Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

tiểu luận Thực trạng về gian lận và sai sót trên Báo cáo tài chính và trách nhiệm của kiểm toán viên đối với gian lận và sai sót tại Việt Nam giai đoạn 2011 -2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (269.48 KB, 32 trang )

Đề án môn học GVHD: TS. Nguyễn Thị Hồng Thúy
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Trong nền kinh tế thị trường, thông tin, đặc biệt là các thông tin tài chính đóng
vai trò rất quan trọng trong việc ra các quyết định kinh doanh. Thông tin sai lệch, bất
cân xứng dẫn đến sai lầm trong việc ra quyết định, gây thiệt hại lớn cho các đối tượng
sử dụng. Vì vậy, đảm bảo tính minh bạch, tính trung thực của thông tin tài chính là
vấn đề luôn được quan tâm hàng đầu. Thời gian gần đây, thế giới liên tục đưa tin
nhiều vụ gian lận tài chính lớn gây chấn động dư luận. Người ta không chỉ bất ngờ về
những tổn thất kinh tế do gian lận gây ra mà còn cả các phương pháp thực hiện gian
lận hết sức tinh vi. Người thực hiện gian lận, ngoài nhân viên và tầng lớp lãnh đạo cao
cấp của công ty, còn có sự tiếp tay của kiểm toán viên độc lập
Tại Việt Nam cũng xảy ra không ít những vụ gian lận tài chính. Việc không
phát hiện ra các sai sót, gian lận nay do rất nhiều nguyên nhân trong đó có một phần
trách nhiệm thuộc về các kiểm toán viên và công ty kiểm toán. Tuy nhiên do đang còn
là lĩnh vực mới mẻ đối với nước ta nên trình độ chuyên môn cũng như là những kiến
thức, chuẩn mực của thế giới nước ta vẫn chưa theo kịp được. Hành lang pháp lý cho
việc thực hiện kiểm toán cũng còn nhiều bất cập
Vì vậy, nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán độc lập, tăng cường trách
nhiệm của kiểm toán viên trong việc phát hiện gian lận và sai sót trên Báo cáo tài
chính là một chủ đề mang tính thời sự nhằm nâng cao tính minh bạch, tính đáng tin
cậy của thông tin tài chính trong việc ra các quyết định kinh tế. Đề án tập trung phân
tích một vài sai sót, gian lận và cách thức giải quyết của thế giới, đồng thời nêu rõ
thực trạng, những tồn tại tại Việt Nam và đề suất những giải pháp cải thiện.
2. Mục đích và phạm vi nghiên cứu:
- Tìm hiểu kinh nghiệm các nước trên thế giới trong nhận diện gian lận sai sót
cũng như trách nhiệm kiểm toán viên đối với gian lận và sai sót
- Khảo sát thực trạng về trách nhiệm kiểm toán viên đối với gian lận và sai sót
tại Việt Nam hiện nay;
- Đề xuất các phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao trách nhiệm kiểm
toán viên trong việc phát hiện gian lận, sai sót.


Phạm vi nghiên cứu tập trung vào các trách nhiệm kiểm toán viên độc lập trong kiểm
toán Báo cáo tài chính
3. Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp chính được sử dụng trong đề tài này là
phương pháp thu thập tài liệu và duy vật biện chứng.
4. Kết cấu của đề tài: Gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về gian lận và sai sót và trách nhiệm của kiểm toán
viên đối với gian lận và sai sót
Chương 2: Thực trạng về gian lận và sai sót trên Báo cáo tài chính và
trách nhiệm của kiểm toán viên đối với gian lận và sai sót tại Việt Nam hiện nay
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao trách nhiệm của
kiểm toán viên đối với việc phát hiện gian lận và sai sót trong cuộc kiểm toán Báo
cáo tài chính.
Bùi Thị Lan Phương Kiểm toán 49C
1
Đề án môn học GVHD: TS. Nguyễn Thị Hồng Thúy
Chương 1: Tổng quan về gian lận và sai sót và trách nhiệm của
kiểm toán viên đối với gian lận và sai sót
1.1Tổng quan về gian lận và sai sót trên Báo cáo tài chính
1.1.1 Định nghĩa về gian lận và sai sót
Gian lận: là các hành vi bất thường và phi pháp mang chủ ý lừa dối, hay đưa
thông tin thiếu chính xác mà cá nhân đó biết rõ là sai hoặc tin là không đúng. Người
có hành vi gian lận biết rõ hành vi đó có thể đem lại lợi ích bất hợp pháp cho cá nhân
hoặc tổ chức nào đó. Gian lận có thể do người bên trong hoặc bên ngoài tổ chức thực
hiện.Các loại hình gian lận phổ biến bao gồm gian lận báo cáo tài chính, biển thủ tài
sản và tham nhũng.
Trên góc độ kiểm toán báo cáo tài chính, gian lận là những hành vi cố ý làm sai
lệch thông tin kinh tế, tài chính do một hay nhiều người trong Hội đồng quản trị, Ban
Giám đốc, các nhân viên hoặc bên thứ ba thực hiện, làm ảnh hưởng đến báo cáo tài
chính.
Gian lận có thể biểu hiện dưới các dạng tổng quát sau:

- Xuyên tạc, làm giả chứng từ, tài liệu liên quan đến báo cáo tài chính;
- Sửa đổi chứng từ, tài liệu kế toán làm sai lệch báo cáo tài chính;
- Biển thủ tài sản;
- Che dấu hoặc cố ý bỏ sót các thông tin, tài liệu hoặc nghiệp vụ kinh tế làm sai
lệch báo cáo tài chính;
- Ghi chép các nghiệp vụ kinh tế không đúng sự thật;
- Cố ý áp dụng sai các chuẩn mực, nguyên tắc, phương pháp và chế độ kế toán,
chính sách tài chính;
- Cố ý tính toán sai về số học.
Sai sót: Là những lỗi không cố ý có ảnh hưởng đến báo cáo tài chính, như:
- Lỗi về tính toán số học hoặc ghi chép sai.
- Bỏ sót hoặc hiểu sai, làm sai các khoản mục, các nghiệp vụ kinh tế.
- Áp dụng sai các chuẩn mực, nguyên tắc, phương pháp và chế độ kế toán,
chính sách tài chính nhưng không cố ý.
- Áp dụng phương pháp đánh giá không đúng.
1.1.2 Sự nảy sinh và phát triển của gian lận
Gian lận xuất hiện cùng với sự hình thành và phát triển của xã hội loài người.
Cùng với quá trình phát triển của xã hội, hành vi gian lận ngày càng tinh vi hơn và
biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Gian lận xuất hiện trong mọi nghề nghiệp
ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển xã hội. Chính vì vậy, trên thế giới đã có khá
nhiều công trình nghiên cứu về gian lận đứng trên nhiều góc độ khác nhau nhằm giúp
các nghề nghiệp có liên quan tìm được các biện pháp ngăn ngừa, phát hiện gian lận.
Công trình nghiên cứu của Donald R. Cressey (nhà nghiên cứu về tội phạm tại
trường Đại học Indiana (Mỹ) vào những năm 40 của thế kỷ 20) phân tích về gian lận
dưới góc độ tham ô và biển thủ thông qua khảo sát khoảng 200 trường hợp tội phạm
kinh tế đã đưa ra mô hình: Tam giác gian lận (Fraud Triangle) để trình bày về các
nhân tố dẫn đến các hành vi gian lận mà ngày nay đã trở thành một trong những mô
hình chính thống dùng trong nhiều nghề nghiệp khác nhau trong việc nghiên cứu gian
lận, trong đó có nghề kiểm toán.
Bùi Thị Lan Phương Kiểm toán 49C

2
Đề án môn học GVHD: TS. Nguyễn Thị Hồng Thúy
Theo ông, gian lận chỉ phát sinh khi hội đủ 3 nhân tố: Áp lực, cơ hội, thái độ cá
tính
- Áp lực: Gian lận thường phát sinh khi nhân viên, người quản lý hay tổ chức
chịu áp lực. Áp lực có thể là những bế tắc trong cuộc sống cá nhân như do khó khăn
về tài chính, do sự rạn nứt trong mối quan hệ giữa ngưởi chủ và người làm thuê.
- Cơ hội: là thời cơ để thực hiện hành vi gian lận ví dụ như là kiểm soát lỏng
lẻo. Có hai yếu tố liên quan đến cơ hội là: nắm bắt thông tin và có kỹ năng thực hiện.
Chức quyền càng cao thì càng có nhiều cơ hội thực hiện gian lận.
- Thái độ, cá tính: Không phải mọi người khi gặp khó khăn và có cơ hội cũng
đều thực hiện gian lận mà phụ thuộc rất nhiều vào thái độ cá tính của từng cá nhân.
Thiếu liêm khiết sẽ làm cho sự kết hợp giữa áp lực và thời cơ biến thành hành động
gian lận.
Các kết quả nghiên cứu của Hiệp hội các nhà điều tra gian lận Mỹ ACFE vào
năm 2002, 2004, 2006 trên toàn nươc Mỹ cho thấy: có 3 hình thức gian lận chủ yếu
+ Biển thủ tài sản: Xảy ra khi nhân viên biển thủ tài sản của tổ chức (ví dụ
điển hình là biển thủ tiền, đánh cắp hàng tồn kho, gian lận về tiền lương).
+ Tham ô: Xảy ra khi người quản lý lợi dụng trách nhiệm và quyền hạn của họ
tham ô tài sản của công ty hay hành động trái ngược với các nghĩa vụ họ đã cam kết
với tổ chức để làm lợi cho bản thân hay một bên thứ ba.
+ Gian lận trên báo cáo tài chính: Là trường hợp các thông tin trên báo cáo tài
chính bị bóp méo, phản ảnh không trung thực tình hình tài chính một cách cố ý nhằm
lường gạt người sử dụng thông tin.
Bảng 1: Kết quả cuộc nghiên cứu của ACFE cho thấy
Năm 2002 Năm 2004 Năm 2006
Loại gian lận % Thiệt hại
(USD)
% Thiệt hại
(USD)

% Thiệt hại
(USD)
Biển thủ 85,7% 80.000 92.7% 93.000 91,5 150.000
Tham ô 12,8% 530.000 30,1% 250.000 30,8 538.000
Gian lận trên
BCTC
5,1% 4.250.000 7,9% 1.000.000 10,6 2.000.000
Bảng trên cho thấy dù gian lận trên báo cáo tài chính xảy ra ít thường xuyên
hơn nhưng tác động của chúng đối với báo cáo tài chính lớn hơn nhiều lần so với hành
vi tham ô, biển thủ và theo thời gian thì tỷ trọng của nó ngày càng gia tăng. tuy nhiên,
nhiều nhà nghiên cứu cho rằng khó mà xác định được thiệt hại thực sự bởi lẽ không
phải tất cả những gian lận đều bị phát hiện và không phải tất cả các gian lận được phát
hiện đều được báo cáo và không phải tất cả gian lận đã báo cáo đều bị khởi tố theo
đúng pháp luật.
Dưới đây là thống kê các loại gian lận phổ biến trên BCTC
Bảng 2: Các loại gian lận phổ biến trên BCTC
Loại gian lận Trường hợp báo cáo % (trường hợp)
Che dấu công nợ 54 45%
Ghi nhận DT không có thật 52 43.3%
Định giá sai tài sản 45 37.5%
Ghi nhận sai niên độ 34 28,3%
Công bố thông tin quan trọng 56 48%
Bùi Thị Lan Phương Kiểm toán 49C
3
Đề án môn học GVHD: TS. Nguyễn Thị Hồng Thúy
Các phương pháp gian lận thường dùng là:
a. Che dấu công nợ và chi phí
Che dấu công nợ đưa đến giảm chi phí là một trong những kỹ thuật gian lận
phổ biến trên BCTCnhằm mục đích khai khống lợi nhuận. Khi đó, lợi nhuận trước
thuế sẽ tăng tương ứng với số chi phí hay công nợ bị che dấu. Đây là phương pháp dễ

thực hiện và khó bị phát hiện vì thường không để lại dấu vết. Có ba phương pháp
chính thực hiện giấu gian lận và chi phí:
- Không ghi nhận công nợ và chi phí, đặc biệt không lập đầy đủ các khoản dự
phòng;
- Vốn hoá chi phí;
- Không ghi nhận hàng bán trả lại – các khoản giảm trừ và không trích trước
chi phí bảo hành;
b. Ghi nhận doanh thu không có thật hay khai cao doanh thu
Là việc ghi nhận vào sổ sách một nghiệp vụ bán hàng hoá hay cung cấp dịch vụ
không có thực. Kỹ thuật thường sử dụng là tạo ra các khách hàng giả mạo thông qua
lập chứng từ giả mạo nhưng hàng hóa không được giao và đầu niên độ sau sẽ lập bút
toán hàng bán bị trả lại,
Khai cao doanh thu còn được thực hiện thông qua việc cố ý ghi tăng các nhân tố trên
Hóa đơn như số lượng, giá bán… hoặc ghi nhận doanh thu khi các điều kiện giao hàng
chưa hoàn tất, chưa chuyển quyền sở hữu và chuyển rủi ro đối với hàng hoá – dịch vụ
được bán.
c. Định giá sai tài sản
Việc định giá sai tài sản được thực hiện thông qua việc không ghi giảm giá trị
hàng tồn kho khi hàng đã hư hỏng, không còn sử dụng được hay không lập đầy đủ dự
phòng giảm giá hàng tồn kho, nợ phải thu khó đòi, các khoản đầu tư ngắn, dài hạn.
Các tài sản thường bị định giá sai như là: các tài sản mua qua hợp nhất kinh doanh, tài
sản cố định, không vốn hoá đầy đủ các chi phí vô hình, phân loại không đúng tài sản.
d. Ghi nhận sai niên độ
Doanh thu hay chi phí được ghi nhận không đúng với thời kỳ mà nó phát sinh.
Doanh thu hoặc chi phí của kỳ này có thể chuyển sang kỳ kế tiếp hay ngược lại để làm
tăng hoặc giảm thu nhập theo mong muốn.
e. Không khai báo đầy đủ thông tin
Việc không khai báo đầy đủ các thông tin nhằm hạn chế khả năng phân tích
của người sử dụng Báo cáo tài chính. Các thông tin thường không đựợc khai báo đầy
đủ trong thuyết minh như nợ tiềm tàng , các sự kiện phát sinh sau ngày khóa sổ kế

tóan, thông tin về bên có liên quan, các những thay đổi về chính sách kế toán…
1.2 Trách nhiệm của kiểm toán viên đối với gian lận và sai sót theo chuẩn mực
kiểm toán quốc tế ISA
1.2.2.1 Trách nhiệm kiểm toán viên theo chuẩn mực kiểm toán ISA 200 năm 2010
ISA 200 yêu cầu KTV đưa ra một sự bảo đảm hợp lý rằng các báo cáo tài chính
đã được kiểm toán không còn các sai phạm trọng yếu dù bản chất của nó là gian lận
hay sai sót. Điều này đạt được khi KTV thu thập được đầy đủ bằng chứng kiểm toán
thích hợp để giảm bớt rủi ro đưa ra một ý kiến không phù hợp tới một mức độ chấp
nhận được.Vì vậy kiểm toán viên không có trách nhiệm phát hiện các sai phạm không
trọng yếu. Công việc kiểm toán không phải là việc điều tra gian lận sai sót, vì vậy
Bùi Thị Lan Phương Kiểm toán 49C
4
Đề án môn học GVHD: TS. Nguyễn Thị Hồng Thúy
kiểm toán viên không có quyền hạn pháp lý cụ thể đối với gian lận và sai sót.
KTV phải luôn có thái độ hoài nghi nghề nghiệp trong cả lập kế hoạch và thực hiện
kiểm toán theo các bước công việc:
- Xác định và đánh giá rủi ro có sai sót trọng yếu, cho dù do gian lận hay sai sót
dựa trên sự hiểu biết đơn vị kinh doanh, môi trường kinh tế pháp lý bao gồm cả hệ
thống kiểm soát nội bộ của đơn vị.
- Thu được đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp về việc liệu có tồn tại các
sai phạm trọng yếu thông qua thiết kế thực hiện theo những rủi ro đánh giá
Mục tiêu của kiểm toán báo cáo tài chính là giúp kiểm toán viên và công ty
kiểm toán thu thập bằng chứng chứng minh rằng báo cáo tài chính đã được lập trung
thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu theo quy định và những chuẩn mực kiểm
toán được chấp nhận rộng rãi.
Trong mọi trường hợp KTV không đưa ra được mức độ đảm bảo hợp lý thì
kiểm toán viên phải đưa ra ý kiến từ chối cho ý kiến hoặc rút khỏi hợp đồng kiểm
toán.
Khi nghi ngờ về độ tin cậy của thông tin thu thập được kiểm toán viên cần phải
điều tra thêm và xác định những sửa đổi bổ sung các thủ tục kiểm toán cần thiết.

1.2.2 2 Trách nhiệm của KTV đối với gian lận và sai sót trên Báo cáo tài chính
theo ISA 240 năm 2010
ISA 240 quy định rõ về trách nhiệm của kiểm toán viên đối với gian lận và sai
sót. Theo đó, kiểm toán viên có trách nhiệm đưa ra một mức đảm bảo hợp lý rằng
BCTC không có sai phạm trọng yếu dù sai phạm đó có bản chất là gian lận hay sai
sót. Khi có được sự đảm bảo hợp lý, KTV có trách nhiệm duy trì thái độ hoài nghi
chuyên nghiệp trong suốt cuộc kiểm toán, rằng có khả năng vẫn còn gian lận, sai sót
trọng yếu và lựa chọn những thủ tục cần thiết để phát hiện.Các KTV phải đánh giá các
mối quan hệ bất thường, từ việc thực hiện các thủ tục phân tích vì có thể nó tồn tại rủi
ro có sai sót trọng yếu do gian lận.
Giám đốc (hoặc người đứng đầu) đơn vị chịu trách nhiệm trực tiếp trong việc
ngăn ngừa, phát hiện và xử lý các gian lận và sai sót trong đơn vị thông qua việc xây
dựng và duy trì thực hiện thường xuyên hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ
thích hợp. Do hạn chế vốn có của hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ nên
khó có thể loại trừ hoàn toàn khả năng xảy ra gian lận hoặc sai sót.
Trong quá trình kiểm toán, kiểm toán viên và công ty kiểm toán có trách nhiệm
giúp đơn vị phát hiện, xử lý và ngăn ngừa gian lận và sai sót, nhưng kiểm toán viên và
công ty kiểm toán không phải chịu trách nhiệm trực tiếp trong việc ngăn ngừa các
gian lận và sai sót ở đơn vị mà họ kiểm toán,
Khi lập kế hoạch và khi thực hiện kiểm toán, KTV phải đánh giá rủi ro về
những gian lận và sai sót có thể có, làm ảnh hưởng trọng yếu đến báo cáo tài chính và
phải trao đổi với Giám đốc (hoặc người đứng dầu) đơn vị về mọi gian lận hoặc sai sót
quan trọng phát hiện được.
Trên cơ sở đánh giá rủi ro, KTV phải thiết lập các thủ tục kiểm toán thích hợp nhằm
đảm bảo các gian lận và sai sót có ảnh hưởng trọng yếu đến báo cáo tài chính đều
được phát hiện.
KTV phải thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp để chứng minh là
không có gian lận hoặc sai sót làm ảnh hưởng trọng yếu đến báo cáo tài chính; hoặc
nếu có gian lận, sai sót thì đã được phát hiện, được sửa chữa hoặc đã trình bày trong
báo cáo tài chính, và KTV phải chỉ ra ảnh hưởng của gian lận và sai sót đến báo cáo

Bùi Thị Lan Phương Kiểm toán 49C
5
Đề án môn học GVHD: TS. Nguyễn Thị Hồng Thúy
tài chính.
Do những hạn chế vốn có của kiểm toán, nên dù đã tuân thủ các nguyên tắc và
thủ tục kiểm toán thì rủi ro do không phát hiện hết các gian lận và sai sót của KTV
làm ảnh hưởng trọng yếu đến báo cáo tài chính vẫn có thể xảy ra. Khi xảy ra rủi ro do
không phát hiện hết các gian lận và sai sót làm ảnh hưởng trọng yếu đến báo cáo tài
chính đã được kiểm toán thì phải xem xét việc chấp hành đầy đủ nguyên tắc và thủ tục
kiểm toán trong từng hoàn cảnh cụ thể và tính thích hợp của các kết luận trong báo
cáo kiểm toán dựa trên kết quả của các thủ tục kiểm toán đã thực hiện.
Rủi ro không phát hiện hết các sai phạm trọng yếu do gian lận cao hơn rủi ro
không phát hiện hết các sai phạm trọng yếu do sai sót, vì gian lận thường đi kèm với
các hành vi cố ý che dấu gian lận. KTV có quyền chấp nhận những giải trình, các ghi
chép và tài liệu của khách hàng khi có bằng chứng về việc không có gian lận và sai
sót. Tuy vậy, KTV phải có thái độ hoài nghi mang tính nghề nghiệp trong quá trình
lập kế hoạch và thực hiện kiểm toán và phải luôn ý thức được rằng có thể tồn tại
những tình huống hoặc sự kiện dẫn đến những sai sót trọng yếu trong báo cáo tài
chính.
Như vậy trong quá trình kiểm toán, KTV có trách nhiệm giúp đỡ đơn vị được
kiểm toán trong việc phát hiện, ngăn ngừa và xử lý các gian lận và sai sót, nhưng
KTV và công ty kiểm toán không phải chịu trách nhiệm trực tiếp trong việc ngăn ngừa
các gian lận và sai sót ở đơn vị mà mình kiểm toán khi lập kế hoạch và khi thực hiện
kiểm toán. KTV phải đánh giá rủi ro về các có giân lận và sai sót có thể có, làm ảnh
hưởng trọng yếu đến Báo cáo tài chính và phải thiết lập các thủ tục kiểm toán thích
hợp nhằm đảm bảo các gian lận và sai sót có ảnh hưởng tất yếu đến BCTC đều được
phát hiện.
Khi phát hiện gian lận và sai sót, KTV và công ty kiểm toán phải:
- Thông báo cho giám đốc hoặc người đứng đầu: KTV phải thông báo kịp thời
những phát hiện của mình cho Giám đốc đơn vị được kiểm toán trong thời hạn nhanh

nhất trước ngày phát hành BCTC, hoặc trước ngày phát hành Báo cáo kiểm toán, khi:
+ KTV nghi ngờ có gian lận, mặc dù chưa đánh giá được ảnh hưởng của gian
lận này tới báo cáo tài chính;
+ Có gian lận hoặc có sai sót trọng yếu.
Khi nghi ngờ có gian lận, hoặc phát hiện ra gian lận hoặc sai sót trọng yếu đã
xảy ra hoặc có thể xảy ra, KTV và công ty kiểm toán phải cân nhắc tất cả các tình
huống xem cần thông báo cho cấp nào. Trường hợp có gian lận, KTV phải đánh giá
khả năng gian lận này liên quan đến cấp quản lý nào. Trong hầu hết các trường hợp
xảy ra gian lận, KTV và công ty kiểm toán phải thông báo cho cấp quản lý cao hơn
cấp của những người có dính líu đến gian lận đó. Khi nghi ngờ gian lận có liên quan
đến người Lãnh đạo cao nhất trong đơn vị được kiểm toán thì thông thường KTV và
công ty kiểm toán phải tham khảo ý kiến của chuyên gia tư vấn pháp luật để xác định
các thủ tục cần tiến hành.
- Thông báo cho người sử dụng báo cáo kiểm toán: Nếu KTV kết luận rằng có
gian lận hoặc sai sót làm ảnh hưởng trọng yếu đến báo cáo tài chính nhưng gian lận
hoặc sai sót này không được đơn vị sửa chữa hoặc không được phản ảnh đầy đủ trong
báo cáo tài chính, thì KTV và công ty kiểm toán phải đưa ra ý kiến chấp nhận từng
phần hoặc ý kiến không chấp nhận.
Trường hợp có gian lận hoặc sai sót có thể làm ảnh hưởng trọng yếu đến báo
cáo tài chính mặc dù đã phản ánh đầy đủ trong báo cáo tài chính nhưng KTV và công
ty kiểm toán vẫn phải chỉ rõ ra trong Báo cáo kiểm toán.
Bùi Thị Lan Phương Kiểm toán 49C
6
Đề án môn học GVHD: TS. Nguyễn Thị Hồng Thúy
Nếu đơn vị không cho phép KTV thu thập đầy đủ các bằng chứng kiểm toán
thích hợp để đánh giá gian lận hoặc sai sót đã xảy ra hoặc có thể xảy ra làm ảnh hưởng
trọng yếu đến báo cáo tài chính thì KTV và công ty kiểm toán phải đưa ra ý kiến chấp
nhận từng phần hoặc ý kiến từ chối vì phạm vi kiểm toán bị giới hạn.
Nếu không thể xác định được đầy đủ gian lận hoặc sai sót đã xảy ra do hạn chế khách
quan từ bên ngoài hoặc do chủ quan trong đơn vị được kiểm toán thì KTV và công ty

kiểm toán phải xét tới ảnh hưởng của gian lận hoặc sai sót này tới Báo cáo kiểm toán.
- Thông báo cho cơ quan chức năng có liên quan:
KTV và công ty kiểm toán có trách nhiệm bảo mật các thông tin, số liệu của khách
hàng, trừ trường hợp đơn vị được kiểm toán có gian lận hoặc sai sót mà theo qui định
của pháp luật, KTV phải thông báo hành vi gian lận hoặc sai sót đó cho cơ quan chức
năng có liên quan. Trường hợp này, KTV và công ty kiểm toán được phép trao đổi
trước với chuyên gia tư vấn pháp luật.
KTV và công ty kiểm toán được phép chấm dứt hợp đồng kiểm toán khi xét
thấy đơn vị được kiểm toán không có biện pháp cần thiết để xử lý đối với gian lận mà
KTV cho là cần thiết trong hoàn cảnh cụ thể, kể cả các gian lận không ảnh hưởng
trọng yếu đến báo cáo tài chính.
Trường hợp rút khỏi hợp đồng kiểm toán, nếu KTV khác được thay thế yêu cầu
cung cấp thông tin về khách hàng thì KTV hiện tại phải thông báo rõ lý do chuyên
môn dẫn tới buộc phải chấm dứt hợp đồng. KTV hiện tại có thể thảo luận và thông
báo với KTV khác được thay thế về các thông tin của khách hàng phù hợp với luật
pháp, yêu cầu về đạo đức nghề nghiệp kiểm toán có liên quan và phạm vi cho phép
của khách hàng. Nếu khách hàng không cho phép thảo luận về công việc của họ thì
KTV hiện tại cũng phải thông báo về việc không cho phép này cho KTV được thay
thế.
Ngoài ra còn có các chuẩn mực kiểm toán trong giai đoạn lập kế hoạch liên
quan đến trách nhiệm của KTV trong việc phát hiện gian lận và sai sót như: ISA 300-
Lập kế hoạch, ISA 315- Hiểu biết về công ty khách hàng và đánh giá những rủi ro
trọng yếu, ISA 330- Đối phó với gian lận và sai sót trên Báo cáo tài chính, 520 –Thủ
tục phân tích
1.3 Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
Đồng hành với sự phát triển của nền kinh tế là sự gia tăng nhanh chóng của gian
lận cả về quy mô và những phương pháp thực hiện và che dấu tinh vi. Trong đó gian
lận trên báo cáo tài chính ngày tuy chiếm tỷ trọng nhỏ nhưng lại gây thiệt hại nghiêm
trọng nhất thông qua việc gây quyết định sai lầm cho người sử dụng BCTC. Vì vậy vai
trò của Kiểm toán độc lập ngày càng quan trọng. Các gian lận và sai sót mà Kiểm toán

phát hiện ra đã góp phần lành mạnh hóa thông tin, giảm thiệt hại cho và đem lại lòng
tin cho xã hội. Tuy nhiên nhiều vụ gian lận tài chính thế giới bị phát hiện đã đặt ra một
dấu chấm hỏi về chất lượng hoạt động kiểm toán mà một trong những yếu tố quyết
định là năng lực, đạo đức và trách nhiệm của các Kiểm toán viên. Vì vậy thế giới và
Việt Nam cần phải tìm ra được phương hướng và giải pháp nâng cao trách nhiệm của
KTV với gian lận và sai sót trên BCTC.
Hệ thống quy định chuẩn mực.
Chuẩn mực kiểm toán VN (VSA) được xây dựng dựa trên cơ các chuẩn mực
quốc tế về Kiểm toán (ISA) của IFAC (ủy quyền cho ủy ban IAASB) ấn hành, phù hợp
với đặc điểm riêng của VN. Tuy nhiên, theo thời gian thì các chuẩn mực này sẽ không
còn phù hợp nữa vì hàng năm ISA đều được cập nhật các phiên bản mới nên Việt nam
Bùi Thị Lan Phương Kiểm toán 49C
7
Đề án môn học GVHD: TS. Nguyễn Thị Hồng Thúy
cũng phải thường xuyên cập nhật hoàn thiện hệ thống chuẩn mực VN VSA trong đó có
chuẩn mực liên quan đến trách nhiệm kiểm toán viên với gian lận và sai sót. Một vấn
đề cần quan tâm nữa các chuẩn mực Việt Nam về trách nhiệm của KTV với gian lận và
sai sót chỉ mang tính tống quát, chung chung nên cần phải ban hành các văn bản hướng
dẫn chi tiết để trợ giúp cho các KTV thực hiện kiểm toán như: Các hướng dẫn về thủ
tục phát hiện gian lận, hướng dẫn về thủ tục phân tích, đánh giá trọng yếu và rủi ro…
Trình độ kiểm toán không cao, thiếu tính thận trọng và tính độc lập
Kiểm toán là một quá trình đòi hỏi sự đánh giá chuyên nghiệp. Sự đánh giá
chuyên nghiệp phụ thuộc vào kinh nghiệm làm việc phong phú. Những kiểm toán viên
mới được đào tạo hạn chế và thiếu kinh nghiệm làm việc sẽ kiểm toán những báo cáo
tài chính của công ty đã được niêm yết, trong khi những kiểm toán viên giỏi không
trực tiếp dính vào quá trình kiểm toán. Các kiểm toán viên giàu kinh nghiệm và thu
nhập cao mải mê mở rộng dịch vụ tư vấn trong khi những người trẻ ít kinh nghiệm và
thu nhập thấp thì chủ yếu làm kiểm toán. Điều này giải thích một hiện tượng: một
công ty lớn luân chuyển hàng từ nhà kho này sang nhà kho khác, các CPA trẻ thường
kiểm kê cùng một loại hàng hóa nhưng lại ở hai địa điểm khác nhau mà không hề biết.

Ví dụ này cho thấy những thất bại trong kiểm toán thường bắt nguồn từ các kiểm toán
viên thiếu kinh nghiệm. Nhiều kiểm toán viên thường bộc lộ nhược điểm của họ là
thiếu tính thận trọng và tính hoài nghi nghiệp vụ cần thiết, và do đó thường tin vào lời
giải thích của các vị lãnh đạo quản lý công ty. Điều này tạo ra rủi ro lớn cho các kết
luận kiểm toán. Mặt khác tính độc lập của kiểm toán viên cũng đang bị đe dọa nghiêm
trọng bởi các lợi ích kinh tế. Vì vậy cần chú trọng nâng cao năng lực, kinh nghiệm,
tính thận trọng và đạo đức nghề nghiệp cho các kiểm toán viên thông qua các quy
định, hướng dẫn và đào tạo.
Hệ thống kiểm soát chất lượng.
Kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán là một vấn đề phức tạp, cần có sự
tham gia của nhiều tổ chức. việc kiểm soát chất lượng luôn là mối quan tâm hàng đầu
không chỉ của các công ty kiểm toán mà của cả Nhà nươc, Ủy ban Chứng khoán. Tại
Việt Nam, thị trường chứng khoán đã hình thành và phát triển mạnh trong những năm
gần đây. Để ổn định thị trường chứng khoán, một trong những biện pháp không thể
thiếu là thông tin cung cấp phải trung thực. Muốn vậy, dịch vụ kiểm toán phải đảm bảo
chất lượng. Muốn nâng cao chất lượng, cần tiến hành kiểm soát chất lượng hoạt động
kiểm toán. Nhận thức tầm quan trọng của kiểm soát chất lượng từ bên ngoài đối với
hoạt động kiểm toán, từ năm 1998, Bộ Tài chính đã tổ chức các cuộc kiểm tra đối với
công ty kiểm toán. Vào ngày 15/05/2007, Bộ Tài chính đã ban hành Quyết định
32/2007/QĐ-BTC về Quy chế kiểm soát chất lượng dịch vụ kế toán, kiểm toán. Quy
chế này dù có những ưu điểm đáng kể, tuy nhiên vẫn còn những bất cập làm cho việc
kiểm soát chất lượng không phát huy tác dụng đầy đủ. Vì vậy, việc nghiên cứu mô
hình kiểm soát chất lượng của các quốc gia phát triển cao như Hoa Kỳ có thể giúp Việt
Nam rút ra những bài học kinh nghiệm trong việc hoàn thiện kiểm soát chất lượng cho
hoạt động kiểm toán độc lập.
Bùi Thị Lan Phương Kiểm toán 49C
8
Đề án môn học GVHD: TS. Nguyễn Thị Hồng Thúy
Chương 2: Thực trạng về gian lận và sai sót trên Báo cáo tài chính
và trách nhiệm của kiểm toán viên đối với gian lận và sai sót tại

Việt Nam hiện nay
2.1. Thực trạng về gian lận và sai sót trên Báo cáo tài chính trong các doanh
nghiệp Việt Nam
2.1.1. Các loại gian lận đối với từng loại hình doanh nghiệp
Gian lận tại công ty TNHH, công ty cổ phần có vốn nhà nước.
- Lần đầu tiên công khai báo cáo kiểm toán nhà nước. Nhiều bộ lập quỹ đen,
doanh nghiệp nhà nước thua lỗ hơn 1.000 tỷ đồng, chi mua sắm, xây dựng trụ sở tràn
lan, tham nhũng những việc làm trên khiến ngân sách nhà nước hụt thu 4.500 tỷ
đồng.
- Các doanh nghiệp nhà nước làm ăn kém hiệu quả, lỗ nặng nhưng vẫn báo cáo
lãi, hết năm này tới năm khác. Điển hình Vinashin vẫn còn nóng hôi hổi, ăm 2009 lỗ
1.600 tỷ đồng nhưng lại báo cáo lãi 750 tỷ đồng, quý 1 năm 2010 thua lỗ vẫn báo cáo
lãi gần 100 tỷ đồng.
- Thuế giá trị gia tăng bị khai giảm. Riêng Vinashin tỷ đồng, Tổng công ty Đầu
tư phát triển nhà và đô thị phải nộp thêm 33,3 tỷ đồng với lỗi kê khai sai thuế, hạch
toán giảm doanh thu chịu thuế.
- Mua sắm tài sản, trang thiết bị với mức giá trên trời, khai tăng chi phí để bỏ túi
riêng, tham ô của công. Định giá tài sản doanh nghiệp khi CPH, nhiều doanh nghiệp áp
dụng đơn giá để xác định giá trị nhà cửa, kiến trúc không đúng theo suất đầu tư do
Viện Kinh tế, Bộ Xây dựng ban hành. Việc xác định tỉ lệ còn lại của nhà cửa, vật kiến
trúc cũng áp dụng sai quy định của Nhà nước. Mua sắm tài sản trên danh nghĩa doanh
nghiệp nhưng lại dùng cho mục đích cá nhân.
- Còn đối với các dự án công trình xây dựng cơ bản thì sao? Những sai phạm
xảy ra ở tất cả các khâu từ quá trình chuẩn bị đầu tư, thực hành đầu tư đến thanh quyết
toán công trình đưa vào sử dụng.Tiến hành đấu thầu hạn chế, thậm chí còn không tiến
hành đấu thầu mà ban quản lý, chủ đầu tư lợi dụng những lỏng lẻo trong vấn đề kiểm
tra kiểm soát đã iu ái duyệt giá cao chót vót cho những “thương vụ bắt tay” với số tiền
vượt xa số tiền cần thiết để thực hiện hạng mục và chia nhau bỏ túi số chênh lệch này.
Sau khi nhận được thầu, các Tổng công ty chính bán lại cho các công ty con thu “Chí
phí quản lý cấp trên” . “Thượng bất chính, hạ tắc loạn” các công ty con bị mẹ ăn thì

phải bòn rút từ lòng đường, từ nguyên vật liệu để bù vào. Rồi khi thiết kế cơ quan dự
toán thiết kế đã "quên mất " không trừ các phần trùng nhau, tính thừa khối lượng sai số
học, áp dụng không đúng hệ số dự toán, sai thừa thêm thành phần công việc trong quá
trình lập dự toán, dự toán giá nguyên vật liệu tăng gấp 2,3 lần so với giá thị trường,
làm tăng giá công trình. Cuối cùng là móc nối với bộ phận nghiệm thu công trình
không đúng khối lượng thực hiện, đường ngắn tính dài, đường rộng tính hẹp, thế là trót
lọt. Đơn cử vụ án đình đám PMU18 đã gây thất thoát cho nhà nước đến hàng tỷ đồng.
Những điều tra đã chỉ ra nguyên nhân sai phạm chủ yếu là do những yếu kém trong
công tác quán lý của ban quản lý dự án, sự lỏng lẻo trong công tác kiểm tra kiểm soát
quản lý một cách minh bạch và có trách nhiệm đối với các dự án.
Gian lận trong công ty cổ phần niêm yết.
Nhằm mục đích thu hút vốn đầu tư với giá rẻ các công ty này luôn mong muốn
có báo cáo tài chính đẹp, thể hiện tình hình tài chính lành mạnh sẽ tăng sự hấp dẫn với
các nhà đầu tư. Tuy nhiên không phải lúc nào doanh nghiệp kinh doanh cũng thuận lợi,
Bùi Thị Lan Phương Kiểm toán 49C
9
Đề án môn học GVHD: TS. Nguyễn Thị Hồng Thúy
cho nên để đạt được mục đích họ phải phù phép báo cáo của mình, cố ý hạch toán sai,
ghi tăng lợi nhuận bằng cách khai tăng doanh thu, giảm chi phí, ghi giảm các khoản nợ
phải trả,… hoặc hạch toán không đúng kì để san đều lợi nhuận. Phân loại và trình bày
sai nhằm thay đổi cấu trúc tài chính và các tỷ suất.
- Các doanh nghiệp là tổng công ty có nhiều công ty con thì các công ty này sẽ
lợi dụng các công ty con để dấu lỗ của mình thông qua việc hợp nhất báo cáo tài chính.
- Còn đối với những doanh nghiệp kinh doanh tốt lại muốn khai giảm lợi nhuận
để chốn, tránh thuế.
Gian lận ở các doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH cũng tương tự trong
công ty cổ phần niêm yết làm đẹp báo cáo tài chính để đi vay ngân hàng, các tổ chức
tín dụng, vay tư nhân. Tuy nhiên họ lại thích ghi giảm lợi nhuận hơn nhằm mục đích
giảm thuế TNDN phải nộp. Khai sai thuế giá trị gia tăng phải nộp.
Gian lận tại các công ty có vốn đầu tư nước ngoài: Các công ty này thường

đặt trụ sở ở nhiều nước khác nhau, mà các nước này có mức thuế suất thu nhập khác
nhau. Vì vậy doanh nghiệp sẽ thông qua các giao dịch mua bán để kết chuyển lãi về trụ
sở tại nước có mức thuế suất nhỏ hơn để trốn thuế thu nhập. Nói chung chủ yếu là vì
mục đích thuế.
Tóm lại gian lận đang là một vấn đề nhức nhối hiện nay đối với xã hội làm thất
thoát tài sản của nhà nước hàng triệu tỷ đồng, rủi ro với các nhà đầu tư khi đưa ra các
quyết định đầu tư, các chủ nợ khi sử dụng thông tin có gian lận.
Loại gian lận cũng gây ra những hậu quả rất lớn cho nền kinh tế Việt Nam là
“lấy nợ nuôi nợ”. Những vụ án lớn như công ty Tamexco với mức thiệt hại khoảng vài
trăm tỷ đồng, công ty Minh Phụng với mức thiệt hại trên 4.000 tỷ đồng, hay công ty
Epco, Ngân hàng Việt Hoa … đều che dấu gian lận bằng những thủ thuật điều chỉnh
BCTC. Khi gian lận được phát hiện, cũng là lúc tình hình tài chính tồi tệ của những
doanh nghiệp này bị khám phá qua những khoản nợ khổng lồ đến hạn mà doanh
nghiệp không có khả năng thanh toán.
2.1.2 Động cơ gian lận
Áp lực hoặc lợi ích là lý do để một cá nhân hay doanh nghiệp thực hiện hành vi
gian lận. Lợi ích có thể là khoản tiền thưởng hoặc phần thưởng về tài chính dựa trên
mức độ hoàn thành chỉ tiêu tài chính của công ty hoặc bộ phận (ví dụ, tăng trưởng
doanh thu, giá cổ phiếu) hay là giảm gánh nặng thuế, tăng lợi nhuận; Phân chia phí
dịch vụ hoặc chia hoa hồng… Áp lực mất các lợi ích kinh tế; Áp lực hoàn thành các
chỉ tiêu phân tích, duy trì xu hướng các khoản nợ cá nhân vượt quá tầm kiểm soát;
nguy cơ bị đòi nợ dẫn đến phá sản, gia đình có người ốm nặng dẫn đến các áp lực về
tinh thần và/hoặc tài chính hi vọng che dấu được tình hình để vượt qua các khó khăn
tạm thời; hoặc bị đe doạ từ Ban Giám đốc, quan chức, cơ quan khác phải tuân lệnh ban
điều hành.
2.1.3 Người thực hiện gian lận
Kết quả điều tra vào năm 2004, 2006 của ACFE cho thấy người thực hiện gian
lận nhiều nhất là nhân viên, kế đến là người quản lý và cuối cùng là người chủ sở hửu
và ban lãnh đạo.
- Khi cá nhân thực hiện gian lận, lợi ích có thể là trực tiếp (như nhận tiền hay tài

sản), hay gián tiếp (có ảnh hưởng nào đó, tăng quyền lực, sự đền ơn, tiền thưởng ).
- Khi tổ chức (thường là nhân viên hành động trên tư cách tổ chức) thực hiện
gian lận thì lợi ích thu được thường là trực tiếp dưới hình thức thu nhập của công ty
Bùi Thị Lan Phương Kiểm toán 49C
10
Đề án môn học GVHD: TS. Nguyễn Thị Hồng Thúy
tăng lên.
2.1.4 Các khoản mục hoạt động thường phát sinh gian lận
Các hoạt động đấu thầu và giao thầu giao dịch không hợp pháp; Hoạt động
thanh lý tài sản; Các hoạt động về tiền mặt; Hoạt động mua bán và thanh toán; hoạt
động bất thường; hoạt động phân chia quyền lợi; hoạt động thu mua, khấu hao TSCĐ;
hoạt động xảy ra vào thời điểm giao cắt niên độ kế toán…
- Doanh thu khai bị khai tăng, chi phí bị khai giảm => lợi nhuận tăng nhằm thổi
phồng kết quả hoạt động của doanh nghiệp. Doanh thu có thể bị khai thiếu, chi phí bị
khai tăng để giảm lợi nhuận, giảm thuế thu nhập phải nộp. Cũng có thể cá nhân khai
khống chi phí để đút túi tiền của doanh nghiệp hoặc ghi những khoản chi phí không
hợp lý
- Tài sản cố định và hao mòn tài sản cố định: Khai tăng chi phí mua làm tăng
nguyên giá, không ghi doanh thu thanh lý TSCĐ
- Hàng tồn kho: Cố tình áp dụng sai phương pháp tính giá, không lập dự phòng
giảm giá hàng tồn kho
- Lương phải trả: Khai khống hệ số lương, số lượng người lao động, khối lượng
công việc hoàn thành
- Tiền và khoản tương đương tiền thường bị khai tăng, nợ phải trả bị khai giảm
để tăng khả năng thanh toán của doanh nghiệp
2.1.5 Kỹ thuật thực hiện gian lận.
Dưới đây là những gian lận báo cáo tài chính thường gặp.
a. Phù phép thời gian
Vào những ngày cuối năm, công ty có thể ghi nhận doanh thu trước khi thực sự
xuất hàng để đạt chỉ tiêu doanh thu. Việc hạch toán doanh thu được thực hiện ngay khi

xuất hóa đơn vào ngày cuối năm trong khi sang năm mới, sau nhiều ngày, hàng mới
được xuất đi. Đối với các công ty xuất khẩu, chênh lệch thời gian nói trên thường rất
lớn, đẩy doanh thu tăng lên đáng kể. Thủ thuật này cũng có thể dễ dàng áp dụng đối
với doanh thu cung cấp dịch vụ bằng cách thay đổi thời gian và mức độ hoàn thành
dịch vụ. Một hình thức khác là phân bổ chi phí hoặc thu nhập cho nhiều kỳ, thay vì ghi
nhận toàn bộ một lần hay ngược lại.
b. Tạo nghiệp vụ ảo
Các công ty có thể dùng các tổ chức hoặc cá nhân liên quan làm công cụ hỗ trợ.
Chẳng hạn, ký các hợp đồng mua bán với số lượng cao và giá bán tốt với một số công
ty mà thực chất là công ty mẹ, công ty con hoặc các công ty “chị em” trong tập đoàn,
nhằm tăng doanh số tạm thời, tạo nhu cầu và giá bán ảo cho hàng hóa của công ty. Khi
cần đạt chỉ tiêu lợi nhuận, các công ty cũng có thể “thanh lý” hàng tồn kho hoặc tài sản
cố định cho người quản lý hoặc cổ đông công ty. Nhân viên bán hàng cũng có thể thỏa
thuận với khách hàng lấy nhiều hàng vào cuối năm, sau đó trả lại vào đầu năm sau để
được thưởng doanh số.
Một trường hợp khác là công ty vội vàng ghi nhận doanh thu khi khách hàng
mới chỉ dùng thử sản phẩm và có quyền trả lại hàng hóa nếu không hài lòng, hoặc hàng
xuất đi chỉ là hàng gửi bán mà chưa được bán ra. Đối với một số hàng hóa đặc thù như
hóa chất, nhiều công ty còn cho phép khách hàng là những nhà phân phối hoàn trả lại
hàng khi sắp hết hạn sử dụng. Mặc dù thường xuyên có một tỉ lệ hàng trả lại nhất định
nhưng vào cuối năm, công ty vẫn “quên” lập dự phòng cho số hàng này. Mua hóa đơn
cho những chi phí không có thật cũng là một gian lận khá phổ biến.
Bùi Thị Lan Phương Kiểm toán 49C
11
Đề án môn học GVHD: TS. Nguyễn Thị Hồng Thúy
c. Ghi nhầm chỗ
Thường gặp nhất là việc các công ty ghi nhận các khoản thu nhập khác vào
doanh thu như thu nhập từ hoạt động tài chính và thu nhập bất thường, nhằm tăng tỉ lệ
tăng trưởng doanh thu, tạo ảo tưởng về tiềm năng phát triển của công ty. Các khoản thu
nhập như chiết khấu thanh toán, thanh lý tài sản cố định là ví dụ. Các chi phí cá nhân

cũng được hạch toán vào chi phí công ty. Kiểu gian lận này có thể được dùng nhiều,
khi liên quan tới bất động sản và phương tiện đi lại.
d. Che giấu giao dịch
Với nhiều mục đích khác nhau, nhiều giao dịch bị che giấu bằng cách không
hạch toán hoặc hạch toán dưới nội dung khác. Doanh thu bán phế phẩm, hoa hồng và
chiết khấu nhận từ nhà cung cấp không được ghi vào sổ sách nhằm đem lại lợi ích cho
cá nhân.
Những công ty mà hoạt động xuất khẩu là chính có thể không xuất hóa đơn và ghi
nhận doanh thu với hàng bán trong nước nhằm trốn thuế. Những khoản chi hoa hồng,
tiền hối lộ, chi phí cho cá nhân được hợp thức hóa bằng các hợp đồng tư vấn. Các chi
phí chưa nhận được hóa đơn vẫn không được trích trước dù đã phát sinh trong kỳ báo
cáo, nhằm làm tăng lợi nhuận và giảm nợ phải trả. Thuế không được tính và kê khai
đầy đủ. Các khoản nợ xấu và hàng chậm luân chuyển, trợ cấp thôi việc không được
trích lập dự phòng…
e. Thay đổi chính sách kế toán
Các chính sách kế toán thường xuyên bị biến hóa bao gồm phương pháp xác
định giá thành sản phẩm, chính sách lập dự phòng, phương pháp khấu hao. Chi phí sản
xuất có thể không được phân bổ đủ vào thành phẩm mà treo tại chi phí sản phẩm dở
dang, dẫn đến giá vốn hàng bán giảm và lợi nhuận tăng. Ngược lại, chi phí sản xuất có
thể bị hạch toán thẳng vào giá vốn hàng bán hay chi phí khác để làm giảm giá trị thành
phẩm tồn kho và giá vốn hàng bán trong năm tới. Tỉ lệ nợ xấu và hàng hỏng cần lập dự
phòng được giảm đi để cải thiện tình hình lợi nhuận trong năm. Thời gian khấu hao của
tài sản được kéo dài để giảm chi phí khấu hao.
Đối với các ngành nghề khác nhau, các hình thức gian lận báo cáo tài chính
thường gặp cũng khác nhau. Thủ thuật hay được sử dụng trong ngành ngân hàng là
phân loại sai các khoản vay theo mức độ rủi ro nhằm giảm chi phí dự phòng và tăng
thu nhập từ tiền lãi. Thủ thuật thứ hai là không lập hoặc lập dự phòng không đủ cho
các khoản đầu tư chứng khoán, đặc biệt là chứng khoán trên thị trường tự do và những
khoản đầu tư dài hạn vào các công ty. Một thủ thuật nữa là bán những khoản đầu tư
cho các bên liên quan với giá cao hơn giá thị trường nhằm đạt chỉ tiêu lợi nhuận.

Đối với các công ty sản xuất, gian lận báo cáo tài chính phổ biến là đẩy chi phí sản
xuất vào sản phẩm dở dang nhằm tăng giá trị hàng tồn kho, giảm giá vốn hàng bán và
tăng lợi nhuận; lập dự phòng không đầy đủ đối với hàng hỏng và hàng chậm luân
chuyển; kéo dài thời gian khấu hao của tài sản cố định. Chia tách công ty để tăng giá trị
tài sản thông qua việc đánh giá lại tài sản theo giá trị thị trường cũng là một cách gian
lận.Đối với doanh nghiệp bán lẻ, hình thức gian lận thường gặp là không lập đủ dự
phòng cho hàng chậm luân chuyển và lỗi thời; không ghi nhận các khoản chiết khấu
được hưởng từ nhà cung cấp; không ghi nhận đủ doanh số bán hàng bằng tiền mặt.
Bùi Thị Lan Phương Kiểm toán 49C
12
Đề án môn học GVHD: TS. Nguyễn Thị Hồng Thúy
2.2 Thực trạng về trách nhiệm của kiểm toán viên đối với việc phát hiện
gian lận và sai sót trên Báo cáo tài chính.
2.2.1 Thực trạng các quy định về trách nhiệm kiểm toán viên đối với việc
phát hiện gian lận và sai sót trong cuộc kiểm toán báo cáo tài chính
2.2.1.1 Nghị định 105/2004/NĐ-CP ban hành ngày 30/3/2004 quy định trách
nhiệm của kiểm toán viên
Nghị định này quy định về xác định quyền và trách nhiệm của đơn vị được kiểm
toán và doanh nghiệp kiểm toán, bảo vệ lợi ích của cộng đồng và quyền lợi hợp pháp
của nhà đầu tư, đảm bảo cung cấp thông tin kinh tế, tài chính trung thực, hợp lý, công
khai, đáp ứng yêu cầu quản lý của cơ quan nhà nước, doanh nghiệp và cá nhân. Theo
Điều 3 của nghị định này thì các tài liệu, số liệu kế toán và báo cáo tài chính của đơn vị
được kiểm toán sau khi được kiểm toán viên và doanh nghiệp kiểm toán kiểm tra, xác
nhận là căn cứ tin cậy để: Cơ quan nhà nước và đơn vị cấp trên sử dụng cho quản lý,
điều hành theo chức năng, nhiệm vụ được giao; Các cổ đông, các nhà đầu tư, các bên
tham gia liên doanh, liên kết, các khách hàng và tổ chức, cá nhân khác xử lý các mối
quan hệ về quyền lợi và nghĩa vụ của các bên có liên quan trong quá trình hoạt động
của đơn vị; Giúp cho đơn vị được kiểm toán phát hiện, xử lý và ngăn ngừa kịp thời các
sai sót có thể xảy ra trong hoạt động của đơn vị, góp phần thực hiện công khai báo cáo
tài chính, phục vụ công tác quản lý, điều hành đơn vị, làm lành mạnh môi trường đầu

tư. Theo đó các trách nhiệm của kiểm toán viên để đạt được những giá trị này được
quy định trong Điều 17, Điều 4 với các nội dung chính:
Điều 4: Tuân thủ pháp luật, chuẩn mực kiểm toán Việt Nam; Chịu trách nhiệm
trước pháp luật về hoạt động nghề nghiệp và kết quả kiểm toán; Tuân thủ đạo đức nghề
nghiệp kiểm toán; Bảo đảm tính độc lập về chuyên môn, nghiệp vụ, lợi ích và tính
trung thực, đúng pháp luật, khách quan của hoạt động kiểm toán độc lập; Bảo mật các
thông tin của đơn vị được kiểm toán, trừ trường hợp đơn vị được kiểm toán đồng ý
hoặc pháp luật có quy định khác.
Điều 17: Chấp hành các nguyên tắc hoạt động kiểm toán độc lập quy định tại
Điều 4; Trong quá trình thực hiện dịch vụ, kiểm toán viên không được can thiệp vào
công việc của đơn vị đang được kiểm toán; Ký báo cáo kiểm toán và chịu trách nhiệm
về hoạt động nghề nghiệp của mình; Từ chối làm kiểm toán cho khách hàng nếu xét
thấy không đủ năng lực chuyên môn, không đủ điều kiện hoặc khách hàng vi phạm quy
định của Nghị định này; Thường xuyên trau dồi kiến thức chuyên môn và kinh nghiệm
nghề nghiệp. Thực hiện chương trình cập nhật kiến thức hàng năm theo quy định của
Bộ Tài chính.
2.2.1.2 Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam VSA 200
Trách nhiệm của kiểm toán viên đối với sai phạm của đơn vị xuất phát từ mục
tiêu của kiểm toán báo cáo tài chính. Theo đoạn 11 VSA 200, mục tiêu của kiểm toán
báo cáo tài chính được xác định là “… giúp cho kiểm toán viên và công ty kiểm toán
đưa ra ý kiến xác nhận rằng báo cáo tài chính có được lập trên cơ sở chuẩn mực và chế
độ kế toán hiện hành (hoặc được chấp nhận), có tuân thủ pháp luật liên quan và có
phản ảnh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu hay không? Mục tiêu của
kiểm toán báo cáo tài chính còn giúp cho đơn vị được kiểm toán thấy rõ những tồn tại,
sai sót để khắc phục nhằm nâng cao chất lượng thông tin tài chính của đơn vị
Trên cơ sở mục tiêu đó, trách nhiệm của kiểm toán viên được xác định là “kiểm
tra, chuẩn bị và trình bày ý kiến của mình về báo cáo tài chính”. Kiểm toán viên thực
hiện kiểm toán theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam (hoặc chuẩn mực kiểm toán quốc
Bùi Thị Lan Phương Kiểm toán 49C
13

Đề án môn học GVHD: TS. Nguyễn Thị Hồng Thúy
tế được chấp nhận) để có được một sự đảm bảo hợp lý rằng báo cáo tài chính nếu có
sai sót trọng yếu thì đã được kiểm toán viên phát hiện và trình bày trong báo cáo kiểm
toán. Báo cáo tài chính đã được kiểm toán, nói chung không còn (hoặc không có) sai
sót trọng yếu. “Đảm bảo hợp lý” là khái niệm liên quan đến việc thu thập bằng chứng
kiểm toán cần thiết giúp kiểm toán viên và công ty kiểm toán kết luận rằng không còn
sai sót trọng yếu trong báo cáo tài chính. Khái niệm “đảm bảo hợp lý” liên quan đến
toàn bộ quá trình kiểm toán. Để đạt được sự đảm bảo hợp lý này kiểm toán viên cần
phải tuân thủ Các nguyên tắc cơ bản chi phối kiểm toán báo cáo tài chính, gồm:
- Tuân thủ pháp luật của Nhà nước;
- Tuân thủ nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp;
- Tuân thủ chuẩn mực kiểm toán;
- Kiểm toán viên phải có thái độ hoài nghi mang tính nghề nghiệp trong quá
trình lập kế hoạch và thực hiện kiểm toán và phải luôn ý thức rằng có thể tồn tại những
tình huống dẫn đến những sai sót trọng yếu trong các báo cáo tài chính. Ví dụ: Khi
nhận được bản giải trình của Giám đốc đơn vị, kiểm toán viên không được thừa nhận
ngay các giải trình đó đã là đúng, mà phải tìm được những bằng chứng cần thiết chứng
minh cho giải trình đó.
2.2.1.3. Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam VSA 240
Trong quá trình kiểm toán, KTV có trách nhiệm giúp đơn vị phát hiện, xử lý và ngăn
ngừa gian lận và sai sót, nhưng KTV không phải chịu trách nhiệm trực tiếp trong việc
ngăn ngừa các gian lận và sai sót ở đơn vị mà họ kiểm toán.
- Khi lập kế hoạch và thực hiện thủ tục kiểm toán, khi đánh giá và báo cáo kết
quả thực hiện thủ tục kiểm toán, KTV phải xem xét xem có các sai phạm do gian lận
hoặc sai sót gây ra làm ảnh hưởng trọng yếu đến BCTC không? Như vậy, trong quá
trình kiểm toán, KTV có trách nhiệm giúp đơn vị phát hiện, xử lý và ngăn ngừa gian
lận và sai sót, nhưng không phải chịu trách nhiệm trực tiếp trong việc ngăn ngừa các
gian lận và sai sót ở đơn vị mà họ kiểm toán,
- Đánh giá rủi ro: Khi lập kế hoạch và khi thực hiện kiểm toán, KTV phải đánh
giá rủi ro về những gian lận và sai sót có thể có, làm ảnh hưởng trọng yếu đến BCTC

và phải trao đổi với Giám đốc đơn vị về mọi gian lận hoặc sai sót quan trọng phát hiện
được.
- Phát hiện: Trên cơ sở đánh giá rủi ro, KTV phải thiết lập các thủ tục kiểm toán
thích hợp nhằm đảm bảo các gian lận và sai sót có ảnh hưởng trọng yếu đến BCTC đều
được phát hiện. KTV phải thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp để chứng
minh là không có gian lận hoặc sai sót làm ảnh hưởng trọng yếu đến BCTC; hoặc nếu
có gian lận, sai sót thì đã được phát hiện, được sửa chữa hoặc đã trình bày trong
BCTC, và KTV phải chỉ ra ảnh hưởng của gian lận và sai sót đến BCTC. KTV phải có
thái độ hoài nghi mang tính nghề nghiệp trong quá trình lập kế hoạch và thực hiện
kiểm toán và phải luôn ý thức rằng có thể tồn tại những tình huống hoặc sự kiện dẫn
đến những sai sót trọng yếu trong các BCTC.
- Những thủ tục cần được tiến hành khi có dấu hiệu gian lận hoặc sai sót
Trong quá trình kiểm toán, khi xét thấy có dấu hiệu về gian lận hoặc sai sót, KTV và
DNKT phải xem xét những ảnh hưởng của gian lận và sai sót đến BCTC. Nếu KTV và
DNKT cho rằng gian lận hoặc sai sót có thể ảnh hưởng trọng yếu đến BCTC thì phải
thực hiện sửa đổi và bổ sung những thủ tục kiểm toán thích hợp. Nếu kết quả của các
thủ tục sửa đổi và bổ sung không xoá bỏ được nghi ngờ về gian lận và sai sót, thì KTV
và DNKT phải thảo luận vấn đề này với Ban Giám đốc đơn vị được kiểm toán và phải
Bùi Thị Lan Phương Kiểm toán 49C
14
Đề án môn học GVHD: TS. Nguyễn Thị Hồng Thúy
đánh giá ảnh hưởng của nó đến BCTC và Báo cáo kiểm toán.
- KTV và DNKT phải thông báo về gian lận và sai sót đã phát hiện cho Giám
đốc (hoặc người đứng đầu đơn vị được kiểm toán), cho người sử dụng báo cáo kiểm
toán, cho cơ quan chức năng có liên quan.
2.2.1.4 Trách nhiệm pháp lý
KTV không những phải tuân thủ trách nhiệm đạo đức nghề nghiệp mà còn phải tuân
thủ trách nhiệm pháp lý của mình. Viêc xác định trách nhiệm pháp lý của KTV tuỳ
thuộc vào pháp luật của từng quốc qia gồm:
Trách nhiệm dân sự

Nhìn chung, nguyên nhân chủ yếu của những sai phạm có thể dẫn tới trách nhiệm dân
sự thường do KTV thiếu thận trọng đúng mực, hoặc do không tôn trọng các chuẩn mực
nghề nghiệp. Lúc này họ có thể chịu trách nhiệm dân sự trước các đối tượng:
- Chịu trách nhiệm đối với khách hàng là người thuê kiểm toán BCTC thường
liên quan đến việc không hoàn thành hợp đồng kiểm toán gây thiệt hại cho khách hàng.
- Chịu trách nhiệm đối với người sở hữu chứng khoáng của công ty
- Chịu trách nhiệm với các bên thứ 3 có liên quan
Trách nhiệm hình sự
Ngoài trách nhiệm dân sự nếu do gian lận, KTV còn phải chịu trách nhiệm hình
sự về những sai phạm của mình. Tại nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam KTV sẽ bị
truy tố và Toà án hình sự sẽ xét xử
Nghị định 85/2010/NĐ-CP ngày 02/08/2010 của Chính phủ về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán đã có qui định về
xử phạt vi phạm hành chính về kiểm toán: Phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến
70.000.000 đồng đối với tổ chức kiểm toán và kiểm toán viên thực hiện một trong các
hành vi vi phạm sau:
- Không ghi ý kiến vào báo cáo kiểm toán về những sai phạm của tổ chức được
kiểm toán chưa được xử lý theo quy định của chuẩn mực kiểm toán;
- Không thông báo, thông báo không kịp thời cho đơn vị được kiểm toán và
cho người thứ ba theo quy định của chuẩn mực kiểm toán; không báo cáo, báo cáo
không kịp thời cho Ủy ban Chứng khoán Nhà nước khi có nghi ngờ hoặc phát hiện tổ
chức được kiểm toán có sai phạm trọng yếu do không tuân thủ pháp luật và các quy
định có liên quan đến BCTC được kiểm toán sau khi phát hành báo cáo kiểm toán.
2.2.2 Loại hình công ty kiểm toán
Hiện nay, Nghị định 105/2004/NĐ-CP ngày 30/03/2004, Nghị định
30/2009/NĐ-CP ngày 31/10/2005 của Chính phủ chỉ cho phép thành lập DNKT theo
các hình thức: công ty TNHH có từ 2 thành viên trở lên, công ty hợp danh, doanh
nghiệp tư nhân. DNKT phải công khai hình thức này trong quá trình giao dịch và hoạt
động.
Công ty TNHH kiểm toán: Thuộc loại này có Công ty TNHH Price Waterhouse

Coopers Việt Nam, Công ty TNHH Dịch vụ tư vấn tài chính kế toán và kiểm toán
AASC,Vaco, E&Y, KPMG… là loại hình công ty kiểm toán phổ biến nhất ở Việt Nam
Công ty hợp danh kiểm toán: Công ty Hợp danh Kiểm toán Tâm Việt Tâm Việt, Công
ty Hợp danh Kiểm toán Trí Tuệ SMART, Công ty Hợp danh Kiểm toán Hà Nội
2.2.3 Đội ngũ kiểm toán viên hành nghề.
Đến tháng 6/2010, Bộ Tài chính đã tổ chức 15 kỳ thi tuyển KTV cho người Việt
Bùi Thị Lan Phương Kiểm toán 49C
15
Đề án môn học GVHD: TS. Nguyễn Thị Hồng Thúy
Nam và 10 kỳ thi sát hạch cho người nước ngoài và đã cấp khoảng 1.800 chứng chỉ
KTV cho những người đạt kết quả thi. Đến 06/2010, trong 162 doanh nghiệp kiểm
toán có khoảng 1.200 KTV đủ điều kiện đã đăng ký hành nghề, trong đó có hơn 1.000
người là hội viên của Hội kiểm toán viên hành nghề Việt Nam,480 người có chứng chỉ
KTV quốc tế: ACCA (Hiệp hội Kế toán công chứng Anh), CPA Úc, CPA Singapore…
hơn 600 người khác làm những việc không liên quan. Tuy nhiên, đội ngũ kiểm toán
viên Việt Nam hiện nay đang thiếu về số lượng, yếu về chất lượng, nhu cầu kiểm toán
hết sức cấp thiết. Mục tiêu đến 2020, Việt Nam sẽ có khoảng 7.000 kiểm toán viên mới
chỉ đáp ứng một phần nhu cầu, chưa kể chất lượng đội ngũ “bác sĩ” này vẫn cần thêm
nhiều thời gian mới đáp ứng được yêu cầu công việc chuyên môn. Bên cạnh đó, khả
năng ngoại ngữ cũng là trở ngại khá lớn với Kiểm toán viên Việt nam. Theo đánh giá
của giám đốc một công ty Kiểm toán Việt nam, quá trình hội nhập xuất hiện nhiều
danh nghiệp liên doanh, 100% vốn nước ngoài cùng các hợp đồng kiểm toán khá hấp
dẫn. Nhưng nếu các Công ty Kiểm toán Việt Nam chỉ có những Kiểm toán viên vững
về nghiệp vụ mà kém ngoại ngữ thì cũng không thể cạnh tranh với các Công ty Kiểm
toán quốc tế ngay trên “sân nhà”.
Ngoài ra hiện tượng “chảy máu chất xám” đang diễn ra trong ngành kiểm toán,
các kiểm toán viên giỏi có xu hướng chuyển sang các lĩnh vực hoạt động khác hoặc
chuyển từ công ty kiểm toán này sang công ty kiểm toán khác, nơi mà có mức lương
cao hơn và có nhiều cơ hội thăng tiến.
Một vấn đề đau đầu nữa là có nhiều kiểm toán viên không giữ gìn đạo đức nghề

nghiệp trong sáng, vì những lợi ích trước mắt mà sẵn sàng móc nối với đơn vị để che
dấu hành vi vi phạm của doanh nghiệp. Cũng có những kiểm toán viên không có tinh
thần trách nhiệm, nhiều kiểm toán viên có khi vẫn chưa đọc hết chuẩn mực kế toán,
kiểm toán.
2.2.4. Tình hình hoạt động của các công ty kiểm toán
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, thị trường kiểm toán ngày càng được mở
rộng, đặc biệt kể từ năm 2007, khi Luật Chứng khoán có hiệu lực yêu cầu không chỉ tổ
chức niêm yết, tổ chức phát hành, tổ chức kinh doanh chứng khoán, mà cả các công ty
đại chúng cũng thuộc đối tượng bắt buộc phải kiểm toán báo cáo tài chính hàng năm.
Chính phủ cũng quy định thêm nhiều đối tượng như quỹ đầu tư phát triển địa phương,
vốn sở hữu của chủ đầu tư dự án khu đô thị mới, dự án khu nhà ở, dự án hạ tầng kỹ
thuật khu công nghiệp, công ty quản lý quỹ… bắt buộc phải kiểm toán, các quy định
này làm cho số lượng khách hàng của các công ty kiểm toán tăng đột biến. Theo số
liệu mới nhất của Bộ Tài chính, hiện nay Việt Nam có 162 công ty kiểm toán hoạt
động trong các lĩnh vực kiểm toán, kế toán, tư vấn tài chính, thuế, xác định giá trị
doanh nghiệp, dịch vụ hỗ trợ đào tạo, thẩm định dự án đầu tư, tư vấn…Trong đó 4 Cty
kiểm toán lớn nước ngoài ở Việt Nam đã chiếm 55% thị phần, 20-25 Cty lớn của Việt
Nam chiếm 35% thị phần nữa, còn lại 10-15% thuộc về các Cty kiểm toán khác.
Về chất lượng dịch vụ Công ty kiểm toán cung cấp nói chung ngày càng được
nâng cao. Tuy nhiên, chất lượng dịch vụ kiểm toán có sự chênh lệch khá lớn giữa các
công ty. Một cuộc cạnh tranh ngấm ngầm giữa các công ty hình thành. Các công ty lớn
có uy tín, tiềm lực mạnh về tài chính sẵn sàng giảm mức phí kiểm toán để mở rộng thị
phần mà vẫn thực hiện đầy đủ các thủ tục cần thiết đảm bảo chất lượng dịch vụ cung
cấp. Điều này gây sức ép nhiều công ty nhỏ, mới thành lập nên khá yếu, thậm chí chưa
đủ kiểm toán viên. Các công ty này cũng buộc phải cắt giảm chi phí để có thể cạnh
tranh được và do đó chất lượng dịch vụ cũng giảm đi tương ứng do không thực hiện
đầy đủ các thủ tục để phát hiện gian lận, sai sót và các hành vi không tuân thủ pháp
Bùi Thị Lan Phương Kiểm toán 49C
16
Đề án môn học GVHD: TS. Nguyễn Thị Hồng Thúy

luật của khách thể kiểm toán. Bởi vì để làm được các thủ tục đó thì công sức bỏ ra rất
lớn. Trong chuyện kiểm toán không thể có “nhiều, nhanh, tốt, rẻ” được. Nhiều kiểm
toán viên và công ty kiểm toán không giữ được đạo đức nghề nghiệp vì lợi ích trước
mắt với những vụ thỏa hiệp với khách hàng, dẫn đến đưa ra kết quả kiểm toán sai lệch,
gây ảnh hưởng đến các đối tượng sử dụng kết quả kiểm toán. Ngoài ra dịch vụ kiểm
toán mới chỉ chú trọng đến tính minh bạch của thông tin chứ vẫn chưa tạo ra nhiều giá
trị gia tăng cho doanh nghiệp thông qua những kiến nghị trong thư quản lý
2.2.5 Kết quả hoạt động của các công ty kiểm toán
Theo Bộ Tài chính, thị trường kiểm toán rộng mở, doanh thu của toàn ngành
kiểm toán tăng mạnh, từ mức 622 tỷ đồng (năm 2005) lên hơn 2.191 tỷ đồng vào năm
2009, trong đó doanh thu từ dịch vụ kiểm toán chiếm tới 62,37%. Cụ thể hơn, 20% số
lượng công ty kiểm toán có lợi thế (là thành viên của các hãng kiểm toán quốc tế có uy
tín hoặc ban lãnh đạo, kiểm toán viên đã từng làm việc tại các công ty kiểm toán nước
ngoài) chiếm tới 76% doanh thu của toàn ngành; 80% số công ty kiểm toán còn lại
“giành giật” 24% số doanh thu còn lại bằng mọi cách kể cả là hạ phí kiểm toán, giảm
chất lượng kiểm toán.
Thế nhưng, lợi nhuận của ngành kiểm toán lại không tăng tương xứng, mà lại có
chiều hướng giảm, từ mức 29,9 tỷ đồng (năm 2004), năm 2005 là 24,39 tỷ đồng, năm
2006 là 33,01 tỷ đồng, năm 2007 là 51,78 tỷ đến năm 2008 con số lợi nhuận của toàn
ngành chỉ còn 18,8 tỷ đồng và kết thúc năm 2009, toàn ngành kiểm toán bị… thua lỗ
trên 39,1 tỷ đồng. trong đó Big 3 công ty kiểm toán cũng đã đóng góp vào thua lỗ đó
đến 96 tỷ đồng
2.3. Thực trạng về quy định trách nhiệm kiểm toán viên đối với việc phát
hiện gian lận và sai sót trong cuộc kiểm toán tại các công ty kiểm toán
Ở các doanh nghiệp kiểm toán nước ta vẫn chưa có những quy định cụ thể về
trách nhiệm của kiểm toán viên với gian lận và sai sót trên báo cáo tài chính nói chung
hay là trong từng cuộc kiểm toán báo cáo tài chính nói riêng. Tuy nhiên để trợ giúp các
kiểm toán viên thực hiện tốt trách nhiệm của mình các hãng kiểm toán lớn như KPMG,
E&Y, AASC, A&C…đã sớm nhận ra sự cần thiết của công tác kiểm soát chất lượng
kiểm toán và đã áp dụng thủ tục kiểm soát chất lượng nghiêm ngặt của mình trong rất

nhiều năm qua. Trong đó quy định rõ:
- Tất cả các nhân viên của công ty phải tuân thủ các nguyên tắc về tính độc lập,
chính trực, khách quan, bảo mật, các qui định chung và tư cách nghề nghiệp, duy trì và
nâng cao năng lực chuyên môn
- Công việc kiểm toán phải được giao cho những nhân viên có kỹ năng chuyên
môn cần thiết, có trường hợp là kỹ năng chuyên sâu để hoàn thành công việc một cách
xuất sắc. Công việc của nhân viên này chịu sự chỉ đạo, giám sát và soát xét ở tất cả các
cấp.
Các KTV cao cấp nhất - thường là chủ phần hùn - phải phân công công việc cho
các nhân viên trong công ty. Các nhân viên này chịu trách nhiệm về kết quả công việc
của mình (ngầm hiểu) nhưng người chủ phần hùn vẫn phải chịu trách nhiệm trước kết
quả của cuộc kiểm toán.
Tuy nhiên chỉ một vài ông lớn trong ngành mới thiết lập và duy trì hệ thống
kiểm soát chất lượng này, hầu hết các doanh nghiệp kiểm toán khác đều không có
Bùi Thị Lan Phương Kiểm toán 49C
17
Đề án môn học GVHD: TS. Nguyễn Thị Hồng Thúy
2.4. Đánh giá thực trạng trách nhiệm của kiểm toán viên về việc phát hiện
gian lận và sai sót
2.4.1. Ưu điểm
Sau 19 năm hoạt động, ngành kiểm toán Việt Nam đã khẳng định được ý nghĩa
lớn trên nhiều mặt, đó là: “quan tòa công minh của quá khứ, người dẫn dắt cho hiện tại
và người cố vấn sáng suốt cho tương lai”. Các kiểm toán viên luôn ý thức cao về trách
nhiệm của bản thân, các cuộc kiểm toán đã phát hiện được rất nhiều sai sót của doanh
nghiệp trong việc hạch toán kế toán, trình bày báo cáo tài chính…từ đó tư vấn giúp
doanh nghiệp hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ, hệ thống kế toán, và trình bày báo
cáo trung thực hợp lý. Nhiều gian lận của doanh nghiệp với các phương pháp kỹ thuật
thực hiện và che dấu tinh vi được các kiểm toán viên đưa ra ánh sáng. Nhờ đó giúp nhà
nước thu hồi được hàng nghìn tỷ đồng mỗi năm, hỗ trợ cho các nhà đầu tư, ngân
hàng… ra quyết định kinh tế chính xác khi có được thông tin minh bạch về tình hình

hoạt động của doanh nghiệp. Từ đó góp phần lành mạnh hóa môi trường kinh doanh,
và đóng góp quan trọng đối với sự phát triển của thị trường cổ phiếu các công ty niêm
yết. Chất lượng của kiểm toán BCTC bước đầu đã được khách hàng tin tưởng và ngày
càng có uy tín, được xã hội thừa nhận. Nhiều doanh nghiệp kiểm toán có số lượng
KTV lớn, KTV dày dạn kinh nghiệm đã tạo lập được vị thế và danh tiếng trên thị
trường, được nhiều khách hàng lớn lựa chọn. Thông qua các hoạt động dịch vụ kiểm
toán và tư vấn tài chính, kế toán, các doanh nghiệp kiểm toán đã góp phần phổ cập cơ
chế chính sách kinh tế tài chính, thực hiện công khai minh bạch BCTC của các doanh
nghiệp, ngăn ngừa lãng phí, tham nhũng, phục vụ đắc lực cho công tác quản lý và điều
hành kinh tế - tài chính của Nhà nước và hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp.
Trong 3 năm gần đây, kiểm toán BCTC là biện pháp không thể thiếu được để công
khai, minh bạch thông tin tài chính trên thị trường chứng khoán.
Thông qua dịch vụ kiểm toán và các dịch vụ có liên quan, đặc biệt là kiểm toán
BCTC, các công ty đã góp phần giúp các doanh nghiệp, tổ chức, các dự án quốc tế nắm
bắt được kịp thời, đầy đủ và tuân thủ đúng các chính sách kinh tế, tài chính, loại bỏ
được chi phí bất hợp lý, tạo lập được thông tin tin cậy, từng bước đưa công tác quản lý
tài chính, kế toán trong các doanh nghiệp vào nề nếp Hoạt động kiểm toán độc lập đã
xác định được vị trí trong nền kinh tế thị trường và đã góp phần quan trọng trong việc
làm lành mạnh hoá môi trường đầu tư và nền tài chính quốc gia.
Thông qua kiểm toán báo cáo quyết toán dự án hoàn thành, các doanh nghiệp
kiểm toán đã giúp các đơn vị xác định giá trị vốn đầu tư đúng đắn, góp phần loại bỏ
các chi phí không hợp lý, hợp lệ, tiết kiệm chi phí đầu tư XDCB, góp phần làm lành
mạnh hoá tài chính trong quản lý đầu tư XDCB
Tinh thần trách nhiệm của kiểm toán viên còn thể hiện ở việc họ không ngừng
nâng cao trình độ chuyên môn, thường xuyên cập nhật các quy đinh mới trong các lĩnh
vực kinh tế và kế toán kiểm toán để luôn là những người tiên phong giúp doanh nghiệp
kịp thời phát hiện và điều chỉnh những sai sót cho thích hợp.
2.4.2. Tồn tại
Về năng lực và đạo đức nghề nghiệp của các kiểm toán viên: Các kiểm toán
viên là những “bộ lọc” quan trọng giúp ngăn ngừa và phát hiện các sai sót và gian lận.

Tuy nhiên, sẽ là sai lầm nếu dựa hoàn toàn vào bộ lọc này để ra quyết định kinh tế. Bởi
vì có nhiều lý do khiến kiểm toán viên không hoàn thành trách nhiệm của mình Thứ
nhất, đôi khi vì những lợi ích kinh tế mà kiểm toán viên có thể bắt tay với các chủ
doanh nghiệp nhằm che dấu những sai phạm ảnh hưởng trọng yếu đến báo cáo tài
Bùi Thị Lan Phương Kiểm toán 49C
18
Đề án môn học GVHD: TS. Nguyễn Thị Hồng Thúy
chính hay là đưa ra các ý kiến không phù hợp trên báo cáo kiểm toán. Vậy là kiểm toán
viên đã tiếp tay cho các doanh nghiệp dối gian với cơ quan quản lý nhà nước và lừa
đảo công chúng. Hoặc do nguy cơ mất khách hàng nên kiểm toán viên và công ty kiểm
toán phải thực hiện theo yêu cầu của khách thể kiểm toán. Thứ 2 là kiểm toán viên
không ý thức được trách nhiệm của mình, không đảm bảo tính thận trọng cần thiết,
không có kinh nghiệm nên đã thực hiện không đầy đủ các thủ tục cần thiết mà vội vàng
đưa ra ý kiến kiểm toán làm yêu cầu “đảm bảo hợp lý” không đạt được. Điều này cũng
được lý giải là do phí kiểm toán quá thấp nên chất lượng dịch vụ cũng không thể cao
được. Tôi thấy những con người không có đạo đức nghề nghiệp này không đủ tư cách
hoạt động trong lĩnh vực ngành nghề kiểm toán. Trong năm 2008, sự kiện “Bông bạch
tuyết” được báo chí và các thông tin đại chúng bàn cãi khá nhiều. Hai Doanh nghiệp
kiểm toán kiểm toán BCTC các năm 2005, 2006, 2007 của Công ty cổ phần Bông
Bạch tuyết đã có các sai phạm và bị xử phạt. Căn cứ vào kết quả kiểm tra, Bộ Tài
chính đã khiển trách 2 Công ty và không chấp thuận tư cách 4 KTV về những sai sót
trong quá trình kiểm toán BCTC của cổ phần Bông Bạch Tuyết. Thực tế đó đòi hòi nhà
nước và các doanh nghiệp kiểm toán phải quan tâm và có các biện pháp cần thiết để
tăng cường chất lượng dịch vụ nhằm bảo đảm sự trung thực của thông tin tài chính khi
công khai.
Về cơ sở pháp lý đối với hoạt động kiểm toán độc lập: “chưa hoàn thiện” Có
thể dẫn chứng đó là hiện nay chúng ta vẫn chưa có Luật về kiểm toán độc lập; đã ban
hành 38 chuẩn mực kiểm toán nhưng chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể việc vận
dụng”chúng” trong thực tiễn; vấn đề kiểm soát, đánh giá tính minh bạch và chất lượng
hoạt động của các công ty kiểm toán hàng năm vẫn còn chưa thực sự tốt; tiêu chí đánh

giá cuộc kiểm toán, năng lực của kiểm toán viên còn chưa được chú trọng xây dựng ở
mức độ sâu hơn. Nghị định về kiểm toán độc lập chưa bao quát đầy đủ các quy định
cần điều chỉnh, chưa tương xứng với vai trò, vị trí hoạt động kiểm toán độc lập trong
nền kinh tế quốc dân. Các văn bản pháp luật hiện hành chưa qui định đầy đủ các nội
dung cần thiết để góp phần tăng cường chất lượng dịch vụ kiểm toán và đáp ứng yêu
cầu hội nhập. Nhà nước chưa đưa ra được các quy định mang tính chất bắt buộc cao
đối với trách nhiệm của kiểm toán viên. Thiệt hại do hành vi thiếu trách nhiệm của
kiểm toán viên có thể gây thiệt hại rất lớn đến đối tượng sử dụng báo cáo tài chính và
cho xã hội nhưng hầu hết các văn bản quy định trách nhiệm của kiểm toán viên chỉ
mang tính chuẩn mực hướng dẫn. Điều này làm cho nhiều kiểm toán viên không tuân
thủ, không sợ bị phát hiện ra sai phạm của mình. Bộ tài chính phải nhanh chóng đưa ra
các quy định bắt buộc và hình thức sử phạt có tính chất răn đe để nâng cao trách nhiệm
của kiểm toán viên. Mặt khác, trên thực tế báo cáo kiểm toán độc lập dễ bị các cơ quan
liên quan can thiệp nếu không có những điều khoản trách nhiệm rõ ràng. Rất dễ xảy ra
câu chuyện “bình thông nhau”, khi vai trò kiểm toán độc lập bị xem nhẹ, kết quả kiểm
toán độc lập thường không được công nhận hoặc bị dừng khi Kiểm toán Nhà nước
tham gia vào. Thực tế, rất nhiều dự án kiểm toán độc lập được các đơn vị mời vào
nhưng phải làm theo ý Kiểm toán Nhà nước, nếu không họ mời doanh nghiệp khác.
Thời gian tới, báo cáo kiểm toán độc lập cũng phải nâng cao được giá trị pháp lý như
báo cáo tài chính, báo cáo quyết toán thuế…
Về phía các công ty kiểm toán: Hầu hết các công ty kiểm toán cũng chưa thiết
lập được hệ thống kiểm soát chất lượng vì phải nghiên cứu kỹ lưỡng khi thiết kế và chi
phí vận hành tốn kém mà hầu hết doanh nghiệp kiểm toán là doanh nghiệp nhỏ nên họ
thường bỏ qua hệ thống này trong khi hệ thống này có giá trị gia tăng rất lớn, nó hướng
dẫn quy trình thực hiện, trợ giúp, giám sát quá trình thực hiện và kiểm tra kết quả và
Bùi Thị Lan Phương Kiểm toán 49C
19
Đề án môn học GVHD: TS. Nguyễn Thị Hồng Thúy
thưởng phạt hợp lý. Trách nhiệm của kiểm toán viên cũng theo đó mà được nâng cao,
nếu không họ sẽ bị công ty đào thải.

Các công ty kiểm toán vẫn chưa xây dựng được quy trình công việc, chưa có
tiêu chí đánh giá chất lượng cuộc kiểm toán một cách cụ thể, rõ ràng. Giám đốc đơn vị
chưa ban hành chế tài xử phạt đối với các kiểm toán viên vi phạm quy định của công
ty, vi phạm đạo đức hành nghề. Về cơ bản nếu có phát hiện vi phạm thì vẫn còn có tư
tưởng bao che, “giơ cao đánh khẽ”, xử lý qua loa, hình thức. Công ty chưa tuân thủ
triệt để các nguyên tắc cơ bản trong thiết kế bộ máy và thủ tục kiểm soát như : bất
kiêm nhiệm, ủy quyền, phê chuẩn. Thủ tục kiểm soát của công ty được thiết kế không
còn thích hợp khi đối tượng kiểm toán, nghiệp vụ kế toán ngày càng mở rộng và đa
dạng. Quy định về thời gian kiểm soát và xử lý hồ sơ kiểm toán ngắn
Bùi Thị Lan Phương Kiểm toán 49C
20
Đề án môn học GVHD: TS. Nguyễn Thị Hồng Thúy
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao trách
nhiệm của kiểm toán viên đối với việc phát hiện gian lận và sai sót
trong cuộc kiểm toán Báo cáo tài chính
3.1 Phương hướng nhằm nâng cao trách nhiệm của kiểm toán viên đối với
gian lận và sai sót.
Để nâng cao trách nhiệm của KTV với việc phát hiện gian lận và sai sót trong
cuộc kiểm toán BCTC cần phải đào tạo được đội ngũ kiểm toán viên có năng lực
chuyên môn cao, đạo đức tốt, ban hành các văn bản hướng dẫn KTV thực hiện, quan sát
quá trình thực hiện, và kiểm tra chất lượng của cuộc kiểm toán. Đồng thời phải hoạn
thiện môi trường pháp lý cho hoạt động kiểm toán. Cụ thể:
3.1.1 Bộ tài chính vẫn thực hiện chức năng chủ đạo trong việc ban hành các
chuẩn mực kiểm toán:
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật liên quan
Xây dựng và ban hành luật là bước quan trọng hoàn thiện hành lang pháp lý cho
lĩnh vực kiểm toán trong xu thế hội nhập, mở cửa và cũng là để xác lập địa vị của người
lao động trong lĩnh vực dịch vụ kế toán, kiểm toán một cách ngang tầm.
Trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, cạnh tranh, mở cửa, hội nhập
Quốc tế Nếu không có một hệ thống văn bản pháp luật đồng bộ và hoàn thiện thì sẽ bị

quy luật cạnh tranh, tự do chủ nghĩa, quy luật thị trường chi phối. Trong lĩnh vực kiểm
toán độc lập, chúng ta đã hình thành một hệ thống văn bôtản pháp luật khá đầy đủ, đồng
bộ đã phát huy tác dụng trong việc chỉ đạo, điều hành hoạt động kiểm toán độc lập
trong gần 20 năm qua. Tuy nhiên hệ thống văn bản pháp luật về kiểm toán độc lập đã có
đến nay đã bắt đầu không còn phù hợp. Chúng ta phải nhanh chóng tiếp tục bổ sung,
hoàn chỉnh hệ thống này, cụ thể:
- Ban hành Luật kiểm toán độc lập và các văn bản hướng dẫn;
- Cập nhật và ban hành các Chuẩn mực kiểm toán phù hợp Chuẩn mực quốc tế
- Quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kiểm toán độc lập
Tuy nhiên, do việc nghiên cứu, soạn thảo chuẩn mực kiểm toán chủ yếu hướng
dẫn KTV hành nghề thực hiện các thủ tục và kỹ thuật kiểm toán nhằm kiểm tra và đánh
giá các thông tin một cách trung thực và khách quan. Do vậy VACPA sẽ có nhiều thuận
lợi hơn trong việc nghiên cứu, soạn thảo và cập nhật các chuẩn mực nghề nghiệp.Trên
thực tế, KTV và đồng thời là hội viên của VACPA ở 4 CtyKT nước ngoài và 17 công ty
là thành viên của các CtyKT quốc tế, hàng năm đều phải tự cập nhật các quy định mới
và bổ sung, sửa đổi trong các chuẩn mực kiểm toán quốc tế theo yêu cầu bắt buộc của
các hãng kiểm toán quốc tế. Đây là lực lượng quan trọng hỗ trợ cho quá trình triển khai
nghiên cứu, soạn thảo và cập nhật chuẩn mực kiểm toán Việt Nam phù hợp với hệ
thống chuẩn mực kiểm toán quốc tế. Vì vậy ngày 13/05/2008 Bộ Tài chính ban hành
Quyết định số 1053/QĐ-BTC về việc “Ủy quyền cho Hội KTV hành nghề Việt Nam
thực hiện nghiên cứu, soạn thảo, cập nhật hệ thống chuẩn mực kiểm toán Việt Nam phù
hợp với chuẩn mực kiểm toán quốc tế hiện hành”. Đây là trách nhiệm to lớn, có ý nghĩa
quan trọng đối với sự phát triển của VACPA trong vai trò quản lý nghề nghiệp chuyên
nghiệp, phù hợp thông lệ quốc tế và có cơ sở thực tiễn để được quốc tế công nhận. Về
Bùi Thị Lan Phương Kiểm toán 49C
21
Đề án môn học GVHD: TS. Nguyễn Thị Hồng Thúy
phía VACPA, cần tăng cường hoàn chỉnh bộ máy, tăng thêm lực lượng chuyên trách, tổ
chức các ban chuyên môn để đảm bảo tổ chức thực hiện việc cập nhật các chuẩn mực
kiểm toán Việt Nam hiệu quả với chất lượng cao nhất. Về phía Bộ Tài chính, cử cán bộ

tham gia Ban nghiên cứu, cập nhật thay đổi chuẩn mực để hỗ trợ về kinh nghiệm trong
quá trình triển khai.
3.1.2 Kiện toàn tổ chức của các hội nghề nghiệp về kế toán và kiểm toán
Để có thể giám sát việc tuân thủ đạo đức và xét xử kỷ luật về các vi phạm của
KTV và công ty kiểm toán, Hội nghề nghiệp cần thực hiện các vấn đề sau:
Nghiên cứu để hoàn thiện cơ cấu tổ chức của hội nghề nghiệp, sao cho Hội phải
là một tổ chức nghề nghiệp tự quản và độc lập.
Cần thành lập các Uỷ ban phụ trách những lĩnh vực hoạt động khác nhau, như là
Uỷ ban Đạo đức nghề nghiệp, Uỷ ban Đào tạo, Uỷ ban Kiểm soát chất lượng, Uỷ ban
Giám sát chất lượng kiểm toán đối với các công ty kiểm toán cho những công ty niêm
yết, Uỷ ban Kỷ luật.
Hội cần phải có những nhân viên có chuyên môn nghiệp vụ đã có chứng chỉ
KTV, chứng chỉ hành nghề kế toán có kinh nghiệm thực tế trong hoạt động dịch vụ kế
toán, kiểm toán và có tâm huyết cho sự phát triển nghề nghiệp.
Nâng cao vai trò hoạt động của Hội nghề nghiệp để hỗ trợ cơ quan Nhà nước
tăng cường quản lý hành nghề kiểm toán độc lập.
Hoạt động kiểm toán độc lập đòi hỏi trình độ chuyên môn rất cao, kinh nghiệm
thực tế thành thạo và nghiêm ngặt về đạo đức nghề nghiệp. Tài sản, lực lượng sản xuất
của kiểm toán độc lập là đội ngũ KTV, là con người. Do đó việc quản lý con người
hành nghề kiểm toán không chỉ là cơ quan Nhà nước mà còn là Hội nghề nghiệp. Theo
kinh nghiệm đã được tích lũy từ hơn 100 năm nay, bên cạnh sự quản lý bằng pháp luật
của cơ quan Nhà nước, cần có (phải có, không thể thiếu được) là vai trò quản lý hành
nghề của các tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán.
KTV, người hành nghề kiểm toán độc lập phải là Hội viên của một tổ chức nghề
nghiệp về kiểm toán. Hội nghề nghiệp trước hết thực hiện đào tạo, cập nhật kiến thức
thường xuyên, liên tục, suốt đời cho Hội viên. Hội cung cấp dịch vụ tư vấn chuyên môn
thường xuyên và bất thường giúp Hội viên có kiến thức, kinh nghiệm xử lý kịp thời
dịch vụ cung cấp. Hội thực hiện kiểm soát chất lượng Hội viên, chất lượng dịch vụ đảm
bảo giảm thiếu các sai phạm về chuyên môn của Hội viên. Hội quản lý hành vi đạo đức
nghề nghiệp của Hội viên, hạn chế tối đa các sai phạm và xử lý kịp thời sai phạm về đạo

đức nếu xảy ra. Hội hoạt động theo cơ chế tự chủ, tự quản, độc lập khách quan nên rất
kịp thời và hiệu quả.
Cơ chế hành chính Nhà nước, dù có đổi mới, cải cách thế nào thì vẫn bị chậm so
với cơ chế tổ chức, hoạt động của Hội nghề nghiệp trong kinh tế thị trường. Do đó cần
nâng cao vai trò hoạt động của Hội nghề nghiệp để hỗ trợ cơ quan Nhà nước tăng
cường quản lý hành nghề kiểm toán là giải pháp hữu hiệu giúp kiểm toán Việt Nam
vững mạnh hơn hiện nay cũng như sau này.
3.1.3 Luôn cập nhật các chuẩn mực kiểm toán đã được ban hành
Song hành với sự phát triển kiểm toán độc lập, Nhà nước đã không ngừng hoàn
thiện hệ thống khuôn khổ pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho sự tồn tại và phát triển
của hoạt động kiểm toán độc lập. Từ năm 1999 đến năm 2005, Bộ Tài chính đã ban
hành 37 chuẩn mực kiểm toán Việt Nam và 01 chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kế
toán, kiểm toán Việt Nam phù hợp với hệ thống chuẩn mực kiểm toán quốc tế. Thực tế
Bùi Thị Lan Phương Kiểm toán 49C
22
Đề án môn học GVHD: TS. Nguyễn Thị Hồng Thúy
cho thấy, hệ thống 38 chuẩn mực kiểm toán đã trở thành tiền đề cho kiểm toán viên
(KTV), các công ty kiểm toán (CtyKT) kiểm tra, đánh giá các báo cáo tài chính (BCTC)
một cách khoa học, khách quan, đồng thời là cơ sở cho việc chỉ đạo, giám sát, kiểm tra
và đánh giá chất lượng dịch vụ kiểm toán.
Tuy nhiên, trong 10 năm qua, hệ thống chuẩn mực kiểm toán quốc tế đã có
nhiều thay đổi, yêu cầu về chất lượng dịch vụ cũng như trách nhiệm của KTV cũng
không còn như trước. Việc phân loại các dịch vụ có liên quan đến hoạt động xác nhận
thông tin cũng đã được phân loại lại từ năm 2004 thành dịch vụ có đảm bảo và các
dịch vụ liên quan. Đánh giá của một số chuyên gia của các tổ chức tài chính quốc tế
như WB, ADB, cho thấy hệ thống chuẩn mực kiểm toán Việt Nam ban hành từ năm
1999 đến 2005 đã bị lạc hậu, chưa cập nhật kịp thời với hệ thống chuẩn mực kiểm
toán quốc tế mới, phần nào ảnh hưởng đến độ tin cậy của các thông tin được kiểm
toán trên cơ sở các chuẩn mực kiểm toán chưa cập nhật. Do đó, Việt Nam cần thiết
phải ban hành mới các chuẩn mực chưa có và cập nhật kịp thời các chuẩn mực đã ban

hành phù hợp với những thay đổi của hệ thống chuẩn mực kiểm toán quốc tế.
3.1.4 Cần ban hành hướng dẫn chi tiết
Chất lượng dịch vụ kiểm toán độc lập phụ thuộc vào trình độ, năng lực, đạo đức
của đội ngũ kiểm toán viên và doanh nghiệp kiểm toán. Chính vì vậy, yêu cầu đòi hỏi
phải quy định rõ quyền hạn, nghĩa vụ, trách nhiệm đối với các đối tượng trên là rất quan
trọng để đảm bảo chất lượng kiểm toán. Chẳng hạn quy định: Doanh nghiệp kiểm toán
chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước khách hàng theo hợp đồng kiểm toán đã ký kết
và chịu trách nhiệm một phần với người sử dụng kết quả kiểm toán và các dịch vụ đã
cung cấp. Doanh nghiệp kiểm toán chỉ chịu trách nhiệm với người sử dụng kết quả
kiểm toán khi người sử dụng kết quả kiểm toán: a) Có lợi ích liên quan trực tiếp tới kết
quả kiểm toán của đơn vị được kiểm toán tại ngày ký báo cáo kiểm toán; b) Có hiểu
biết một cách hợp lý về báo cáo tài chính và cơ sở lập báo cáo tài chính là các chuẩn
mực kế toán, chế độ kế toán và các quy định pháp lý có liên quan; c) Đã sử dụng một
cách thận trọng thông tin trên báo cáo tài chính đã kiểm toán. Vậy cụ thể, thế nào là
“chịu trách nhiệm một phần”, một phần ở đây là bao nhiêu %? Thế nào là “Có hiểu
biết một cách hợp lý về Báo cáo tài chính và cơ sở lập báo cáo tài chính là các chuẩn
mực kế toán, chế độ kế toán và các quy định pháp lý có liên quan”? Thế nào là “Đã sử
dụng một cách thận trọng thông tin trên báo cáo tài chính đã kiểm toán”?Điều này đã
dẫn đến thực tế là khó quy trách nhiệm để xử lý những vi phạm nảy sinh trong quá trình
kiểm toán độc lâp.Nói tóm lại, mặc dù đã được sửa đổi, bổ sung, thay thế nhiều lần
nhưng nghị định về KTĐL vẫn chưa toàn diện, chẳng hạn, nghị định chưa quy định đầy
đủ các nội dung cần thiết để tăng cường chất lượng dịch vụ KTĐL; quy định chưa rõ về
nghĩa vụ của DN kiểm toán khi gây ra thiệt hại cho khách hàng và công chúng; chưa có
quy định đầy đủ và chặt chẽ đối với KTĐL có yếu tố nước ngoài; Chưa chi tiết các
hướng dẫn thực hiện nhằm trợ giúp các KTV nâng cao chất lượng công việc của mình
3.1.5 Chú trọng hơn về đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực cho ngang tầm
khu vực
Với số lượng KTV và các tổ chức kiểm toán như hiện nay không thể phủ nhận
sự phát triển của lĩnh vực kiểm toán, song sự phát triển đó vẫn chưa tương xứng với nhu
câu hiện tại và vai trò, chức năng của lĩnh vực (nghề) kiểm toán. Chất lượng dịch vụ của

các công ty kiểm toán cung cấp là tương đối tốt nhưng do môi trường tài chính Việt
Bùi Thị Lan Phương Kiểm toán 49C
23
Đề án môn học GVHD: TS. Nguyễn Thị Hồng Thúy
Nam chưa chuyên nghiệp và minh bạch nên cũng gặp phải những khó khăn nhất định.
Trình độ năng lực chuyên môn cũng như đạo đức nghề nghiệp của KTV ngày càng
được nâng cao như so với các nước tiên tiến trên thế giới vẫn có một khoảng cách khá
xa.
Công ty kiểm toán phải xem xét, đánh giá kỹ năng và năng lực chuyên môn của
các KTV và nhân viên chuyên nghiệp. Năng lực chuyên môn của các KTV, các nhân
viên cần được xem xét không những trong quá trình thực hiện kiểm toán mà phải được
cân nhắc ngay trong quá trình tuyển dụng và đào tạo. Xây dựng và áp dụng các tiêu
chuẩn cho từng cấp bậc, chức danh và tạo cơ hội thăng tiến nghề nghiệp cho các nhân
viên là cách thức hiệu quả để tăng động lực khuyến khích các kiểm toán viên không
ngừng nâng cao khả năng chuyên môn. Hơn nữa, để góp phần nâng cao năng lực và kỹ
năng cho các nhân viên, các công ty kiểm toán cần tiến hành đánh kết quả công tác và
định kỳ thông báo cho họ triển vọng và cơ hội thăng tiến của từng cá nhân.
Yếu tố tiếp theo ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán BCTC là việc tuyển dụng cán bộ,
KTV: KTV là nhân tố quan trọng quyết định chất lượng kiểm toán, ngoài những tiêu
chuẩn của một công chức khi tuyển dụng KTV cần đặc biệt chú ý đến hai tiêu chuẩn đó
là: phải có trình độ chuyên môn nghiệp vụ và có kiến thức về pháp luật có nghĩa là
người đó đã tốt nghiệp theo một chuyên ngành về mặt pháp lý và kinh nghiệm thực tiễn
trong lĩnh vực được đào tạo. Việc đánh giá về phẩm chất đạo đức được thực hiện chủ
yếu là đánh giá trên hai góc độ đó là về mặt lý lịch về lịch sử cá nhân thông qua cơ quan
quản lý cán bộ và các tổ chức, đoàn thể mà người đó đã từng tham gia đồng thời phải
kết hợp với việc thăm dò dư luận của quần chúng để xác định đối chiếu những ý kiến
nhận xét đã nêu trong lí lịch.
Mặt khác chính sách cán bộ và đào tạo cũng ảnh hưởng đến chất lượng kiểm
toán BCTC. Chính sách này luôn tác động trực tiếp đến tâm lý làm việc của KTV, nếu
chính sách cán bộ tốt sẽ khuyến khích KTV hăng say có trách nhiệm trong công việc

được giao và ngược lại. Vì vậy muốn xây dựng, ban hành các chính sách cán bộ để mọi
KTV biết lấy đó làm mục tiêu phấn đấu. Việc đánh giá năng lực để phân loại đề bạt
khen thưởng KTV phải được thực hiện thường xuyên, việc đánh giá phải dựa trên kết
quả các cuộc kiểm toán mà KTV đó có thực hiện, thông qua hội đồng bình xét theo
từng cấp độ để đảm bảo tính dân chủ, khách quan, tránh mọi biểu hiện định kiến cá
nhân. Vì vậy việc đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ kiểm toán và pháp luật là hết sức
quan trọng nhất là trong giai đoạn hiện nay.
Trước hết, về phía các công ty kiểm toán cần có biện pháp thật hữu hiệu:
- Không ngừng nâng cao trình độ và năng lực hành nghề của kiểm toán viên,
thông qua các chính sách về tuyển dụng, huấn luyện, đào tạo, khen thưởng, xử phạt.
- Thiết kế các quy trình kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán và thiết kế bộ
máy tổ chức thực hiện chuyên trách nhiệm vụ này.
- Cần tăng cường trao đổi, chia sẻ giữa các công ty kiểm toán về chuyên môn và
các vấn đề đào tạo, hợp tác kiểm toán.
3.2 Giải pháp nâng cao trách nhiệm kiểm toán viên đối với gian lận và sai sót trong
cuộc kiểm toán Báo cáo tài chính
Trên cơ sở phương hướng đã xác định ở trên ta xây dựng được các giải pháp cụ thể sau:
Bùi Thị Lan Phương Kiểm toán 49C
24
Đề án môn học GVHD: TS. Nguyễn Thị Hồng Thúy
3.2.1 Hiệu chỉnh, bổ sung, nghiên cứu ban hành mới các chuẩn mực kiểm toán
3.2.1.1 Đẩy nhanh tiến độ soạn thảo và lấy ý kiến về việc dự thảo luật kiểm toán
độc lập.
Luật KTĐL phải quy định chặt chẽ hơn về điều kiện thành lập và hoạt động của
DN kiểm toán, điều kiện để cấp chứng chỉ kiểm toán viên, điều kiện hành nghề kiểm
toán quy định về các nguyên tắc kiểm toán, nội dung kiểm toán, quyền, nghĩa vụ,
trách nhiệm của DN kiểm toán, của kiểm toán viên hành nghề và các điều bị nghiêm
cấm, hạn chế để đảm bảo nâng cao chất lượng dịch vụ và tính độc lập của ngành nghề
này. Những nội dung này là hết sức cần thiết, nhằm điều chỉnh các hành vi của DN
kiểm toán, kiểm toán viên trong suốt quá trình hoạt động. Đó cũng là tiêu chí, điều kiện

để cơ quan quản lý nhà nước giám sát chất lượng đối với ngành nghề này. Lĩnh vực
kiểm toán mang tính chất dịch vụ chuyên ngành, hoạt động kiểm toán cũng có những
điều kiện riêng và đây là ngành nghề kinh doanh có điều kiện, phải được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền quản lý. Mặt khác hoạt động kiểm toán có phạm vi ảnh hưởng khá
rộng, không chỉ cơ quan quản lý nhà nước sử dụng báo cáo kiểm toán mà còn các tổ
chức, DN và công chúng đầu tư. Việc ban hành khuôn khổ pháp lý cao, chặt chẽ, sẽ tạo
điều kiện cho công tác giám sát chất lượng, phòng ngừa những thiệt hại cho nền kinh tế
cũng như cho các DN, các nhà đầu tư.
Dự án Luật KTĐL gồm 7 Chương với 69 Điều, được Bộ Tài chính xây dựng
trên cơ sở tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm thực tế sau 19 năm hoạt động kiểm toán,
kế thừa những quy định còn phù hợp trong các văn bản pháp luật hiện hành, bổ sung
những quy định cần thiết để đảm bảo cho hoạt động kiểm toán độc lập vừa đáp ứng yêu
cầu trước mắt, vừa phù hợp với xu hướng phát triển hoạt động kiểm toán độc lập trong
tương lai.
Bộ Tài chính xác định, quan điểm chỉ đạo và nguyên tắc xây dựng Luật KTĐL
phải đồng bộ với hệ thống pháp luật hiện hành, nhất là Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư,
Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Chứng khoán, Luật Kinh doanh bảo hiểm, pháp luật về
Hội. Đồng thời giải quyết các vấn đề đặt ra mà các luật này chưa quy định hoặc quy
định chưa phù hợp với hoạt động kiểm toán độc lập như: Quy định về đối tượng kiểm
toán bắt buộc, tiêu chuẩn và điều kiện hành nghề, vị trí, vai trò của Hội nghề nghiệp,
quản lý nhà nước đối với hoạt động kiểm toán độc lập
Bên cạnh đó, Luật KTĐL được xây dựng trên cơ sở tham khảo có chọn lọc nội
dung các quy định pháp lý về kiểm toán hiện hành của các nước trong khu vực và trên
thế giới, phù hợp với các cam kết của Việt Nam và tiến trình hội nhập giữa nước ta với
các nước trong khu vực và thế giới. Bộ Tài chính đã tổ chức nghiên cứu, tham khảo
kinh nghiệm của các nước có hệ thống quản lý hoạt động kiểm toán độc lập hiệu quả,
tiến bộ (như Singapore, Australia, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc ). Đúc kết những
bài học mà Việt Nam có thể áp dụng được.
Có thể thấy, việc ban hành Luật KTĐL sẽ nâng cao vai trò của cơ quan quản lý
nhà nước thông qua việc cấp giấy phép thành lập và hoạt động DN kiểm toán, cấp

chứng chỉ kiểm toán viên và các biện pháp nhằm nâng cao năng lực giám sát, cưỡng
chế thực thi, xử lý vi phạm trong lĩnh vực kiểm toán. Hơn thế nữa, hiện nay trong cam
kết quốc tế (WTO, ASEAN ), lĩnh vực dịch vụ kiểm toán đã mở cửa không hạn chế,
theo đó các DN Việt Nam có thể sử dụng dịch vụ kiểm toán của quốc tế, mặt khác các
DN kiểm toán của Việt Nam, các kiểm toán viên Việt Nam cũng có cơ hội cung cấp
dịch vụ ra bên ngoài. Việc ban hành Luật KTĐL sẽ xác lập vị trí pháp lý tương đồng
với quốc tế nhằm thúc đẩy hội nhập trong lĩnh vực này, đồng thời có đầy đủ quy phạm
pháp luật để điều chỉnh các hành vi.
Bùi Thị Lan Phương Kiểm toán 49C
25

×