Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Nghiên cứu lựa chọn và ứng dụng một số bài tập bổ trợ chuyên môn nhằm nâng cao hiệu quả kỹ thuật hai bước lên rổ trong môn bóng rổ cho học sinh nam trường THPT phan châu trinh TP đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (541.95 KB, 91 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
NGHIÊN CỨU LỰA CHỌN VÀ ỨNG DỤNG MỘT SỐ BÀI TẬP BỔ
TRỢ CHUYÊN MÔN NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ KỸ THUẬT
HAI BƯỚC LÊN RỔ TRONG MÔN BÓNG RỔ CHO HỌC SINH
NAM TRƯỜNG THPT PHAN CHÂU TRINH - TP ĐÀ NẴNG
Đà Nẵng, tháng 05 năm 2014
Giảng viên hướng dẫn
Sinh viên thực hiện
Lớp
: Th.S ĐỖ QUỐC HÙNG
: ĐINH TIẾN LỰC
: 10 STQ
LỜI CẢM ƠN
Để có được điều kiện thực hiện Khóa luận Tốt nghiệp cũng như hoàn thành
chương trình học 4 năm tại trường Đại học Sư Phạm Đà Nẵng em đã nhận được
những sự chỉ dạy tận tình với những kinh nghiệm quý báu từ quý thầy cô bộ môn
Giáo Dục Thể Chất thuộc Trung tâm GDTC Đai học Đà Nẵng và Khoa Giáo Dục
Chính Trị thuộc Đại học Sư phạm Đà Nẵng.
Em xin được gửi lời cảm ơn chân thành đến:
- Ban Giám Hiệu cùng quý Thầy (Cô) trường Đại học Sư phạm Đà Nẵng và
Trung tâm GDTC Đai học Đà Nẵng đã tạo cho em một môi trường học tập tích
cực và vui vẻ.
- Thầy ThS. Đỗ Quốc Hùng giảng viên Trung tâm GDTC Đại học Đà Nẵng
đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo, giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện khóa
luận.
- Gia đình và bạn bè đã luôn động viên và là chỗ dựa vững chắc trong suốt
khoảng thời qua cũng như vượt qua những khó khăn trong khoảng thời gian thực


hiện khóa luận.
Xin chân thành cảm ơn!
Đinh Tiến Lực
MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ 1
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 4
1.1. Các quan điểm của Đảng và nhà nước về TDTT và GDTC trong
trường học 4
1.2. Đặc điểm tâm lý, sinh lý lứa tuổi trung học phổ thông 8
1.2.1. Đặc điểm tâm lý lứa tuổi trung học phổ thông 8
1.2.2. Đặc điểm sinh lý lứa tuổi trung học phổ thông 9
1.3. Kỹ thuật thể thao 11
1.4. Bài tập bổ trợ chuyên môn 13
1.5. Xu hướng phát triển môn bóng rổ ở Việt Nam 15
1.6. Đặc điểm của hoạt động và thi đấu bóng rổ 16
1.7. Phương pháp giảng dạy môn bóng rổ 17
1.7.1. Các nguyên tắc lý luận trong giảng dạy bóng rổ 18
1.7.2. Phương pháp dạy học động tác 19
CHƯƠNG II: MỤC ĐÍCH - NHIỆM VỤ - PHƯƠNG PHÁP VÀ TỔ
CHỨC NGHIÊN CỨU 25
2.1. Mục đích nghiên cứu 25
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 25
2.2.1. Nhiệm vụ 1 25
2.2.2. Nhiệm vụ 2 25
2.3. Phương pháp nghiên cứu 25
2.3.1. Phương pháp đọc, phân tích và tổng hợp tài liệu 25
2.3.2. Phương pháp phỏng vấn - toạ đàm 26
2.3.3. Phương pháp quan sát sư phạm 27
2.3.4. Phương pháp thực nghiệm sư phạm 27
2.3.5. Phương pháp kiểm tra sư phạm 28

2.3.6. Phương pháp toán học thống kê 28
2.4. Tổ chức nghiên cứu 30
2.4.1. Đối tượng nghiên cứu 30
2.4.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu 30
2.4.3. Phương tiện nghiên cứu 31
2.4.4. Kinh phí nghiên cứu 31
CHƯƠNG III: PHÂN TÍCH KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 32
3.1. Giải quyết nhiệm vụ 1: Đánh giá thực trạng công tác giảng dạy bộ môn
GDTC nói chung, môn bóng rổ nói riêng và thực trạng sử dụng các bài tập
bổ trợ chuyên môn trong quá trình giảng dạy kỹ thuật hai bước lên rổ trong
môn bóng rổ cho học sinh nam khối 10 trường THPT Phan Châu Trinh – Đà
Nẵng 32
3.1.1. Thực trạng công tác giảng dạy bộ môn GDTC nói chung và môn
bóng rổ nói riêng ở trường THPT Phan Châu Trinh – Đà Nẵng 32
3.1.1.1. Chương trình giảng dạy bộ môn GDTC 32
3.1.1.2. Chương trình giảng dạy môn bóng rổ 35
3.1.1.3. Cơ sở vật chất 36
3.1.1.4. Đội ngũ giáo viên 37
3.1.2. Thực trạng sử dụng các bài tập bổ trợ chuyên môn trong quá trình
giảng dạy kỹ thuật hai bước lên rổ trong môn bóng rổ cho học sinh nam
khối 10 trường THPT Phan Châu Trinh – Đà Nẵng 39
3.2. Giải quyết nhiệm vụ 2: Nghiên cứu lựa chọn và ứng dụng các bài tập bổ
trợ chuyên môn nhằm nâng cao hiệu quả của kỹ thuật hai bước lên rổ trong
môn bóng rổ cho học sinh nam khối 10 Trường THPT Phan Châu Trinh –
Đà Nẵng 40
3.2.1. Những cơ sở để nghiên cứu lựa chọn bài tập bổ trợ chuyên môn 40
3.2.2. Nghiên cứu lựa chọn và ứng dụng các bài tập bổ trợ chuyên môn
nhằm nâng cao hiệu quả của kỹ thuật hai bước lên rổ trong môn bóng rổ
cho học sinh nam khối 10 Trường THPT Phan Châu Trinh – Đà Nẵng 41
3.2.3. Tổ chức thực nghiệm và đánh giá hiệu quả các bài tập lựa chọn 57

3.2.3.1. Tổ chức thực nghiệm 57
3.2.3.1.1. Xây dựng kế hoạch thực nghiệm 57
3.2.3.1.2. Lựa chọn các Test đánh giá hiệu quả kỹ thuật hai bước lên
rổ cho học sinh nam khối 10 trường THPT Phan Châu Trinh – TP Đà
Nẵng 63
3.2.3.2. Xây dựng tiến trình thực nghiệm 69
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 76
1. Kết luận 76
2. Kiến nghị 78
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
-
GDTC
- TDTT
- THTP
- TP
- NXB
- VĐV
- RLTT
- SGV
- TD
- GV
- PGS
: Giáo d

c th

ch

t.
: Thể dục thể thao.

: Trung học phổ thông.
: Thành phố.
: Nhà xuất bản.
: Vận động viên.
: Rèn luyện thể thao.
: Sách giáo viên.
: Thể dục.
: Giáo viên.
: Phó giáo sư.
DANH MỤC CÁC BẢNG
STT TÊN BẢNG TRANG
Bảng 1 Phân phối chương trình giảng dạy môn GDTC học kỳ II khối
lớp 10 trường THPT Phan Châu Trinh – Đà Nẵng năm học
2013 – 2014.
32
Bảng 2 Chương trình giảng dạy môn bóng rổ cho học sinh khối lớp
10 trường THPT Phan Châu Trinh – Đà Nẵng năm học 2013
– 2014.
36
Bảng 3 Cơ sở vật chất trường THPT Phan Châu Trinh – Đà Nẵng. 37
Bảng 4 Danh sách giáo viên bộ môn GDTC trường THPT Phan
Châu Trinh – Đà Nẵng.
38
Bảng 5 Kết quả phỏng vấn các bài tập bổ trợ chuyên môn nhằm nâng
cao hiệu quả kỹ thuật hai bước lên rổ trong môn bóng rổ.
44
Bảng 6 Phân bố yêu cầu về lượng vận động đối với các bài tập đã
lựa chọn.
47
Bảng 7 Tiến trình thực nghiệm các bài tập bổ trợ kỹ thuật hai bước

lên rổ.
59
Bảng 8 Phân nhóm thực hiện. 61
Bảng 9 Kết quả phỏng vấn các tets kiểm tra đánh giá hiệu quả kỹ
thuật hai bước lên rổ trong môn bóng rổ.
64
Bảng 10 Thành tích thực hiện test kiểm tra trước thực nghiệm. 66
Bảng 11 Kết quả kiểm tra trước thực nghiệm. 68
Bảng 12 Thành tích thực hiện test kiểm tra sau 2 tháng thực nghiệm. 70
Bảng 13 Kết quả kiểm tra sau 2 tháng thực nghiệm. 71
Bảng 14 Kết quả nhịp tăng trưởng của nhóm đối chứng sau 2 tháng
tập luyện.
73
Bảng 15 Kết quả nhịp tăng trưởng của nhóm thực nghiệm sau 2
tháng tập luyện.
74
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
STT TÊN BIỂU ĐỒ TRANG
Biểu đồ 1 So sánh kết quả kiểm tra trước thực nghiệm. 69
Biểu đồ 2 So sánh kết quả kiểm tra sau 2 tháng thực nghiệm. 72
Biểu đồ 3 So sánh nhịp tăng trưởng sau 2 tháng thực nghiệm. 75
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngày nay nền kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của Việt Nam đang hội nhập và
phát triển nhanh chóng cùng với các nước trong khu vực và thế giới. Do đó, giáo
dục đào tạo càng đóng vai trò quan trọng hơn bao giờ hết, đòi hỏi phải tạo ra nguồn
nhân lực Việt Nam có thể lực tốt, tầm vóc cường tráng, phát triển toàn diện về trí
tuệ, ý chí, năng lực và đạo đức, có khả năng thích ứng và nhanh chóng tạo được thể
chủ động trong môi trường sống và làm việc.
Thể dục thể thao là một trong những bộ phận cốt yếu của nền văn hóa xã hội,

đóng vai trò rất quan trọng trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, là
phương tiện góp phần giáo dục con người phát triển một cách toàn diện.Trên thế
giới nhiều quốc gia đã sử dụng thể dục thể thao như là một công cụ nhằm nâng cao
uy tín quốc gia tạo các mối quan hệ mới, tăng thu nhập quốc dân, thắt chặt tình đoàn
kết hữu nghị giữa các dân tộc trên toàn thế giới.
Ở nước ta cách mạng tháng 8/1945 thành công, đất nước chuyển sang một thời
kỳ mới thì thể dục thể thao là một trong những lĩnh vực được Đảng và nhà nước đặc
biệt quan tâm, với lời kêu gọi của Hồ Chủ Tịch: “ Mỗi người dân yếu ớt tức là làm
cho cả nước yếu ớt đi một phần, mỗi người dân khoẻ mạnh tức là góp phần làm cho
cả nước khoẻ mạnh ”. Đứng trước sự quan tâm đó thì ngành thể dục thể thao đã,
đang và không ngừng phát triển toàn diện trong đó có một số ngành thể thao mũi
nhọn: võ, vật, bắn súng, đá cầu, bóng đá… bên cạnh đó thì bóng rổ là môn thể thao
phong phú, hấp dẫn và có sức lôi cuốn mạnh mẽ nhất là đối với thanh thiếu niên ở
lứa tuổi học sinh, sinh viên.
Là môn thể thao ra đời ở Mỹ (1891) do Dr. James Naismith một giáo viên môn
giáo dục thể chất ở học viện Springfield sáng lập, sau đó phát triển rộng rãi ra toàn
thế giới. Ở Việt Nam tuy bóng rổ mới gia nhập nhưng cũng có những bước phát
triển nhất định. Cũng như các môn thể thao khác, bóng rổ chiếm vị trí quan trọng
trong sự nghiệp giáo dục và phát triển con người toàn diện, tập luyện thi đấu bóng
2
rổ sẽ mau chóng nâng cao các tố chất sức nhanh, sức mạnh, sức bền, sự khéo léo,
phát triển thông minh, tinh thần sáng tạo và đoàn kết.
Hiện nay bóng rổ ở nước ta đã có những bước tiến mới về kỹ thuật, chiến
thuật, thể lực cũng như tâm lý thi đấu. Tuy nhiên có một đặc điểm chung là các
VĐV Việt Nam có tầm vóc thấp bé cũng như trình độ kỹ thuật còn thấp nên hiệu
quả thi đấu ở các giải chưa cao. Vì vậy mà việc tìm ra những bài tập, những đấu
pháp hợp lý cho quá trình tập luyện và thi đấu bóng rổ phù hợp với tầm vóc, trình
độ của các VĐV Việt Nam là điều rất quan trọng. Trên thực tế tập luyện và thi đấu
bóng rổ đã cho thấy rằng kỹ thuật tấn công ngày càng phát triển và hoàn thiện bao
nhiêu thì kỹ thuật, chiến thuật trong phòng thủ cũng phát triển không kém, từ đó

việc tấn công ghi điểm của các đấu thủ gặp rất nhiều khó khăn. Để giành được
thắng lợi trong các trận đấu đòi hỏi các VĐV phải có thể lực dồi dào thực hiện kỹ
thuật hoàn hảo, áp dụng triệt để các kỹ, chiến thuật cho hợp lý trong từng trận đấu.
Trong tập luyện và thi đấu bóng rổ thì ném rổ là nội dung cơ bản của đội tấn
công, còn ném bóng vào rổ là mục đích chủ yếu của nó. Để đạt được thành tích
cao trong thi đấu, mỗi cầu thủ bóng rổ không những phải nắm vững kỹ thuật
chuyền bóng, bắt bóng, dẫn bóng mà còn biết tấn công ném rổ chính xác, thực
hiện ném rổ từ các vị trí ban đầu khác nhau, từ bất kỳ khoảng cách nào trong lúc
đối phương kèm chặt. Một trong những kỹ thuật quan trọng nhất khi ném rổ là kỹ
thuật hai bước lên rổ. Đây là kỹ thuật rất phổ biến và rất quan trọng trong thi đấu
và thường ném ở cự gần, trong các đợt đột phá với sự theo kèm của đối phương.
Trong bóng rổ hiện đại nó được sử dụng nhiều nhất khi tấn công dưới bảng rổ,
trong quá trình thi đấu thì những đợt tấn công chính xác với kỹ thuật này sẽ chiếm
tỷ lệ 25% tổng số điểm mà đội đó ghi được.
Để nâng cao hiệu quả trong thi đấu thì cần phải nâng cao hiệu quả kỹ thuật hai
bước lên rổ.
3
Là sinh viên ngành GDTC & GDQP với chuyên sâu là bóng rổ chúng tôi
nhận thấy việc ứng dụng các bài tập bổ trợ cho kỹ thuật hai bước lên rổ là rất
quan trọng và cần thiết. Thông qua quá trình học tập và quan sát học sinh của
trường, chúng tôi nhận thấy chưa có nhiều bài tập bổ trợ chuyên môn nhằm
mang lại hiệu quả và sự ổn định cho kỹ thuật. Vì vậy chúng tôi mạnh dạn nghiên
cứu đề tài:
“ Nghiên cứu lựa chọn và ứng dụng một số bài tập bổ trợ chuyên môn
nhằm nâng cao hiệu quả kỹ thuật hai bước lên rổ trong môn bóng rổ cho
học sinh nam trường THPT Phan Châu Trinh - TP Đà Nẵng. ”
4
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN NHỮNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Các quan điểm của Đảng và nhà nước về TDTT và GDTC trong

trường học.
Cấu trúc của nền TDTT Việt Nam được chia thành 2 mảng rõ rệt: TDTT cho
mọi người và thể thao thành tích cao. Trong đó, TDTT cho mọi người bao gồm:
TDTT xã hội không phân biệt lứa tuổi, giới tính, chức vụ nghề nghiệp, địa bàn
sinh sống, làm việc và giáo dục thể chất bắt buộc (dành cho học sinh, sinh viên và
sỹ quan, chiến sỹ trong các lực lượng vũ trang). Thể dục, thể thao trong nhà
trường vừa là một môn học vừa là một mặt của giáo dục toàn diện, là một bộ phận
của TDTT cho mọi người.
Nó bao gồm giáo dục thể chất bắt buộc (2 tiết một tuần với học sinh phổ
thông; từ 90 -150 tiết/năm học đối với học sinh, sinh viên đại học, cao đẳng, trung
học chuyên nghiệp và dạy nghề) và các hoạt động thể thao ngoại khoá (tự nguyện)
ngoài giờ học (trong nhà trường hoặc ngoài nhà trường). Giáo dục thể chất bắt
buộc được gọi là giờ thể dục chính khoá hoặc giờ thể dục nội khoá.
Nhiệm vụ và mục tiêu của TDTT trường học là nâng cao sức khoẻ, đảm bảo
sự phát triển bình thường của cơ thể học sinh; phát triển các tố chất thể lực và kỹ
năng vận động cơ bản của con người; hình thành thói quen rèn luyện thân thể, giữ
gìn vệ sinh và rèn luyện đạo đức ý chí cho người học. Phát triển TDTT trường học
có tầm quan trọng đặc biệt trong việc chuẩn bị nguồn nhân lực cho sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Những vấn đề nói trên được quy định tại chương II - Luật Thể dục, Thể thao
(Quốc hội khoá 11 thông qua năm 2006) và quy định tại điều 7 Nghị định
122/2007/NĐ - CP ngày 26/6/2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành Luật Thể dục, Thể thao. Những quy định này đã thể chế hoá quan điểm
5
của Đảng Cộng sản Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh về TDTT nói chung và
TDTT trường học nói riêng.
Tháng 10/1941, trong chương trình cứu nước của mặt trận Việt Minh đã nêu
rõ: “ Khuyến khích, giúp đỡ nền thể dục quốc dân, làm cho nòi giống ngày càng
thêm mạnh. Trẻ em được Chính phủ đặc biệt săn sóc về Thể dục, Trí dục và Đức
dục ”

Ngày 27/3/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 38 thiết lập tại Bộ
quốc gia Giáo dục một Nhà Thanh niên và Thể dục, trong đó có một Phòng thanh
niên và một Phòng Thể dục, có nhiệm vụ “ Khuyên và dạy đồng bào tập thể dục
”. Bác Hồ còn viết bài “ Sức khoẻ và thể dục ” đăng trên báo Cứu quốc (tiền thân
của báo Nhân dân) và báo Việt Nam Khoẻ (tiền thân của báo Thể thao Việt Nam)
trong đó, Người khẳng định giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống
mới, việc gì cũng cần phải có sức khỏe mới làm thành công. Mỗi một người dân
yếu ớt, tức là cả nước yếu ớt, mỗi một người dân khoẻ mạnh, tức là cả nước mạnh
khỏe ”
Tháng 1 năm 1955, trong Lễ Khai giảng trường đại học Nhân dân Việt Nam,
Bác Hồ đã căn dặn: “ Thanh niên phải chuyên tâm đi học và công tác nhưng cũng
cần có vui chơi. Vui chơi lành mạnh là một bộ phận trong sự sinh hoạt của thanh
niên. Trong vui chơi cũng có giáo dục. Cần có những thứ vui chơi văn hoá, thể
thao có tinh thần tập thể và quần chúng ” (Hồ Chí Minh - Bàn về công tác giáo
dục - NXB Sự Thật 1972).
Các sự kiện và những văn bản nói trên đã chứng minh rằng: Ngay từ trước
Cách mạng tháng 8 và sau khi chúng ta vừa giành được chính quyền và đang phải
chống lại 3 loại giặc (đói - dốt - ngoại xâm) thì Trung ương Đảng và Bác Hồ đã
nêu quan điểm, tư tưởng chỉ đạo công tác TDTT (thể dục theo nghĩa rộng) đối với
thế hệ trẻ (học sinh). Vì đó là đối tượng chính của toàn bộ sự nghiệp cách mạng
của Đảng. Về mặt tổ chức, cơ quan quản lý nhà nước đầu tiên và cao nhất về
6
TDTT được đặt trong Bộ quốc gia Giáo dục (trước đó là trong Bộ thanh niên).
Điều này càng thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng về công tác Giáo dục thể
chất và TDTT trường học.
Từ đó đến nay, trong mỗi kỳ đại hội Đảng toàn quốc hoặc trong từng nhiệm
kỳ, Trung ương Đảng đều ban hành các Nghị quyết, Chỉ thị, Thông tin về TDTT
nói chung và TDTT trường học nói riêng.
Trong Chỉ thị 36/CT - TW ngày 24/3/1994 về công tác TDTT trong giai đoạn
mới, Ban Bí thư Trung ương Đảng xác định mục tiêu đến năm 2000 TDTT trường

học phải đạt: “ Thực hiện Giáo dục thể chất trong tất cả các trường học. Làm cho
việc tập luyện TDTT trở thành nếp sống hàng ngày của hầu hết học sinh, sinh
viên… ”. Muốn vậy thì “ Ban cán sự đảng Bộ Giáo dục và Đào tạo và Ban cán sự
Đảng Tổng cục TDTT phải phối hợp chỉ đạo tổng kết công tác Giáo dục thể chất,
cải tiến chương trình giảng dạy, tiêu chuẩn rèn luyện thân thể, đào tạo giáo viên
TDTT cho trường học các cấp tạo điều kiện cần thiết về cơ sở vật chất để thực
hiện chế độ Giáo dục thể chất bắt buộc ở tất cả các trường học… ”
Trong chỉ thị 17/CT - TƯ ngày 23/10/2002 về phát triển TDTT đến năm
2010, Ban bí thư TƯ Đảng xác định “ Đẩy mạnh hoạt động TDTT nâng cao thể
trạng và tầm vóc của người Việt Nam. Phát triển phong trào TDTT quần chúng
với mạng lưới cơ sở rộng khắp; Đào tạo bồi dưỡng đội ngũ VĐV thành tích cao…
Đẩy mạnh hoạt động TDTT ở trường học, tiến tới đảm bảo mỗi trường học đều có
giáo viên thể dục chuyên trách và lớp học thể dục đúng tiêu chuẩn, tạo điều kiện
nâng cao chất lượng GDTC; Xem đây là một tiêu chí công nhận trường chuẩn
quốc gia Tăng đầu tư của Nhà nước cho việc phát triển TDTT ở trường học, ở
nông thôn và miền núi… ”
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI năm 2011 xác định 1 trong 3
mũi đột phá chiến lược để phát triển kinh tế xã hội đất nước đến năm 2020 là: “
Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung
7
vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ
việc phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ.
Cần tập trung xây dựng đời sống, lối sống và môi trường văn hóa lành mạnh, chú
trọng xây dựng nhân cách con người Việt Nam về lý tưởng, trí tuệ, đạo đức, lối
sống, thể chất, lòng tự hào dân tộc, trách nhiệm xã hội, ý thức chấp hành pháp
luật, nhất là trong thế hệ trẻ Làm tốt công tác giáo dục thể chất trong trường
học Phát triển mạnh phong trào TDTT đại chúng, tập trung đầu tư nâng cao chất
lượng một số môn thể thao thành tích cao mà nước ta có ưu thế; Kiên quyết chống
tiêu cực trong thi đấu thể thao ”
Tháng 12/2011, Bộ Chính trị ban hành NQ số 08/NQ - TW về công tác

TDTT, trong đó xác định mục tiêu và giải pháp nâng cao chất lượng công tác
GDTC và thể thao trong nhà trường đến năm 2020: “ Phấn đấu 90% học sinh, sinh
viên đạt tiêu chuẩn rèn luyện thân thể Cần quan tâm đầu tư đúng mức TDTT
trường học, với vị trí là bộ phận quan trọng của phong trào TDTT; là một mặt của
giáo dục toàn diện nhân cách học sinh, sinh viên Xây dựng và thực hiện Đề án
tổng thể phát triển giáo dục thể chất và thể thao trường học Thực hiện tốt giáo
dục thể chất theo chương trình nội khoá; phát triển mạnh các hoạt động thể thao
của học sinh, sinh viên, bảo đảm mục tiêu phát triển thể lực toàn diện và kỹ năng
vận động cơ bản của học sinh, sinh viên, góp phần đào tạo năng khiếu và tài năng
thể thao Đổi mới chương trình và phương pháp giáo dục thể chất, gắn giáo dục
thể chất với giáo dục ý chí, đạo đức, giáo dục quốc phòng, giáo dục sức khoẻ và
kỹ năng sống của học sinh, sinh viên Đãi ngộ hợp lý và phát huy năng lực đội
ngũ giáo viên thể dục hiện có; mở rộng và nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng
đội ngũ giáo viên, hướng dẫn viên thể dục cho trường học; củng cố các cơ sở
nghiên cứu khoa học về tâm sinh lý lứa tuổi và TDTT trường học ”
8
1.2. Đặc điểm tâm lý, sinh lý lứa tuổi trung học phổ thông.
1.2.1. Đặc điểm tâm lý lứa tuổi trung học phổ thông.
Ở lứa tuổi 16 - 18 các em tỏ ra mình là người lớn, muốn để cho mọi
người tôn trọng mình, có trình độ hiểu biết nhất định, có khả năng phân tích tổng
hợp, muốn hiểu biết nhiều, có hoài bão còn nhiều nhược điểm và thiếu kinh
nghiệm sống.
Lứa tuổi này chủ yếu hình thành thế giới quan tự ý thức, hình thành tính
cách và hướng về tương lai. Đó cũng là tuổi lãng mạn, mơ ước độc đáo và mong
cho cuộc sống tươi đẹp hơn. Các em có nhu cầu sáng tạo, nảy nở những tình cảm
mới và mối tình đầu thường để lại dấu vết trong suốt cuộc đời.
* Hứng thú: Đã phát triển rõ rệt và hoàn thiện mang tính chất bền vững
sâu sắc phong phú. Hứng thú của các em rất năng động, sẵn sàng đi vào lĩnh vực
mình ưa thích do thái độ tự giác tích cực trong cuộc sống hình thành từ động cơ đúng
đắn và hướng tới việc lựa chọn nghề nghiệp sau khi học xong THPT. Tuy nhiên hứng

thú của các em còn do nhiều động cơ khác: Giữ lời hứa với bạn, do hiếu thắng, đôi
khi do tự ái. Vì vậy các em cần được định hướng, xây dựng động cơ đúng đắn để các
em có hứng thú trong học tập nói chung và trong GDTC nói riêng.
* Tình cảm: Tình cảm của các em đang đi đến hoàn thiện, biểu hiện ở
những nét yêu quý tôn trọng mọi người, cư xử đúng mực, biết kính trên nhường
dưới. Tình cảm biểu lộ rõ nét hơn, các em gắn bó yêu quý mái trường, thầy cô, đặc
biệt hơn là với các giáo viên, huấn luyện viên của các em (yêu, ghét rõ ràng), việc
HLV gây được thiện cảm và sự tôn trọng là một trong những thành công, điều đó
thuận lợi trong giảng dạy, huấn luyện, nó thúc đẩy các em tích cực tự giác trong
tập luyện và ham mê TDTT.
* Trí nhớ: Lứa tuổi này các em hầu như không còn tồn tại ghi nhớ máy
móc vì các em đã tồn tại ghi nhớ có hệ thống, đảm bảo tính logic, tư duy chặt chẽ
9
hơn. Do đặc điểm trí nhớ của học sinh 16 - 18 tuổi khá tốt nên giáo viên có thể sử
dụng phương pháp trực quan kết hợp với giảng giải, phân tích sâu sắc các chi tiết
kỹ thuật động tác, vai trò, ý nghĩa cũng như phương pháp sử dụng các biện pháp,
phương pháp trong quá trình GDTC để các em có thể độc lập trong thời gian dỗi.
- Các phẩm chất ý chí được kiên định.
- Sự phát triển về nhân cách.
Phát triển và tồn tại độc lập như một thành viên trong xã hội và lấy tiêu
chuẩn của những người đã trưởng thành làm mục tiêu phấn đấu của bản thân.
Bắt đầu thể hiện sự phản đối công khai với sự quản lý của cha mẹ.
1.2.2. Đặc điểm sinh lý lứa tuổi trung học phổ thông.
* Hệ thần kinh: Hệ thần kinh tiếp tục được phát triển để đi đến hoàn
thiện. Khả năng tư duy khả năng phân tích, tổng hợp và trìu tượng hoá được phát
triển tạo thuận lợi cho việc hình thành nhanh chóng phản xạ có điều kiện. Đây là
đặc điểm thuận lợi để các em nhanh chóng tiếp thu và hoàn thiện kỹ thuật động
tác. Tuy nhiên, đối với một số bài tập mang tính đơn điệu, không hấp dẫn cũng
làm cho các em nhanh chóng mệt mỏi. Cần thay đổi nhiều hình thức tập luyện một
cách phong phú đặc biệt tăng cường các hình thức thi đấu, trò chơi để gây sự hứng

thú và tạo điều kiện hoàn thành tốt các bài tập chính, nhất là các bài tập sức bền.
Ngoài ra, do sự hoạt động mạnh của tuyến giáp, tuyến sinh dục, tuyến
yên, làm cho tính hưng phấn của hệ thần kinh chiếm ưu thế giữa hưng phấn và ức
chế không cân bằng đã ảnh hưởng đến hoạt động thể lực. Đặc biệt ở các em nữ
tính nhịp điệu giảm sút nhanh chóng, khả năng chịu đựng lượng vận động yếu. Vì
vậy giáo viên cần sử dụng các bài tập thích hợp và thường xuyên quan sát phản
ứng cơ thể học sinh để có biện pháp giải quyết kịp thời.
10
* Hệ vận động: Hệ xương bắt đầu giảm tốc độ phát triển. Nữ cao thêm
0,5 - 1cm, nam cao thêm 1 - 3 cm/mỗi năm. Tập luyện TDTT một cách thường
xuyên liên tục làm cho bộ xương khoẻ mạnh hơn. Lứa tuổi 16 - 18, các xương nhỏ
như xương cổ tay, bàn tay hầu như đã hoàn thiện nên các em có thể tập luyện một
số động tác kỹ thuật khó khăn hơn, hoặc mang các vật nặng mà không làm tổn hại
hoặc không tạo sự phát triển lệch lạc của cơ thể. Cột sống đã ổn định hình dáng,
nhưng vẫn chưa được hoàn thiện, vẫn có thể bị cong vẹo. Cho nên việc tiếp tục bồi
dưỡng tư thế chính xác thông qua hệ thống bài tập như: đi, chạy, nhảy… cho các
em vẫn rất cần thiết và không thể xem nhẹ. Riêng đối với các em nữ, xương xốp
hơn các em nam, ống tuỷ rỗng hơn, chiều dài xương ngắn hơn, bắp thịt nhỏ hơn và
yếu hơn, nên xương của nữ không khoẻ bằng nam. Đặc biệt là xương chậu của nữ
nhỏ và yếu. Vì thế trong quá trình GDTC không thể sử dụng có khối lượng vận
động và cường độ vận động như nam mà phải có sự phù hợp với đặc điểm giới
tính.
* Hệ cơ: Các tổ chức cơ phát triển muộn hơn xương nên cơ co vẫn
còn tương đối yếu, các bắp cơ lớn phát triển tương đối nhanh (cơ đùi, cơ cánh
tay) còn các cơ nhỏ (cơ bàn tay, ngón tay) phát triển chậm hơn. Các cơ co phát
triển sớm hơn các cơ duỗi, các cơ duỗi của nữ lại càng yếu. Đặc biệt vào tuổi
16 các tổ chức mỡ dưới da của nữ phát triển mạnh, nên ảnh hưởng đến việc
phát triển sức mạnh của cơ thể. Các bài tập phải đảm bảo nguyên tắc vừa sức và
đảm bảo cho tất cả các loại cơ đều được phát triển. Nhưng tuy nhiên với nữ cần có
yêu cầu riêng biệt, tính chất động tác của nữ cần toàn diện mang tính mềm dẻo, nhịp

điệu và khéo léo.
* Hệ tuần hoàn: Hệ tuần hoàn của các em đang phát triển và đi đến
hoàn thiện. Buồng tim phát triển tương đối hoàn chỉnh, mạch đập của nữ 75 - 86
lần/phút. Hệ thống điều hoà vận mạch phát triển tương đối hoàn chỉnh. Phản ứng
của hệ tuần hoàn trong vận động khá rõ rệt , nhưng sau vận động, mạch đập và
huyết áp hồi phục tương đối nhanh chóng. Cho nên lứa tuổi này có thể tập những
11
bài tập chạy và dai sức và những bài tập có khối lượng vận động và cường độ vận
động lớn cần thận trọng và thường xuyên theo dõi trạng thái sức khoẻ của các em.
* Hệ hô hấp: Đã phát triển và tương đối hoàn thiện, vòng ngực của nữ
từ 69 - 74 cm. Diện tích tiếp xúc của phổi khoảng 100 - 120 cm
2
gần bằng tuổi
trưởng thành. Dung lượng phổi tăng lên nhanh chóng: lúc 15 tuổi từ 2 - 2,5 lít, đến
16 - 18 tuổi khoảng 3 - 4 lít, tần số hô hấp gần giống người lớn 10 - 20 lần/phút.
Tuy nhiên các cơ hô hấp vẫn còn yếu nên sức có giãn của lồng ngực ít
chủ yếu là co giãn cơ hoành. Trong tập luyện cần thở sâu và tập trung chú ý thở
bằng ngực. Các bài tập bơi, chạy cự ly trung bình, việt dã có tác dụng tốt đến phát
triển hệ hô hấp.
1.3. Kỹ thuật thể thao.
Trong bất kỳ môn thể thao vận động nào muốn đạt được hiệu quả và thành
tích tốt nhất thì người tập phải có kỹ thuật thực hiện động tác hợp lý và phù hợp
với đặc điểm cá nhân của từng người.
Kỹ thuật thể thao phải dựa trên sự huấn luyện thể lực tốt nhất của người
tập. Để nắm được kỹ thuật hiện đại người tập phải có sức mạnh, sức nhanh, sức
bền, độ mềm dẻo và sự khéo léo được phát triển ở mức cao.
Kỹ thuật bài tập là cách thức sắp xếp, tổ chức và thực hiện hệ thống các
động tác để giải quyết nhiệm vụ vận động, hoặc nói ngắn gọn, đó là cách thức để
giải quyết nhiệm vụ vận động một cách hợp lý và hiệu quả.
Kỹ thuật thể thao luôn được đổi mới và hoàn thiện. Sự tìm tòi, khám phá

khoa học về các quy luật vận động của cơ thể sự tiến bộ về trình độ thể lực của
người tập, sự hoàn thiện về phương pháp giảng dạy, huấn luyện, sự đổi mới các
thiết bị dụng cụ, sân bãi thể thao là những nhân tố chủ yếu thúc đẩy sự ra đời các
kỹ thuật thể thao mới trong hầu hết các môn thể thao.
12
Kỹ thuật có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong cấu trúc thành tích hầu hết
các môn thể thao.
Đối với các môn thể thao sức bền, kỹ thuật đảm bảo cho việc thực hiện các
bài tập thi đấu thu được một hiệu quả cao và tiết kiệm năng lượng.
Đối với các môn thể thao mang tính chất sức mạnh tối đa và sức mạnh
nhanh, kỹ thuật là cơ sở để người tập có thể phát huy sức mạnh một cách nhanh
nhất và hiệu quả lớn nhất.
Đối với các môn thể thao kỹ thuật phức tạp thì kỹ thuật là yếu tố quyết định
trực tiếp tới thành tích thi đấu.
Từ những ý nghĩa trên, huấn luyện kỹ thuật có thể được coi là một trong
những nhiệm vụ quan trọng nhất của huấn luyện thể thao.
Có nhiều phương pháp huấn luyện kỹ thuật khác nhau do mỗi môn thể thao
có một đặc thù riêng về cấu trúc kỹ thuật động tác. Để đạt được thành tích tốt nhất
trong bóng rổ phải có kỹ thuật thực hiện động tác hợp lý và hiệu quả nhất. Kỹ
thuật phải phù hợp với đặc điểm cá nhân cũng như cấu tạo giải phẫu của từng
người.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng trong quá trình giảng dạy và huấn
luyện kỹ thuật là phải biết vận dụng những động tác nhằm đơn giản hóa kỹ thuật,
thực hiện bằng cách phân chia nhỏ và sử dụng các bài tập bổ trợ kỹ thuật. Người
tập phải hiểu rõ từng động tác, định hình được cách thực hiện động tác, phải tích
cực suy luận để hiểu rõ vì sao kỹ thuật mình áp dụng là thực sự hợp lý. Cần nâng
cao tính tích cực của người tập.
Trong khi trình độ thành tích thể thao đang ở mức cao, nếu không nghiên
cứu sâu để ngày càng hoàn thiện kỹ thuật thì không thể đạt được thành tích cao,
nhất là những môn có kỹ thuật phức tạp, việc hoàn thiện kỹ thuật phải được tiến

13
hành trong suốt quá trình huấn luyện. Không được bỏ qua việc giảng dạy các
thành phần riêng lẻ khắc phục các sai lầm trong kỹ thuật. Vốn dự trữ kỹ năng vận
động được tạo nên thông qua áp dụng các bài tập huấn luyện chung và huấn luyện
chuyên môn khác nhau. Điều quan trọng là phải tính đến mối quan hệ hữu cơ giữa
các việc phát triển các tố chất thể lực với việc tiếp tục hoàn thiện kỹ thuật.
Kỹ thuật hoàn thiện đó là tập hợp các cách thức thực hiện động tác thể thao
có hiệu quả nhằm mục đích đạt được thành tích tốt nhất trong quá trình giảng dạy.
Mức độ nắm vững kỹ thuật được thay đổi từ kỹ thuật sơ đẳng của người mới tập
đến kỹ thuật hoàn thiện được hình thành trên cơ sở các quy luật sinh cơ và sinh
hóa sẽ cho phép người tập thực hiện và hoàn thiện các động tác. Từ đó các hoạt
động tiết kiệm hơn và có hiệu quả hơn.
Trong các môn thể thao phức tạp về kỹ thuật thì việc hình thành kỹ thuật là
nhiệm vụ hàng đầu. Và do đó, thời gian dành cho kỹ thuật ở các buổi tập sẽ nhiều
hơn để nắm vững được các động tác và các yếu tố kỹ thuật.
1.4. Bài tập bổ trợ chuyên môn.
Hiện nay có rất nhiều khái niệm về bài tập bổ trợ chuyên môn của các tác
giả khác nhau. Bài tập bổ trợ chuyên môn là bài tập nhằm hổ trợ việc nhanh chóng
tiếp thu và thực hiện có hiệu quả bài tập chuyên môn, trong đó bài tập chuyên môn
là những bài tập bổ trợ cho việc tiếp thu kỹ thuật động tác. Theo quan điểm của
PGS Nguyễn Toán thì “ Bài tập bổ trợ chuyên môn là các bài tập phức hợp các
yếu tố của động tác thi đấu cùng biến dạng cũng như các bài tập dẫn dắt tác động
có chủ đích và có hiệu quả đến sự phát triển các tố chất và các kỹ xảo vận động ở
chính ngay môn thể thao đó ”. Còn một số tác giả nước ngoài cho rằng : Bài tập bổ
trợ là một trong những biện pháp trong giảng dạy, bao gồm các bài tập mang tính
chuyển đổi và bài tập tăng cường các tố chất thể lực. Quan điểm của các học giả
Trung Quốc về bài tập bổ trợ chuyên môn là những bài tập mang tính chuyên biệt
cho từng môn thể thao, từng kỹ thuật riêng biệt (từ điển TDTT Trung Quốc,
trang 17, xuất bản năm 1993).
14

Các khái niệm trên tuy có khác nhau về cách trình bày nhưng luôn có sự
thống nhất về ý nghĩa. Như vậy bài tập bổ trợ chuyên môn là các bài tập mang tính
chuẩn bị, tính dẫn dắt, tính chuyển đổi và tính thể lực chuyên biệt cho từng kỹ
thuật và từng môn thể thao khác nhau.
* Vai trò tác dụng của bài tập bổ trợ chuyên môn.
Theo các nhà khoa học, các chuyên gia, huấn luyện viên thể thao thì các
bài tập bổ trợ chuyên môn là biện pháp quan trọng trong giảng dạy và huấn luyện
kỹ thuật.
Như chúng ta đã biết một kỹ thuật thường cấu trúc các chuỗi động tác
gắn kết có trình tự, có sự liên quan phối hợp động tác với nhau. Thúc đẩy hoặc hạn
chế nhau để cùng thực hiện yếu lĩnh kỹ thuật động tác nào đó, một kỹ thuật thường
gắn với nhiều khâu, nhiều cử động, nhiều giai đoạn nên cùng một lúc người học
không thể hình thành các khái niệm cũng như tạo ra các đường mòn liên hệ trên vỏ
đại não các cử động đó. Do vậy, người ta phân chia nhỏ kỹ thuật phức tạp thành
các giai đoạn khác nhau.
Ví dụ như trong kỹ di động ném rổ một tay trên cao người ta phân chia
kỹ thuật thành các hình thức như tiếp bóng hai bước lên rổ, dẫn bóng hai bước
ném rổ. Trên cơ sở đó để người học nắm bắt được từng phần sau đó liên kết thành
kỹ thuật hoàn chỉnh. Ở mỗi giai đoạn kỹ thuật để giúp người học hình thành được
kỹ thuật người ta sử dụng các bài tập khác nhau.
- Mang tính chuẩn bị đưa người tập vào trạng thái tâm sinh lý thích hợp
với việc tiếp thu kỹ thuật.
- Mang tính dẫn dắt, nhằm tạo cho người tập năm được các yếu lĩnh từ
dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, từ đơn lẻ đến hoàn thiện kỹ thuật.
- Mang tính chuyển đổi từ động tác này sang động tác khác với các
khoảng không gian, thời gian khác nhau nhằm tao ra sự lợi dụng các kỹ năng đã có
hình thành các kỹ năng mới.
Và có thể đáp ứng cho người học thực hiện thuận lợi các kỹ năng đang
học. Bên cạnh đó còn cần tập các bài tập bổ trợ thể lực chuyên môn cho người tập.
15

Ví dụ: Muốn lên rổ tốt phải có sức bật và sức nhanh của chân cũng như khả năng
qua người và các tư thế thân người, các góc độ của các khớp chuẩn xác mới có thể
thực hiện kỹ thuật hoàn thiện. Vì vậy song song với các bài tập bổ trợ chuyên môn
cũng cần chú trọng đưa vào quá trình giảng dạy, huấn luyện các bài tập để tăng
cường một số tố chất thể lực chuyên môn cần thiết. Có thể nói các bài tập bổ trợ
chuyên môn vừa là biện pháp để nắm kỹ thuật vừa là khâu quan trọng để hoàn
thiện và nâng cao các kỹ thuật nhất là kỹ thuật phức tạp và khó như kỹ thuật hai
bước lên rổ, vừa là một khâu quan trọng để thúc đẩy nhanh quá trình hình thành kỹ
năng kỹ xảo vận động.
1.5. Xu hướng phát triển môn bóng rổ ở Việt Nam.
Bóng rổ được du nhập vào Việt Nam từ đầu thế kỷ XX. Thời kỳ đầu, Bóng
rổ chỉ được phát triển ở các thành phố lớn như Hà Nội, Sài Gòn, Đà Nẵng và Hải
Phòng Sau khi đất nước được giải phóng, phong trào tập luyện Bóng rổ ngày
càng phát triển mạnh mẽ và có sức thu hút đông đảo tầng lớp xã hội tập luyện nhất
là học sinh, sinh viên.
Mặc dù, còn gặp nhiều khó khăn về cơ sở vật chất, nhưng hàng năm Uỷ ban
TDTT phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo đều tổ chức giải Bóng rổ học sinh,
sinh viên toàn quốc, các giải vô địch quốc gia và các giải trẻ thanh thiếu niên trên
phạm vi toàn quốc. Bóng rổ là môn thể thao tập thể mang tính đối kháng, đòi hỏi
kỹ, chiến thuật nhuần nhuyễn. Đây cũng là môn thể thao có sức hấp dẫn và lôi
cuốn mạnh mẽ, nhất là đối với lứa tuổi học sinh, sinh viên.
Hiện nay, trên cả nước môn Bóng rổ đã phát triển rất mạnh, các địa phương,
trung tâm có phong trào Bóng rổ đứng đầu là Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội,
Quân Đội, Yên Bái, Quảng Ninh, Đà Nẵng, Sóc Trăng Minh chứng cho sự phát
triển mạnh mẽ của Bóng rổ Việt Nam, năm 1992 Liên đoàn Bóng rổ Việt Nam đã
chính thức ra nhập Liên đoàn Bóng rổ thế giới đưa Bóng rổ Việt Nam bước sang
một thời kỳ mới.
16
Bóng rổ là môn thể thao phát triển rộng khắp trên thế giới và có mặt tại các
kỳ Thế vận hội Olympic, Châu lục và khu vực. Bóng rổ là môn thể thao đòi hỏi

người chơi phải có thể lực, chiều cao, sức bật tốt đồng thời phải có sự phối hợp
thống nhất giữa các thành viên trong đội. Trong thi đấu Bóng rổ, ngoài việc tăng
khả năng tranh đua về mọi mặt, còn giúp người chơi hoàn thiện mình trong lối
chơi và năng động trong cuộc sống.
1.6. Đặc điểm của hoạt động và thi đấu bóng rổ.
Bóng rổ là môn thể thao thi đấu đối kháng trực tiếp giữa 2 đội, trận thi đấu
bóng rổ diễn ra trong khoảng không gian khá hẹp và với thời gian thi đấu dài, căng
thẳng với lượng vận động cao.
Thi đấu bóng rổ rất hấp dẫn bởi các tình huống diễn biến nhanh và đa dạng.
Hoạt động và thi đấu bóng rổ là một hoạt động không chu kỳ. Trong thi đấu
thường xuyên có các tình huống khác nhau xảy ra và diễn biến liên tục. Do vậy đòi
hỏi các vận động viên phải có thể lực tốt và toàn diện. Biết vận dụng mọi ưu thế
về kỹ thuật lên rổ khác nhau có nh vậy mới hoàn thành được nhiệm vụ ở bất cứ vị
trí nào trên sân khi bắt được bóng.
Trong thi đấu bóng rổ kỹ - chiến thuật luôn thay đổi, biến hoá đa dạng
nhưng vẫn mang liên hoàn nhịp điệu cao. Chính vì vậy mà thi đấu bóng rổ diễn ra
sôi nổi, sinh động và có tính hấp dẫn cao.
Do có sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của môn bóng rổ nên đòi hỏi các
vận động viên phải có sự chuẩn bị thật tốt về các mặt thể lực, kỹ chiến thuật, tâm
lý, trong đó vấn đề về thể lực được đặt lên hàng đầu.
Trong những năm gần đây nhiều nước có nền bóng rổ phát triển cao, họ
luôn tìm kiếm những phương pháp tiên tiến nhất nhằm nâng cao thể lực cho vận
động viên của mình, từ đó tạo cơ sở nâng cao hiệu quả vận dụng các kỹ thuật -
chiến thuật thi đấu để đạt thành tích thể thao cao.
17
Nhờ sự phát triển mạnh mẽ của các môn khoa học như: sinh lý, sinh hoá,
sinh cơ, lý luận… người ta đã tìm được những biện pháp, phương pháp trong việc
huấn luyện đối với các môn thể thao riêng biệt.
Hiện nay công tác huấn luyện thể lực cho vận động viên bóng rổ phải được
đặt lên hàng đầu. Người ta đặc biệt quan tâm đến việc huấn luyện phát triển các tố

chất chuyên môn như: sức nhanh, sức mạnh, sức bền…
Thi đấu bóng rổ đỉnh cao, các hoạt động diễn ra nhanh, mạnh nên đòi hỏi
vận động viên phải có sức nhanh chuyên môn tốt thì mới có thể đáp ứng được yêu
cầu phối hợp chiến thuật của môn thể thao này.
1.7. Phương pháp giảng dạy môn bóng rổ.
Quá trình giảng dạy bóng rổ nhằm trang bị cho học sinh những kiến thức kỹ
năng và kỹ xảo thường xuyên phát triển và hoàn thiện chúng, cũng như nhằm hình
thành hệ thống những kiến thức về các vấn đề kỹ thuật, chiến lược và chiến thuật,
luật thi đấu, phương pháp huấn luyện… Điều chiếm vị trí đáng kể trong giảng dạy
không chỉ là phát triển các tố chất thể lực và đạo đức, mà còn hình thành những kỹ
năng và kỹ xảo chuyên môn mà các vận động viên bóng rổ cần phải tiếp thu đến
mức hoàn thiện. Người tập bóng rổ cần áp dụng hợp lý những kỹ xảo đã tiếp thu
được dựa trên cơ sở kiến thức và kỹ năng. Đó là bản chất của quá trình giảng dạy.
Việc tiếp thu các kỹ xảo vận động đòi hỏi phải nắm thật vững các động tác
để việc thưc hiện chúng được diễn ra một cách tự động hóa, và tất cả hệ thống
động tác có sự ổn định trước tác động của các yếu tố cản phá.
Kỹ năng là hoạt động có ý thức khi lựa chọn động tác cần thiết. Trong khi
hình thành những kỹ năng cấp cao, cần phải thực hiện các bài tập trong những
điều kiện thường xuyên thay đổi.
Nhằm rút ngắn thời gian giảng dạy, người ta có thể chia các động tác thành

×