Tải bản đầy đủ (.doc) (49 trang)

Tiểu luận nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về nguồn vốn ODA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (745.78 KB, 49 trang )

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ ODA
I. Khái niệm, đặc điểm và phân loại ODA.
1. Khái niệm.
ODA là tên gọi tắt của ba chữ tiếng Anh: Official Development
Assistance, có nghĩa là Hỗ trợ phát triển chính thức hay còn gọi là Viện trợ
phát triển chính thức.
Năm 1972, OECD, Tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát triển đã đưa ra
khái niệm ODA là “một giao dịch chính thức được thiết lập với mục đích
chính là thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của các nước đang phát triển.
Điều kiện tài chính của giao dịch này có tính chất ưu đãi và thành tố viện trợ
không hoàn lại chiếm ít nhất 25%”.
Về thực chất, ODA là sự chuyển giao một phần thu nhập quốc gia từ
các nước phát triển sang các nước đang và chậm phát triển. Liên hiệp quốc,
trong một phiên họp toàn thể của Đại hội đồng vào năm 1961 đã kêu gọi các
nước phát triển dành 1% GNP của mình để hỗ trợ sự nghiệp phát triển bền
vững về kinh tế và xã hội của các nước đang phát triển. Theo Quy chế quản lý
và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức ban hành kèm theo Nghị
định 131/2006/NĐ-CP ngày 09/11/2006 của Chính Phủ thì ODA được định
nghĩa như sau: “Hỗ trợ phát triển chính thức (gọi tắt là ODA) được hiểu là
hoạt động hợp tác phát triển giữa Nhà nước hoặc Chính Phủ nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam với Nhà tài trợ là Chính phủ nước ngoài, các tổ
chức tài trợ song phương và các tổ chức liên quốc gia hoặc liên chính phủ”.
Một cách khái quát, chúng ta có thể hiểu ODA bao gồm các khoản viện trợ
không hoàn lại, viện trợ có hoàn lại, hoặc tín dụng ưu đãi của các Chính phủ,
các tổ chức liên Chính phủ, các tổ chức phi Chính phủ, các tổ chức thuộc hệ
thống Liên hợp quốc (United Nations -UN), các tổ chức tài chính quốc tế
dành cho các nước đang và chậm phát triển.
ODA có các hình thức sau:
- Hỗ trợ cán cân thanh toán: Thường là tài trợ trực tiếp (chuyển giao
tiền tệ) nhưng đôi khi lại là hiện vật (hỗ trợ hàng hóa) như hỗ trợ nhập khẩu
bằng hàng hoặc vận chuyển hàng hóa vào trong nước qua hình thức hỗ trợ cán


cân thanh toán hoặc có thể chuyển hóa thành hỗ trợ ngân sách.
- Tín dụng thương mại: Với các điều khoản “mềm” (lãi suất thấp, hạn
trả dài) trên thực tế là một dạng hỗ trợ hàng hóa có ràng buộc.
- Viện trợ chương trình (gọi tắt là viện trợ phi dự án): là viện trợ khi
đạt được một hiệp định với đối tác viện trợ nhằm cung cấp một khối lượng
ODA cho một mục đích tổng quát với thời hạn nhất định, mà không xác định
một cách chính xác nó được sử dụng như thế nào.
- Hỗ trợ cơ bản chủ yếu là về xây dựng cơ sở hạ tầng. Thông thường,
các dự án này có kèm theo một bộ phận không viện trợ kỹ thuật dưới dạng
thuê chuyên gia nước ngoài đề kiểm tra những hoạt động nhất định nào đó
hoặc soạn thảo, xác nhận các báo cáo cho đối tác viện trợ.
- Hỗ trợ kỹ thuật: chủ yếu tập trung vào chuyển giao tri thức hoặc tăng
cường cơ sở lập kế hoạch, cố vấn nghiên cứu tình hình cơ bản, nghiên cứu khi
đầu tư. Chuyển giao tri thức có thể chuyển giao công nghệ như thường lệ
nhưng quan trọng hơn là đào tạo về kỹ thuật, phân tích kinh tế, quản lý thống
kê, thương mại, hành chính nhà nước, các vấn đề xã hội.
2. Đặc điểm.
2.1. ODA mang tính ưu đãi.
Vốn ODA có thời gian cho vay (hoàn trả vốn) dài, có thời gian ân hạn
dài (chỉ trả lãi, chưa trả gốc). Đây cũng chính là một sự ưu đãi dành cho nước
vay. Vốn ODA của WB, ADB, ngân hàng Hợp tác Quốc Tế Nhật Bản (JBIC)
có thời gian hoàn trả là 40 năm và thời gian ân hnaj là 10 năm.
Thông thường, trong ODA, có thành tố viện trợ không hoàn lại (tức là
cho không). Đây chính là điểm phân biệt giữa viện trợ và cho vay thương
mại. Thành tố cho không được xác định dựa vào thời gian cho vay, thời gian
ân hạn và so sánh mức lãi suất viện trợ với mức lãi suất tín dụng thương mại.
Sự ưu đãi ở đây là so sánh với tín dụng thương mại trong tập quán quốc tế.
Các nhà tài trợ thường áp dụng nhiều hình thức khác nhau để làm “mềm”
khoản vay, chẳng hạn kết hợp một phần ODA không hoàn lại và một phần tín
dụng gần với điều kiện thương mại tạo thành tín dụng hỗn hợp.

Vốn ODA còn được thể hiện ở chỗ nó chỉ dành riêng cho các nước
đang và chậm phát triển, vì mục tiêu phát triển. Có hai điều kiện cơ bản nhất
để các nước đang và chậm phát triển nhận được ODA là:
- Điều kiện thứ nhất: Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân đầu
người thấp. Nước có GPD bình quân đầu người cang thấp thì thường tỷ lệ
viện trợ không hoàn lại của ODA càng lớn và khả năng vay với lãi suất thấp
và thời hạn ưu đãi càng lớn. Khi các nước này đạt trình độ phát triển nhất
định qua ngưỡng đói nghèo thì sự ưu đãi này sẽ giảm đi.
- Điều kiện thứ hai: Mục tiêu sử dụng vốn ODA của các nước này phải
phù hợp với chính sách và phương hướng ưu tiên xem xét trong mối quan hệ
giữa bên cấp và bên nhận ODA.
Thông thường, các nước cung cấp ODA đều có những chính sách và ưu
tiên của riêng mình, tập trung vào một số lĩnh vực mà họ quan tâm hay có khả
năng kỹ thuật và tư vấn (về công nghệ, knih nghiệm quản lý…). Đồng thời,
đối tượng ưu tiên của các nước cung cấp ODA cũng có thể thay đổi theo từng
giai đoạn cụ thể. Vì vậy, nắm được hướng ưu tiên và tiềm năng của các nước,
các tổ chức cung cấp ODA là rất cần thiết.
Về thực chất, ODA là sự chuyển giao có hoàn lại hoặc không hoàn lại
trong những điều kiện nhất định một phần Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) từ
các nước phát triển sang các nước đang phát triển. Như vậy, nguồn gốc thực
chất của ODA chính là một phần tổng sản phẩm quốc dân cảu các nước giàu
đưcọ chuyển sang các nước nghèo. Do vậy ,ODA rất nhạy cảm về mặt xã hội
và chịu sự điều chỉnh của dư luận xã hội từ phía nước cung cấp cũng như từ
phía nước tiếp nhận ODA.
2.2. ODA mang tính ràng buộc.
ODA có thể ràng buộc (hoặc ràng buộc một phần, hoặc không ràng
buộc) nước nhận về địa điểm chi tiêu. Ngoài ra, mỗi nước cung cấp viện trợ
cũng đều có những ràng buộc khác và nhiều khi các ràng buộc này rất chặt
chẽ đối với nước nhận. Ví dụ, Nhật Bản quy định vốn ODA của Nhật (hoàn
lại và không hoàn lại) đều được thực hiện bằng đồng Yên Nhật Bản.

Tuỳ theo khối lượng vốn ODA và loại hình viện trợ mà vốn ODA có
thể kèm theo những điều kiện ràng buộc nhất định. Những điều kiện ràng
buộc này có thể là ràng buộc một phần và cũng có thể là ràng buộc toàn bộ về
kinh tế, xã hội và thậm chí cả ràng buộc về chính trị. Thông thường, các ràng
buộc kèm theo thường là các điều kiện về mua sắm, cung cấp thiết bị, hàng
hoá và dịch vụ của nước tài trợ đối với nước nhận tài trợ. Ví dụ, Bỉ, Đức và
Đan Mạch yêu cầu khoảng 50% viện trợ phải mua hàng hóa và dịch vụ của
nước mình… Canada yêu cầu cao nhất, tới 65%. Thụy Sĩ chỉ yêu cầu 1,7%,
Hà Lan 2,2%, hai nước này được coi là những nước có tỷ lệ ODA yêu cầu
phải mua hàng hóa và dịch vụ của Nhà tài trợ thấp. Nhìn chung, 22% viện trợ
của DAC phải được sử dụng để mua hàng hóa và dịch vụ của các quốc gia
viện trợ. Nguồn vốn ODA luôn chứa đựng cả tính ưu đãi cho nước tiếp nhận
và lợi ích của nước viện trợ. Các nước viện trợ nói chung đều không quên
dành được lợi ích cho mình, vừa gây ảnh hưởng chính trị, vừa thực hiện xuất
khẩu hàng hóa và dịch vụ tư vấn vào nước tiếp nhận viện trợ. Ngoài ra viện
trợ của các nước phát triển không chỉ đơn thuần là việc trợ giúp hữu nghị, mà
còn là một công cụ lợi hại để thiết lập và duy trì lợi ích kinh tế và vị thế chính
trị cho nước tài trợ. Những nước cấp viện trợ đòi hỏi các nước tiếp nhận phải
thay đổi chính sách phát triển cho phù hợp với lợi ích của bên tài trợ. Khi
nhận viện trợ, các nước nhận cần cân nhắc kỹ lưỡng những điều kiện của các
nhà tài trợ. Không vì lợi trước mắt mà đánh mất những quyền lợi lâu dài. Quan
hệ hỗ trợ phát triển chính thức phải đảm bảo tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ của
nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi.
2.3. ODA là nguồn vốn có khả năng gây nợ.
Khi tiếp nhận và sử dụng vốn ODA có tính chất ưu đãi nên gánh nặng
nợ nần thường chưa xuất hiện. Một số nước do sử dụng không hiệu quả ODA,
có thể tạo nên sự tăng trưởng nhất thời, nhưng sau một thời gian lại lâm vào
vòng nợ nần do không có khả năng trả nợ. Sự phức tạp chính là ở chỗ vốn
ODA không có khả năng đầu tư trực tiếp cho sản xuất, nhất là cho xuất khẩu
trong khi việc trả nợ lại dựa vào xuất khẩu thu ngoại tệ. Do đó, trong khi

hoạch định chính sách sử dụng ODA phải phối hợp với các loại nguồn vốn để
tăng cường sức mạnh kinh tế và khả năng xuất khẩu.
3. Phân loại ODA
3.1. Theo nguồn vốn cung cấp:
- ODA song phương: Nước này viện trợ, tài trợ cho nước khác.
- ODA đa phương: Nhiều nước hình thành một quỹ (hoặc tổ chức) để
viện trợ, tài trợ cho một nước.
3.2. Theo tính chất:
- Viện trợ không hoàn lại: Các khoản cho không, không phải trả lại.
- Viện trợ có hoàn lại: Các khoản vay ưu đãi (tín dụng với điều kiện “mềm”).
- Viện trợ hỗn hợp: Gồm một phần cho không, phần còn lại thực hiện
theo hình thức tín dụng (có thể là ưu đãi hoặc thương mại).
3.3 Theo mục đích:
- Hỗ trợ cơ bản: là những nguồn lực được cung cấp để đầu tư xây dựng cơ
sở hạ tầng kinh tế, xã hội và môi trường. Đây là những khoản cho vay ưu đãi.
- Hỗ trợ kỹ thuật: Là những nguồn lực dành cho chuyển giao tri thức,
công nghệ, xây dựng năng lực, tiến hành nghiên cứu cơ bản hay nghiên cứu
tiền đầu tư, phát triển thể chế và nguồn nhân lực…loại hỗ trợ này chủ yếu là
viện trợ không hoàn lại.
3.4 Theo điều kiện:
- ODA không ràng buộc nước nhận: Việc sử dụng nguồn tài trợ không
bị ràng buộc bởi nguồn sử dụng hay mục đích sử dụng.
- ODA ràng buộc nước nhận:
+ Bởi nguồn sử dụng: Có nghĩa là việc mua sắm hàng hóa, trang thiết
bị hay dịch vụ bằng nguồn vốn ODA chỉ giới hạn cho một số công ty do nước
tài trợ sở hữu hoặc kiểm soát (đối với viện trợ song phương), hoặc các công ty
của các nước thành viên (đối với viện trợ đa phương).
+ Bởi mục đích sử dụng: Chỉ được sử dụng cho một số lĩnh vực nhất định
hoặc một số dự án cụ thể.
- ODA có thể ràng buộc một phần: Một phần chi ở nước viện trợ, phần

còn lại chi ở bất cứ nơi nào.
3.5. Theo đối tượng sử dụng:
- Hỗ trợ dự án: Là hình thức chủ yếu của ODA để thực hiện các dự án
cụ thể. Nó có thể là hỗ trợ cơ bản hoặc hỗ trợ kỹ thuật, có thể là cho không
hoặc cho vay ưu đãi.
- Hỗ trợ phi dự án: Bao gồm các loại hình như sau:
+ Hỗ trợ cán cân thanh toán: Thường là hỗ trợ tài chính trực tiếp
(chuyển giao tiền tệ) hoặc hỗ trợ hàng hóa, hỗ trợ qua nhập khẩu. Ngoại tệ
hoặc hàng hóa được chuyển qua hình thức này có thể được sử dụng để hỗ trợ
ngân sách.
+ Hỗ trợ trả nợ.
+ Viện trợ chương trình: Là khoản ODA dành cho một mục đích tổng
quát với thời gian nhất định mà không phải xác định một cách chính xác nó sẽ
được sử dụng như thế nào.
II. Vai trò của ODA trong chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam.
1.ODA là nguồn vốn có vai trò quan trọng trong việc bổ sung vốn cho đầu
tư phát triển.
Vốn đầu tư cùng với tài nguyên thiên nhiên, lao động và kỹ thuật tạo
thành 4 yếu tố vật chất, xã hội. Tất cả các nước khi tiến hành công nghiệp hóa
đều cần vốn đầu tư lớn. Đó chính là trở ngại lớn nhất để thực hiện chương
trình công nghiệp hóa đối với các nước nghèo.
2. ODA giúp tiếp thu những thành tựu khoa học, công nghệ hiện đại, và
phát triển nguồn nhân lực.
Những lợi ích quan trọng mà ODA mang lại cho nước tiếp nhận tài trợ
là công nghệ, kỹ thuật hiện đại, kỹ xảo chuyên môn và trình độ quản lý tiên
tiến. Các nhà tài trợ còn ưu tiên đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực vì họ tin
tưởng rằng phát triển của một quốc gia quan hệ mật thiết với việc phát triển
nguồn nhân lực. Đây mới chính là những lợi ích căn bản, lâu dài đối với nước
nhận tài trợ. Có điều là những lợi ích này thật khó có thể lượng hóa được.
Nhật Bản là một trong những nước đứng đầu thế giới về việc cung cấp vốn

ODA cho Việt Nam nên chúng ta sẽ phân tích vai trò này thông qua loại hình
hợp tác kỹ thuật của Nhật Bản.
Hợp tác kỹ thuật là một bộ phận quan trọng trong ODA của Nhật Bản
và được chính phủ Nhật Bản đặc biệt coi trọng. Hợp tác kỹ thuật bao gồm
hang loạt các hoạt động rộng rãi từ việc xuất bản và cung cấp sách, tài liệu kỹ
thuật bằng nhiều thứ tiếng. Các chương trình hợp tác kỹ thuật do chính phủ
Nhật Bản thực hiện được tiến hành dưới các hình thức: nhận người sang học
tập ở Nhật Bản; gửi các chuyên gia Nhật và cung cấp trang thiết bị, vật liệu,
cử các nhân viên tình nguyện từ tổ chức những người tình nguyện hợp tác Hải
ngoại Nhật Bản.
Việc huấn luyện, đào tạo, là một phần của hợp tác kỹ thuật do chính
phủ Nhật Bản đảm nhận. Dạng hợp tác này nhằm đào tạo cán bộ chuyên môn
để đóng góp vào sự phát triển kinh tế, xã hội của các nước có người được
huấn luyện, đào tạo. Bởi vì việc đào tạo được thực hiện ở Nhật Bản, các học
viên có cơ hội tìm hiểu văn hóa, xã hội và nền kinh tế Nhật Bản. Nhờ đó, họ
trở lại đất nước mình cùng với những tri thức, kỹ năng thu được qua quá trình
đào tạo và sự hiểu biết rộng về Nhật Bản.
Nhật Bản còn thực hiện một chương trình đào tạo gọi là chương trình
đào tạo nước thứ ba. Chương trình đào tạo ở nước thứ ba cơ bản giống với
hợp tác kỹ thuật theo kiểu dự án. Việc quản lý do nước thứ ba tiến hành dựa
trên việc ký một văn bản để nghiên cứu và phát triển…Còn Nhật Bản cung
cấp viện trợ hoặc cử chuyên gia, chịu phí tổn về đào tạo và các phương tiện
khác. Hệ thống này nhằm thúc đẩy hợp tác kỹ thuật giữa các nước đang phát
triển và chuyển giao đầy đủ công nghệ.
Việc cử chuyên gia là một hình thức hợp tác kỹ thuật đã có lịch sử lâu
dài. Việc này được tiến hành theo các ký kết quốc tế giữa Nhật Bản với các
nước đang phát triển hoặc theo yêu cầu của các tổ chức đa phương. Việc cử
các chuyên gia được tiến hành theo nhiều cách khác nhau. Trong mỗi trường
hợp, mục đích chính là chuyển giao hiểu biết, công nghệ sang các nước đang
phát triển thông qua định hướng, điều tra và nghiên cứu, góp ý…Việc cải tiến

trình độ công nghệ của các nước đang phát triển cuối cùng sẽ góp phần vào sự
phát triển kinh tế xã hội của họ.
Cung cấp thiết bị và vật liệu độc lập cũng là một bộ phận của chương
trình hợp tác kỹ thuật.
Nhật Bản còn thực hiện hợp tác kỹ thuật theo thể loại từng dự án. Các
chương trình hợp tác kỹ thuật do Chính phủ Nhật giao cho JICA thực hiện
gồm 3 loại: đào tạo kỹ thuật tại Nhật Bản, cử chuyên gia Nhật Bản sang các
nước, cung cấp thiết bị vật liệu. 3 thể loại hợp tác kỹ thuật này có thể được
thực hiện một cách độc lập, nhưng để có sự phối hợp tốt hơn và hiệu quả hơn
đôi khi 3 thể loại này được kết hợp thành một thể loại mới về hợp tác kỹ thuật
được gọi là “hợp tác kỹ thuật theo thể loại từng dự án”. Mục tiêu của hợp tác
kỹ thuật theo thể loại từng dự án là chuyển giao công nghệ cho các kỹ sư, kỹ
thuật viên, nhân viên y tế…của các nước nhận viện trợ bằng cách cho họ tham
gia vào các dự án phát triển thuộc các lĩnh vực cụ thể như nông nghiệp, lâm
nghiệp, đánh cá, y tế, nghiên cứu về dân số và kế hoạch hóa gia đình, dạy
nghề và các hoạt động nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực đó.
Hợp tác kỹ thuật của Nhật Bản là một ví dụ sinh động về vai trò của hỗ
trợ phát triển chính thức trong việc giúp các nước đang phát triển tiếp thu
những thành tựu khoa học kỹ thuật hiện đại công nghệ tiên tiến và phát triển
nguồn nhân lực.
3. ODA góp phần điều chỉnh cơ cấu kinh tế.
Do dân số tăng nhanh, sản xuất tăng chậm và cung cách quản lý kinh
tế, tài chính kém hiệu quả, các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam vấp
phải nhiều khó khăn kinh tế như nợ nước ngoài và thâm hụt cán cân thành
toán quốc tế ngày càng tăng. Để giải quyết các vấn đề này, các quốc gia đang
cố gắng hoàn thiện cơ cấu kinh tế bằng cách phối hợp với Ngân hàng Thế
giới, Qũy Tiền tệ quốc tế và các tổ chức quốc tế khác tiến hành chính sách
điều chỉnh cơ cấu. Chính sách này dự định chuyển chính sách kinh tế Nhà
nước đóng vai trò trung tâm sang chính sách khuyến khích nền kinh tế phát
triển theo định hướng phát triển khu vực kinh tế tư nhân.

Thế giới đã thừa nhận sự cần thiết của loại hình viện trợ này đối với các
nước đang phát triển và Nhật Bản cũng chú trọng tới loại hình này.Nhật Bản
tích cực tham gia hỗ trợ cho các cuộc cải cách này.
4. ODA góp phần tăng khả năng thu hút vốn FDI và tạo điều kiện để mở
rộng đầu tư phát triển trong nước.
Các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài khi quyết định bỏ vốn đầu tư vào
một nước, trước hết họ quan tâm tới khả năng sinh lời của vốn đầu tư tại nước
đó. Họ cảnh giác với những nguy cơ làm tăng các phí tổn của đầu tư.
Một cơ sở hạ tầng yếu kém như hệ thống giao thông chưa hoàn chỉnh,
phương tiện thông tin liên lạc thiếu thốn và lạc hậu, hệ thống cung cấp năng
lượng (điện, nhiên liệu) không đủ cho nhu cầu sẽ làm nản lòng các nhà đầu tư
vì rằng những phí tổn mà họ phải trả cho việc sử dụng những tiện nghi hạ
tầng sẽ lên cao, chưa kể đến thiệt hại như hoạt động của nhà máy, xí nghiệp
phải dừng vì mất điện, công trình xây dựng bỏ dở vì không có nước.
Một hệ thống ngân hàng lạc hậu cũng là lý do làm cho các nhà đầu tư e
ngại, vì những chậm trễ, ách tắc trong hệ thống thanh toán và sự thiếu thốn
các dịch vụ ngân hàng hỗ trợ cho đầu tư sẽ làm phí tổn đầu tư gia tăng, dẫn
tới hiệu quả đầu tư giảm sút.
Như vậy, đầu tư của Chính phủ vào việc nâng cấp, cải thiện và xây
dựng mới các cơ sở hạ tầng, hệ thống tài chính, ngân hàng đều hết sức cần
thiết, nhằm làm cho môi trường đầu tư trở nên hấp dẫn hơn. Nhưng vốn đầu
tư cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng là rất lớn, trong nhiều trường hợp, các
nước đang phát triển trong đó có Việt Nam cần phải dựa vào nguồn vốn ODA
để bổ sung cho vốn đầu tư hạn hẹp từ ngân sách Nhà nước. Một khi môi
trường đầu tư được cải thiện sẽ làm tăng sức hút dòng vốn FDI. Nguồn vốn
ODA của Mỹ, Nhật và một số nước khác chủ yếu được đầu tư để phát triển cơ
sở hạ tầng của các nước Đông Á. Nhờ cơ sở hạ tầng phát triển mà các nước
này có điều kiện thuận lợi trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Mặt khác, việc sử dụng vốn ODA để đầu tư cải thiện cơ sở hạ tầng sẽ
tạo điều kiện cho các nhà đầu tư trong nước tập trung đầu tư vào các công

trình sản xuất kinh doanh có khả năng mang lại lợi nhuận .
Rõ ràng là ODA ngoài việc bản than nó là một nguồn vốn bổ sung quan
trọng cho các nước đang và chậm phát triển, nó còn có tác dụng làm tăng khả
năng thu hút vốn từ nguồn FDI và tạo điều kiện để mở rộng đầu tư phát triển
kinh tế trong nước, góp phần thực hiện thành công chiến lược hướng ngoại.
Tất cả các nước theo đuổi chiến lược hướng ngoại đều có nhịp độ tăng trưởng
kinh tế rất nhanh và biến đổi cơ cấu kinh tế trong nước mạnh mẽ trong thời
gian ngắn để chuyển từ nước Nông- Công nghiệp thành những nước Công-
Nông nghiệp hiện đại, có mức thu nhập bình quân đầu người cao.
III. Những xu hướng thu hút ODA mới trong thời đại ngày nay.
Từ đường lối chính sách hiện nay của Đảng và Nhà nước về phát triển
kinh tế - xã hội đã hình thành nên một hệ thống các quan điểm trong công tác
thu hút, tiếp nhận, quản lý và sử dụng ODA. Các quan điểm này đã giúp các
cơ quan quản lý nhà nước về vốn ODA phát huy tốt hiệu quả của nguồn vốn
này. Các quan điểm bao gồm:
Quan điểm 1: Tranh thủ vốn ODA không gắn với các ràng buộc
chính trị; phù hợp với chủ trương đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ
kinh tế đối ngoại của Việt Nam
Nhà nước ta hoan nghênh các nhà tài trợ cam kết giúp Việt Nam nhưng
không chấp nhận bất kỳ một yêu sách nào làm tổn hại tới độc lập chủ quyền, an
ninh, và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia, xâm phạm tới lợi ích của nhân dân.
Nhà nước ta có chính sách quan tâm đến lợi ích của nhà tài trợ khi họ
mở rộng quan hệ đầu tư, thương mại với nước ta, cải thiện môi trường kinh tế
trong nước, hình thành các danh mục dự án đầu tư phù hợp với mục tiêu và
chiến lược phát triển kinh tế-xã hội. Đồng thời có sách lược đối thoại với từng
nhà tài trợ khác nhau nhằm tạo ra sự quan tâm cao của cộng đồng các nhà tài
trợ quốc tế đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của nước ta. Theo đó đa dạng
hóa và đa phương hóa là chủ trương nhất quán trong kinh tế đối ngoại nói
chung cũng như trong khai thác và sử dụng ODA nói riêng.
Quan điểm 2: Sử dụng vốn ODA cần phối hợp với các nguồn vốn khác

Mỗi nguồn vốn đều có những đặc điểm và thế mạnh riêng, không
thể thay thế cho nhau. Vốn ODA cũng như vốn nước ngoài là quan trọng
nhưng không thể thay được tính chất quyết định của nguồn vốn trong
nước. Vốn ODA chỉ là chất xúc tác giúp chúng ta khai thác các tiềm năng
sẵn có để phát triển, tức là chỉ gián tiếp tác động đến phát triển sức mạnh
kinh tế của quốc gia.
Thế mạnh của mỗi nguồn vốn chỉ phát huy được khi có sự phối hợp với
các nguồn vốn khác, nhằm tạo nên một sức mạnh tổng hợp thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội. Vì vậy, cần phối hợp sử dụng vốn ODA với vốn FDI, vốn
đầu tư tư nhân và hộ gia đình, vốn của các doanh nghiệp nhà nước và các nguồn
vốn ngân sách khác.
Trong nguyên tắc cơ bản về quản lý và sử dụng vốn ODA của Nghị
định 17/NĐ-CP cũng nêu ra: ODA là một nguồn vốn quan trọng của Ngân
sách Nhà nước. Một phần nguồn vốn này được tiêu dùng thường xuyên như
viện trợ khẩn cấp về lương thực , thuốc men Còn đại bộ phận được sử dụng
cho đầu tư phát triển. Vốn ODA thường được đầu tư và các lĩnh vực, các địa
bàn mà vốn tư nhân, vốn FDI không đầu tư vào.
Vốn ODA cũng được dùng để cho các doanh nghiệp, các hộ gia đình,
tư nhân vay lại để kết hợp với các nguồn vốn khác phát huy tác dụng. Chẳng
hạn chư các dự án thuộc các ngành công nghiệp mũi nhọn, thuộc các ngành
được ưu đãi đầu tư như trồng cây lâu năm trên đất chưa sử dụng, đồi núi trọc,
nghiên cứu khoa học công nghệ
Quan điểm 3: Sử dụng vốn ODA để phát triển hạ tầng kinh tế xã
hội có trọng tâm, trọng điểm.
Một mục tiêu chung nhất của các nhà tài trợ là sử dụng ODA để tạo
môi trường, tạo điều kiện ban đầu cho nước nhận tài trợ khai thác các nguồn
lực khác nhau trong nước. Đại bộ phận ODA được sử dụng để đầu tư phát
triển hạ tầng kinh tế - xã hội, phát triển nguồn nhân lực và tăng cường thể chế.
Phát triển theo trung tâm và lan tỏa dần là vấn đề có tính quy luật trong
phát triển kinh tế theo không gian. Chính vì vậy, tập trung vốn ODA xây

dựng một tổ hợp hạ tầng kinh tế - xã hội ở các vùng trọng điểm trong một thời
gian ngắn, tạo ra một vùng kinh tế phát triển là phương án tối ưu. Một tổ hợp
cơ sở hạ tầng ở đây có nghĩa là phải đảm bảo cho một vùng kinh tế trọng
điểm có cảng, sân bay hiện đại, liên lạc viễn thông tốt, đường xá và cầu cống
thuận tiện, kho tàng và bốc dỡ tốt, việc cung cấp điện nước được đảm bảo,
việc chăm sóc sức khoẻ cho những người làm việc trong vùng phải được lo
liệu chu đáo Tóm lại, không nên phân rải vốn ODA phân tán, mỗi nơi một
ít, nơi này có cái cầu, nơi kia có con đường, nơi khác có cái cảng mà nên tập
trung chúng vào một vùng trọng điểm trong một thời gian, sau đó lại tập trung
xây dựng các tổ hợp cơ sở hạ tầng ở những nơi khác.
Mục tiêu trong kế hoạch 1996-2000 là dùng nguồn vốn ODA đầu tư
trọng điểm hệ thống giao thông huyết mạch xuyên suốt đất nước, và nối với
các vùng trong nước, hệ thống bưu chính viễn thông cũng như hệ thống cơ sở
hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ ở cả ba địa bàn kinh tế trọng điểm. Trong
thời kỳ 2000 - 2005 và tiếp theo đến năm 2010, một trong những trọng tâm
sử dụng vốn ODA là xoá đói giảm nghèo.
Quan điểm 4: ODA là khoản vay nợ nước ngoài
Văn kiện Đại hội Đảng VIII đã chỉ rõ các dự án sử dụng vốn vay phải
có phương án trả nợ vững chắc, xác định rõ trách nhiệm trả nợ, không được
gây thêm gánh nặng nợ nần không trả được. Đồng thời, khi sử dụng vốn vay
của nước ngoài ta phải tính toán tới khả năng trả nợ trong nước. ODA được
coi là khoản nợ quan trọng nhất của Chính phủ đứng ra vay.
Đối với nước ta, cần phải xem xét hai loại nợ, đó là nợ quốc gia
và nợ Chính phủ:
Nợ quốc gia là các khoản vay nợ nước ngoài cho các hoạt động của
Việt Nam do tất cả các bên (Chính phủ, doanh nghiệp nhà nước, tư nhân trong
và ngoài nước) vay các loại đối tác nước ngoài. Nợ quốc gia có xuất xứ từ tất
cả các nguồn vay như ODA, vay đối ứng FDI, vay thương mại và một số
khoản vay khác, kể cả vay theo cơ chế mua trả chậm.
Nợ Chính phủ bao gồm các khoản Chính phủ vay trực tiếp của nước

ngoài (ODA) hoặc Chính phủ bảo lãnh vay, gánh nặng nợ nần sẽ do ngân
sách nhà nước gánh chịu.
Tất cả các khoản nợ này cuối cùng cũng phải trả cả gốc và lãi theo
những lịch trình khác nhau (vay ngắn hạn một hai năm, trung hạn 5-10 năm
và dài hạn 10-20 năm), chính vì vậy quá trình vay trả nợ nước ngoài không
được quản lý chặt chẽ thì có thể gây mất cân đối cho các cân thanh toán quốc
tế của đất nước, làm ảnh hưởng đến ổn định kinh tế vĩ mô.
Nợ chính phủ hiện đang chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tổng số nợ quốc gia.
Kinh nghiệm quốc tế đã cho chúng ta nhiều bài học quý giá về việc lựa chọn
phương thức và mức độ vay vốn nước ngoài. Tuy nhiên, mỗi nước đều có
những điều kiện phát triển đặc thù, hơn nữa tình hình thế giới lại không
ngừng biến đổi. Vì vậy, Việt Nam cần phải có một chính sách về vốn và nợ
nước ngoài riêng của mình. Có thể phác hoạ một số nét chủ yếu của chính
sách đó như sau:
- Thứ nhất, chính sách đó phải là một yếu tố cấu trúc của chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội tổng thể. Để chính sách này thực sự là một chính
sách có hiệu quả thì điều trước tiên cần đạt được là phải lựa chọn một chiến
lược, mô hình phát triển tổng thể đúng đắn. Mô hình và chiến lược đó không
thể chỉ dừng lại ở những nét đại cương mà phải chứa đựng các luận cứ cụ thể
và có cơ sở khoa học thực tiễn vững vàng. Chỉ trên cơ sở đó, việc tìm kiếm và
áp dụng các giải pháp về vốn và nợ nước ngoài mới có khả năng trở thành
những giải pháp khả thi.
- Thứ hai, để tránh bùng nổ hiểm họa ẩn chứa trong nợ nước ngoài,
phương châm tích cực nhất vẫn là “phòng bệnh hơn chữa bệnh”. Để đạt được
mục tiêu đó, cần phải có quan điểm xử lý nợ rõ ràng ngay từ khâu vay vốn và
thực hiện các dự án đầu tư. Vốn vay phải được đầu tư vào các lĩnh vực phù
hợp với quá trình công nghiệp hoá của đất nước. Đồng thời, cần phải có các
quy chế rõ ràng đòi hỏi dự án vay vốn chỉ được chấp thuận khi nó luận chứng
đầy đủ khả năng trả nợ.
- Thứ ba, tạo lập và duy trì một môi trường vĩ mô lành mạnh và ổn định

để làm cơ sở huy động và sử dụng vốn nước ngoài có hiệu quả. Nhiệm vụ này
bao gồm hàng loạt các vấn đề cần giải quyết, đặc biệt là cải cách cơ cấu tài
chính - tiền tệ và tạo dựng một khung luật pháp phù hợp.
- Thứ tư, nợ nước ngoài chỉ trở thành gánh nặng và thảm hoạ khi việc
vay vốn không gắn với nỗ lực xuất khẩu. Tuy nhiên, với trạng thái phát triển
của nền kinh tế nước ta hiện nay, cần phải tính đến tương quan hợp lý giữa
xuất khẩu và nhập khẩu, giữa tăng trưởng xuất khẩu và sản xuất thay thế nhập
khẩu. Đây là điểm khác biệt lớn giữa chiến lược công nghiệp hoá hiện nay
của nước ta với chiến lược tăng trưởng xuất khẩu mà nhiều nước Đông á đã
từng áp dụng rất thành công trong những thập niên qua. Một phép tính nhầm
hay sai lệch ở đây đều có thể trở thành nguồn gốc của những hậu quả nặng
đến mức khó lường trong quan hệ nợ nước ngoài.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG THU HÚT VÀ SỬ DỤNG VỐN ODA
TẠI VIỆT NAM
I. Tình hình huy động vốn ODA giai đoạn 1993- đến nay
1. Các nhà tài trợ và lĩnh vực ưu tiên tài trợ cho Việt Nam.
1.1 Các nhà tài trợ:
- Với khoảng 8.5% trong số khoảng 20 tỷ USD tổng vốn đầu tư tại
Việt Nam, nguồn vốn ODA đã đóng một vai trò quan trọng trong quá trình
phát triển của Việt Nam.
- Tính trung bình với mức dân số của Việt Nam hiện nay, trong năm
2005, mức ký kết ODA đạt khoảng 36 USD/người và giải ngân đạt 22
USD/người
- Nguồn vốn vay chiếm khoảng 80% tổng vốn ODA ký kết và 64%
tổng mức ODA giải ngân trong năm 2005.
- Nhật Bản, WB, ADB, Pháp, Đan Mạch, EC, Anh, Đức, Úc VÀ Thụy
Điển là 10 nhà tài trợ lớn nhất tại Việt Nam xét cả về giá trị ký kết và giải
ngân trong năm. Liên hợp Quốc đứng thứ 12 về giải ngân và đứng thứ 13 về
giá trị ký kết.

- Tổng giá trị ký kết hiệp định của các nhà tài trợ trong năm 2005 đạt
khoảng gần 3 tỷ USD và tổng số giải ngân là hơn 1.7 tỷ USD.
- Tổng số vốn cam kết hỗ trợ phát triển chính thức mà các nhà tài trợ
dành cho Việt Nam trong năm 2007 đã đạt con số 4.44 tỷ USD, cao hơn 700
triệu USD so với mức cam kết năm 2006. ADB trở thành nhà tài trợ lớn nhất,
tiếp theo là Nhật Bản, WB, EU.
2. Tình hình huy động ODA trong giai đoạn 1993-2010
2.1 Giai đoạn 1993-2006
ODA là nguồn vốn quan trọng của ngân sách Nhà nước, được sử dụng
để hỗ trợ thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội ưu tiên.
Ngày 9/11/1993, Hội nghị quốc tế các nhà tài trợ dành cho Việt Nam
đã khai mạc tại Paris, đây là sự kiện đánh dấu sự hội nhập của Việt Nam với
cộng đồng tài trợ quốc tế. Thông qua 14 Hội nghị CG (Hội nghị Nhóm tư vấn
các nhà tài trợ dành cho Việt Nam), các nhà tài trợ đã cam kết ODA cho nước
ta với tổng lượng đạt 37,011 tỷ USD. Mức cam kết năm sau cao hơn năm
trước và đạt đỉnh điểm trong năm 2006 (4,4 tỷ USD). Trong thời kỳ 1993-
2006, tổng giá trị ODA cam kết là 37,011 tỷ USD; tổng vốn ODA ký kết đạt
khoảng 27,810 tỷ USD, tương đương 75% tổng vốn ODA cam kết; tổng vốn
ODA giải ngân đạt xấp xỉ 17,684 tỷ USD, tương đương 63,54% tổng vốn
ODA ký kết.
ODA được cung cấp theo dự án hoặc chương trình dưới hình thức viện
trợ không hoàn lại và vay ưu đãi. Khoảng 15 - 20% số vốn ODA cam kết nói
trên là viện trợ không hoàn lại, hầu hết là các dự án hỗ trợ kỹ thuật, còn lại
một phần nhỏ là các dự án đầu tư xây dựng quy mô nhỏ và phi dự án (viện trợ
hàng hóa). Các khoản vay ưu đãi tập trung cho các dự án đầu tư xây dựng,
trong đó có các dự án cấp quốc gia với giá trị hàng trăm triệu đô la Mỹ. Ngoài
ra, còn có các khoản vay theo chương trình gắn với việc thực hiện khung
chính sách, như khoản vay thể chế tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo của
IMF, chương trình tín dụng hỗ trợ giảm nghèo của WB.
Bảng 1: Cam kết, ký kết và giải ngân vốn ODA giai đoạn 1993-2006

Đơn vị: Triệu USD
Năm Cam kết Ký kết Giải ngân
1993 1.860,80 816,68 413
1994 1.958,70 2.597,86 725
1995 2.311,50 1.443,53 737
1996 2.430,90 1.597,42 900
1997 2.377,10 1.685,81 1.000
1998 2.192,00 2.444,30 1.242
1999 2.146,00 1.503,15 1.350
2000 2.400,50 1.772,02 1.650
2001 2.399,10 2.427,42 1.500
2002 2.462,00 1.826,17 1.528
2003 2.838,40 1.772,98 1.422
2004 3.440,70 2.569,22 1.650
2005 3.748,00 2.529,11 1.782
2006 4.445,60 2.824,58 1.785
Tổng số 37.011,30 27.810,25 17.684,00
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Sau thành công của Hội nghị Nhóm Tư vấn các nhà tài trợ dành cho
Việt Nam giữa kỳ tổ chức tại Nha Trang vào tháng 6 năm 2006, Hội nghị CG
thường niên tháng 12 năm 2006 được đánh giá là Hội nghị thành công nhất từ
trước đến nay trước bối cảnh Việt nam bước vào một giai đoạn phát triển mới.
Tại Hội nghị này, Thủ tướng Chính phủ đã đối thoại trực tiếp với các nhà tài
trợ trên tinh thần thẳng thắn, mang tính xây dựng về những vấn đề cùng quan
tâm như thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2006-2010, phát
triển xã hội và môi trường bền vững, xây dựng nền tảng pháp luật và thể chế,
hội nhập quốc tế và khu vực, hài hoà thủ tục và nâng cao hiệu quả viện trợ
Các nhà tài trợ đánh giá cao những nỗ lực của Việt Nam trong việc nâng cao
hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA. Tại Hội nghị này Việt Nam và các nhà tài
trợ đã thông qua mức cam kết ODA kỷ lục, cao nhất từ trước đến nay là 4,445

tỷ USD và cho thấy xu thế gia tăng liên tục nguồn vốn ODA cam kết trong
suốt thời gian qua.
Trên cơ sở số vốn ODA cam kết của các nhà tài trợ đa phương và song
phương, Chính phủ Việt Nam đã ký kết với các nhà tài trợ các Điều ước quốc
tế về ODA (như hiệp định, nghị định thư, dự án, chương trình). Tính từ năm
1993 đến 9/2006, tổng giá trị các điều ước quốc tế về ODA đã được ký kết
ước đạt khoảng 31,6 tỷ USD. Trong đó, vốn vay là 25,65 tỷ USD với 559 hiệp
định; viện trợ không hoàn lại khoảng 6 tỷ USD.
Phần lớn các hiệp định vay đều có lãi suất rất ưu đãi, thời hạn vay và ân
hạn dài. 48,8% số hiệp định vay đã ký có lãi suất dưới 1%/năm, thời hạn vay
trên 30 năm, trong đó có 10 năm ân hạn; 33,9% hiệp định vay đã ký có lãi
suất từ 1 – 2,5%/năm; khoảng 17,3% hiệp định vay đã ký có điều kiện vay
kém ưu đãi hơn.
Trong năm 2006, nguồn vốn ODA được hợp thức hoá thông qua việc ký
kết các hiệp định với các nhà tài trợ đạt 2.824,58 tiệu USD, trong đó ODA
vốn vay là 2.423,64 triệu USD và ODA viện trợ không hoàn lại 400,94 triệu
USD. Nguồn vốn ODA được ký kết tiếp tục tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên
như: Công nghiệp- Năng lượng (30,78%); Giao thông vận tải-Bưu chính viễn
thông (20,51%); Nông nghiệp và phát triển nông thôn (14,31%); Tài chính
ngân hàng (13,19%).
2.2. Tình hình huy động ODA giai đoạn 2006- đến nay.
Trong 3 năm 2006-2008, tình hình vận động và thu hút ODA có sự bứt
phá mạnh mẽ. Với đặc trưng là Hội nghị CG cho Việt Nam thường tổ chức
vào cuối năm, do vậy Hội nghị CG năm nay đưa ra cam kết ODA cho năm
sau. Cam kết ODA tại Hội nghị CG năm 2007: 5,43 tỷ USD và năm 2008:
5,0146 tỷ USD. Riêng ODA cho năm 2009 có khoản cam kết mới trị giá 83,2
tỷ yên (tương đương 900 triệu USD) của Chính phủ Nhật Bản khi nối lại viện
trợ cho Việt Nam vào ngày 23 tháng 2 năm 2009. Như vậy, nếu bao gồm cả
khoản cam kết mới trị giá 83,2 tỷ yên (tương đương 900 triệu USD) của
Chính phủ Nhật Bản khi nối lại viện trợ ODA cho Việt Nam vào đầu tháng

3/2009 thì tổng giá trị ODA cam kết cho năm 2009 đạt 5,914 tỷ USD và như
vậy tổng giá trị ODA cam kết của cộng đồng tài trợ quốc tế trong 3 năm
(2006-2008) đạt khoảng 18,635 tỷ USD (nếu tính cả số vốn cam kết cho năm
2009 thì tổng vốn cam kết đạt khoảng 19.535 tỷ USD). So với chỉ tiêu đề ra
trong Đề án định hướng thu hút và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức
(ODA) thời kỳ 2006-2010 và Quyết định số 290/2006/QĐ-TTg (19-21 tỷ
USD ODA cam kết) thì đã đạt và vượt cận dưới.
Với nỗ lực cải thiện về khung pháp lý, thủ tục hành chính và những tích
cực của Tổ công tác ODA của Chính phủ tình hình ký kết hiệp định đã có
được những kết quả rất tốt.
Năm 2006, tổng giá trị ODA ký kết đạt khoảng 2,95 triệu USD, năm
2007 đạt 3.795,90 triệu USD trong đó vốn vay: 3.598,63 triệu USD, viện trợ
không hoàn lại: 197,27 triệu USD), tăng 30% so với năm 2006. Trong năm
2008 nhờ sự nỗ lực và hợp tác chặt chẽ giữa các Bộ, ngành và địa phương và
các nhà tài trợ, số lượng các điều ước quốc tế cụ thể về ODA được ký kết đã
tăng đáng kể. Tổng giá trị ODA ký kết trong năm 2008 đạt 4.332,33 triệu
USD (trong đó, vốn vay: 4.023,28 triệu USD, viện trợ không hoàn lại: 309,05
triệu USD), tăng 14% so với năm 2007.
Cũng trong năm 2008, Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB), Ngân
hàng Thế giới (WB) và Nhật Bản là những nhà tài trợ có giá trị các hiệp định
ký kết lớn nhất, đạt 3.590,35 triệu USD, chiếm trên 82% tổng giá trị vốn
ODA ký kết. Những chương trình, dự án ODA quy mô lớn, có ý nghĩa quan
trọng được ký kết trong năm 2008 bao gồm: Dự án Xây dựng đường cao tốc
Nội Bài - Lào Cai (1.096 triệu USD), Dự án Thủy điện sông Bung 4 (196
triệu USD) do ADB tài trợ, Dự án Tài chính Nông thôn giai đoạn III (200
triệu USD), Dự án Phát triển Giao thông vận tải Đồng bằng Bắc bộ (170 triệu
USD), Dự án Đầu tư Cơ sở hạ tầng ưu tiên thành phố Đà Nẵng (152 triệu
USD) do WB tài trợ; Dự án Xây dựng đường vành đai 3 Hà Nội (245,27 triệu
USD), Dự án Cải thiện môi trường nước thành phố Huế (182,48 triệu USD)
do Nhật Bản tài trợ, Ngoài ra còn có các chương trình, dự án hỗ trợ giảm

nghèo kết hợp với việc khuyến khích thực hiện các chính sách phát triển cũng
đã được ký trong năm 2008, trong đó đáng chú ý là Chương trình khoản vay
thể thức giảm nghèo (PRSC7) do WB và một số nhà tài trợ khác đồng tài trợ.
Thu hút ODA năm 2009: cao kỷ lục. Tính đến ngày 17/11, tổng vốn
viện trợ phát triển chính thức đã ký kết đạt trên 5,4 tỷ USD, trong đó, vốn vay
đạt gần 5,23 tỷ USD; viện trợ không hoàn lại đạt hơn 173 triệu USD. Nếu so
với kết quả đạt được của cùng kỳ năm 2008, vốn ODA ký kết đến thời điểm
này đã cao hơn 36,62%. Các nhà tài trợ có giá trị hiệp định ODA đã ký lớn là
WB, Ngân hàng phát triển châu Á (ADB)và Nhật Bản. Điểm đáng chú ý
trong con số ODA năm 2009 là những nhà tài trợ lớn đều dành cho Việt Nam
số vốn ký kết cao hơn so với cam kết trước đó. Thay đổi lớn nhất trong số này
là số vốn ODA ký kết của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB). Thay cho
cam kết gần 1,57 tỷ USD vốn ODA trong năm 2009, ADB đã phê duyệt tổng
cộng 2,15 tỷ USD vốn ODA cho Việt Nam. Nhật Bản cũng đã ký kết tổng
cộng trên 2,11 tỷ USD vốn viện trợ phát triển chính thức cho Việt Nam, thay
vì cam kết 0,9 tỷ USD mà Chính phủ nước này công bố sau khi nối lại ODA
vào tháng 2/2009.
Xét về cơ cấu vốn ODA ký kết, chiếm tỷ trọng cao nhất (chiếm 30,9%)
là lĩnh vực y tế, giáo dục và đào tạo, khoa học công nghệ với 1,67 tỷ USD vốn
ODA ký kết. Tiếp đến là lĩnh vực nông nghiệp, thủy lợi, lâm nghiệp, thủy sản
kết hợp phát triển nông nghiệp và nông thôn, xóa đói giảm nghèo với gần
1,37 tỷ USD (chiếm 24,7%). Sau đó là giao thông vận tải với 899 triệu USD,
chiếm tỷ trọng 16,7%; năng lượng với 818 triệu USD, chiếm 15,2%; cấp thoát
nước và phát triển đô thị với gần 679 triệu USD, chiếm 12,6%.
Việc hiện thực hóa 5,914 tỷ USD số vốn ODA đã cam kết tại Hội nghị
thường niên Nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam (CG) năm 2008, (bao
gồm khoản cam kết mới trị giá 83,2 tỷ Yên (tương đương 900 triệu USD) của
Chính phủ Nhật Bản khi nối lại viện trợ ODA cho Việt Nam vào tháng
2/2009), đã hoàn thành với trên 5,446 tỷ USD được ký kết với các nhà tài trợ
trong 11 tháng năm 2009. Những chương trình, dự án có giá trị lớn được ký

kết tập trung chủ yếu vào lĩnh vực giao thông, cấp thoát nước và phát triển đô
thị, bao gồm: “Khoản vay hỗ trợ khắc phục tác động khủng hoảng” giá trị 500
triệu USD, “Đường cao tốc thành phố Hồ Chí Minh - Long Thành - Dầu
Giây” trị giá 410,20 triệu USD, “Phát triển toàn diện thành phố Thanh Hoá”
trị giá 104,7 triệu USD do ADB và Hàn Quốc tài trợ; “Thoát nước thành phố
Hà Nội giai đoạn 2” trị giá 299,97 triệu USD, “Cải thiện môi trường nước
thành phố Hải Phòng” trị giá 218,21 triệu USD, “Tín dụng ngành giao thông
vận tải để nâng cấp mạng lưới đường bộ giai đoạn 2” trị giá 183,51 triệu
USD, “Xây dựng tuyến đường sắt đô thị thành phố Hà Nội” trị giá 150,43
triệu USD do Nhật Bản tài trợ; “Khoản tài trợ bổ sung cho Dự án năng lượng
nông thôn II” trị giá 200 triệu USD, “Chương trình đảm bảo chất lượng
trường học” trị giá 127 triệu USD, “Tài trợ chính sách phát triển lần thứ hai
hỗ trợ chương trình 135 giai đoạn II” trị giá 100 triệu USD do WB tài trợ; Dự
án “Cung cấp nước sạch và thuỷ lợi tỉnh Bình Thuận” trị giá 19,74 triệu USD
và “Thoát nước và xử lý nước thải thành phố Cà Mau” trị giá 17,89 triệu USD
do Ý tài trợ; “Chương trình tăng cường năng lực tổng thể ngành thanh tra giai
đoạn 2009 - 2014” trị giá 11 triệu USD do Thuỵ Điển, Đan Mạch, Hà Lan
đồng tài trợ. Ngoài ra còn có một số khoản viện trợ không hoàn lại như: “Phát
triển nông nghiệp miền Tây Nghệ An giai đoạn III” trị giá 7,79 triệu USD do
Luxembourg tài trợ, “Chương trình hợp tác chung với Liên hợp quốc về bình
đẳng giới” trị giá 4,6 triệu USD do UNDP viện trợ.
II. Thực trạng sử dụng vốn ODA ở Việt Nam giai đoạn 1993- đến nay.
1. Tình hình sử dụng vốn ODA giai đoạn 1993- đến nay
1.1 Giai đoạn 1993-2006
* Vốn ODA đã góp phần quan trọng trong việc cải thiện và phát triển kết
cấu hạ tầng kinh tế - xã hội Việt Nam.
Việt Nam đã tranh thủ được một nguồn vốn ODA khá lớn bổ sung cho đầu
tư, có ý nghĩa quan trọng đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. Trong 5
năm 1996 - 2000, đầu tư bằng vốn ODA chiếm khoảng 12% tổng đầu tư toàn
xã hội, bằng 24% tổng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước và bằng 50% vốn

tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.
Căn cứ vào chính sách ưu tiên sử dụng ODA của Chính phủ, Việt Nam đã
định hướng nguồn vốn này ưu tiên cho các lĩnh vực như giao thông vận tải;
phát triển năng lượng điện; phát triển nông nghiệp và nông thôn bao gồm cả
thủy lợi, thủy sản, lâm nghiệp; cấp thoát nước và bảo vệ môi trường; y tế,
giáo dục và đào tạo; khoa học và công nghệ
* Vốn ODA đã làm thay đổi đáng kể bộ mặt của cơ sở hạ tầng kinh tế.
Cũng giống như các nước đang phát triển khác, Việt Nam thường được
nhận nhiều ODA nhằm mục tiêu cải thiện cơ sở hạ tầng, đặc biệt trong lĩnh
vực giao thông vận tải, truyền thông và năng lượng.
Hơn 4,5 tỷ USD vốn ODA với 101 dự án do Trung ương quản lý đã và
đang được thực hiện để phát triển ngành giao thông vận tải, chủ yếu tập trung
cho đường bộ, đường biển và giao thông nông thôn.
Vốn ODA đã được sử dụng để khôi phục, nâng cấp và xây dựng mới 3.676
km đường quốc lộ; khôi phục và cải tạo khoảng 1.000 km đường tỉnh lộ;
Quốc lộ 5, quốc lộ 1A (đoạn Hà Nội-Vinh; đoạn TP. Hồ Chí Minh-Cần Thơ,
TP. Hồ Chí Minh-Nha Trang); làm mới và khôi phục 188 cầu, chủ yếu trên
các Quốc lộ 1, Quốc lộ 10, Quốc lộ 18 với tổng chiều dài 33,7 km; cải tạo và
nâng cấp 10.000 km đường nông thôn và khoảng 31 km cầu nông thôn quy
mô nhỏ; Cầu Mỹ Thuận; xây dựng mới 111 cầu nông thôn với tổng chiều dài
7,62 km (khẩu độ bình quân khoảng 25 – 100 m).
Vốn ODA đã đầu tư nâng cấp giai đoạn 1 cho cảng Hải Phòng để có thể
bốc xếp được 250.000 TEV/năm; nâng cấp cảng Sài Gòn có công suất bốc
xếp từ 6,8 triệu tấn/năm lên 8,5 triệu tấn/năm; xây dựng mới cảng nước sâu
Cái Lân; cải tạo cảng Tiên Sa, Đà Nẵng.
Nguồn vốn ODA đầu tư cho việc phát triển ngành điện với tổng cam kết
cho đến năm 2003 là 3,7 tỷ USD, hiện chiếm 40,3% trong tổng vốn đầu tư với
7 nhà máy điện lớn (Phú Mỹ 1, Phú Mỹ 2, Hàm Thuận - Đa Mi, Sông Hinh,
Đa Nhim, Phả Lại 2, Trà Nóc) có công suất thiết kế chiếm 40% tổng công
suất của các nhà máy điện ở Việt Nam xây dựng trong kế hoạch 5 năm 1996 –

2000. Tổng công suất phát điện tăng thêm do đầu tư bằng nguồn vốn ODA là
3.403 MW, bằng tổng công suất điện từ trước cho tới năm 1995. Trong ngành
năng lượng điện, vốn ODA còn đầu tư để phát triển hệ thông đường dây và
mạng lưới điện phân phối điện, bao gồm các dự án đường dây 500 KV Plâyku
– Phú Lâm, đường dây 220 KV Tao Đàn – Nhà Bè, gần 50 trạm biến áp của
cả nước, cải tạo nâng cấp mạng lưới điện thành thị và nông thôn ở trên 30 tỉnh
và thành phố.
Trong số 4,45 tỉ USD vốn ODA mà các nhà tài trợ cam kết danh cho Việt
Nam đưa ra tháng 12 năm 2006, các nước tài trợ cũng dành ưu tiên viện trợ
cho các lĩnh vực cơ sở hạ tầng. Nhật bản, nước ở vị trí dẫn đầu với mức cam
kết 890,3 triệu USD cho biết số ưu tiên này sẽ ưu tiên cho phát triển cơ sở hạ
tầng, cụ thể là tuyến đường săt cao tốc Bắc – Nam và bảo vệ môi trường.
Pháp với vốn viện trợ cam kết lớn thứ hai trong các nhà tài trợ và đứng đầu
khối EU là 370,4 triệu USD cũng cho biết nguồn vốn ODA sẽ được sử dụng
trong bốn lĩnh vực ưu tiên là giao thông đô thị, đường sắt, môi trường (quản
lý nước và rác thải), phát triển nông thôn. Ngoài ra, các cam kết này cũng sẽ
hỗ trợ các hoạt động trong lĩnh vực y tế và hiện đại hoá ngành tài chính.
Nguồn vốn ODA dành cho năng lượng điện và giao thông chiếm tới hơn 40%
vốn ODA của Việt Nam.
* ODA góp phần quan trọng vào sự phát triển cơ sở hạ tầng xã hội.
Tổng nguồn vốn ODA dành cho giáo dục và đào tạo ước khoảng 550 triệu
USD, chiếm khoảng 8,5 – 10% tổng kinh phí giáo dục và đào tạo, đã góp
phần cải thiện chất lượng và hiệu quả của công tác giáo dục và đào tạo, tăng
cường một bước cơ sở vật chất kỹ thuật cho việc nâng cao chất lượng dạy và
học, như dự án giáo dục tiểu học, trung học và đại học, dự án đào tạo nghề
Nguồn vốn ODA đã đóng góp cho sự thành công của một số chương trình xã
hội có ý nghĩa sâu rộng như Chương trình dân số và phát triển, Chương trình
tiêm chủng mở rộng, Chương trình dinh dưỡng trẻ em, Chương trình nước sạch
nông thôn, Chương trình chăm sóc sức khỏe ban đầu, Chương trình xóa đói
giảm nghèo. Nhờ vậy, thứ hạng của nước ta trong bảng xếp hạng các quốc gia

và chỉ số phát triển con người của Liên hợp quốc đều được cải thiện hàng năm.
ODA không chỉ bổ sung nguồn lực cho các chương trình xã hội mà điều
quan trọng là đã góp phần thay đổi nhận thức và hành vi của người dân trong
các lĩnh vực xã hội đòi hỏi có sự tham gia rộng rãi của các tầng lớp dân cư,
như phòng chống đại dịch HIV/AIDS, phòng chống ma túy
* ODA đã có tác dụng tích cực trong tăng cường năng lực, phát triển thể
chế trên nhiều lĩnh vực, đào tạo nguồn nhân lực, xây dựng pháp luật, cải
cách hành chính
Nhiều cơ quan đã được tăng cường năng lực với một lượng lớn các cán bộ được
đào tạo và tái đào tạo về khoa học, công nghệ và kinh tế. ODA cũng mang lại
những kinh nghiệm quốc tế có giá trị đối với sự nghiệp phát triển của nhiều lĩnh
vực kinh tế, xã hội, khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường, quản lý nhà nước,
pháp luật.
Với sự hỗ trợ kỹ thuật của ODA, một số bộ luật quan trọng đã được chuẩn bị
đúng hạn và được Chính phủ trình Quốc hộ thông qua góp phần đáp ứng yêu cầu
cải cách thể chế trong tiến trình của Việt Nam gia nhập WTO như Luật Đầu tư,
Luật Đấu thầu, Luật Phòng chống tham nhũng ;

×