Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Tiểu luận nâng cao hiệu quả tâm lý lãnh đạo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.65 KB, 25 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Những thắng lợi to lớn mà nhân dân ta đã giành được sau cách mạng tháng 8
năm 1945 và qua hai cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược cũng như những
thành tựu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam XHCN là bằng
chứng khẳng định tính tất yếu khách quan về sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam.
Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế
quốc tế hiện nay, đất nước ta tiếp tục đạt những thành tựu to lớn, tốc độ tăng trưởng
kinh tế nhiều năm liên tục ở mức khá, nhiều doanh nghiệp nhà nước đã tạo được uy
tín và thương hiệu trên thị trường trong nước và nước ngoài. Bên cạnh đó, chúng ta
gặp không ít những khó khăn, thách thức.
Việc củng cố, nâng cao uy tín của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ta
càng trở nên cấp thiết. Điều quan trọng nhất đối với nhà quản lý là phải biết vận
dụng một cách linh hoạt phong cách lãnh đạo của mình. Giống như một đoàn tàu ra
khơi, bao giờ chúng ta cũng kỳ vọng ở thuyền trưởng - người chèo lái con tàu đất
nước. Do đó, bản thân tôi mong những người cộng sản lãnh đạo đất nước trong
tương lai phải hiểu rõ truyền thống lịch sử, văn hoá và nhìn vào bốn ngàn năm lịch
sử để nhìn rõ con đường đi lên của đất nước.
Những yêu cầu trên đã đặt ra cho chúng ta cần phải nghiên cứu về tâm lý của
người lãnh đạo và các tổ chức. Bởi vì, mỗi con người, mỗi tổ chức xã hội là một thế
giới tâm lý rất phức tạp và phong phú. Thế giới tâm lý này là động lực nội tâm chi
phối từ nhận thức đến hành vi của các chủ thể.
Kỹ năng lãnh đạo là sự rất cần thiết, nhưng chưa đủ để nhà lãnh đạo nắm
chắc thành công. Cái không thể thiếu ở một người lãnh đạo là biết mình lãnh đạo
ai, trong môi trường kinh tế, xã hội, văn hoá nào, với những truyền thống, phong
tục, tập quán ra sao và quan trọng hơn hết cần đưa ra tầm nhìn như thế nào để đem
lại lợi ích lớn nhất cho người sẽ chịu ảnh hưởng từ tầm nhìn ấy.
Xuất phát từ nhận thức trên, người lãnh đạo tương lai phải có trách nhiệm
với dân tộc, với lịch sử, với trọng trách mà họ đang gánh vác nên em đã quyết định
chọn đề tài: “Một số giải pháp về tâm lý và phong cách lãnh đạo để nâng cao
hiệu quả công tác quản lý hiện nay”. Cấu trúc đề tài gồm 3 phần:


Phần I: Cơ sở lý luận về tâm lý và phong cách người lãnh đạo
Phần II: Thực trạng công tác lãnh đạo tại cơ quan
Phần III: Một số giải pháp về tâm lý – phong cách lãnh đạo để nâng cao hiệu
quả công tác quản lý hiện nay
Trong thời gian qua được sự hướng dẫn, chỉ bảo của các anh chị trong cơ
quan và đặc biệt là thầy hướng dẫn Trần Huy Đức – Phó Hiệu trưởng trường
Chính trị Thành phố Đà Nẵng đã giúp đỡ em hoàn thành đề tài này. Và chắc chắn
không thể tránh khỏi những sai sót trong đề tài. Rất mong nhận được sự đóng góp,
ý kiến của quý thầy cô, các anh chị và các bạn để đề tài được hoàn thiện hơn.
Hoà Vang, ngày tháng 01 năm 2010
Học viên thực hiện

Trần Thị Liên

PHẦN I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÂM LÝ VÀ PHONG CÁCH
NGƯỜI LÃNH ĐẠO
1. Khái niệm về lãnh đạo và các yếu tố cấu thành của lãnh đạo
Lãnh đạo là một chức năng quan trọng của quản lý, khả năng lãnh đạo là tiêu
chí đánh giá trình độ quản lý, hiệu quả lãnh đạo là chìa khoá để trở thành nhà lãnh
đạo giỏi.
1.1. Khái niệm về lãnh dạo
Lãnh đạo là sự tác động như một nghệ thuật hay một quá trình đến con người
sao cho họ tự nguyện và nhiệt tình phấn đấu để đạt được mục tiêu của tổ chức, mọi
người cần được động viên để tự nguyện làm việc với sự sốt sắng, tin tưởng, tận tuỵ
tối đa khả năng của mình.
1.2. Các yếu tố cấu thành của lãnh đạo
- Khả năng nhận thức được con người, những động lực thúc đẩy khác nhau ở
những thời gian khác nhau và trong những hoàn cảnh khác nhau.
- Khả năng khích lệ: Hãy hiểu rõ những biện pháp khích lệ mà mọi người coi

trọng bằng cách áp dụng kỹ năng xây dựng quan hệ và xác định kỳ vọng. Hãy
nghiên cứu những biện pháp khích lệ cụ thể mà mọi người muốn có và những gì
mà môi trường đã mang lại cho họ. Hãy sử dụng các biện pháp khuyến khích
“cứng” và “mềm” để khích lệ mọi người. Các khuyến khích cứng bao gồm: tiền
lương, phúc lợi, thăng chức, an ninh nghề nghiệp và điều kiện làm việc. Đây là
những công cụ thúc đẩy mạnh. Hãy chắc chắn là mọi người nhận được đầy đủ
những ưu đãi này.
- Khả năng hành động: Để tạo ra một bầu không khí hữu ích cho sự ảnh
hưởng các quyết định của nhóm hay tập thể.
* Muốn chi phối được môi trường, người lãnh đạo cần phải lưu ý 4 yếu tố:
- Tầm nhìn: “Phần tinh quý thực sự của nhà lãnh đạo là có tầm nhìn”, Rev.
TheodoreM. Hesburgh, Hiệu trưởng Trường Đại học Notre Dame, Pháp cho biết:
Nhà lãnh đạo phải chỉ ra hướng đi cho những người dưới quyền. Các nhà lãnh đạo
thường là những người có tầm nhìn xa, những người có khả năng dự báo trước xu
thế lớn, họ là những nhà chiến lược. Người lãnh đạo phải xác định được tương lai,
nhiệm vụ và mục tiêu cụ thể của một tổ chức.
- Giao tiếp: Người lãnh đạo phải thành thạo giao tiếp bằng cả văn nói và cả
văn viết, phải biết cách gây ấn tượng bằng giọng nói, ngôn ngữ cơ thể, đôi mắt và
cách diễn đạt dễ hiểu, thuyết phục. Nhà lãnh đạo tài năng thường sử dụng ngôn ngữ
làm lay chuyển mọi người. Họ nói năng rất rõ ràng, chính xác, họ có cách sử dụng
từ vựng vô cùng hoàn hảo, phù hợp với từng đối tượng.
Người lãnh đạo giỏi phải biết bày tỏ cảm xúc của mình và tìm hiểu cảm xúc
của người khác. Hãy nói với các nhân viên rằng họ đang cảm thấy thế nào về công
việc và cường độ làm việc, công việc của họ tiến triển ra sao, có điều gì đang cản
trở thành công. Sau đó, hãy tỏ ra chân thành và nói cho họ biết bạn đánh giá như
thế nào về họ, phong cách và hiệu quae làm việc của họ. Khi những giá trị chính là
gì và điều này tạo ra một bầu không khí làm việc cởi mở có hiệu quả cao.
- Sự tin cậy: Một nghiên cứu của Hay đã khảo sát trên 75 yếu tố tạo nên sự
hài lòng của nhân viên. Kết quả là:
+ Niềm tin và sự tin cậy, đây được coi là công cụ đo lường xác thực nhất của

nhân viên trong một tổ chức.
+ Truyền thống hiệu quả là lãnh đạo trong ba lĩnh vực dưới đây chính là yếu
tố then chốt để đạt được niềm tin và sự tin cậy trong tổ chức:
• Giúp nhân viên hiểu rõ việc làm của tổ chức.
• Giúp nhân viên hiểu được rằng: Họ cần đóng góp những gì để đạt
được các mục tiêu chung của tổ chức.
• Chia sẻ thông tin với các nhân viên về 2 vấn đề: Tổ chức đang hoạt
động thế nào và mỗi thành biên làm việc như thế nào trong mối tương
quan với các mục tiêu chiến lược của tổ chức.
* Nhà lãnh đạo sẽ được người khác tôn trọng khi chứng minh được khả
năng, kiến thức chuyên môn của mình bằng một thứ ngôn ngữ thích hợp, được thể
hiện một cách chuẩn xác và đúng thời điểm. Khi nhà lãnh đạo trả lời các thắc mắc,
quan tâm nhân viên một cách chính xác, thể hiện tài năng của mình một cách khiêm
tốn và làm cho các nhân viên cảm thấy tin tưởng khi làm theo những đường lối do
mình vạch ra, anh ta sẽ có một ảnh hưởng lớn đối với họ.
- Tự biết mình: Thành công trong nền kinh tế tri thức chỉ đến với những
người biết rõ bản thân, những mặt mạnh, những giá trị và cách tốt nhất mà con
người có thể làm. Các cơ quan trong thời đại ngày nay không quản lý công việc
nhân viên, những công nhân tri thức phải biết trở thành nhà quản lý của chính mình
một cách hiệu quả. Điều đó phụ thuộc vào bạn có tìm cho mình một vị trí, có biết
khi nào thì nên thay đổi công việc, làm việc tận tâm và năng suất trong cuộc đời
làm việc. Để làm tốt những việc trên, bạn cần có năng suất trong suốt cuộc đời làm
việc, bạn cần có sự hiểu biết sâu sắc về bản thân, không chỉ sở trường và sở đoản
mà cả cách học tập, cách làm việc với những người khác, những giá trị của bạn và
nơi mà bạn có thể đóng góp nhiều nhất. Khi bạn có thể vận dụng những khả năng
của mình, bạn mới có thể đạt được thành công xuất sắc thật sự.
2. Đặc điểm tâm lý và những điều cần tránh của người lãnh đạo
2.1. Đặc tính tâm lý của người lãnh đạo
- Khả năng tác động về mặt tình cảm và ý chí như khả năng truyền cảm, nghị
lực của mình cho người khác bằng phong thái cá nhân, tính nghiêm khắc trong

truyền đạt, tính phê phán, ngay thẳng, dũng cảm, đúng lúc.
- Tính cởi mở cá nhân như sự khéo léo giao thiệp với người khác, tiếp xúc
nhanh chóng và không gượng gạo với bất kỳ người nào, khéo léo tác động đến con
người, biết phát biểu trước công chúng, đó là phẩm chất không thể tách rời của bất
kỳ người lãnh đạo nào.
- Tính chọn lọc tâm lý biểu hiện ở khả năng nhanh chóng, nắm bắt được
những đặc điểm và trạng thái tâm lý của người khác và muốn chan hoà với họ.
- Đặc tính phản ánh là một phẩm chất quan trọng của người lãnh đạo có ý
nghĩa tâm lý rộng rãi.
2.2. Kỹ năng lãnh đạo
- Sử dụng đúng uy quyền của mình về pháp lý.
- Uỷ quyền cho cấp dưới, khả năng quan trọng nhất mà người lãnh đạo cần
có là biết sử dụng người khác để đạt kết quả tốt.
- Phải biết tổ chức công việc của mình, vấn đề là ở chỗ phải chọn phương
pháp thực hiện công việc để công việc dồn mình hay tự mình dồn công việc.
- Giải quyết tốt mối quan hệ giữa lãnh đạo và người cấp dưới, việc thực hiện
quyền lực trong thực tế có liên quan đến yêu cầu và mong đợi của cả hai bên từ
phía tập thể đối với người lãnh đạo cũng như từ phía lãnh đạo đối với người dưới
quyền.
- Biết cách truyền đạt quyết định có hiệu quả.
2.3. Những điều cần tránh trong phong cách người lãnh đạo
Để đạt được hiệu quả trong quản lý, người lãnh đạo cần tránh một số điều
sau:
- Tính độc tôn.
- Tính cố chấp, không tiếp thu ý kiến của người khác.
- Tính đơn ý.
- Tính cực đoan, duy ý chí.
- Tính ôm đồn, bao biện, làm mọi việc không đúng thẩm quyền.
- Tính ua dua, không biết quyết định và không dám chịu trách nhiệm.
- Tính sổ sàng.

- Tính duy ý chí, phải biết người dưới quyền của mình như thế nào để giao
nhiệm vụ hợp lý.
3. Một số vấn đề tâm lý liên quan đến lãnh đạo
3.1. Tâm lý học quản lý
- Giúp cho người lãnh đạo nghiên cứu những người dưới quyền mình, giải
thích những hành vi của những người dưới quyền, nhìn thấy trước những hành vi
của cấp dưới, từ đó sắp xếp cán bộ một cách hợp lý, phù hợp với khả năng của họ.
- Tác dụng thực tiễn của tâm lý học là ở chỗ nó giúp người lãnh đạo nắm
được quy luật của tâm lý và làm chủ nó nhằm phát huy khả năng chủ quan của con
người, tạo ra một sức mạnh quần chúng đem lại hiệu quả tổng hợp cao.
3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến tâm lý công chức
- Giá trị của tổ chức: Là những tiêu chuẩn nguyên tắc hướng dẫn hoạt động
của tổ chứ và cùng vào khuôn khổ cho các hoạt động đó. Giá trị của tổ chức bao
gồm ba yếu tố là:
+ Mục tiêu của tổ chức hành chính là thi hành pháp luật bảo vệ an ninh trật
tự và thoả mãn nhu cầu công cộng.
+ Tiêu chuẩn hiệu suất là tiêu chuẩn đo lường khả năng làm việc của công
chức.
+ Nguyên tắc tôn trọng pháp luật: Nguyên tắc này có mục đích kiểm soát và
ngăn chặn lạm dụng công chức để bảo vệ quyền lợi của cơ quan nhất là của nhân
dân.
- Tương quan nhân sự trong tổ chức:
+ Cách cư xử giữa các công chức trong tổ chức, các công chức liên hệ với
nhau theo chính thức và phi chính thức.
+ Tinh thần phục vụ tập thể.
Áp lực của cấp trên và đồng nghiệp trong một số trường hợp cấp trên và
đồng nghiệp trở thành áp lực đối với công chức khiến cho con người này có những
thái độ hoạt động đặc biệt.
- Chức vụ công chức: Ảnh hưởng đến hành động của cá nhân và ảnh hưởng
đến hành động của người khác, chức vụ ảnh hưởng đến nhân cách của người làm

thay đổi tâm trạng và do đó biến đổi phong cách.
Nhiệm vụ của công chức cũng ảnh hưởng đến tâm lý và phong cách của
công chức.
Quyền lợi là động cơ mạnh thúc đẩy con người làm việc vì điều kiện tiên
quyết là con người phải được thoả mãn.
3.3. Cần khắc phục những hiện tượng tâm lý tiêu cực trong quản lý
- Tâm lý sản xuất nhỏ: Thích ổn định, ngại đổi mới, thích thoả mãn với kết
quả hiện tại, cầu an yên phận.
- Tâm lý tiêu xài hoang phí: Đang là vật cản lớn cho việc thực hiện công
cuộc đổi mới toàn diện đất nước, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Tâm lý xin cho: Công chức trong bộ máy hành chính thường có tâm lý ban
ơn trong quan hệ với các tổ chức và nhân dân.
- Người lãnh đạo cần lưu ý đến tình khí cá nhân: Nó ảnh hưởng quan trọng
đến kết quả hoạt động. Vì vậy, lưu ý đến các đặc điểm của nó là điều kiện tất yếu
để lãnh đạo có hiệu quả.
4. Phong cách lãnh đạo
Những nhà lãnh đạo - quản lý giỏi hiện nay phải là người có những cái nhìn
thực tế hơn về giá trị của họ đối với tổ chức mà họ quản lý. Họ phải có một phong
cách quản lý mới, hợp lý. Phong cách lãnh đạo hợp lý là phong cách mà ở đó người
lãnh đạo vừa đáp ứng được các nhu cầu khác nhau của người lao động, vừa phát
huy được sức mạnh cá nhân và tập thể lao động trong hoạt động sản xuất, kinh
doanh. Có thể khẳng định rằng, phong cạc lãm đapk sẽ là một yếu tố quan trọng
trong những yếu tổ làm nên sự thành công trong làm ăn của một doanh nghiệp.
Được coi là nhân tố quan trọng của người quản lý, lãnh đạo, nó gắn liền với
nhiều người lãnh đạo và nghệ thaụat lãnh đạo, quản lý con người.
Phong cách lãnh đạo không chỉ thể hiện về mặt khoa học và tổ chức lãnh
đạo, quản lý mà con người thể hiện tài năng, chí hướng, nghệ thuật điều khiển, tác
động người khác của người lãnh đạo.
Phong cách lãnh đạo là cách thức làm việc của nhà lãnh đạo.
Phong cách lãnh đạo là hệ thống các dấu hiệu đặc trưng của hoạt động và

hoạt động quản lý của nhà lãnh đạo, được quy định bởi các đặc điểm nhân cách của
họ.
Phong cách lãnh đạo là kết quả của mối quan hệ giữa cá nhân và sự kiện, và
được biểu hiện bằng công chức: Phong cách lãnh đạo bằng cá tính nhân với môi
trường.
Phong cách lãnh đạo là kiểu hoạt động đặc thù của người lãnh đạo được hình
thành trên cơ sở kết hợp chặt chẽ và tác động qua lại biện chứng giữa yếu tố tâm lý
chủ quan của người lãnh đạo và yếu tố môi trường xã hội trong hệ thống quản lý.
Phong cách lãnh đạo được coi như là một nhân tố quan trọng của quản lý,
trong đó thể hiện không chỉ mặt khoa học và tổ chức quản lý mà còn thể hiện tài
năng và chí hướng của con người, nghệ thuật chỉ huy của người lãnh đạo.
Phong cách làm việc của người lãnh đạo là tổng hợp những phương pháp,
biện pháp, cách thức riêng có, tiêu biểu, ổn định mà người lãnh đạo sử dụng hàng
ngày để thực hiện nhiệm vụ của mình.
Phong cách làm việc là cái đời thường dung dị nhưng lại phản ảnh các phẩm
chất bên trong của con người, phẩm chất tuy là cái sâu kín bên trong của con người
song nó không phải là cái trừu tượng mà được biểu hiện trong hành động, cử chỉ,
hành vi, cử chỉ, hành vi, trong việc thực hiện nhiệm vụ, trong cách đối nhân xử thế,
giải quyết các mối quan hệ cấp trên, cấp dưới, đồng nghiệp, với quần chúng, đó là
phong cách làm việc của cán bộ hoặc nói một cách khác, phong cách làm việc là
phẩm chất của con người, bản thân con người.
4.1. Phong cách lãnh đạo cơ bản
4.1.1. Sự lãnh đạo chuyên quyền
Nhà lãnh đạo đòi hỏi cấp dưới phải tuân phục mọi mệnh lệnh của mình. Họ
thể hiện những phẩm chất mạnh mẽ của người lãnh đạo vì quyết tâm biết về những
mối quan tâm của nhân viên, duy trì sự thảo luận và thúc đẩy mọi người về thảo
luận nhiều hơn. Họ thường lãnh trách nhiệm khởi đầu, điều hành và kết thúc mọi
việc. Tuy nhiên, nếu thể hiện những đặc điểm của nhà lãnh đạo chuyên quyền một
cách thái quá thì nguy cơ cũng rất rõ ràng. Khi biểu hiện một cách thái qúa, nhà
lãnh đạo độc đoán lập kế hoạch trước một cách tỉ mỉ, bởi vì mục đích của họ là

buộc nhân viên đạt được mục tiêu của họ đề ra, và họ quyết tâm tác động đến hoàn
cảnh để làm cho điều đó được khả thi.
* Ưu điểm: Nó cho phép giải quyết một cách nhanh chóng kịp thời các
nhiệm vụ. Song người lãnh đạo không quan tâm tới ý kiến của người dưới quyền và
ra quyết định trên cơ sở những thông tin sẵn có.
* Nhược điểm: Là chủ quan không tập trung và phát huy được sáng tạo,
kinh nghiệm của người dưới quyền.
4.1.2. Sự lãnh đạo dân chủ
Nhà lãnh đạo thu thập ý kiến của nhân viên, tạo ra sự đồng lòng, nhất trí
tuyệt đối quá trình tham gia đóng góp ý kiến của nhiều người. Khả năng tư duy và
xúc cảm của nhà lãnh đạo đi kèm là tinh thần lãnh đạo đồng đội và giao tiếp trong
công sở. Nhà lãnh đạo dân chủ chấp nhận quan niệm lãnh đạo là chức năng của cả
nhóm chứ không phải của riêng một cá nhân nào. Tập thể được coi là một đơn vị,
một cơ thể với nhiều chức năng. Nhiệm vụ lãnh đạo do nhiều người cùng chia sẻ
tuỳ theo khả năng và năng khiếu riêng của họ. Nói một cách khác, cương vị lãnh
đạo tập trung vào nhóm chứ không phải cá nhân nhà lãnh đạo. Điều đó không có
nghĩa vai trò của người lãnh đạo là không cần thiết. Ngược lại, để nhóm hoạt động
hiệu quả, rất cần một người đi đầu, giúp cả nhóm xác lập mục tiêu, tổ chức và xây
dựng các quy định chung hiệu quả cho hoạt động của nhóm.
Ưu điểm là nó cho phép khai thác những kiến thức, kinh nghiệm của người
dưới quyền của tập thể. Do đó, nó tạo ra sự thoả mãn lớn cho người dưới quyền vì
họ cảm thấy được chấp nhận và được tham gia. Người dưới quyền cảm thấy thoả
mãn vì họ được thực hiện những công việc do chính họ đề ra, thậm chí được tham
gia đánh giá kết quả công việc.
Nhược điểm của phong cách dân chủ là quá trình dân chủ tốn kém nhiều thời
gian. Trong rất nhiều trường hợp, việc bàn bạc kéo dài mà không đi tới được quyết
định trong khi thời gian giải quyết nhiệm vụ không cho phép kéo dài.
4.1.3. Sự lãnh đạo tự do
Nhà lãnh đạo cung cấp thông tin cho tập thể, từ đó xem thông tin đó có nhận
được sự ủng hộ đồng tình không và đưa ra ý kiến của mình.

Người lãnh đạo tham gia ít nhất vào công việc của nhóm, giao hết quyền hạn
và trách nhiệm cho mọi người. Các thành viên trong nhóm được cung cấp tối đa
các thông tin được phép tự do hành động theo điều họ nghĩ, theo cách chức mà họ
cho là tốt nhất. Theo phong cách này, các thông tin được thực hiện chủ yếu theo
chiều ngang. Nếu xét về lượng thông tin là người dưới quyền được biết thì phong
cách của sự lãnh đạo chuyên quyền độc đoán ít nhất, tiếp đến là sự lãnh đạo dân
chủ và phong cách tự do là nhiều nhất.
Ưu điểm của sự lãnh đạo này là nó cho phép phát huy tối đa năng lực sáng
tạo của người dưới quyền. Tuy nhiên, sự lãnh đạo này dễ dẫn đến tình trạng hỗn
loạn, vô chính phủ trong tổ chức do thiếu vắng chỉ dẫn của người lãnh đạo.
Từ việc so sánh hiệu quả của 3 phong cách lãnh đạo trên, K. Lewin kết luận
rằng sự lãnh đạo dân chủ là phong cách mang lại hiệu quả cao nhất và coi đây là
phong cách của người lãnh đạo thành công.
Tốt nhất là phong cách dân chủ kết hợp với một ít độc đoán. Người dưới
quyền tin tưởng vào sự lãnh đạo và cảm thấy mình được tôn trọng.
4.2. Phong cách cách mạng và khoa học
- Các đặc trưng quan trọng nhất thuộc bản chất của phong cách cách mạng và
khoa học:
+ Tính tư tưởng: Thể hiện sự trung thành tuyệt đối sự nghiệp cách mạng của
Đảng, của dân tộc, thấm nhuần đạo đức xã hội chủ nghĩa, phải cần kiệm, liêm
chính, chí công vô tư.
+ Tính nguyên tắc Đảng và Pháp luật Nhà nước trong việc giải quyết những
vấn đề lợi ích.
+ Tính nghiêm khắc trong việc tự phê bình và thái độ công minh trong việc
tự phê bình và đánh giá người khác.
+ Tính thiết thực cụ thể linh hoạt trong việc giải quyết những vấn đề của đời
sống xã hội.
+ Nhạy cảm trước cái mới.
- Cần chống chủ nghĩa quan liêu trong quản lý, quan liêu là những người,
những cơ quan lãnh đạo từ trên xuống dưới xa rời thực tế, việc gì cũng không sâu

xa chỉ đại khái. Đối với công việc thì trọng hình thức chỉ khai hội, xem báo cáo trên
giấy không kiểm tra đến nơi đến chốn. Phong cách làm việc quan liêu đem lại
những tệ hại sau đây đối với quan hệ người lãnh đạo cấp dưới:
+ Ngăn cản cá nhân con người phát triển toàn diện.
+ Đề ra chủ nghĩa thủ cựu và nếp suy nghĩ theo đuôi.
+ Một trong những biểu hiện nổi bật của bệnh quan liêu là khoảng cách ngày
càng mở rộng giữa điều mà thủ trưởng có quyền làm và điều mà thủ trưởng có thể
làm.
• Với quan điểm: Quan liêu là xa rời quần chúng, không lắng nghe ý kiến
của quần chúng. Sợ phê bình và tự phê bình, thiếu dân chủ, không giữ đúng nguyên
tắc, nên việc chống quan liêu ngày càng trở nên cần thiết và cấp bách, bởi quan liêu
là nguồn gốc nảy sinh của nạn tham ô, lãng phí. Lãnh đạo mắc bệnh quan liêu nên
cơ quan mới dễ xuất hiện người xấu.
• Suy nghĩ kỹ trước khi làm việc gì, lời nói phải đi đôi với việc làm, thống
nhất giữ lý luận với thực tiễn.
- Phong cách làm việc tập thể dân chủ quyết đoán dựa trên nguyên tắc tập
trung dân chủ, đề cao tính tập thể trong lãnh đạo đi đôi với tăng cường trách nhiệm
cá nhân.
- Phong cách sâu sát thực tế vào quần chúng, thường xuyên liên hệ mật thiết
với nhân dân.
- Phong cách khiêm tốn cởi mở, tiếp thu phê bình và tự phê bình.
- Phong cách cần cù, tiết kiếm, tỉ mỉ trong chất lượng.
- Phong cách kết hợp tính nguyên tắc cứng rắn với linh hoạt mềm trong xử lý
công việc.
Nhu cầu áp dụng những cách lãnh đạo này là rất khác nhau, tuỳ theo hoàn
cảnh của mỗi tổ chức. Người lãnh đạo phải thuần thục từ bốn phong cách trở lên,
đặc biệt là phong cách làm việc tập thể dân chủ quyết đoán, điều đó sẽ giúp họ đạt
được sự thành công như ý trong việc kinh doanh.
4.3. Những yếu tố hình thành và con đường rèn luyện, xây dựng phong
cách làm việc của người cán bộ lãnh đạo

4.3.1. Những yếu tố hình thành phong cách làm việc khoa học
Phong cách làm việc khoa học của người lãnh đạo là sản phẩm tổng hợp của
nhiều yếu tố:
- Phẩm chất chính trị đạo đức: Đây là cái “gốc” để hình thành và phát triển
phong cách làm việc khoa học. Là đức tính đoàn kết, khiêm tốn, có tinh thần cầu
thị, có lòng vị tha, niềm tin yêu đồng sự, cấp dưới và quần chúng.
- Tri thức: Người cán bộ lãnh đạo mà thiếu tri thức, không am hiểu, thành
thạo công việc thì thường dựa vào kinh nghiệm áp đặt, giáo điều.
- Cơ chế chính sách: Là yếu tố bên ngoài nhưng tác động rất quan trọng đến
việc hình thành phong cách làm việc của người lãnh đạo.
- Khí chất cá nhân.
4.3.2. Con đường rèn luyện phong cách làm việc của người lãnh đạo
- Thường xuyên giáo dục lý luận Mác-Lenin, xây dựng cho mình phong cách
làm việc khoa học. Phải rèn luyện trong công tác, trong học tập, trong phong trào
cách mạng quần chúng và rèn luyện ngay trong cuộc sống đời thướng.
- Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và hoạch định đường lối
chủ trương, chính sách, chủ động sáng tạo trong tổ chức thực hiện các chủ trương
đường lối vào cuộc sống.
- Tăng cường đổi mới phương thức lãnh đạo, đảm bảo và nâng cao vai trò
lãnh đạo nhằm phát huy tính chủ động, sáng tạo, tinh thần trách nhiệm của người
lãnh đạo.
PHẦN II
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC LÃNH ĐẠO TẠI CƠ QUAN
1. Đặc điểm tình hình kinh tế, xã hội của huyện Hoà Vang
Hòa Vang là một huyện ngoại thành của thành phố Đà Nẵng, qua nhiều lần
điều chỉnh địa giới hành chính đến tháng 8 năm 2005 thực hiện Nghị định 102/NĐ-
CP của Chính phủ về việc thành lập mới quận Cẩm Lệ thì huyện còn lại 11 xã bao
gồm cả vùng ven đô, vùng đồng bằng, trung du và miền núi với diện tích 707,35
ha, dân số gần 107 ngàn người gồm 25.969 hộ.
Có thể nói sau ngày giải phóng, Hòa Vang là một huyện thuần nông, có hơn

60% hộ dân thiếu đói. Thêm vào đó là thiên tai, bão lũ liên tục xảy ra gây rất nhiều
tổn thất về tính mạng và tài sản cho nhân dân. Ba mươi năm qua, Đảng bộ và nhân
dân Hòa Vang đã đoàn kết một lòng, gắn sức phấn đấu xây dựng quê hương ngày
một giàu mạnh, đến nay đã đạt được một số kết quả đáng tự hào:
Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân (1997 - 2000) là 11%, (2001 - 2005) là
14%.
Cơ cấu kinh tế có bước chuyển biến rõ nét theo hướng giảm dần tỷ trọng
nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng công nghiệp - xây dựng và dịch vụ. Định hướng cơ
cấu nền kinh tế của huyện đến năm 2010 như sau: công nghiệp - xây dựng chiếm
36%, dịch vụ chiếm 33%, nông nghiệp chiếm 31%.
Thu nhập đầu người từ 3 triệu đồng năm 1997 lên trên 7,5 triệu đồng cuối
năm 2006 và đến năm 2010 phất đấu đạt 12,04 triệu đồng/người/năm.
Cơ bản thâm nhập nhựa và bê tông ximăng đường giao thông nông thôn, kiệt
xóm gần 700 km, xe ô tô vào được tận khu dân cư.
Hệ thống trường cấp 1- 2- 3 và các thôn vùng lũ được kiên cố hoá và tầng
hoá.
Đã xoá được 4.831 nhà tạm cho các hộ gia đình chính sách và xã hội; Giải
quyết việc làm cho 13.641 lao động; 100% bà con dân tộc Cơtu ở 03 thôn (Phú Túc
- xã Hoà Phú, và Tà Lang, Giàn Bí - Hoà Bắc) có nhà xây; đã xoá hết hộ đói.
Đời sống nhân dân được nâng lên đáng kể: 99% hộ có điện, 95% hộ có nhà
xây, 70% có xe gắn máy, 80% hộ có phương tiện nghe nhìn. 11/11 xã đạt chuẩn
quốc gia về y tế.
Huyện đã tranh thủ được nguồn vốn của thành phố,các nguồn vốn khác xây
dựng mới cầu qua sông Cẩm Lệ, cầu mới Tuý Loan nằm trong dự án nâng cấp quốc
lộ 14B; khởi công xây dựng cầu qua sông Yên (Hoà Tiến-Hoà Phong)… tạo điều
kiện đi lại cho nhân dân trên địa bàn huyện. Đặc biệt trong năm 2004 và 2006
huyện đã đầu tư xây dựng 02 công trình lớn có ý nghĩa quan trọng, đó là: Khu căn
cứ Cách mạng Huyện uỷ (giai đoạn 1) tại thôn Phú Túc, xã Hoà Phú (vốn đầu tư
gần 5 tỉ đồng) và cải tạo, nâng cấp Đài tưởng niệm Liệt sỹ Hoà Vang với kinh phí
đầu tư gần 7 tỉ đồng.

Các thiết chế văn hoá xã, thôn được xây dựng như: Bưu điện văn hoá xã, các
khu vui chơi giải trí, nhà họp thôn, khu văn hoá thôn v.v
Quốc phòng và an ninh trên địa bàn huyện được giữ vững, trật tự xã hội có
nhiều tiến bộ.
Trong 7 năm liền được UBND thành phố đánh giá và công nhận là đơn vị
dẫn đầu khối quận, huyện, 6 năm liền được Thủ tướng tặng cờ thi đua xuất sắc,
Chủ tịch Nước tặng Huân chương lao động hạng ba. Đặc biệt tháng 10 năm 2004
Chủ tịch nước đã ký quyết định phong tặng cho nhân dân, cán bộ huyện Hoà Vang
danh hiệu “Anh Hùng lao động trong thời kỳ đổi mới”.
Để có được những thành tựu như trên là nhờ vào công tác tuyên truyền, phổ
biến và giáo dục pháp luật của huyện trong thời gian qua; qua công tác này nhân
dân trên địa bàn huyện đã nắm rõ được chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước
cũng như chủ trương của huyện, góp phần vào thực hiện thắng lợi các mục tiêu
kinh tế xã hội đã đề ra.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh trong công tác xây dựng lãnh đạo
Lúc sinh thời, Bác Hồ rất quan tâm đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ vững
mạnh. Người đã chỉ rõ: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Muốn việc thành
công hay thất bại đều do cán bộ tốt hoặc yếu”. Người đã chỉ ra nhiều chỉ dẫn có ý
nghĩa phương pháp luận học để xây dựng đội ngũ cán bộ vững mạnh.
Điều này quan trọng trước tiên, theo Bác là phải biết đúng cán bộ. Muốn vậy,
phải chí công vô tư trong việc xem xét cán bộ.
Người nói: “Biết người cố nhiên là khó. Tự biết mình cũng không phải là dễ.
Đã không tự biết mình thì khó mà biết người. Vì vậy, muốn biết đúng sự phải – trái
ở người ta, thì phải biết đúng sự phải – trái của mình. Nếu không biết sự phải –
trái ở mình, thì chắc chắn không thể nhận rõ người cán bộ tốt hay xấu.
Bác thấy rằng, người lãnh đạo thường phạm bốn bệnh khi xem xét cán bộ:
Tự cao, tự đại; ưa nịnh hót, do yêu ghét mà xét con người; đem một khuôn cứng
mắc để đánh giá cán bộ. Bác ví người lãnh đạo nếu mắc một trong bốn bệnh ấy
cũng như một người mang kính màu, không bao giờ thấy được màu sắc thật của sự
vật. Bác khuyên người lãnh đạo phải bỏ kính màu đó, sửa chữa những bệnh ấy, mới

có thể hiểu biết đúng cán bộ.
Người dạy chúng ta phải có phương pháp khách quan toàn diện trong việc
xem xét đánh giá cán bộ. Chống lối “Duy ngã” siêu cứng nhắc, hời hợt. Khi xem
xét cán bộ, không nên chỉ nhìn bề ngoài, xem trong một lúc, một việc mà phải xem
xét một cách toàn diện, cả quá trình phát triển của họ, những lúc gặp khó khăn,
cũng như lúc thuận lợi.
Theo Bác, cách tốt nhất để đánh giá đúng cán bộ, tránh thiên vị, là để cho
quần chúng nhận xét cán bộ. Người nói: “Cán bộ nào tốt, cán bộ nào xấu, cán bộ
nào có lỗi lầm mà có thể sửa đổi, ai làm việc hay hay, việc gì quậy, dân chúng
cũng do cách so sánh đó mà họ biết rõ ràng. Vì vậy, để cho dân chúng phê bình
cán bộ, dựa theo ý kiến họ mà cân nhắc cán bộ, nhất định không xảy ra, thiên vị,
nhất định hợp lý và công bằng”.
Người chỉ rõ, sử dụng cán bộ, cũng như khi đánh giá cán bộ phải rất “vô tư”.
Người phê phán gay gắt những bệnh hám dùng người bà con, anh em quen biết,
hám dùng người nịnh hót, ghét người chính trực, hám dùng những người hợp tính
với mình, tránh những người không hợp ý mình.
Bác căn dặn: “Phải có độ lượng vĩ đại thì mới có thể đối với cán bộ một cách
chí công vô tư, không có thành kiến, khiến cho người cán bộ khỏi bị bỏ rơi. Phải
chiuk khó dạy bảo mới có thể nâng đỡ những đồng chí còn kém, giúp cho họ tiến
bộ. Phải vui vẻ, thân mật, các đồng chí mới vui lòng gần gũi mình”.
* Bác đã nêu rõ 4 tiêu chuẩn lựa chọn cán bộ lãnh đạo:
- Những người đã tỏ ra rất trung thành, hăng hái trong công việc, trong lúc
chiến tranh.
- Những người liên lạc mật thiết với dân chúng, hiểu biết dân chúng, luôn
luôn chú ý đến lợi ích của dân chúng. Như thế thì dân chúng mới tin cậy cán bộ và
nhận cán bộ đó là người lãnh đạo của họ.
- Những người có thể phụ trách giải quyết các vấn đề trong những hoàn cảnh
khó khăn. Ai sợ phụ trách và không có sáng kiến thì không phải người lãnh đạo.
Người lãnh đạo đúng đắn cần phải: Khi thất bại không hoang mang, khi thắng lợi
không kiêu ngạo. Khi thi hành các nghị quyết thì kiên quyết, gan góc, không sợ khó

khăn.
- Những người luôn giữ đúng kỷ luật.
Đó là khuôn khổ lựa chọn cán bộ lãnh đạo, chúng ta phải theo đúng. Trong
công tác cán bộ, Người luôn luôn coi trọng cả đức và tài của người cán bộ. Người
nói: “Có tài phải có đức. Có tài mà không có đức, tham ô, hủ hoá có hại cho nước.
Có đức không có tài như “Ông bụt” ngồi trong chùa không giúp ích gì được cho
ai”. Trong công tác cán bộ, Bác chỉ rõ những khuyết điểm cần phải sửa: “Có những
nơi thường dùng những người văn hay nói khéo, nhưng không phải làm được việc,
không ra tranh đấu. Mà những đồng chí làm việc tốt mà nói thông thạo, nhưng rất
trung thành, hăng hái, rất gần gủi quần chúng, thì bị dìm xuống. Chúng ta phải
sửa chữa ngay những khuyết điểm đó”. Bác còn chỉ rõ: Khi giao trách nhiệm cho
cán bộ, phải làm sao họ yên tâm công tác, hứng thú trong công việc. Muốn thế,
người lãnh đạo phải làm sao cho cán bộ “Cả gan nói, cả gan đề ra ý kiến, cả gan
phụ trách, cả gan làm việc”. Người căn dặn: Người lãnh đạo muốn biết mình, tốt
nhất là phải có thái độ và cách làm việc thật sự dân chủ, để mọi người xung quanh
mạnh dạn, thắng thắn nói những ưu, khuyết điểm của mình. Người lãnh đạo thật sự
dân chủ, ý kiến của cán bộ được sự tôn trọng, thì khối đại đoàn kết nội bộ được
củng cố, những sáng kiến được nảy nở, công việc nhất định sẽ được hoàn thành tốt
đẹp.
Người nói: “Dân chủ, sáng kiến, hăng hái, ba điều đó rất quan hệ với nhau.
Có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến. Những sáng kiến
đó được khen ngợi, thì những người đó càng thêm hăng hái và người khác cũng
học theo. Và trong khi tăng thêm sáng kiến và hăng hái làm việc thì những khuyết
điểm lặt vặt cũng tự sửa chữa được nhiều”. Người cho rằng: Điều mấu chốt trong
cách lãnh đạo là làm sao cho cấp dưới có tinh thần chủ động, sáng tạo trong công
việc, có tinh thần trách nhiệm cao, dám tìm tòi, suy nghĩ và dám quyết định.
Bác căn dặn: “Khi giao trách nhiệm cho cán bộ, cần phải chỉ rõ ràng, sắp
đặt đầy đủ”. Vạch ra những điểm chính và những khó khăn có thể xảy ra. Những
vấn đề đã được quyết định rồi giao cho họ làm, khuyên họ cứ cả gan mà làm. Cũng
như trong quân đội, khi chiến lược, chiến thuật đã quyết định rồi, thì Tổng tư lệnh

không cần nhúng vào những vấn đề lặt vặt. Thà để cho các cấp chỉ huy có quyền
“tuỳ cơ ứng biến” mới có thể phát triển tài năng của họ. Việc gì cấp trên cũng
nhúng vào, cán bộ cũng như một cái máy, việc gì cũng chờ lệnh, sinh ra ỷ lại, mất
hết sáng kiến.
Bác còn chỉ rõ: “Muốn chống lệnh quan liêu, bệnh bàn giấy, muốn biết các
Nghị quyết có được thi hành không, thi hành có đúng không, muốn biết ai ra sức
làm, ai làm cho qua chuyện, chỉ có một cách là khéo kiểm soát, kiểm soát khéo bao
nhiêu khuyết điểm lòi ra hết, hơn nữa kiểm tra khéo về sau khuyết điểm nhất định
mới bớt đi”.
Kiểm tra, kiểm soát có tác dụng đánh giá không ngừng những hoạt động của
các cơ quan, mà còn đánh giá cả những chủ trương, chính sách, quyết định đã đề ra.
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh trên đây, Đảng ta luôn quan tâm đến công
tác cán bộ. Đến Đại hội Đảng lần thứ X, trong phần báo cáo về công tác xây dựng
Đảng, Đảng ta đã nêu lên những nội dung, phương hướng tiếp tục “Đổi mới công
tác cán bộ” như sau:
- “Mục tiêu chúng ta là xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững
vàng, có đạo đức, lối sống lành mạnh, không quan liêu tham nhũng, lãng phí, kiên
quyết đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí; có tư duy đổi mới, sáng
tạo, có kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá - hiện đại hoá; có tinh thần đoàn kết hợp tác, ý thức tổ chức kỷ
luật cao và phong cách làm việc khoa học, tôn trọng tập thể, gắn bó với nhân dân,
dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Đội ngũ cán bộ phải đồng bộ, có tính
kế thừa và phát triển, có số lượng và cơ cấu phù hợp”.
- “Nhiệm vụ quan trọng nhất là xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, trước hết
là cán bộ lãnh đạo cấp chiến lược và người đứng đầu tổ chức các cấp, các ngành
của hệ thống chính trị. Quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ trẻ, cán bộ nữm cán bộ
dân tộc thiểu số, các bộ xuất thân từ công nhânm con em những gia đình có công
với cách mạng ”.
- “Quán triệt và thực hiện đúng nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công
tác và quản lý đội ngũ cán bộ, đồng thời trách nhiêmh của các tổ chức trong hệ

thống chính trị và chịu trách nhiệm về công tác tổ chưc cán bộ theo đúng nguyên
tắc tập trung dân chủ, tập thể quyết định; xác định rõ trách nhiệm của tập thể và
trách nhiệm cá nhân, nhất là trách nhiệm của người đúng đầu trong công tác cán
bộ. Các chính sách, quy chế tôn vinh những người có công, bố trí sử dụng đúng
những người có năng lực, sáng tạo, có sáng kiến, có ý tưởng mới”.
- “Mở rộng và phát huy dân chủ, thực hiện công khai, minh bạch trong công
tác cán bộ”.
- “Thực hiện tốt các cơ chế tuyển chọn, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, quản lý,
giám sát cán bộ sau bầu cử, bổ nhiệm”.
3. Thực trạng công tác lãnh đạo tại cơ quan
Bộ máy hoạt động của Văn phòng gồm 01 Chánh Văn phòng, 02 Phó Chánh
Văn phòng, và cán bộ chuyên viên được phân công phụ trách từng lĩnh vực cụ thể,
hoạt động của cán bộ chuyên viên luôn gắn với nhiệm vụ chính trị và chương trình
công tác đề ra. Các quan hệ công tác với các ngành, các địa phương và cấp trên để
triển khai thực hiện nhiệm vụ đều tôn trọng các nguyên tắc tập trung dân chủ, bàn
bạc thảo luận nhất trí, luôn tôn trọng quy chế dân chủ trong cơ quan, công khai
minh bạch tài chính, thực hành tiết kiệm, quản lý tốt tài sản của cơ quan.
3.1. Lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị giao
Với nhiệm vụ được giao hết sức nặng nề vừa làm tham mưu cho Ban Chấp
hành, Ban Thường vụ, Thường trực Thường vụ lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ
phát triển KT-XH, QP-AN. Xây dựng chính quyền, đoàn thể, xây dựng Đảng trên
phạm vi toàn huyện, khối lượng công việc nhiều, khó khăn không ít. Lãnh đạo Văn
phòng đã phân công nhiệm vụ cho từng chuyên viên, phụ trách theo dõi từng lĩnh
vực cụ thể và tăng cường kiểm tra, đôn đốc thực hiện, vừa lãnh đạo tốt chức năng,
nhiệm vụ của Văn phòng cấp uỷ cấp huyện. Đã có nhiều cố gắng trong việc chủ
động tham mưu xây dựng và triển khai thực hiện có kết quả chương trình công tác
hoạt động toàn khoá, chương trình công tác hằng năm, quý, tháng, tuần cho Ban
Chấp hành, Ban Thường vụ đảm bảo sự lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện, cân đối của
cấp uỷ.
Trong lãnh đạo thực hiện chức năng, nhiệm vụ Văn phòng cấp uỷ, đội ngũ

tuy có mỏng, chưa kinh qua thực tiễn nhiều nhưng các đồng chí đã có cố gắng hoàn
thành nhiệm vụ chuyên môn được phân công. Lãnh đạo Văn phòng đã mối quan hệ
làm việc thường xuyên với các cơ quan có liên quan trong việc tập hợp thông tin,
báo cáo, phối hợp chuẩn bị có chất lượng, đúng thời gian các đề án, kế hoạch,
Chương trình hành động thực hiện các Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương
khóa X. Qua đó đã giúp cho cấp uỷ, Ban Thường vụ và Thường trực chỉ đạo có
trọng tâm, trọng điểm các nội dung quan trọng nhằm tiếp tục đẩy mạnh chuyển
dịch cơ cấu cây trồng, con vật nuôi trong nông nghiệp, đẩy mạnh phát triển sản
xuất công nghiệp, thương mại dịch vụ, phát triển cơ sở hạ tầng, đổi mới và nâng
cao hiệu quả kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế nông nghiệp và nông thôn,
củng cố và tăng cường hệ thống chính trị ở cơ sở, thúc đẩy sự nghiệp phát triển
giáo dục, đào tạo, ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ, thông tin, đẩy
nhanh các tiến độ xây dựng các công trình trọng điểm.
Lãnh đạo Văn phòng tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả các cuộc họp,
phục vụ tốt các cuộc Hội nghị cho Ban Chấp hành – Ban Thường vụ phục vụ cho
lãnh đạo đi công tác, tiếp khách chu đáo, các chế độ chính sách, lương chi cho cán
bộ kịp thời. Công tác tài chính Đảng không chỉ là công tác chuyên môn nghiệp vụ
mà còn là một bộ phận quan trọng của công tác Xây dựng Đảng
Hoạt động của công tác Văn thư Lưu trữ, được Lãnh đạo Văn phòng chỉ
đạo quản lý chặt chẽ, công tác xây dựng danh mục, lập hồ sơ lưu trữ được đầy đủ,
chế độ làm biên bản và quản lý biên bản các Hội nghị Ban Chấp hành –Ban
Thường vụ và Thường trực Thường vụ được thực hiện nghiêm túc, có chất lượng,
đã thực hiện tốt pháp lệnh bảo vệ bí mật nhà nước trong cơ quan.
Công tác quản trị mạng cũng đáp ứng được nhiệm vụ được giao cho
Thường trực và các Ban Đảng.
* Tuy nhiên, vẫn còn những mặt hạn chế nhất định, nhất là vấn đề công tác
cán bộ cán bộ lãnh đạo.
- Một số cán bộ không chịu khó học tập để nâng cao trình độ cho phù hợp
với yêu cầu mới của công việc, an phận, không cầu tiến.
- Việc đề bạt bố trí cán bộ vẫn theo kiểu “Sống lâu lên lão làng”, chưa mạnh

dạn đề bạt những cán bộ trẻ, có năng lực.
- Vẫn còn tình trạng người làm không hết việc, còn người thì không biết làm
gì cho hết thời gian.
- Tổ chức bộ máy chưa thật sự tinh gọn, cán bộ còn kiêm nhiệm nhiều việc,
dẫn đến hiệu quả chưa cao.
- Lãnh đạo có lúc chưa quyết đoán làm cho người lãnh đạo chưa thật sự có
uy quyền đối với cấp dưới.
- Việc nắm bắt thông tin, tổng hợp tình hình để đề xuất cho Thường trực,
Ban Thường vụ giải quyết một số tình hình xảy ra ở địa phương còn chậm, chưa
đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ, nặng về công tác chuyên môn. Lãnh đạo có lúc có nơi
thiếu sự bàn bạc thống nhất cao.
PHẦN III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP VỀ TÂM LÝ – PHONG CÁCH LÃNH ĐẠO
ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC QUẢN LÝ
Lãnh đạo là quá trình tác động và gây ảnh hưởng đến người khác làm cho
nhân viên tự nguyện và nhiệt tình phấn đấu để đạt được các mục tiêu của tổ chức.
Vì lãnh đạo hiệu quả được xem là hết sức quan trọng đối với việc thành đạt mục
tiêu của tổ chức. Do vậy, để nâng cao hiệu quả trong quản lý, đòi hỏi người lãnh
đạo cần áp dụng một số nhân tố về tâm lý và phong cách lãnh đạo như sau:
1. Nhân tố tạo khả năng được ưa thích đưa ra nhiều thông tin trọng yếu,
lời khuyên.
+ Thiếu thân thiện là một điểm không tốt. Mỗi lần bạn không thân thiện với
ai đó, bạn đã trãi qua một thất bại trong việc kiểm soát bản thân. Do đó, dù ở cương
vị nào đi chăng nữa chúng ta phải đối xử thân thiện với mọi người.
+ Quản lý con người, chứ không phải quản lý đồ vật và thư điện tử. Hãy ghi
nhớ rằng các kênh thông tin kỹ thuật số, thư điện tử, là những hình thức không
thiện cảm nhất trong giao tiếp. Các hình thức này đưa ra ít gợi ý nhất, giao tiếp ít
cảm xúc nhất và tạo ra chất lượng các mối liên hệ kém nhất.
2. Người lãnh đạo đất nước thời kỳ đổi mới phải có các điều kiện tiên
quyết

- Người lãnh đạo phải có Tâm, biết đặt quyền lợi của đất nước lên trên quyền
lợi của bản thân, biết hy sinh vì đất nước, vì nhân dân. Điều này rất quan trọng.
- Yếu tố quan trọng của người lãnh đạo là sự sáng suốt để có thể phát hiện và
hiểu các quy luật phát triển và điều chỉnh mọi quyết định cho phù hợp với thực
tiễn. Người lãnh đạo phải có năng lực cảm nhận, phát hiện và sáng tạo những quy
luật biến động và bất trắc của cuộc sống, chứ không phải theo những khuôn phép
của quá khứ.
- Phải có nhận thức về trách nhiệm và phương pháp lãnh đạo mới. Biết mềm
dẻo để phù hợp với sự phát triển và đòi hỏi cải cách luôn xuất hiện trong đời sống
xã hội. Nhu cầu đổi mới và cải cách của xã hội nào cũng như nhau là để đến một xã
hội, một thế giới phát triển bền vững, họ phải hiểu được bản thân sự phát triển bền
vững, phải dựa trên nhận thức của từng người và sự đồng thuận của cả xã hội.
- Nhà lãnh đạo chính trị cần giải quyết được các vấn đề:
+ Xác định được rõ ràng địa vị của Việt Nam trong tiến trình phát triển thế
giới.
+ Biết cảm nhận và xác định các yếu tố, điều kiện để bảo vệ sự an toàn của
đất nước, của nhân dân.
+ Xây dựng một hệ tư tưởng, triết lý về kinh tế, quân sự Việt Nam.
+ Xây dựng chương trình phát triển kinh tế, chính trị, văn hoá.
+ Xây dựng đội ngũ trí thức trong xã hội Việt Nam và thừa nhận các giá trị
phương Tây và văn hoá phương Đông.
- Nhà lãnh đạo phải có đức dũng cảm vì người lãnh đạo là linh hồn của nhân
dân, chỗ dựa của nhân dân, là người cầm lái của con tàu đất nước đưa dân tộc đến
con đường hạnh phúc. Do đó người lãnh đạo phải định được tư tưởng của mình như
Napoleon Bonapart đã xác định rằng “Ta có thể mất tiền, vì như vậy là không mất
gì cả. Ta có thể mất niềm tin, vì như vậy mới là mất một nửa. Nhưng nếu mất lòng
dũng cảm, điều đó có nghĩa là mất tất cả”. Một người lãnh đạo như một vị tướng
phải là một người dũng cảm.
Lịch sử nước ta ở nửa thế kỷ trước có Hồ Chí Minh đã lãnh đạo đất nước và
nhân dân tiến hành hai cuộc kháng chiến giành độc lập dân tộc. Bước sang thế kỷ

XXI này, liệu sẽ là ai bước tiếp con đường của Chủ tịch Hồ Chí Minh, mang phẩm
chất lãnh đạo Hồ Chí Minh để lái con tàu đất nước trên con đường tiến tới “Thịnh
Vượng, Bình An và Hạnh phúc”.
3. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo
- Điều tra cơ bản đội ngũ cán bộ lãnh đạo để xác định rõ những mặt hạn chế
và yếu kém. Trên cơ sở đó, tiến hành phân định trình độ và nhu cầu đào tạo, bồi
dưỡng để có chương trình đào tạo, bồi dưỡng phù hợp với tính đặc thù của đội ngũ
cán bộ lãnh đạo. Cải tiến nội dung đào tạo, bồi dưỡng.
- Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo theo cấp bậc, chức vụ. Mở rộng
đối tượng đào tạo, bồi dưỡng và áp dụng các phương thức đào tạo, bồi dưỡng linh
hoạt như: hội thảo, sinh hoạt câu lạc bộ. Mặt khác, cần tiến hành luân chuyển cán
bộ.
4. Một số giải pháp khác
- Trong bất cứ công việc gì, trong bất cứ điều kiện nào, hoàn cảnh nào, người
lãnh đạo đều luôn luôn xuất phát từ quan điểm đường lối của Đảng, chính sách
pháp luật của Nhà nước. Phải đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân để
xem xét, đưa ra quyết định và xây dựng kế hoạch hành động, giải quyết mọi vấn đề,
dũng cảm bảo vệ cái đúng, phê phán cái không đúng.
- Tổ chức lại bộ máy, mạnh dạn cắt bỏ các bộ phận kém hiệu quả, cho kiêm
nhiệm để nâng cao đời sống cho nhân viên.
- Xây dựng phong cách làm việc dân chủ tập thể, thường xuyên liên hệ mật
thiết với nhân dân, thống nhất giữa nhận thức và hoạt động thực tiễn, lời nói phải đi
đôi với việc làm. Hãy nhìn những việc người thực hiện làm chứ không nên nghe
những điều người đó nói.
- Trí tuệ cảm xúc được chứng minh là có liên hệ mật thiết với thành tích
công việc ở tất cả các cấp độ. Nhưng nó trở nên đặc biệt quan trọng liên quan đến
những công việc đòi hỏi mức độ tương tác với xã hội cao. Nhà lãnh đạo tài ba thể
hiện trí tuệ cảm xúc của họ thông qua năm thành tố chính: tự nhận thức, tự động
viên, đồng cảm và kỹ năng xã hội. Do vậy, chọn người lãnh đạo giống như chọn
nhạc trưởng, khúc nhạc hay là nhờ sự chỉ đạo của nhạc trưởng.

- Lòng trung thành của người lãnh đạp quản lý điều kiện cơ chế thị trường
hiện nay phải được thể hiện ở lối tư duy sáng tạo, ở phong cách làm việc khoa học
và đem lại hiệu quả kinh tế xã hội cao.
- Cuộc sống luôn luôn vận động và phát triển, rất phong phú và đa dạng,
muôn màu muôn vẻ nhưng trong cái đó thì các chủ trương chính sách của Đảng dù
có đúng đắn đến mấy cũng là sản phẩm của con người, do đó nó không thể là thuốc
vạn năng chung cho tất cả các con bệnh, bởi vậy trong quá trình thực hiện nhiệm vụ
chính trị thì chúng ra phải giữ vững quan điểm lập trường, tính nguyên tắc đồng
thời phải chủ động sáng tạo, nhanh nhạy với sự phát triển mới của tình hình để tìm
tòi chọn cho được một giải pháp tối ưu. Có câu “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Cuộc
sống quá ngắn để làm việc cho một kẻ khó chịu hay là trở thành một kẻ khó chịu.
Do đó, người lãnh đạo có thể làm gương tốt cho các thành viên trong cơ quan và
các đồng nghiệp, người lãnh đạo tạo ra văn hoá cơ quan. Cần đề nghị thăng chức
cho những người có tác động cảm xúc tốt và không thăng chức cho những nhân
viên khó chịu về mặt tâm lý. Người lãnh đao cần công khai các hướng dẫn làm gì
cũng cần học hỏi, làm lãnh đạo không những cần học mà còn phải học nhiều hơn
người khác, học liên tục không ngừng, học ở trường, ở lớp, học ở đồng nghiệp và
học ở nhân dân.
- Làm gì cũng phải tận tuỵ, say mê, trăn trở với công việc thì người lãnh đạo
mới có sự tìm tòi, sáng tạo, mới đề xuất được những ý kiến hay, mới có một
phương án tốt đạt chất lượng và hiệu quả cao. Sự đem lại hiệu quả thiết thực cho
cuộc sống của nhân dân khi thống nhất giữa tính trung thực và việc làm của người
cán bộ lãnh đạo. Phải có chính kiến của riêng mình, thấy đúng phải bảo vệ, thấy sai
phải đấu tranh.
- Lãnh đạo phải nhìn xa trông rộng, tuyên bố một viễn cảnh thực tế, đáng tin
và hấp dẫn về tương lai cho cơ quan sẽ phát triển vượt lên và cải thiện tình hình
hiện tại. Max DePree đã từng nói trong cuốn sách có tựa đề Leadership Jazz: “Nhà
lãnh đạo ban nhạc Jazz phải lựa chọn âm nhạc, tìm kiếm nhạc công thích hợp và
trình bày trước công chúng. Nhưng hiệu quả của thành tích bị lệ thuộc vào nhiều
điều: môi trường, người tình nguyện chơi cho ban nhạc, nhu cầu cần mọi người

trình bày dưới góc độ cá nhân và nhóm, sự lệ thuộc tuyệt đối của nhà lãnh đạo vào
các thành viên của ban nhạc, sự cần thiết đối với đồng nghiệp phải chơi tốt…Nhà
lãnh đạo của ban nhạc Jazz có cơ hội tuyệt vời để chọn ra người tốt nhất từ các
nhạc công khác nhau. Chúng ta phải học từ nhà lãnh đạo ban nhạc Jazz, đối với
Jazz, giống như lãnh đạo, kết nối tính không dự báo trước được trong tương lai với
các phần thưởng cho các cá nhân”.
- Làm tốt công tác cán bộ, bố trí sử dụng cán bộ đúng chuyên môn, nghiệp
vụ, không chen tình cảm riêng tư vào trong công tác cán bộ, bỏ cơ chế con ông
cháu cha thiếu năng lực. Có chính sách, chế độ thu hút nguồn nhân tài.
- Thường xuyên rèn luyện phẩm chất đạo đức chính trị. Như Chủ tịch Hồ Chí
Minh vĩ đại nói rằng: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn
thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có
đạo đức, không có đạo đức thì dù có tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân
dân”.
- Bản thân người lãnh đạo phải không ngừng đổi mới phong cách, lề lối làm
việc có khoa học, hợp lý, nhằm nâng cáo tính năng động, tính sáng tạo đa dạng và
phong phú. Làm việc có hiệu quả, chất lượng, thiết thực với chức năng công việc
của mình đảm nhiệm phụ trách, theo dõi, quản lý ở từng cơ quan, đơn vị.
- Người lãnh đạo cần chú ý quan tâm đến tính quy hoạch, tính kế thừa nhằm
tạo ra nguồn nhân lực về lâu dài nên chú ý đến chính sách khuyến khích, hỗ trợ
trong công tác đào tạo. Người lãnh đạo muốn đứng vững phải có tâm và đủ tầm.
- Người lãnh đạo phải luôn cải thiện thành tích của mình mỗi năm. Nếu
người lãnh đạo muốn làm việc hiệu quả và là người được kính trọng thì phải là một
người biết học tập suốt đời để xứng đáng với vị trí của mình.
Trên đây là một số giải pháp về tâm lý và phong cách lãnh đạo, bản thân hy
vọng sẽ góp một phần nhỏ bé vào việc nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý tại
đơn vị mình trong thời gian đến.
KẾT LUẬN
Trong giai đoạn hiện nay, người lãnh đạo quản lý phải có tầm nhìn xa, trông
rộng, có quan điểm đúng đắn hướng tới sự sáng tạo, năng động, chất lượng, hiệu

quả, xây dựng cuộc sống và môi trường xã hội trong sáng, lành mạnh trên nền tảng
thế giới quan khoa học. Loại trừ tư tưởng cục bộ, địa phương, bè phái, thực dụng,
hẹp hòi, ích kỷ, chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, đặc quyền, đặc lợi.
Con đường hiệu quả nhất nhất giúp người lãnh đạo quản lý hoàn thiện nhân
cách là tự mình nhận thức và tự bồi dưỡng, trang bị cho mình những tri thức khoa
học, kỹ năng lãnh đạo quản lý và tự rèn luyện những phẩm chất nhân cách của
mình. Việc áp dụng các nhân tố trong tâm lý và phong cách lãnh đạo là một vấn đề
mới và quan trọng, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn đối với người lãnh đạo quản lý.
Mỗi người lãnh đạo, quản lý đều phải quan tâm và có nhiệm vụ nghiên cứu vận
dụng sáng tạo và bổ sung hoàn chỉnh thường xuyên phương pháp và nghệ thuật
lãnh đạo, quản lý trong tất cả các lĩnh vực, phải hiểu đặc điểm tâm lý của từng nhân
viên.
Lãnh đạo quản lý là quá trình chỉ huy và điều khiển trong một hệ thống xã
hội nhất định. Chỉ huy là xác định mục tiêu và truyền đạt mục tiêu, tìm ra biện pháp
thực hiện mục tiêu, đánh giá kết quả thực hiện mục tiêu. Mục tiêu đó chính là xây
dựng một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”, lúc nào đặt quyền lợi của nhân dân lên hàng đầu. Đó chính là cái “TÂM”
của người lãnh đạo quản lý.
Phong cách lãnh đạo liên quan đến uy tín của người lãnh đạo, quản lý. Lựa
chọn được phong cách quản lý đúng là rất quan trọng đối với người lãnh đạo, nó
ảnh hưởng ngay đến uy tín của họ. Phong cách lãnh đạo là điều kiện, phương tiện
quan trọng để đem lại hiệu quả công việc. Điều quan trọng đối với người lãnh đạo
là lựa chọn phong cách lãnh đạo phù hợp với công việc hiện tại, với từng đối
tượng, với từng yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể của từng giai đoạn lịch sử. Do đó, tâm lý
và phong cách người lãnh đạo đóng vai trò quan trọng đến hiệu quả quản lý của cơ
quan.
Trong quá trình thực hiện đề tài, mặc dù bản thân đã có nhiều cố gắng để
nghiên cứu nhưng chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Rất
mong nhận được sự đóng góp, ý kiến của quý thầy cô, các anh chị và các bạn để đề
tài được hoàn thiện hơn.

NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN























×