Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Phân tích chi phí lợi ích mở rộng để đánh giá hiệu quả xây dựng hệ thống xử lý nước thải

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (925.97 KB, 103 trang )



Luận văn
Sử dụng phương pháp phân tích chi phí
lợi ích mở rộng để đánh giá hiệu quả
việc xây dựng hệ thống xử lí nước thải
của nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ
tuthienbao.com

1
LỜI NÓI ĐẦU
1/ Lý do chọn đề tài
Công nghiệp giấy Việt Nam phát triển và trưởng thành ngày càng đáp ứng
tốt hơn nhu cầu tiêu dùng thiết yếu của xã hội, góp phần tích cực vào sự nghiệp
đổi mới, tạo thêm nguồn thu cho ngân sách, việc làm và thu nhập ổn định cho
người lao động, nâng cao đời sống văn hoá và trình độ dân trí, xứng đáng là một
trong những ngành chiến lược quan trọng cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện
đại hoá (CNH - HĐH) đất nước.
Tuy nhiên vấn đề cấp bách đặt ra hiện nay là tình trạng ô nhiễm môi
trường (ONMT) do nước thải công nghiệp nói chung và ngành công nghiệp giấy
nói riêng. Vì đây được đánh giá là một trong 2 ngành công nghiệp có lượng nước
thải gây ô nhiễm lớn nhất. Thực tế hiện nay, lượng nước thải khổng lồ chứa các
chất lơ lửng (SS = suppended solid), hàm lượng các chất hữu cơ chứa trong
nước thải thường cao, các chỉ số COD (COD = chemical oxygen demand), và
BOD (BOD = Biochonical oxygen demand) xác định trong nước thải nghành
công nghiệp giấy rất cao này, được thải trực tiếp vào các sông, hồ mà không qua
xử lý, gây nên tình trạng ô nhiễm môi trường ở khu vực xung quanh nhà máy.
Trong điều kiện thực tế hiện nay, với công nghệ thấp, chậm phát triển so
với khu vực và thế giới, máy móc trang thiết bị lạc hậu, chậm thay đổi, thiếu vốn
đầu tư cho công nghệ xử lý nước thải, ngành công nghiệp giấy khó có thể đáp
ứng được những tiêu chuẩn thải theo quy định.


Định hướng của ngành công nghiệp giấy trong thế kỉ XXI không chỉ là
phát triển mà còn phải gắn kết chặt chẽ với vấn đề bảo vệ môi trường. Sử dụng
công nghệ sản xuất thân thiện với môi trường, lắp đặt hệ thống xử lí môi trường
là việc cần đẩy mạnh triển khai. Nó đem lại lợi ích không chỉ cho cá nhân nhà
máy mà còn đem lại lợi ích cho toàn xã hội. Tuy nhiên, để làm rõ được lợi ích
của việc đầu tư cho công tác bảo vệ môi trường, người ta đã sử dụng nhiều

2
phương pháp phân tích đánh giá khác nhau, một trong những phương pháp đang
được sử dụng rộng rãi đó là phân tích chi phí – lợi ích (CBA – Cost and benefit
analysis). CBA được đánh giá là một công cụ hữu hiệu nhất cho chúng ta một
cách nhìn toàn diện về lựa chọn phương án hiệu quả nhất như định hướng đã đề
ra.
Với tất cả những lý do nêu trên, tôi đã đi sâu vào nghiên cứu đề tài "Sử
dụng phương pháp phân tích chi phí lợi ích mở rộng để đánh giá hiệu quả
việc xây dựng hệ thống xử lí nước thải của nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ "
2/ Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở những lý luận, phương pháp luận kinh tế môi trường và
phương pháp phân tích chi phí lợi ích mở rộng để liệt kê và đánh giá những chi
phí cũng như lợi ích môi trường của việc đầu tư hệ thống xử lý nước thải nhà
máy đem lại. Dựa trên kết quả phân tích, thấy được những lợi ích của việc đầu tư
hệ thống xử lý nước mang lại cho nhà máy nói riêng và cộng đồng nói chung và
khẳng định sự cấp thiết phải đổi mới công nghệ và hệ thống xử lý môi trường để
nâng cao hơn chất lượng cuộc sống.
3/ Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Do tính đặc thù của ngành công nghiệp giấy, hoạt động sản xuất phát thải
ra môi trường một lượng nước khổng lồ, trong phạm vi, đề tài chỉ tập trung
nghiên cứu những đối tượng chịu hậu quả từ việc ô nhiễm nguồn nước do quá
trình thải nước thải gây nên và từ đó tính toán những thiệt hại kinh tế do nhà máy
gây ra mà cụ thể ở đây là nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ - thành phố Thái

Nguyên.
4/ Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên phương pháp thu thập số liệu từ nhiều nguồn khác nhau:
 Phương pháp trực tiếp:

3
- Phỏng vấn và thu thập số liệu về tình hình sản xuất, mức độ và phạm vi
ảnh hưởng của hoạt động sản xuất giấy tới môi trường.
- Phỏng vấn lãnh đạo nhà máy và các phường xung quanh khu vực nhà
máy.
- Thu thập số liệu từ sở KHCNMT tỉnh Thái Nguyên và trung tâm Y tế
dự phòng tỉnh Thái Nguyên
- Thu thập số liệu đo đạc về hiện trạng môi trường của nhà máy tại
Trung tâm Nghiên cứu, Đào tạo và Tư vấn môi trường (CERECE).
 Phương pháp gián tiếp
- Những số liệu gián tiếp là những số liệu thu thập từ những nguồn khác
nhau như số liệu của Cục Môi trường, Viện Hoá học Công nghiệp, Khoa Kinh tế,
Quản lý Môi trường và Đô thị, và tài liệu liên quan khác.
Trên cơ sở các số liệu thu thập đó kết hợp với phương pháp phân tích chi
phí lợi ích mở rộng để tính toán các chỉ tiêu kinh tế phục vụ cho mục đích nghiên
cứu.
 Phương pháp thống kê xác suất: Các số liệu thu thập được tiến hành xử
lý theo phương pháp thống kê.
5. Kết cấu luận văn gồm 3 chương:
Chương I : Tiếp cận phương phân tích chi phí - lợi ích mở rộng cho sản
xuất công nghiệp giấy
Chương II : Tổng quan về nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ.
Chương III: Phân tích chi phí lợi ích mở rộng








4
CHƯƠNG 1
TIẾP CẬN PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH CHI PHÍ - LỢI
ÍCH MỞ RỘNG CHO HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT GIẤY
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÂN TÍCH CHI PHÍ LỢI ÍCH MỞ RỘNG
Phương pháp phân tích chi phí lợi ích mở rộng ( Cost benefit analysis -
viết tắt là CBA) là một công cụ của chính sách, là cơ sở cho các nhà quản lý đưa
ra những chính sách hợp lý về sử dụng lâu bền các nguồn tài nguyên thiên nhiên
khan hiếm, làm giảm hoặc loại bỏ những ảnh hưởng tiêu cực phát sinh trong các
chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Phương pháp CBA sẽ làm
phép so sánh những lợi ích thu về do các hoạt động phát triển đem lại với những
chi phí và tổn thất do việc thực hiện chúng gây ra.
1.1 Một số khái niệm cơ bản
1.1.1 Sự phát triển của CBA và mục đích của việc sử dụng CBA.
1.1.1.1 Sự phát triển của CBA
Khái niệm CBA được đưa ra lần đầu tiên vào giữa thế kỉ XIX nhưng phải
đến gần 100 năm sau người ta mới thực sự quan tâm và đưa vào sử dụng. Cách
nhìn nhận của CBA là "toàn cục", không phản ánh lợi ích của bất cứ cá nhân, tổ
chức hay nhóm nào. Chính vì vậy mà công cụ CBA ngày càng trở nên phổ biến
và được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau. CBA có thể được dùng cho
các chính sách, kế hoạch, chương trình, dự án cũng có thể dùng rộng rãi trong
các vấn đề như thị trường lao động, giáo dục, nghiên cứu khoa học và môi
trường đặc biệt CBA là công cụ hiệu lực đối với đánh giá tác động môi trường
cho dự án phát triển kinh tế, xã hội.
Tuy nhiên, đối với các dự án môi trường thì việc lượng hoá được những

chi phí, lợi ích là rất phức tạp, không dễ gì thấy được và thời gian tác động là bao

5
lâu chính vì vậy việc đo lường để lượng hoá kết quả là không đơn giản, thậm
chí không có một thước đo chung, hay một phương pháp chung phục vụ cho việc
tính toán. Nhưng CBA là kỹ thuật cho phép liệt kê tất cả các điểm được và mất
một cách hệ thống, cố gắng tiền tệ hoá cái được và cái mất đối với môi trường,
cân nhắc tầm quan trọng của chúng nếu phù hợp, thể hiện sự phân phối của cái
được và cái mất giữa các nhóm người như thấy rõ trong tranh cãi môi trường và
đánh giá môi trường.
Đối với các nước đang phát triển, việc khai thác tài nguyên thiên nhiên là
biện pháp quan trọng, phổ biến để phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy phương
pháp CBA rất phù hợp trong điều kiện thực tế của các nước này.
1.1.1.2 Mục đích của việc sử dụng CBA
Đối với các nhà hoạch định chính sách, CBA là công cụ thiết thực hỗ trợ
cho việc ra quyết định có tính xã hội, từ đó quyết định phân bổ nguồn lực một
cách hợp lý, tránh gây ra thất bại thị trường (tức là giá cả hàng hoá không phản
ánh đúng giá trị của nó) có thể xảy ra thông qua sự can thiệp hiệu quả của Nhà
nước.
Phương pháp CBA có nhiều quan điểm tiếp cận khác nhau, có thể ở giai
đoạn hình thành (exante), giai đoạn giữa (immedias- res) hoặc giai đoạn cuối
(exposte) của dự án. Chính nhờ quan điểm tiếp cận phong phú này sẽ cung cấp
cho chúng ta những góc nhìn khác nhau. Từ đó sẽ cung cấp cho chúng ta một
lượng thông tin cơ bản về toàn bộ dự án, hay những bài học kinh nghiệm rút ra
khi tiến hành một dự án tương tự.
Muốn đưa ra được phương án đem lại hiệu quả cao nhất trong hàng loạt
các phương án đề xuất thì cần phải có một căn cứ, cơ sở nào đó dùng để so sánh.
Phương pháp CBA sẽ cho chúng ta hình dung ra được toàn bộ những chi phí
cũng như lợi ích mà mỗi phương án đưa ra có thể đem lại, và dựa trên kết quả
phân tích đó chúng ta sẽ lựa chọn được phương án phù hợp với mục tiêu đề ra.


6
Kết quả của sự lựa chọn này sẽ đảm bảo độ tin cậy cao hơn. Đây là một công cụ
thực sự có hiệu lực thuyết phục khi đưa ra một quyết định. Tuy nhiên không nên
chỉ dựa vào CBA mà đi đến một quyết định vì CBA cũng còn có những hạn chế
chưa khắc phục được, do đó nó chỉ là một phương pháp hữu hiệu trong số các
phương pháp hoạch định chính sách và ra quyết định.
1.1.2 Phân tích kinh tế và phân tích tài chính
Phân tích kinh tế và phân tích tài chính đều là phân tích chi phí lợi ích, tuy
nhiên hai khái niệm này không đồng nhất với nhau. Tại sao lại như vậy? Câu trả
lời cuối cùng là ở mục đích của người sử dụng.
Dưới góc độ của nhà đầu tư, thì người ta sử dụng phương pháp phân tích
tài chính vì mục tiêu cuối cùng họ muốn đạt được đó là tối đa hoá lợi nhuận (là
sự chênh lệch giữa doanh thu và chi phí). Để đạt được điều đó thì họ phải giảm
đến mức tối thiểu chi phí sản xuất. Và như vậy, một cách vô tình hay cố tình, họ
đã quên đi khoản chi phí đầu tư cho xử lý môi trường mà đáng lẽ họ phải trả.
Dưới góc độ quản lý vĩ mô, hoạt động sản xuất là nhằm đảm bảo phát triển
bền vững có nghĩa là đảm bảo phát triển đồng đều cả 3 cực: kinh tế - xã hội - môi
trường. Chính vì vậy mà phương pháp phân tích kinh tế được sử dụng, nói bao
hàm rộng hơn, đây là phương pháp phân tích kinh tế - tài chính có tính đến yếu
tố môi trường.
1.1.2.1 Phân tích tài chính
Phân tích tài chính dựa trên phân tích quá trình lưu chuyển dòng tiền tệ
trong đời dự án mà khi thực hiện dự án đó có thể xảy ra. Trong phân tích tài
chính người ta tập trung chủ yếu vào việc phân tích giá cả thị trường và các dòng
lưu thông tiền tệ. Mục đích đạt tới là phải tối đa hoá lợi nhuận, khả năng sinh lời
về mặt tài chính càng cao thì càng hấp dẫn các nhà đầu tư.
Ví dụ việc phân tích tài chính của dự án đầu tư công nghệ sản xuất mới
của nhà máy giấy. Doanh thu và chi phí là 2 yếu tố cùng quyết định lợi nhuận.


7
- MR (Marginal revenue) : Doanh thu biên là số lượng doanh thu mà nhà
máy nhận được từ việc bán 1 đơn vị sản phẩm (1 tấn giấy).
Vì yếu tố giá cả là do thị trường quyết định nên doanh thu biên đối với
mỗi tấn giấy là như nhau, do đó đường doanh thu biên biểu diễn trên đồ thị sẽ là
một đường thẳng nằm ngang.
- Chi phí được chia ra làm 2 loại: chi phí cố định và chi phí biến đổi.
+ Chi phí cố định: Là chi phí mà nhà máy phải trả cả trước khi sản xuất và
không đổi khi sản lượng thay đổi.
+ Chi phí biến đổi liên quan đến các khoản mục cần phải mua ngay khi
sản xuất như tre nứa, hoá chất, lao động do đó chi phí này biến đổi cùng với
sự biến đổi của sản lượng. Sự biến đổi này được thể hiện rõ trên đường chi phí
cận biên (tức biến phí của mỗi tấn giấy được sản xuất ra) - MVC (marginal vary
cost) hay MC.
+ Lợi ích cận biên cá nhân (MNPB = MR - MC ) là lợi nhuận hoạt động
mà nhà máy thu được từ doanh thu biên sau khi đã trừ đi chi phí biến đổi cận
biên.









Hình 1: Thu nhập và chi phí cho mỗi tấn giấy

: L
ợi nhuận bi

ên (= MR
-

MC), l
ợi nhuận thu về tr
ên m
ỗi tấn giấy cho
P (giá 1
tấn giấy)

MC

O
1

MR

O
Q
1
Q (tấn
gi

y)

A

8
t
ới điểm Q

1
.


: S
ố tiền bị lỗ (= MC
-

MR) khi s
ản xuất th
êm m
ột tấn giấy khi qua khỏi
điểm Q
1


O
1

: Đi
ểm ho
à v
ốn
(MR = MC), Q
1

Là m
ức sản l
ư
ợng tối

ưu cho th
ị tr
ư
ờng.

AO
1
Q
1
O = tổng doanh thu của nhà máy khi bán Q
1
tấn giấy.
O
1
Q
1
O = Tổng chi phí mà nhà máy bỏ ra để sản xuất Q
1
tấn giấy
Như vậy, lợi nhuận hoạt động của nhà máy là toàn bộ diện tích tam giác
AO
1
O. Và sự chênh lệch giữa MR và MC tạo cho nhà sản xuất đường lợi ích
cận biên cá nhân MNPB, và nhà máy sẽ chỉ sản xuất khi MR > MC.












Hình 2: Đường lợi ích cận biên của cá nhân (MNPB)
Như vậy, nhà máy sẽ sản xuất ra từng đơn vị sản phẩm khi nào mà doanh
thu cận biên còn cao hơn chi phí biên để sản xuất ra đơn vị sản phẩm đó. Tức là
mở rộng sản xuất tới mức Q
1

trong hình 1. Và để có thể duy trì việc kinh doanh
lâu dài, tổng lợi nhuận ở điểm Q
1
(diện tích tam giác AOQ
1
= diện tích tam giác
P (giá 1
tấn giấy)

O
Q
1
Q (tấn
gi

y)

MNPB
A


9
OAO
1
ở hình 1) nhất phải bằng những khoản chi phí cố định như chi phí nhà
xưởng, máy móc, trang thiết bị
Tuy nhiên điều chúng ta quan tâm ở đây đó là các khoản chi phí của nhà
máy chưa hề tính đến yếu tố môi trường trong đó. Bởi vì, khi sản lượng tăng lên
tổng lượng chất ô nhiễm phát thải tăng lên.Trong chi phí sản xuất của mỗi tấn
giấy sản xuất ra ở đây chỉ phản ánh số tiền mà nhà máy phải trả cho việc mua
nguyên liệu (tre, nứa, bột giấy), hoá chất, thuê nhân công, duy trì máy móc
không hề có khoản chi phí cho giảm thiểu ô nhiễm mà nhà máy gây ra trong quá
trình sản xuất. Do đó, giá của sản phẩm không phản ánh đúng giá trị của nó.
1.1.2.2 Phân tích chi phí lợi ích mở rộng (Phân tích kinh tế - tài chính)
CBA mở rộng bao gồm phân tích chi phí, lợi ích cả của những tác động
mà dự án phát triển gây ra cho môi trường, mà không được tính đến trong phân
tích tài chính của dự án.
Giả sử, như trong trường hợp hoạt động sản xuất của nhà máy giấy trên,
trong điều kiện môi trường cạnh tranh hoàn hảo (tức là nhà máy có khả năng bán
tất cả sản lượng tại mức giá thị trường đang thịnh hành) ta thấy rõ rằng sự tổn hại
môi trường không ảnh hưởng đến nhà máy gây ô nhiễm trên (nghĩa là chi phí tổn
hại không phải là chi phí nội sinh được phản ánh trong chi phí biến đổi của nhà
máy) nhưng lại ảnh hưởng đến toàn xã hội. Vì trên thực tế, lượng nước thải ô
nhiễm rất lớn mà nhà máy thải ra là yếu tố gây tác động tiêu cực đến sức khoẻ
của công nhân cũng như dân cư quanh khu vực nhà máy, đến mùa màng, năng
suất cây trồng, vật nuôi Những tổn hại như vậy gọi là chi phí ngoại ứng và
những chi phí ngoại ứng này xã hội đang phải gánh chịu, được thể hiện qua hình
vẽ sau:





10


Hình 3: Mô hình ngoại ứng tiêu cực
MPC (Marginal private cost)

: Chi phí c
ận bi
ên cá nhân c
ủa nh
à máy

MEC (Marg
inal external cost)

: Chi phí môi trư
ờng cận bi
ên

MSC (Marginal social cost)

: Chi phí xã h
ội cận bi
ên (MPC + MEC)

Q
W
: Lư

ợng chất thải m
à nhà máy th
ải ra

Vì thị trường cạnh tranh hoàn hảo, nên nhà máy không có sức mạnh thị
trường, không có ảnh hưởng đáng kể đến día trên thị trường, do đó đường cầu
của nhà máy chính là đường lợi ích cận biên và chính bằng giá bán của sản
phẩm, theo như hình vẽ 3:
 EO
*
O
1
là tổng thiệt hại nhà máy gây ra cho xã hội.
O
1
: điểm cân bằng có tính cá nhân O
1
(Q
1
, P
*
) = DD ầ MPC
P
*
: Mức giá bán của một tấn giấy trên thị trường
Q
1
: Mức sản lượng tối ưu cho thị trường
Q
W1

: Lượng chất thải thải ra môi trường
O
*
: Điểm cân bằng có tính xã hội O
*
(P
*
, Q
*
) = MSC ầ DD
MSC = MPC +
MEC

Q
W
(lượng thải)

MEC

P (giá 1 t

n g
i

y)

P
*



O
*

O
Q
1

Q
*

MPC

O
1

E

Q
A

Q (tấn
gi

y)

Q
W1
Q
*
W

Q
WA
DD = P


11
P
*
: Mức giá bán 1 tấn giấy trên thị trường
Q
*
: Mức sản lượng tối ưu của xã hội
Q
*
W
: Lượng chất thải thải ra môi trường
Bản chất của vấn đề ở đây là, khi chúng ta tiến hành sản xuất thì cũng có
nghĩa là chúng ta phải thải ra môi trường một lượng thải nhất định (nước thải,
chất thải ). Ở một mức độ nào đó, thì môi trường có khả năng tự làm sạch, hấp
thụ được nhưng nếu vượt quá giới hạn khả năng tự làm sạch thì đó là nguyên
nhân gây ô nhiễm môi trường và tiến tới suy thoái môi trường. Vậy thì liệu ở
điểm O
*
, ô nhiễm có bằng O hay không? Chắc chắn sẽ là không, bởi vì xét về
mặt kĩ thuật nó thực sự là không khả thi, trong bất cứ trường hợp nào cũng sẽ
không được chấp nhận vì quá tốn kém xét về cả phương diện đầu tư về thiết bị
và các quy trình làm giảm chất thải cũng như trong việc mất mát các lợi ích sinh
ra từ việc sản xuất những sản phẩm đó.
Khi sản lượng tăng lên thì tổng số lượng chất ô nhiễm phát thải tăng lên.
Và ở dưới mức sản lượng Q

A
(với lượng chất thải đưới mức Q
WA
), tất cả các chất
thải đều được môi trường hấp thụ an toàn (đó là đặc tính tự nhiên của môi
trường) như hình 4










Số lượng
chất ô nhiễ
m
thải ra đượ
c
hấp thụ
Số lượng ô
nhi

m

O
*


Khả năng hấ
p
th


O
Q
1
Q
A
Q
*

Q

(tấn giấy)

Q
WA
Q
*
W

Q
W1
Q
W
(lượng
th


i)


12

Hình 4: Ô nhiễm thải ra được hấp thụ
O < Q
W
Ê Q
WA
: Môi trường có khả năng hấp thụ các chất ô nhiễm ( Q
WA
) thải ra
Q
W
> Q
WA
: khả năng hấp thụ của môi trường bị vượt quá
Khi sản lượng vượt quá Q
A
(lượng chất thải vượt quá Q
WA
), những đơn vị
ô nhiễm ban đầu vượt quá Q
WA
gây ra tương đối ít tác hại so với những đơn vị
tiếp theo sau đó (Vì tác động của tổng mức ô nhiễm tích luỹ lại). Điều đó có
nghĩa, cứ mỗi đơn vị ô nhiễm tăng thêm thì gây ra tác hại nhiều hơn là đơn vị
trước đó, chúng ta có đường MEC dốc lên trên như hình 5.













Hình 5: Chi phí thiệt hại của ô nhiễm
Nhưng vì chúng ta không thể vì bảo vệ môi trường mà ngừng việc sản
xuất lại. đó chính là lý do vì sao chúng ta phải chấp nhận một khoản chi phí
ngoại ứng nhất định, là chấp nhận một mức thải trong giới hạn cho phép khi tiến
hành sản xuất, và những giới hạn này được quy định cụ thể trong TIÊU CHUẨN
Chi phí thiệ
t
h

i

MEC
O
Q
1

Q
A


Q
*

Q

(tấn giấy)
C
1

C
*

Q
WA

Q
*
W

Q
W1

Q
W
(lượng
th

i)



13
VIỆT NAM . Các đơn vị sản xuất sẽ bị xử lý nếu như vượt quá những tiêu chuẩn
đã quy định tuỳ theo mức độ nặng nhẹ khác nhau.












Hình 6: MNPB và MEC
Khi xét đến nhân tố môi trường thì phương pháp phân tích chi phí lợi ích
mở rộng sẽ đem đến kết quả là :
+ Lợi nhuận của nhà máy sẽ bị giảm xuống SD O
*
Q
*
Q
1

+ Lợi ích xã hội thu về do việc giảm ô nhiễm là S› O
*
EQ
1
Q

*
( > SD
O
*
Q
*
Q
1
).
Kết luận: Trên quan điểm kinh tế thì tại điểm sản xuất với sản lượng Q
*
sẽ
mang lại hiệu quả cao nhất, và tất cả mức sản xuất trong khoảng Q
*
đến Q
1
thì
đều không mang lại "hiệu quả xã hội”. Nhưng trên góc độ của người sản xuất thì
đó là điều họ không mong muốn khi phải mất đi một khoản lợi nhuận là SD
O
*
Q
*
Q
1
.
Trách nhiệm này thuộc về các nhà hoạch định chính sách và quản lý môi
trường nếu như muốn đạt được mức hiệu quả xã hội. Các nhà máy muốn vận

MEC

O
*

MNPB

O
Q
1

Q
A

Q
*

Q

(tấn giấy)

E

Q
WA

Q
*
W

Q
W1


Q
W
(lượng
th

i)


14
hành hết công suất của mình (tức là muốn đạt tới mức sản lượng Q
1
) thì họ phải
chi ra một khoản tiền đầu tư cho xử lí môi trường để làm sao chi phí môi trường
sẽ giảm xuống, và khi đó mức sản lượng đạt hiệu quả xã hội Q
*
sẽ tiến gần tới Q
1

hơn. đảm bảo được cả 2 mục tiêu: phát triển sản xuất và bảo vệ môi trường. Đây
cũng là mục đích cuối cùng mà người sử dụng phương pháp CBA mong muốn
đạt đến, tránh gây ra thất bại thị trường.
1.2 Các phương pháp sử dụng trong CBA mở rộng
1.2.1 Phương pháp phân tích bằng biểu đồ, đồ thị
12.1.1 Nguyên lý
Người ta sử dụng hình thức thể hiện trực quan để phát triển chi phí và lợi
ích trên cơ sở đó giúp cho các nhà quản lý, các nhà theo dõi và vận hành dự án
có thể nắm bắt nhanh tiến trình biến đổi trong chi phí qua các năm.
1.2.1.2 Nội dung
Trên cơ sở số năm tồn tại của dự án, người ta sử dụng một đồ thị không

gian 2 chiều: trục hoành biểu thị thời gian diễn biến của hoạt động phát triển;
trục tung biểu thị lợi ích thu được trong quá trình tiến hành hoạt động.
Lợi ích và chi phí biểu thị trên đồ thị theo luỹ tích, chi phí cho xây dựng,
khai thác và vận hành đều ghi chung. Như vậy, trên đồ thị bất cứ lúc nào ta cũng
có thể so sánh chi phí và lợi ích ở dạng chưa chiết khấu hoặc chiết khấu nếu
được tính toán, bổ sung và điều chỉnh thêm.







1

2 3 4 5 6 7 8 9 10 n
ă
m

Chi phí
- lợi
ích


15

Hình 7: Phân tích chi phí - lợi ích bằng biểu đồ
: tổng chi phí qua các năm
: Tổng lợi ích qua các năm
Hoặc dưới dạng đồ thị









Hình 8: Phân tích chi phí - lợi ích bằng đồ thị
Tại năm t
*
dự án đem lại lợi ích ròng NB
t
= B
t
- C
t
là lớn nhất. Tại năm t
1

là thời điểm ở đó lợi ích ròng = O, nếu tiếp tục đầu tư sản xuất sẽ bị lỗ.
1.2.1.3 Ưu nhược điểm
- Ưu điểm: Về bản chất phương pháp phân tích chi phí lợi ích mở rộng là
một nguyên tắc đúng đắn, vì nó tính đến lợi ích kinh tế một cách đầy đủ trước
mắt và lâu dài, thông qua việc quy đổi chúng trên cơ sở 1 đơn vị đo thống nhất.
Điều đó có ý nghĩa quan trọng đối với việc lựa chọn quyết định cuối cùng.
- Nhược điểm của phương pháp này là không xét đến tất cá các tác động
đến môi trường, nhất là những tác động mang tính lâu dài hoặc gián tiếp.
Chi phí
- lợi

ích

A

B

C

t
*

t
1

t

O


16
Mặt khác, việc sử dụng phương pháp này vào các dự án lớn sẽ rất khó
khăn do số hạng mục, đối tượng phân tích và tính toán thường quá lớn. Ngoài ra
có nhiều yếu tố môi trường không thể quy đổi thành tiền.
1.2.2 Phương pháp phân tích kinh tế - tài chính
Khác với phương pháp trên, về mặt bản chất, mọi phân tích của chúng ta
là phân tích kinh tế, sau đó quy đổi toàn bộ phân tích kinh tế ra tiền. Trên cơ sở
tính toán các chỉ tiêu liên quan nhằm xác định được bản chất của lợi ích và chi
phí, lợi nhuận có được của dự án.
1.2.2.1 Các khái niệm liên quan
Bộ "công cụ" của CBA bao gồm các khái niệm cơ bản sau:

a. Chi phí cơ hội
Chi phí cơ hội là chi phí của việc hy sinh các hoạt động hay thu nhập thay
thế. Đây là một khái niệm rộng được xét toàn diện và có tính lựa chọn trong
quyết định sản xuất. Đối với các doanh nghiệp sản xuất thì khái niệm chi phí cơ
hội phù hợp với bất cứ tình huống nào, trong đó phải quyết định sử dụng tài
nguyên sản xuất cho mục đích này chứ không phải mục đích khác.
Ảnh hưởng của các sự lựa chọn công nghệ đối với môi trường cũng có thể
lựa chọn bằng kĩ thuật này. Ví dụ, có thể có nhiều cách khác nhau để đến cùng
một yêu cầu đó là đầu tư lắp đặt một hệ thống xử lý môi trường hay sẽ chi phí
hàng năm cho các khoản xử lý ô nhiễm, chi phí đền bù thiệt hại cho những đối
tượng chịu ảnh hưởng từ việc sản xuất gây ô nhiễm đó.
b. Giá thị trường và giá tham khảo
Phân tích kinh tế đơn thuần được được bắt đầu bằng việc xác định giá cả
trên thị trường của một loại hàng hoá nào đó. Tuy nhiên, khi đánh giá hàng hoá
chất lượng môi trường hay một số loại hàng hoá công cộng khác, giá cả thị
trường chưa hẳn đã phản ánh đúng giá trị thực của xã hội. Do vậy các nhà kinh tế
thường sử dụng giá tham khảo (shadow price).

17
Giá tham khảo là một mức giá không tồn tại trên thị trường nhưng khi đưa
ra có cơ sở khoa học và thực tiễn hoặc sự biến động giá cả không ổn định buộc
các nhà kinh tế phải đưa ra những luận cứ khoa học để xác định giá và có sự
thống nhất một mức giá chung. Bằng cách tiếp cận từng phần, ta có thể điều
chỉnh mức giả cả thị trường, làm cho nó trở nên đúng đắn hơn, phản ánh đúng
chi phí của xã hội.
c. Trục thời gian và chiết khấu
Trong đó, tất cả các chi phí và lợi nhuận trong tương lai được
quy về giá trị hiện thời (giảm giá trị). Do vậy, trong phân tích dự án việc xác
định trục thời gian và hệ số chiết khấu có tính chất đặc biệt quan trọng.
 Chọn biến thời gian thích hợp

Về mặt lý thuyết, phân tích kinh tế các dự án phải được kéo dài trong
khoảng thời gian vừa đủ để có thể bao hàm hết mọi lợi ích và chi phí của dự án.
Trong việc lựa chọn biến thời gian thích hợp cần lưu ý đến 2 nhân tố quan trọng
sau đây:
- Thời gian tồn tại hữu ích dự kiến (Expected useful life).
- Hệ số chiết khấu.
 Chiết khấu
Chiết khấu là một cơ chế mà nhờ nó ta có thể so sánh lợi nhuận và chi phí
ở các thời điểm khác nhau trên trục thời gian. Trong việc sử dụng chiết khấu cần
phải đảm bảo 2 điều kiện tiên quyết:
- Mọi biến số đưa vào tính toán chiết khấu ( ví dụ chi phí tài nguyên, lợi
nhuận đầu ra ) phải được quy đổi về cùng 1 hệ đơn vị (đơn vị tiền tệ).
- Giá trị một đơn vị chi phí hoặc lợi nhuận hiện tại phải lớn hơn một đơn
vị chi phí hoặc lợi nhuận trong tương lai.
Hai điều kiện này sẽ có khó khăn khi đưa các nhân tố môi trường vào quá
trình phân tích dự án.

18
d. Mức tối ưu Pareto
Khi ta lựa chọn một phương thức quyết định nào đó làm cho một người
giàu lên nhưng cũng không làm cho người khác nghèo đi, do đó một phương
thức phân bổ hiệu quả là phương thức mà khi chúng ta quyết định 1 người nào
đó giàu lên mà không làm cho người khác nghèo đi.
e. Nguyên tắc chi phí - lợi ích
Một dự án chỉ được chấp nhận khi mà tổng lợi ích xã hội là dương, tỷ lệ
lợi ích - chi phí dương thay vì âm. Tuy nhiên, đối với các dự án môi trường,
trong một số trường hợp, khi nguồn số liệu về ảnh hưởng cũng như lợi ích đem
lại cho môi trường bị hạn chế, mức độ hiểu biết không đầy đủ để thiết lập mối
quan hệ giữa sự phá huỷ môi trường, ảnh hưởng tới sức khoẻ công đồng thì
việc tiến hành dự án phát triển có thể đưa ra một mục tiêu và phân tích các cách

khác nhau để đạt được mục tiêu đó.
1.2.2.2 Các chỉ tiêu dùng để tính toán
Một khi mốc thời gian thích hợp và hệ số chiết khấu đã được lựa chọn,
những tính toán thực tế có thể căn cứ vào nhiều dạng công thức khác nhau.
Trong phần này sẽ trình bày một số công thức thường dùng.
a. Giá trị hiện tại ròng (Net present value - NPV)
Công thức hay sử dụng nhất trong phát triển kinh tế là giá trị lợi nhuận
ròng (NPV) của một dự án. Đại lượng này xác định giá trị lợi nhuận ròng hiện
thời khi chiết khấu ròng lợi ích và chi phí trở về với năm cơ sở bắt đầu (năm thứ
nhất).
b. Hệ số hoàn vốn nội tại (IRR - Internal Rate of Return).
(NPV 0)
   
 
 










n
t
n
i
t

t
t
t
r
C
C
r
B
NPV
1 1
0
11

19
Hệ số hoàn vốn nội tại k được định nghĩa như là hệ số mà qua đó giá trị
hiện thời của lợi ích và chi phí là bằng nhau. Hệ số k tương đương với hệ số
chiết khấu (r) , có thể xác định bằng cách suy diễn khi thoả mãn hệ thức sau:



   
   

 

 














n
i
t
t
n
t
t
t
n
t
n
i
t
t
t
t
r
C
C
r
B

r
C
C
r
B
1
0
1
1 1
0
11
0
11

IRR được các tổ chức tài chính sử dụng rộng rãi
Giá trị IRR sau khi tính toán sẽ được so sánh với lãi suất về tài chính hoặc
hệ số chiết khấu để xem mức độ hấp dẫn về tài chính hoặc kinh tế của dự án.
c. Phân tích độ nhậy. (B/C)
Tỷ lệ này so sánh lợi ích và chi phí đã được chiết khấu. Thông qua chỉ tiêu
này người ta xác định một đồng vốn bỏ ra so với lợi ích thu về chiếm tỉ lệ là bao
nhiêu.

Các
tham số được sử dụng:
B
t

: L
ợi ích thu về tại năm t


C
0

: Chi phí đ
ầu t
ư ban đ
ầu

C
t

: Chi phí b
ỏ ra tại năm t

t

: th
ời gian

(B/C

1)
 
 









n
i
t
t
n
t
t
t
r
C
C
r
B
C
B
1
0
1
1
1
tuthienbao.com

20
r

: h
ệ số chiết khấu
-


t
ỷ lệ chiết khấ
u

n

: S
ố năm tồn tại của dự án

S

:T
ổng trong khoảng thời gian từ năm thứ nhất đến năm n.

Ba đại lượng trình bày trên đều căn cứ vào giá trị hiện thời của dòng lợi
ích và chi phí. Giữa chúng có mối liên hệ khăng khít và chúng sẽ được ưu tiên
lựa chọn tuỳ vào từng loại dự án cụ thể.
II/ CÁC BƯỚC TIẾN HÀNH CBA
Quan niệm về các bước tiến hành phân tích có nhiều cách khác nhau của
nhiều chuyên gia khác nhau. Trong chương trình của Đông Nam Á đã nghiên
cứu theo phương án 9 bước.
2.1 Xem xét quyết định lợi ích của ai và chi phí như thế nào.
Trong phân tích CBA việc đầu tiên đặt ra là phải xác định được lợi ích của
ai và ai là người được hưởng lợi. Đây là vấn đề hết sức phức tạp trong dự án kinh
tế đơn thuần, và lại càng khó khăn hơn đối với dự án môi trường. Ví như trong
dự án xây dựng cầu đường thì những người được lợi ích chính là những người
tham gia giao thông trên đường, là những gia đình sẽ tăng thu nhập nhờ việc
kinh doanh buôn bán, là những nhà máy, xí nghiệp giảm bớt được chi phí vận
chuyển, v.v

Khả năng sáng suốt của người phân tích là bằng cách nào đó xác định
được toàn lợi ích mà khi dự án được chấp nhận, nếu xác định càng đầy đủ bao
nhiêu thì tính hiệu lực của dự án càng chính xác bấy nhiêu, càng tiếp cận điểm
hiệu quả và điểm cân bằng mà xã hội mong muốn.
Việc phân định chi phí xem ai là người phải chịu thì đơn giản hơn việc xác
định lợi ích. Như đối với nhà máy giấy, đầu tư lắp đặt hệ thống xử lý môi trường
thì tất nhiên chi phí phải do phía chủ đầu tư chịu, cụ thể ở đây là nhà máy.
Đây là bước cơ sở nền tảng cho mọi bước tiếp theo nếu như phân định lợi
ích và thiệt hại không đúng thì sẽ làm giảm hiệu lực của dự án.

21
2.2 Lựa chọn danh mục các dự án thay thế
Bất cứ một dự án nào đưa ra thì cùng với nó sẽ có nhiều dự án thay thế, có
nghĩa là khi dự án không được đạt hiêu quả thì sẽ được thay thế bằng dự án khác
hiệu quả hơn.
Về mặt kĩ thuật mỗi dự án đưa ra khả năng kĩ thuật để hình thành dự án
khác nhau do đó hiệu quả sẽ khác nhau, việc thay đổi 1 dự án thay thế tức là thay
đổi toàn bộ quá trình CBA. Do đó vấn dề đặt ra đối với người làm CBA là phải
liệt kê được tất cả các phương án có thể có và trong mỗi phương án đưa ra phải
phân tích CBA một cách đầy đủ nhất, để từ đó người ra quyết định có cơ sở xem
xét và đi đến quyết định lựa chọn phương án tốt nhất.
Tuy nhiên, cũng phải nói rằng phương án được lựa chọn nhiều khi không
thể dám chắc được đó là phương án tối ưu nhất hay không, bởi vì trong quá trình
đi vào hoạt động của dự án thì còn có những rủi ro tiềm ẩn có thể xảy ra, mà bản
thân các nhà phân tích cũng khó có thể dự đoán được vì nó không theo một quy
luật thuần tuý nào.
2.3 Liệt kê các ảnh hưởng tiềm năng và chỉ số đo lường
Các ảnh hưởng tiềm năng là các ảnh hưởng mà chúng ta chưa thể thấy hết
được khả năng xuất hiện của nó mà nó chỉ xuất hiện trong tương lai khi dự án đã
đi vào hoạt động. Do đó, nó sẽ làm sai lệch kết quả chúng ta tính toán, nếu như

chúng ta bỏ sót những ảnh hưởng này khi phân tích.
Lựa chọn các chỉ số đo lường thực chất là giá trị để chúng ta xác định mức
hấp dẫn của dự án và thường là kết quả xác định bằng giá trị cụ thể. Trong thực
tế, tuỳ từng dự án cụ thể mà đưa ra những chỉ số đo lường thích hợp.
Ví dụ như dự án xoá mù chữ ở miền núi, thì chúng ta không thể sử dụng
chỉ số NPV, IRR được, mà ở đây phải là tỉ lệ bao nhiêu người sẽ được phổ cập
tiểu học trên tổng số những người đi học.

22
2.4 Dự đoán những ảnh hưởng đến lượng trong suốt quá trình dự
án tiến hành.
Dự đoán được những khả năng tương đối làm cho kết quả dự kiến đưa ra
có thể bị sai lệch, điều mà CBA thông thường có tính lý thuyết (cổ điển) ít đề
cập đến cách làm như thế nào.
Chắc chắn chúng ta phải thực hiện dựa trên những nguyên lý phân tích khi
mới hình thành "exante", "inmedias - res" hoặc "exposte". Như vậy quá trình
thực hiện từng bước đó sẽ dẫn đến 3 khả năng: Chi phí tăng, lợi ích tăng hoặc
không có sự thay đổi.
2.5 Lượng hoá bằng tiền tất cả các tác động.
Trong phân tích CBA điều quan trọng là phải lượng hoá được tất cả bằng
giá trị cụ thể, như chúng ta biết có 2 phương thức xác định giá: giá thị trường và
giá tham khảo.
Mọi tác động môi trường đều thừa nhận phương thức WTP (willing to pay
- bằng lòng chi trả) . Tuy nhiên, thực tế có những trường hợp thực hiện CBA
không thể lượng hoá được bằng tiền, do đó chúng ta chỉ có thể phân tích theo xu
hướng chi phí hiệu quả và theo xu hướng phân tích chỉ tiêu.
2.6 Khấu hao khoảng thời gian để đưa về dạng hiện tại.
Điều quan trọng nhất đối với dự án phân tích môi trường phải xác định
được hệ số quy đổi có tính xã hội, đó chính là điểm khác biệt giữa phân tích kinh
tế môi trường và kinh tế học thuần tuý. Và khi xác định được giá trị này thì cá

nhân thường phản ứng lại tỷ lệ khấu hao có tính xã hội.
2.7 Tổng hợp các lợi ích và chi phí.
Giá trị sử dụng NPV, tuy nhiên không thể chỉ lấy chỉ số này làm căn cứ
mà cần phải sử dụng thêm chỉ số IRR để lựa chọn phương án có tính tổng hợp.
Như đã trình bày, có nhiều loại dự án khác nhau vì vậy khi phân tích phải cân

23
nhắc, lựa chọn những chỉ số nào cho thích hợp đó là điều quan trọng. Ba đại
lượng NPV, IRR, B/C có mối liên hệ khăng khít với nhau.
2.8 Phân tích độ nhậy
Xác định khả năng thay đổi trong quá trình vận hành CBA khi một
phương án lựa chọn. Trong mọi trường hợp, chúng ta phải có điểm dừng, một sự
thừa nhận hay bằng lòng vì không có một dự án nào có tính tuyệt đối.
2.9 Tiến cử phương án đem lại lợi ích xã hội cao nhất.
Là kết quả của 8 bước trên và các quyết định đưa ra chứng tỏ nguồn lực
phân bổ là hiệu quả nhất.
III/ VẬN DỤNG CBA ĐỂ ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA VIỆC LẮP ĐẶT
HỆ THỐNG XỬ LÝ NƯỚC THẢI CHO NHÀ MÁY GIẤY.
Vấn đề ô nhiễm không khí, tiếng ồn, bụi, cũng thường gặp ở các nhà
máy giấy hiện nay nhưng thường chưa cấp bách so với vấn đề nước thải, vấn đề
cần tập trung xử lý ở đây là nước thải công nghiệp. Nguyên nhân chính của việc
này là vấn đề xử lý môi trường chưa được đặt ra đúng mức, mặt khác khi môi
trường đã bị ảnh hưởng nặng nề thì các cơ sở này không đủ kinh phí để tiến hành
xây dựng hệ thống xử lý. Muốn giải quyết được vấn đề ô nhiễm nước thải
nghành giấy, phải giải quyết đồng thời bằng 2 con đường:
- Lựa chọn công nghệ sản xuất thích hợp theo hướng sản xuất sạch
(cleaner production)
- Xử lý triệt để nước thải (The end of pipe techonology).
Và kết quả đạt được sau khi đã xây dựng, lắp đặt hệ thống xử lý nước thải
là phải đạt tiêu chuẩn thải của Việt Nam (được quy định chi tiết trong TCVN

1995). Như vậy, mức độ ảnh hưởng của nước thải đến môi trường xung quanh
khu vực có thể được giảm đến mức thấp nhất và có thể nói là ảnh hưởng sẽ
không còn đáng kể nữa. Tất nhiên trong điều kiện nước ta hiện nay, việc xử lý

24
luôn phải tính đến chi phí, đặc biệt là chi phí vận hành sao cho không ảnh hưởng
quá lớn đến giá thành sản phẩm giấy và bột giấy. Để đánh giá được hiệu quả của
việc lắp đặt hệ thống xử lý nước thải, cần phải phân định được những chi phí và
lợi ích.
3.1 Đánh giá chi phí
Chi phí môi trường là những loại chi phí trong quá trình thực hiện dự án
và chi phí này được lượng hoá bằng tiền tệ.
3.1.1 Chi phí đầu tư ban đầu
Chi phí đầu tư ban đầu bao gồm các khoản mục chi phí liên quan đến đầu
tư ban đầu (xây dựng trạm xử lý, mua trang thiết bị, ). Thuật ngữ "chi phí đầu tư
ban đầu " thay thế thuật ngữ "chi phí tài sản cố định". Thuật ngữ "chi phí tài sản
cố định" chỉ nói đến các công cụ và các khoản mục nguyên liệu trực tiếp mà
chúng được tính khấu hao đồng thời bỏ qua các chi phí không được tính khấu
hao. Các chi phí không trực tiếp này liên quan đến chi phí đầu tư ban đầu chẳng
hạn chi phí tổ chức lao động khoa học, chi phí đào tạo, chúng có ảnh hưởng lớn
đến lợi nhuận đầu tư và phải được đưa vào phân tích.
3.1.2 Chi phí hoạt động hàng năm
Chi phí hoạt động hàng năm bao gồm tất cả các khoản chi phí để vận hành
cho mỗi năm, gồm:
- Chi phí sản xuất
- Chi phí quản lý hành chính
- khấu hao
- Trả lãi vốn vay
- Các loại thuế
- Các loại chi phí khác

×