trao đổi quốc tế các hàng
hóa dịch vụ. Các lí thuyết thương mại cổ điển đã cho rằng các nhân tố sản xuất
không di chuyển giữa các nước là đặc điểm cơ bản của trao đổi quốc tế. Tuy nhiên,
thực tế đã cho thấy: một trong những đặc trưng nổi bật trong nền kinh tế thế giới
hiện đại lại chính là ngày càng xuất hiện nhiều dòng chảy đan xen giữa các quốc
gia về các yếu tố sản xuất, bao gồm vốn, công nghệ và lao động. Đó là những hiện
tượng sống động và ngày càng gia tăng của nền kinh tế thế giới hiện đại. Trong
chương này, chúng ta sẽ nghiên cứu các khái niệm, đặc trưng và các xu hướng di
chuyển quốc tế về vốn, lao động và công nghệ trong nền kinh tế toàn cầu.
I. Khái niệm và đặc trưng của di chuyển quốc tế các nguồn lực
1. Khái niệm
Nguồn lực là tổng thể vị trí địa lí, các nguồn tài nguyên thiên nhiên, hệ thống
tài sản quốc gia, nguồn nhân lực, đường lối chính sách, vốn và thị trường… ở cả
trong nước và nước ngoài có thể được khai thác nhằm phục vụ cho việc phát triển
kinh tế của một lãnh thổ nhất định.
Ta xem xét nguồn lực qua 2 khía cạnh đơn giản là:nguồn lực có thể di chuyển
và nguồn lực không thể di chuyển. Nguồn lực khồng thể di chuyển như: khí hậu,
khoáng sản, tự nhiên… Nguồn lực như vốn, lao động, công nghệ ngày càng di
chuyển mạnh mẽ về cả quy mô và tốc độ.
1
Di chuyển quốc tế các nguồn lực là việc các nguồn lực có thể di chuyển được
từ quốc gia này sang quốc gia khác tạo thành các dòng chảy của vốn, lao động,
công nghệ.
Trong nền kinh tế toàn cầu hóa hiện nay, khi yêu cầu hội nhập càng lớn thì
các nguồn lực sẽ di chuyển càng mạnh từ quốc gia này sang quốc gia kia. Mỗi giai
đoạn di chuyển của các nguồn lực này lại có các đặc trưng riêng.
2. Các đặc trưng cơ bản của việc di chuyển quốc tế nguồn lực:
• Di chuyển đa hướng với phạm vi ngày một rộng và với tốc độ nhanh.
• Có sự đan xen và xâm nhập lẫn nhau của các dòng chảy các nguồn lực


giữa các quốc gia.
• Các nguồn lực thường chảy từ quốc gia dồi dào sang quốc gia khan hiếm
nguồn lực và tiếp tục lan tỏa đi khắp nơi trong nền kinh tế thế giới.
• Công ty đa quốc gia là những công ty hay doanh nghiệp mà việc sở hữu,
điều hành, quản lý bởi doanh nghiệp có nhiều thành viên của nhiều quốc gia tham
gia.
Công ty đa quốc gia đóng vai trò trung tâm trong quá trình di chuyển các
nguồn lực trên phạm vi quốc tế. Hầu hết việc đầu tư trực tiếp nước ngoài và
chuyển giao công nghệ đều được thực hiện bởi các công ty đa quốc gia. Các công
ty mẹ thường cung cấp cho các công ty con ở nước ngoài những kinh nghiệm quản
lý, kĩ thuật, thiết bị và tổ chức Marketing.
3.Vai trò của các công ty đa quốc gia
a. Những lợi thế:
Hai đặc điểm đặc trưng của công ty đa quốc gia là:
• Qui mô lớn và hoạt động trên khắp thế giới nhưng vẫn nằm trong sự kiểm
soát tập trung của các công ty mẹ.
2
• Qui mô lớn đẵ đem lại quyền lực kinh tế ( và đôi khi cả chính trị ) to lớn
cho các công ty này so với các nước nơi họ hoạt động. Quyền lực này được củng
cố mạnh mẽ bởi vị trí phần lớn là “độc quyền nhóm” ( thị trường do một số ít
người bán chi phối, trong đó có ít nhất một số người bán có sức mạnh đủ lớn so với
toàn bộ thị trường để tác động đến giá thị trường ) của họ trên thị trường => nghĩa
là họ có xu hướng hoạt động trên các thị trường sản phẩm có một ít người bán và
người mua. Tình hình này tạo cho họ khả năng khống chế giá cả và lợi nhuận, câu
kết với các công ty khác trong việc quyết định các khu vực kiểm soát, để hạn chế
sự tham gia vào cạnh tranh trong tương lai bằng ảnh hưởng ưu thế của mình về
công nghệ mới, kỹ thuật đặc biệt, thị hiếu người tiêu dùng thông qua việc phân hóa
sản phẩm cùng loại và quảng cáo sản phẩm tạo nên danh tiếng cho sản phẩm.
- “Lợi thế so sánh cơ bản” của các công ty đa quốc gia là mạng lưới sản xuất
và phân phối toàn cầu. Lợi thế này được tăng lên nhiều thông qua các liên kết

ngang (mối liên kết giữa các công ty con) và liên kết dọc (mối liên kết giữa công ty
mẹ với các công ty con), hầu hết các công ty đa quốc gia có thể nắm được chắc
chắn việc cung cấp nguyên liệu và các sản phẩm trung gian cần thiết từ nước ngoài
và khắc phục được những khuyết điểm thường thấy ở thị trường nước ngoài.
+ Mối liên kết ngang của các công ty con làm cho việc cung cấp cho các
công ty đa quốc gia mạng lưới dịch vụ và phân phối sản phẩm được tốt hơn, các
công ty đa quốc gia được độc quyền khai thác năng lượng, họ có thể làm cho sản
phẩm của mình sản xuất ra thích nghi với điều kiện, thị hiếu của từng địa phương
và ổn định chất lượng sản phẩm.
+ Mối liên kết dọc của công ty mẹ với các công ty con đem lại lợi ích kinh tế
nhất định liên quan đến hoạt động của công ty con, công ty mẹ cũng chi phối đối
với các quyết định liên quan đến hoạt động công ty con.
3
- “Lợi thế so sánh” của các công ty đa quốc gia cũng dựa trên hệ thống cơ
cấu tổ chức sản xuất, tài chính, nghiên cứu và phát triển, thu thập thông tin thị
trường.
+ Những nguồn thu nhập to lớn của các công ty đa quốc gia cho phép họ
giành thắng lợi trong việc phân công chuyên môn hóa sản xuất tốt hơn các công ty
của mỗi quốc gia. Các sản phẩm đòi hỏi các lao động không cần chuyên môn cao
thường có thể sản xuất tại các quốc gia có mức lương thấp hoặc có thể thuê các nơi
khác lắp ráp.
+ Mặt khác, các công ty đa quốc gia có điều kiện trong việc mở rộng thị
trường đầu tư quốc tế hơn so với các công ty quốc gia thuần túy. Vì lẽ các công ty
con đặt ra ở nước ngoài có thể thu thập thông tin khắp nơi trên thế giới về cho các
công ty mẹ giúp cho các công ty này có thể ước lượng, biết trước các tình huống
kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi để thay đổi giá cả hàng hóa cho phù hợp với từng
thời điểm, hay biết rõ thị hiếu của khách hàng để có các kế hoạch sản xuất cụ thể.
Các công ty đa quốc gia có nhiều thuận lợi trong việc điều khiển hoặc thay đổi môi
trường đầu tư cho thích hợp mà trong môi trường đó, họ hoạt động tốt hơn các
công ty quốc gia thuần túy. Để xác định điểm sản xuất có lợi, các công ty đa quốc

gia thường đi thăm dò thực tế ở các nước có giá lao động thấp (thường là các nước
này khuyến khích đầu tư nước ngoài bằng những ưu đãi về thuế suất và các quyền
lợi thương mại khác).
Hầu hết, các công ty đa quốc gia đều có quan hệ tốt đối với nước nhận đầu
tư, nên có điều kiện thuận lợi hơn trong việc thúc đẩy các chính sách ở địa phương
và do vậy mà có thể thu được nhiều lợi ích hơn các công ty địa phương, tránh được
cạnh tranh trong tương lai và giữ trước được khách hàng, làm cho lợi nhuận của
các công ty đa quốc gia có thể được tăng thêm. Công ty đa quốc gia có nhiều thuận
4
lợi trong việc phân tán các rủi ro và nhờ đó mà thu được nhiều lợi nhuận hơn các
công ty nội địa.
Sự kết hợp tất cả các công ty con ở khắp nơi đã mang lại cho các công ty đa
quốc gia một lợi thế so sánh cao hơn hẳn các công ty quốc gia thuần túy.
b. Những bất lợi
Bên cạnh việc có thể làm tăng thu nhập và phúc lợi thế giới, các công ty đa
quốc gia có thể gây ra nhiều bất lợi cho nước chủ nhà và nước sở tại.
 Đối với nước chủ nhà
• Thứ nhất, với nước chủ nhà (nước đi đầu tư): làm giảm việc làm trong
nước do kết quả của việc đầu tư ra nước ngoài. Một số công việc trong nước bị mất
lợi thế so sánh vì ở nước ngoài giá nhân công rẻ hơn. Đây là một trong những
nguyên nhân thúc đẩy các nước có công ty đa quốc gia chống lại việc đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài.
• Thứ hai, kỹ thuật tiên tiến của nước chủ nhà có thể bị hao mòn, do việc
xuất khẩu công nghệ qua các chi nhánh, các doanh nghiệp ở nước ngoài để tối đa
hóa lợi nhuận. Để chống lại bất lợi này, các công ty đa quốc gia hiện nay thường
tập trung nghiên cứu và phát triển ngay trong nước, vì vậy mà có thể nắm giữ được
kỹ thuật hàng đầu của công ty đa quốc gia chủ nhà.
• Thứ ba, các công ty đa quốc gia thường chuyển các hoạt động sang các
quốc gia có thuế quan thấp hơn, các công ty đa quốc gia sẽ nộp thuế ít hơn và việc
này có thể làm thay đổi chính sách thuế của nước chủ nhà.

• Thứ tư, việc gia tăng các công ty đa quốc gia trên thị trường quốc tế có thể
phá vỡ chính sách tiền tệ trong nước và làm cho việc quản lý nền kinh tế của chính
phủ nước chủ nhà thêm khó khăn. Nước chủ nhà phải gánh chịu nhiều khó khăn
trong cán cân thanh toán và việc làm do hoạt động của các công ty đa quốc gia.
5
• Thứ năm, các công ty đa quốc gia không chỉ đem theo vốn mà còn cả công
nghệ sản xuất, thị hiếu và lối sống, dịch vụ quản lý và các thông lệ kinh doanh
phong phú, bao gồm các thỏa thuận hợp tác, hạn chế Marketing, quảng cáo gây
khó khăn tương ứng cho nước chủ nhà.
 Đối với nước sở tại (nước tiếp nhận đầu tư)
• Thứ nhất, nước sở tại có thể chịu sự thống trị của các công ty đa quốc gia
nếu như có nhiều công ty này hoạt động. Chẳng hạn: Canada, có hơn 60% tổng số
vốn trong ngành chế tạo của Canada là sở hữu hoặc điều hành của người nước
ngoài (trong đó 40% là của Hoa Kỳ). Điều này cũng xảy ra ở vài nước phát triển
nhỏ hơn.
• Thứ hai, các công ty đa quốc gia có ảnh hưởng mạnh đến nước chủ nhà
trên nhiều lĩnh vực:
- Chính trị:các công ty con của các công ty đa quốc gia đôi khi không muốn
hoặc rất miễn cưỡng khi xuất khẩu sang một quốc gia không thân thiện với chính
phủ của nước mình, bất chấp quyền lợi của nước tiếp nhận đầu tư tạo ra cho công
ty con của công ty đa quốc gia.Trong một số trường hợp, các công ty đa quốc gia
còn cấm các công ty con xuất khẩu sang nước mà họ coi là thù địch.
- Tài chính: khi lãi suất trong nước quá thấp, các công ty đa quốc gia sẽ cho
nước ngoài vay tiền làm thất thoát vốn và phá vỡ các điều kiện tín dụng chặn chẽ
của nước sở tại.
- Thị hiếu: việc quảng cáo rầm rộ các sản phẩm của nước ngoài như
Cocacola, quần jean làm thay đổi thị hiếu của dân chúng có thể dẫn đến sự thay
đổi về cầu hàng hóa.
• Thứ ba, có thể gây cho nước sở tại sự lệ thuộc về kỹ thuật, đặc biệt là các
nước đang phát triển.

6
• Thứ tư, các công ty đa quốc gia có thể thu hút các nhà quản lý và các
chuyên gia giỏi của nước sở tại gây ra hiện tượng “chảy máu chất xám” và hạn chế
thành lập các công ty quốc gia. Điều này hạn chế sự phát triển và tăng trưởng của
các quốc gia.
• Thứ năm, các công ty đa quốc gia có thể bòn rút từ nước sở tại nhiều lợi
nhuận. Các khoản lợi nhuận từ đầu tư, từ ưu đãi hoặc miễn giảm thuế, từ trốn thuế
bằng nhiều thủ đoạn khác nhau, gây ra sự thất thoát cho nước sở tại.
• Thứ sáu, việc khai thác khoáng sản quá mức có thể dẫn đến sự kiệt quệ về
tài nguyên thiên nhiên, gây ô nhiễm môi trường, làm ảnh hưởng xấu đến nền kinh
tế trong nước.
Tóm lại, sự hoạt động của các công ty đa quốc gia đã tác động nhiều mặt ( cả
tích cực và tiêu cực) đến nền kinh tế nước chủ nhà và nước sở tại. Ngay cả Hoa
Kỳ, quốc gia có nhiều công ty đa quốc gia lớn nhất thế giới cũng đã bắt đầu có
những lo lắng về những ảnh hưởng của nước ngoài thông qua việc đầu tư trực tiếp.
Những cố gắng của EU (European Union – Liên minh châu Âu), UN ( United
Nation – Liên Hiệp Quốc, UNCTAD ( United Nation Conference on Trade and
Development – Hội nghị của Liên Hiệp Quốc về Thương mại và Phát triển),
OECD ( Organization for Economic Co-operation and Development - Tổ chức
Hợp tác và Phát triển kinh tế) nhằm đề ra những qui định quốc tế về việc quản lý
công ty đa quốc gia, song cho đến nay vẫn chưa có một hứa hẹn thành công trong
việc hạn chế sự lộng hành của các công ty đa quốc gia và những vấn đề mà nó gây
ra ở cả hai nước.
Một trong các nguồn lực di chuyển mạnh nhất giữa các quốc gia là vốn. Sau
đây chúng ta sẽ nghiên cứu sự di chuyển vốn quốc tế.
7
II. Khái niệm, đặc điểm, nguyên nhân, vai trò của đầu tư quốc
tế
1. Khái niệm
Di chuyển vốn quốc tế là hình thức quan hệ kinh tế quốc tế trong đó vốn được

di chuyển từ quốc gia này sang quốc gia khác nhằm đầu tư và đem lại lợi ích cho
các bên tham gia.
- Trao đổi quốc tế về vốn xét về bản chất là hoạt động xuất nhập khẩu về
vốn, là hình thức ra đời sau xuất nhập khẩu hàng hóa. Xuất nhập khẩu vốn và hàng
hóa là hai hình thức xuất nhập khẩu bổ sung và hỗ trợ nhau trong chiến lược chiếm
lĩnh thị trường ở các công ty hiện nay. Xuất nhập khẩu hàng hóa là quá trình mua
sắm quyền sở hữu và quyền sử dụng hàng hóa, xuất nhập khẩu vốn chỉ là quá trình
mua bán quyền sử dụng vốn. Quyền sở hữu luôn thuộc về chủ đầu tư, lợi ích của
một quá trình chỉ được tính toán sau một quá trình đầu tư. Bên cạnh lợi ích kinh tế,
trao đổi quốc tế về vốn hiện nay còn gắn với mục đích chính trị- xã hội.
2. Đặc điểm trao đổi quốc tế về vốn
- Vốn trao đổi quốc gia có thể là tiền tệ, tài sản hữu hình( thiết bị vật tư)
hoặc tài sản vô hình (bằng sáng chế, nhãn hiệu…). Dù ở dạng nào cũng được tính
ra giá trị để xác định tổng giá trị đầu tư của chủ đầu tư. Qua đó xác định giá trị
pháp lý, lợi ích chủ đầu tư khi vốn được sử dụng.
- Chủ thể tham gia quá trình sử dụng vốn: chính phủ, tổ chức quốc tế, công
ty hoặc tập đoàn kinh tế. Mỗi chủ thể đều căn cứ vào mục tiêu và điều kiện cụ thể
để tính toán và lựa chọn hình thức đầu tư nhằm đạt lợi ích cao nhất.
- Quá trình đầu tư luôn có hai bên khác quốc gia: bên đầu tư vốn( còn gọi là
bên chủ đầu tư) và bên nhận vốn( bên nhận đầu tư). Nước có dòng vốn đi ra gọi là
nước đầu tư( nước xuất khẩu vốn). Nước có dòng vốn đi vào gọi là nước nhận đầu
8
tư( nhập khẩu vốn). Trong quá trình đầu tư, quyến sở hữu vốn luôn thuộc về chủ
đầu tư của nước đầu tư, vốn được sử dụng tại nước nhận đầu tư.
- Mục đích trao đổi nhằm đem lại nhằm đem lại lợi ích kinh tế, nhằm thực
hiện mục tiêu chính tri- xã hội. Mỗi quá trình trao đổi đều được đánh giá trên mức
độ rộng hay hẹp, tác động đến kinh tế thế giới, từng quốc gia, lợi ích của bên chủ
sở hữu, lợi ích của bên nhận vốn.
3. Nguyên nhân hình thành đầu tư quốc tế.
- Có sự khác nhau lợi thế của các yếu tố sản xuất của từng nước. Chủ đầu tư

di chuyển vốn ra nước ngoài để khai thác lợi thế của các nước nhận đầu tư để có
lợi suất lợi nhuận cao hơn trong nước( đây là nguyên nhân quan trọng).
- Có sự phù hợp về lợi ích các bên tham gia trao đổi vốn:
+ Bên đầu tư: tìm kiếm môi trường đầu tư có lợi, tránh hàng rào bảo hộ
thương maijvaf bên nhạn đầu tư khuếch trương sản phẩm, nâng cao uy tín , tăng
cường uy tín, mở rộng quy mô thị trường. Phân tán rủi ro, bảo toàn vốn.
+ Bên nhận đầu tư: đáp ứng quá trình phát triển kinh tế- xã hội, tạo việc làm
cho người lao động, đồng thời thu hút công nghệ mới, học tập kinh nghiệm quản lý
thông qua đầu tư trực tiếp của các nước chủ đầu tư có trình độ cao hơn.
- Thực hiện các nghĩa vụ kinh tế, chính trị, xã hội của các tổ chức kinh tế
( khu vực hoặc toàn cầu). Vốn được huy động từ quốc gia này sang quốc gia khác
nhằm mục tiêu xây dựng công trình tầm cỡ quốc tế, giúp bảo vệ môi trường, giúp
nước nghèo vượt qua khó khăn…
- Sự ra đời và hoạt động của công ty quốc tế để các hoạt động đầu tư quốc tế
thêm sôi động.
4. Vai trò đầu tư quốc tế.
9
Nước đầu tư
- Tích cực: Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.Tăng nguồn lực thực tế, cải
thiện cán cân thanh toán Thị trường cung cấp nguyên liệu ổn định , phải chăng.
Bành trướng nhờ sức mạnh kinh tế. Phân tán rủi do, thay đổi cơ cấu theo hướng
hiệu quả. Phát triển khả năng cạnh tranh lớn dần từ đầu tư, công nghệ tiên tiến.
Chuyên nghiên cứu vào nước khác.
- Tiêu cực: Chảy nguồn lực quốc gia ra bên ngoài do dó tăng trưởng ít.
Không tạo việc làm gây ra thất nghiệp trong nước. Ảnh hưởng cán cân thanh toán
quốc tế vì mất thị trường xuất khẩu.
Các nước nhận đầu tư
• Đối với nước phát triển.
- Tác động tích cực: giải quyết khó khăn kinh tế, xã hội: thất nghiệp, lạm
phát. Tạo công ăn việc làm, cải thiện cán cân thanh toán. Tăng thu ngân sách qua

việc đánh thuế. Tạo môi trường cạnh tranh thúc đẩy kinh tế phát triển. Học tập trao
đổi kinh nghiệm quản lý tiên tiến nước ngoài.
- Tác động tiêu cực: doanh nghiệp trong nước không cải cách có thể dẫn đến
phá sản. Dễ xáo trộn thị trường nhất là thị trường chứng khoán qua hoạt động đầu
tư gián tiếp.
• Nước chậm và đang phát triển
- Tích cực: Thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế qua xây dựng công ty
nước ngoài, tạo công ăn việc làm.( Ví dụ:Việt Nam vào năm 2005 qua đầu tư quốc
tế đã tạo 700 ngàn lao động trực tiếp và gián tiếp trong hoạt động sản xuất và dịch
vụ). Tạo môi trường cạnh tranh thúc đẩy kinh tế tăng trưởng. Nước chậm và đang
phát triển giảm một phần nợ nước ngoài. Tiếp nhận công nghệ, kinh nghiệm quản
lý.
10
- Tiêu cực: có thể tiếp nhận công nghệ lạc hậu, cũ kĩ, công nghệ đang vào
giai đoạn “xế chiều”. Nguồn tài nguyên có nguy cơ cạn kiệt, bừa bãi, ô nhiễm môi
trường, các mặt về chính trị xã hội.
5. Xu hướng trao đổi quốc tế về vốn:
Cùng với sự phát triển của thị trường vốn, hoạt động trao đổi vốn ngày càng
tăng về sản lượng và đa dạng về hình thức, đóng góp cho sự phát triển kinh tế thế
giới nói chung và kinh tế quốc gia nói riêng. Sự phát triển của đầu tư quốc tế với
cac xu hướng chủ yếu:
• Đầu tư quốc tế tiếp tục gia tăng và trở thành hình thức quan hệ quốc tế quan
trọng với nhiều quốc gia trên thế giới.
• Có sự di chuyển về dòng di chuyển vốn quốc tế: thay đổi cả về hình thức và
lĩnh vực đầu tư.
- Dòng đầu tư ra thị trường chứng khoán tăng nhanh nhất, dòng vốn viện trợ
không hoàn lại giảm.
- Dòng vốn FDI toàn cầu đạt mức cao nhất 1,4 nghìn tỷ USD vào năm 2000
sau đó giảm liên tục trong 3 năm: 41% năm 2001; 20,5% năm 2002, 25%năm
2003. Đến năm 2004 nguồn vốn này tăng trở lại, đến năm 2006 đạt 1222,5 tỉ USD.

Các nhân tố tác động thúc đẩy FDI tăng trở lại là: tăng trưởng cao, lợi nhuận gia
tăng, giá chứng khoán tăng, tăng các hoạt động chuyển giao công nghệ, chính sách
tự do hóa đầu tư quốc gia.
- Sự thay đổi sâu sắc trong lĩnh vực đầu tư: giảm đầu tư vào lĩnh vực truyền
thống, tăng đầu tư vào lĩnh vực có hàm lượng công nghệ cao do mức hấp dẫn của
tỷ suất lợi nhuận ở các lĩnh vực đầu tư này. Ví dụ ở châu Á, FDI chuyển hướng
khá mạnh vào lĩnh vực dịch vụ, trong đó > 50% tập trung vào lĩnh vực vận tải, viễn
thong, dịch vụ kinh doanh.
11
• Có sự thay đổi chủ thể đầu tư và nhận đầu tư: quá trình tăng trưởng và phát
triển kinh tế đang xóa dần ranh giới giữa 2 nhóm nước phát triển và đang phát triển
trong vai trò chủ đầu tư và nhận đầu tư. Mỗi quốc gia đồng thời là chủ đầu tư lĩnh
vực này nhưng lại là bên nhận đầu tư ở lĩnh vực khác tùy theo lợi thế và bất lợi của
từng nước. Bên nhận đầu tư không chỉ là các nước đang phát triển mà các nước
phát triển cũng là nước nhận vốn đầu tư quốc tế.( trong năm 2003 tại các nước
công nghiệp phát triển, dòng FDI đạt 367 tỷ USD; FDI ra đạt 570 tỷ USD). Chủ
đầu tư quốc tế hiện nay không chỉ là các nước phát triển mà các nước đang phát
triển cũng có xu hướng đầu tư vào lĩnh vực có lợi thế cạnh tranh.
• Khu vực châu Á Thái Bình Dương hấp dẫn FDI nhất thế giới. Nguyên nhân
là do tăng trưởng kinh tế, mở cửa chính sách kinh tế của các nước đang phát triển.
Trong 10 nước tiếp nhận FDI lớn nhất là Trung Quốc, Singapore, Ấn Độ… Trong
nội bộ khu vực Châu Á Thái Bình Dương, FDI chủ yếu tập trung các nước Đông
Bắc Á:67 tỷ USD(02) đến 72 tỷ USD (03). Khu vực Đông Nam Á, FDI cũng có xu
hướng tăng( từ 15 tỷ USD năm 2002 lên 19 tỷ USD năm 2003).
III. Các hình thức đầu tư quốc tế:
có thể phân làm 2 loại là đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp.
1. Đầu tư gián tiếp
• Khái niệm: đầu tư gián tiếp( FPI) là một loại hình di chuyển vốn giữa các
quốc gia, trong đó người sở hữu vốn không trực tiếp quản lý và điều hành các hoạt
động sử dụng vốn.

• Thực chất: FPI là loại hình đầu tư quốc tế mà chủ đầu tư không trực tiếp
chịu trách nhiệm đầu tư. Chủ đầu tư chỉ hưởng lãi suất theo tỷ lệ công bố trước của
vốn mà họ đầu tư thông qua một đối tác nhất định ở các nước khác. Các hình thức
của FPI thường là: đầu tư phiếu khoán và viện trợ nước ngoài.
12
1.1 . Đầu tư phiếu khoán:
Là hình thức đầu tư tài sản vào lĩnh vực thuần túy như cổ phiếu, trái phiếu.
• Đầu tư trái phiếu có nghĩa là nhà đầu tư mua trái phiếu của Chính Phủ hoặc
của các công ty hàng đầu trong một nước phát hành. Thực chất của đầu tư trái
phiếu là nhà đầu tư cho tổ chức hoặc quốc gia phát hành trái phiếu vay một lượng
vốn nhất định, sau đó nhận đủ một giá trị danh nghĩa của trái phiếu vào một thời
điểm nhất định cho trước, cộng với phần lãi vốn cho vay theo tỷ lệ lãi suất công bố
trước.
• Đầu tư cổ phiếu là các nhà đầu tư mua cổ phần của các công ty theo tỷ lệ
thấp, thường từ 10-25% vốn pháp định. Thực chất của đầu tư cổ phiếu là người
nắm cổ phiếu trong tay đã thực sự trở thành chủ đầu tư và hưởng lợi tức cổ phần
theo hiệu quả mà công ty phát hành cổ phần đạt được. Lợi tức cổ phần có thể cao
hơn hoặc thấp hơn lãi suất cho vay,thậm chí giá trị của cổ phần này cũng bị thả nổi
tùy theo tình hình kinh doanh của công ty phát hành.
1.2. Viện trợ nước ngoài:
Là hình thức hỗ trợ phát triển của Chính phủ, các tổ chức quốc tế, các tổ chức
phi chính phủ có tính chất song phương hoặc đa phương.Viện trợ quân sự không
được coi là bộ phận của Hỗ trợ phát triển chính thức , hợp tác kĩ thuật là một bộ
phận của phát triển chính thức(ODA).
 Phân loại ODA:
Theo chủ thể tài trợ : gồm ODA song phương và ODA đa phương.
• Các tổ chức viện trợ đa phương hiện đang hoạt động gồm các tổ chức
thuộc hệ thống Liên Hợp Quốc, Cộng đồng châu Âu, các tổ chức phi chính phủ và
các tổ chức tài chính quốc tế.
13

- Các hệ thống Liên Hợp Quốc, xét về mặt hỗ trợ phát triển, quan trọng nhất
là: Chương trình phát triển của Liên Hợp Quốc (UNDP), quỹ nhi đồng Liên Hợp
Quốc (UNICF), chương trình Lương thực thế giới(WFP), quỹ dân số Liên Hợp
Quốc (UNFPA), tổ chức y tế thế giới(WHO)
Hầu hết viện trợ của các tổ chức thuộc hệ thống Liên Hiệp Quốc đều thực
hiện dưới hình thức không hoàn lại, ưu tiên cho các nước đang phát triển, có thu
nhập thấp và không ràng buộc chính trị một cách lộ liễu. Viện trợ thường tập trung
vào các nhu cầu có tính chất xã hội( văn hóa, giáo dục, y tế, xóa đói giảm
nghèo…). Nếu viện trợ phát triển thì chủ yếu tập trung cung cấp phòng thí nghiệm,
cố vấn, chuyên gia đào tạo, còn phần cung cấp thiết bị chiếm tỷ lệ thấp.
- Liên minh châu Âu( EU) là tổ chức có tính chất kinh tế xã hội của các nước
công nghiệp phát triển châu Âu. EU có quỹ lớn, quy chế viện trợ rất phức tạp,
thường gắn viện trợ phát triển với chính trị và nhân quyền. EU có quan hệ ngoại
giao với Việt Nam từ tháng 11/1990. Từ đó đến nay quan hệ giữa Việt Nam và EU
tiến triển thuận lợi, số tiền mà EU cam kết viện trợ cho Việt Nam ngày càng tăng.
- Các tổ chức tài chính quốc tế: Quỹ tiền tệ thế giới (IMF) là tổ chức phi tài
chính tiền tệ rất quan trọng. Các loại hình tín dụng của IMF đều được thường được
thực hiện bằng tiền mặt và không bị ràng buộc bởi thị trường mua sắm. Ngân hàng
thế giới (WB), là tên gọi chung của tổ chức tài chính tiền tệ lớn gồm ngân hàng tái
thiết và phát triển quốc tế (IBRD), hiệp hội phát triển quốc tế(IDA),công ty tài
chính quốc tế (IFC), tổ chức bảo hiểm đầu tư đa biên(MIGA).
• Tổ chức viện trợ song phương: Thường là chính phủ các nước công nghiệp
phát triển như Nhật Bản, Mỹ, Pháp, Đức,…theo quy định của Liên Hợp Quốc
(năm 1970) các nước công nghiệp phát triển hàng năm phải dành 0,7% GNP để
viện trợ ODA cho các nước đang phát triển, nhưng thực tế chỉ có rất ít quốc gia
thực hiện được chỉ tiêu này.
14
Hiện nay, Việt Nam có quan hệ với 25 nhà tài trợ ODA song phương, trong
đó có Nhật Bản là nhà tài trợ lớn nhất chiếm tới khoảng 40% tổng số vốn ODA mà
cộng đồng quốc tế cam kết viện trợ. Tiếp theo là các nhà tài trợ như Pháp, Tây Ba

Nha, Cộng hòa liên bang Đức…
Theo phương thức hoàn trả vốn: các khoản trợ cấp không hoàn lại và các
khoản vay ưu đãi trong viện trợ. Trong đó, phần viện trợ không hoàn lại chiếm ít
nhất là 25% so với các khoản cho vay theo tiêu chuẩn của ngân hàng. Chẳng hạn
năm 1986, thành phần trợ cấp trung bình của các nước thành viên OECD cho các
nước kém phát triển là 98,9% so với 90% cho tất cả các nước tiếp nhận. Thành
phần không hoàn lại của vốn vay tùy thuộc vào chỗ: lãi suất thấp hơn lãi suất
thương mại là bao nhiêu, thời gian ân hạn tức là thời gian chưa yêu cầu trả cả lãi
lẫn vốn gốc, và mức độ chấp nhận thanh toán bằng tiền bản xứ hoặc tiền không
chuyển đổi.
 Vai trò của viện trợ.
Các nhà phê bình đều khẳng định viện trợ không có hiệu quả, nhưng trong
thực tế vẫn luôn có viện trợ, tại sao vậy?
Viện trợ nước ngoài thường vì quyền lợi bản thân các quốc gia. Viện trợ kinh
tế hay viện trợ quân sự, đều có thể dùng vào mục đích chiến lược để củng cố các
liên minh là các nước đang phát triển, để chống đỡ cho phòng thủ của các nước
viện trợ, giúp các nước viện trợ dễ dàng đi tiếp cận vật tư chiến lược, giữ cho liên
minh các nước LDCs không thay đổi phe phái trong đấu tranh chính trị quốc tế.
Các quan tâm về chính trị và ý thức hệ là động cơ của viện trợ: mối quan hệ văn
hóa hoặc để truyền bá một thứ chủ nghĩa nào đó. Hơn nữa còn hỗ trợ các lợi ích
kinh tế băng tạo thuận lợi cho đầu tư tư nhân ra nước ngoài, trợ cấp hoặc ràng buộc
xuất khẩu…
15
Viện trợ ràng buộc vì nó ngăn chặn không cho nước nhận viện trợ sử dụng
khoản viện trợ ra ngoài nước nhận viện trợ, nên thực tế khoản viện trợ thường có
mệnh giá ít hơn của nó,
Một số hình thức viện trợ khác được thực hiện vì lý do nhân đạo. chẳng hạn
như cứu tế khẩn cấp, viện trợ lương thực, giúp đỡ người di tản và trợ cấp cho các
nước kém phát triển. Rất khó mà tách được các đông cơ nhân đạo ra khỏi việc mưu
cầu vụ lợi trong việc duy trì một hệ thống chính trị toàn cầu, ổn định.

 Tác động của viện trơ:
Ưu điểm của ODA
• Lãi suất thấp (dưới 20%, trung bình từ 0.25%năm)
• Thời gian cho vay cũng như thời gian ân hạn dài (25-40 năm mới phải hoàn
trả và thời gian ân hạn 8-10 năm)
• Trong nguồn vốn ODA luôn có một phần viện trợ không hoàn lại, thấp nhất
là 25% của tổng số vốn ODA.
Bất lợi khi nhận ODA
Trong một số trường hợp, viện trợ vượt quá khả năng tiếp thu của một nước
đang phát triển, hơn nữa có thể làm trở ngại tinh thần tự lực cánh sinh, trì hoãn cải
cách cơ bản bên trong hoặc ủng hộ những lợi ích ích kỷ bên trong trái ngược với sự
phân phối thu nhập.
Các nước giàu khi viện trợ ODA đều gắn với những lợi ích và chiến lược như
mở rộng thị trường, mở rộng hợp tác có lợi cho họ, đảm bảo mục tiêu về an ninh -
quốc phòng hoặc theo đuổi mục tiêu chính trị Vì vậy, họ đều có chính sách riêng
hướng vào một số lĩnh vực mà họ quan tâm hay họ có lợi thế (những mục tiêu ưu
tiên này thay đổi cùng với tình hình phát triển kinh tế - chính trị - xã hội trong
nước, khu vực và trên thế giới).Ví dụ:
16
• Về kinh tế, nước tiếp nhận ODA phải chấp nhận dỡ bỏ dần hàng rào thuế
quan bảo hộ các ngành công nghiệp non trẻ và bảng thuế xuất nhập khẩu hàng hoá
của nước tài trợ. Nước tiếp nhận ODA cũng được yêu cầu từng bước mở cửa thị
trường bảo hộ cho những danh mục hàng hoá mới của nước tài trợ; yêu cầu có
những ưu đãi đối với các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài như cho phép họ đầu tư
vào những lĩnh vực hạn chế, có khả năng sinh lời cao
• Nguồn vốn ODA từ các nước giàu cung cấp cho các nước nghèo cũng
thường gắn với việc mua các sản phẩm từ các nước này mà không hoàn toàn phù
hợp, thậm chí là không cần thiết đối với các nước nghèo. Ví như các dự án ODA
trong lĩnh vực đào tạo, lập dự án và tư vấn kỹ thuật, phần trả cho các chuyên gia
nước ngoài thường chiếm đến hơn 90% (bên nước tài trợ ODA thường yêu cầu trả

lương cho các chuyên gia, cố vấn dự án của họ quá cao so với chi phí thực tế cần
thuê chuyên gia như vậy trên thị trường lao động thế giới).
• Nguồn vốn viện trợ ODA còn được gắn với các điều khoản mậu dịch đặc
biệt nhập khẩu tối đa các sản phẩm của họ. Cụ thể là nước cấp ODA buộc nước
tiếp nhận ODA phải chấp nhận một khoản ODA là hàng hoá, dịch vụ do họ sản
xuất.
• Nước tiếp nhận ODA tuy có toàn quyền quản lý sử dụng ODA nhưng thông
thường, các danh mục dự án ODA cũng phải có sự thoả thuận, đồng ý của nước
viện trợ, dù không trực tiếp điều hành dự án nhưng họ có thể tham gia gián tiếp
dưới hình thức nhà thầu hoặc hỗ trợ chuyên gia.
• Tác động của yếu tố tỷ giá hối đoái có thể làm cho giá trị vốn ODA phải
hoàn lại tăng lên.
Ngoài ra, tình trạng thất thoát, lãng phí; xây dựng chiến lược, quy hoạch thu
hút và sử dụng vốn ODA vào các lĩnh vực chưa hợp lý; trình độ quản lý thấp, thiếu
kinh nghiệm trong quá trình tiếp nhận cũng như xử lý, điều hành dự án… khiến
17
cho hiệu quả và chất lượng các công trình đầu tư bằng nguồn vốn này còn thấp
có thể đẩy nước tiếp nhận ODA vào tình trạng nợ nần.
Số liệu năm 2004 của OECD cho biết lượng vốn ODA cung cấp bởi một số
nước phát triển:
Nước
Vốn (triệu
USD)
% thay đổi hằng
năm
%
GNI
Hoa
Kỳ
19000 16,4

0,1
6
Nhật
Bản
8900 -0,2
0,1
9
Pháp 8500 16,8
0,4
2
Anh
Quốc
7800 24,7
0,3
6
Đức 7500 10,5
0,2
8

Lan
4200 6,4
0,7
4
Thụy
Điển
2700 12,7
0,7
7
1.3. Đặc điểm của đầu tư gián tiếp là:
• Nhà đầu tư không kiểm soát các hoạt động kinh doanh.

• Nếu là vốn của các tổ chức quốc tế thì thường đi kèm với các điều kiện ưu
đãi và gắn với thái độ chính trị của chính phủ và tổ chức quốc tế khác. Nếu là vốn
18
của tư nhân thì bị hạn chế tỷ lệ góp vốn theo luật đầu tư của nước sở tại, thông
thường từ 10%-25% vốn pháp định.
• Chủ đầu tư nước ngoài kiếm lời qua lãi suất cho vay hay lợi tức cổ phần.
• Độ rủi ro thấp.
1.4. Loại hình đâu tư gián tiếp có các ưu và nhược điểm sau:
 Về ưu điểm:
• Quốc gia sở tại được chủ động bố trí cơ cấu đầu tư và chủ động sử dụng
vốn.
• Vốn đầu tư được phân tán trong vô số những người mua cổ phiếu, trái phiếu
và đưa đến các địa chỉ khác nhau. Chủ đầu tư có thể phân tán được rủi ro trong
kinh doanh.
• Phần lớn là các khoản vốn ưu đãi và viện trợ nên thời gian sử dụng dài, lãi
suất thấp, khối lượng đầu tư lớn,nên thường được sử dụng vào các công trình đầu
tư có nhiều vốn, thời gian dài, lãi suất thấp như xây dựng các cơ sở hạ tầng, công
trình công cộng… để tạo điều kiện và môi trường nhằm thu hút và sử dụng hiệu
quả vốn FDI,
 Về nhược điểm:
• Hạn chế khả năng thu hút vốn nước ngoài vì tỷ lệ góp vốn hạn chế.
• Hiệu quả sử dụng vốn không cao do các nước tiếp nhận thường là các nước
đang và kém phát triển nên kinh nghiệm và trình độ sử dụng vốn còn hạn chế.
• Dù là vốn ưu đãi nhưng vẫn phải trả nên dẫn đến tình trạng nợ nước ngoài
quá lớn, thậm chí có nước không có khả năng trả nợ. Hiện nay, nợ nước ngoài của
các nước đang phát triển lên đến con số 1500 tỷ đô la Mỹ. Món nợ khổng lồ này
19
đang lớn dần lên do lãi mẹ đẻ lãi con, và các nước này còn phải vay thêm để giải
quyết vấn đề kinh tế xã hội trong nước.
• Đầu tư gián tiếp hạn chế khả năng tiếp thu kĩ thuật công nghệ và kinh

nghiệm quản lý tiên tiến của các nước chủ đầu tư.
• Các quốc gia sở tại dễ bị các chủ nợ trói buộc vào vòng ảnh hưởng chính trị
của họ.
2. Đầu tư trực tiếp FDI
2.1. Khái niệm
FDI là loại hình đầu tư quốc tế mà chủ đầu tư bỏ vốn để xây dựng hoặc mua
phần lớn hoặc thậm chí toàn bộ cơ sở kinh doanh ở nước ngoài để là chủ sở hữu
toàn bộ hay từng phần cơ sở đó và trực tiếp quản lý điều hành hoặc tham gia quản
lý điều hành hoạt động của đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư. Đồng thời, họ cũng
chịu trách nhiệm theo mức sở hữu về kết quả sản xuất kinh doanh của dự án.
( FDI: Đó là khoản đầu tư từ nước ngoài vào một doanh nghiệp trong nước,
nhà đầu tư nắm giữ một phần nhất định trong doanh nghiệp. Nếu không có yếu tố
kiểm soát hiện tại, nó sẽ trở thành việc đầu tư theo hình thức cổ phiếu. Trong
những năm gần đây, FDI chiếm phần quan trọng trong nguồn vốn tư nhân chảy vào
những nước đang phát triển, đặc biệt là những nước có mức thu nhập ở mức trung
bình và cao.)
Khi nói đến FDI nghĩa là nói đến hình thức đầu tư trực tiếp của nhà đầu tư
nước ngoài.Cụ thể dưới các hình thức đầu tư sau:
- Thành lập tổ chức kinh tế (100% vốn hoặc liên doanh)
- Đầu tư theo hình thức hợp đồng ( BCC,BOT,BTO,BT)
- Đầu tư phát triển kinh doanh
20
- Mua cổ phần góp vốn để tham gia quản lý hoạt động đầu tư
- Đầu tư thực hiện việc sát nhập và mua lại doanh nghiệp
2.2. Đặc điểm:
• Tỷ lệ vốn của các nhà đầu tư nước ngoài trong vốn pháp định của dự án đạt
mức tối thiểu tùy theo luật đầu tư của từng nước quy định. Vd: Luật đầu tư nước
ngoài ở VN quy định chủ đầu tư nước ngoài phải góp tối thiểu 30% vốn pháp định
của dự án.
• Các nhà đầu tư nước ngoài trực tiếp quản lý và điều hành dự án mà họ trực

tiếp đầu tư. Quyền quản lý doanh nghiệp phụ thuộc vào tỷ lệ góp vốn của chủ đầu
tư trong vốn pháp định của dự án.
• Kết quả thu được từ hoạt động kinh doanh của dự án được phân chia cho các
bên theo tỷ lệ góp vốn vào vốn pháp định sau khi nộp thuế cho nước sở tại và trả
lợi tức cổ phần (nếu có)
• FDI thường được thực hiện thông qua việc xây dựng doanh nghiệp mới, mua
lại toàn bộ hoặc từng phần doanh nghiệp đang hoạt động hoặc mua cổ phiếu để
thôn tính hoặc sát nhập các doanh nghiệp với nhau.
2.3. Vai trò:
a. Đối với nước đi đầu tư:
 Tích cực:
- Do chủ đầu tư nước ngoài trực tiếp quản lý và điều hành dự án nên họ
thường có trách nhiệm cao, thường đưa ra những quyết định có lợi nhất cho họ =>
đảm bảo hiệu quả cảu vốn FDI cao
- Chủ đầu tư nước ngoài mở rộng được thị trường tiêu thụ sản phẩm nguyên
liệu, công nghệ, trang thiết bị trong khu vực và thế giới.
21
- Có thể giảm giá thành sản phẩm do khai thác được nguồn lao động giá rẻ
hoặc gần nguồn nguyên liệu hoặc gần thị trường tiêu thụ sản phẩm => nâng cao
hiệu quả kinh tế của vốn FDI, tăng năng suất và thu nhập quốc dân.
- Tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch và phi mậu dịch của nước sở tại vì
thông qua FDI mà chủ đầu tư nước ngoài xây dựng được các doanh nghiệp của
mình nằm trong lòng các nước thi hành chính sách bảo hộ.
 Tiêu cực:
- Chính phủ các nước đi đầu tư đưa ra các chính sách ko phù hợp sẽ không
khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện đầu tư trong nước mà chú trọng việc ra
nước ngoài để đầu tư thu lợi => các quốc gia chủ nhà có xu hướng bị suy thoái, tụt
hậu.
- Đầu tư ra nước ngoài có nguy cơ bị nhiều rủi ro hơn trong nước.
b. Đối với các nước nhận đầu tư:

 Tích cực:
- Tạo điều kiện khai thác nhiều vốn từ bên ngoài (do ko quy định mức góp
tối đa mà chỉ quy định mức tối thiểu cho các nhà đầu tư nước ngoài)
- Tạo điều kiện tiếp thu kỹ thuật và công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý
kinh doanh bên nước ngoài.
- Tạo các điều kiện thuận lợi để khai thác tốt nhất các lợi thế của mình về tài
nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý….
- Tạo thêm việc làm, tăng tốc độ tăng trưởng của đối tượng bỏ vốn và nền
kinh tế, tăng kim ngạch xuất khẩu, nâng cao đời sống của nhân dân.
- Góp phần cải tạo cảnh quan xã hội, tăng năng suất và thu nhập quốc dân.
22
- Khuyến khích năng lực kinh doanh trong nước, tiếp cận với thị trường
nước ngoài.
 Tiêu cực:
- Môi trường chính trị và kinh tế nước tiếp nhận tác động trực tiếp đến dòng
vốn FDI.
- Nếu không có 1 quy hoạch đầu tư cụ thể và khoa học, có thể đầu tư tràn
lan kém hiệu quả, tài nguyên bị khai thác bừa bãi và sẽ gây ra ô nhiễm môi trường
nghiêm trọng.
- Trình độ của đối tác nước tiếp nhận sẽ quyết định hiệu quả của hợp tác đầu
tư.
- Có thể nhận chuyển giao từ các nước đi đầu tư các công nghệ không phù
hợp với nền kinh tế trong nước gây ô nhiễm môi trường.
- Việc chủ động trong bố trí cơ cấu đầu tư bị hạn chế
- Giảm số lượng doanh nghiệp trong nước, ảnh hưởng tới cán cân thanh toán
của nước nhận.
- Bị thua thiệt do vấn đề giá chuyển nhượng nội bộ từ các công ty quốc tế
(công ty xuyên quốc gia, đa quốc gia)
2.4. Số thông tin khác
• Dòng vốn FDI chủ yếu chảy trong khối OECD là khu vực tương đối nhiều

vốn của thế giới. Ngày nay, 80% tổng số vốn FDI hướng vào các nước tư bản phất
triển. VD: Mỹ là quốc gia nhập khẩu tư bản lớn nhất thế giới và cũng trở thành con
nợ lớn nhất giới (1991, tổng số nợ nước ngoài là 670 tỷ USD)
23
• Dòng vốn FDI chảy nhiều nhất trong nội bộ khu vực do những ưu thế về
khoảng cách địa lý và các điều kiện tương đồng. VD: các nước NIC
S
là các chủ đầu
tư lớn ở khu vực ĐNÁ.
• Lĩnh vực đầu tư hiện nay cũng đã có nhiều thay đổi: chú trọng hướng vào
dịch vụ, thương mại và tài chính, điện tử, tin học viễn thông…
• Đối với các nước chậm phát triển, các nhà đầu tư thường hướng vào:
- Các dự án vừa và nhỏ trong các lĩnh vực nhanh thu hồi vốn, ít rủi ro.
- Các lĩnh vực và địa bàn mà nước tiếp nhận dành nhiều ưu đãi.
- Các lĩnh vực có thị trường nội địa lớn.
- Các lĩnh vực sử dụng nhiều lao động và khai thác các tài nguyên chiến
lược như than, sắt, dầu mỏ…
• Đông Á và Đông Nam Á hiện đang trở thành khu vực hấp dẫn đầu tư nước
ngoài vì đây là vùng có nền kinh tế phát triển năng động nhất thế giới trong những
năm gần đây. Mặt khác, khu vực này có quy mô thị trường tương đối lớn, giá lđ rẻ,
nguồn lao động dồi dào, nhiều tài nguyên chưa được khai thác, môi trường đầu tư
ngày càng được cải thiện, mức độ cạnh tranh thấp hơn các nước tư bản phát triển.
- Malaysia trong 5 năm vốn FDI tăng tới 8 lần (từ 739 triệu USD năm 1987
lên 6 tỷ USD năm 1991)
- Inđonêxia năm 1988 vôn FDI gấp 3 lần năm 1987, năm 1990 gấp 1,8 lần
năm 1989 và tốc độ này vẫn được giữ cho đến cuối năm 1991
- VN cũng có tốc độ tăng hàng năm khoảng 2,4 lần
IV. Thực trạng, nguyên nhân đầu tư nước ngoài vào Việt Nam
1. So sánh FPI và FDI
24

• Giống nhau:
- Đều là hoạt động đầu tư vốn ra nước ngoài, luồng vốn được luân chuyển
làm tăng lượng vốn và dự trữ ngoại tệ cho nước chủ nhà. FDI và FPI xuất hiện do
nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
- Mục đích tạo lợi nhuận cho NĐT. Lợi nhuận của NĐT phụ thuộc vào kết
quả kinh doanh của doanh nghiệp và tỷ lệ thuận với số vốn đầu tư. Do đó, tình hình
hoạt động của doanh nghiệp là mối quan tâm chung của hai hoạt động này.
- Đều là hoạt động đầu tư quốc tệ và chịu sự điều chỉnh của nhiều luật lệ
khác nhau, các quy ước quốc tế
• Khác nhau:
FDI FPI
- NĐT vừa là người bỏ vốn, vừa là
người trực tiếp quản lý điều hành việc
sử dụng vốn của mình và có quyền
tham gia và hoạt động của doanh
nghiệp.
- Đơn thuần là hoạt đổng đầu tư tài
chính, bỏ vốn vào doanh nghiệp qua
việc mua bán chứng khoán hoặc tài
sản có giá khác. NĐT ko tham gia vào
hoat động của DN.
- đặc điểm: tính ổn định và dài hạn, ko
dễ bị rút đi trong thời gian ngắn vì gắn
liền với hoạt động của dự án.
- Tinh mất ổn định, tốc độ luân
chuyển vốn cao hơn nhiều so với FDI.
Giúp tăng tính linh hoạt của nền kinh
tế. Tuy nhiên trong thời kỳ suy thoái,
gây nên tính mất cân bằng, ảnh hướng
lớn đến hoạt động sản xuất kinh

doanh.
25

×