Tải bản đầy đủ (.doc) (109 trang)

Lịch sử địa phương Cà Mau

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (453.46 KB, 109 trang )

LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG TỈNH CÀ MAU


I- MỤC ĐÍCH YÊU CẦU DẠY VÀ HỌC LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG CÀ MAU:

Trước tiên chúng ta cần tìm hiểu khái niệm “Lịch sử địa phương”. Theo PGS – TS
Nguyễn Cảnh Minh và Đỗ Hồng Thái thì: muốn hiểu đúng khái niệm “Lịch sử địa phương”
trước hết ta cần hiểu thuật ngữ “địa phương” trong Tiếng Việt. “Địa phương là những vùng,
khu vực trong quan hệ với những vùng và khu vực khác trong nước”. Như vậy địa phương là
những vùng đất nhất định nằm trong quốc gia có những sắc thái đặc thù riêng để phân biệt với
những vùng đất khác, là bộ phận cấu thành của đất nước. địa phương hiểu theo nghĩa cụ thể,
là những đơn vị chính của một quốc gia, đó là những tỉnh, thành phố, huyện, xã, thôn, bản,
làng, buôn, ấp .v.v Với nghĩa khái quát, trừu tượng, địa phương được hiểu là những vùng
đất, khu vực nhất định được hình thành trong lịch sử, có ranh giới tự nhiên (không giống địa
giới hành chính) để phân biệt với các vùng đất khác. Ví dụ: Miền Bắc, Miền Nam, Miền
Trung, Việt Bắc, Tây Bắc, Tây Nguyên, Đồng bằng Bắc bộ, Đồng bằng Sông Cửu Long
.v.v Nhưng cũng có ý kiến quan niệm theo cách đơn giản là: tất cả những gì không phải của
“Trung ương” hay “Quốc gia” đều được coi là địa phương. Như vậy thủ đô của một quốc gia
hay từng khu vực của thủ đô được xem là địa phương. Từ nhận thức như vậy, ta có thể hiểu
được lịch sử địa phương cũng chính là lịch sử của các làng, xã, huyện, tỉnh hay khu vực,
vùng, miền.

Lịch sử địa phương còn bao hàm ý nghĩa lịch sử của các đơn vị sản xuất chiến đấu,
các trường học, cơ quan, xí nghiệp .v.v Xét về yếu tố địa lý, các đơn vị đó đều gắn với một
địa phương nhất định, song nội dung của nó mang tính kỹ thuật, chuyên môn, do vậy có thể
xếp nó vào dạng lịch sử chuyên ngành.

Như vậy bản thân lịch sử địa phương rất đa dạng, phong phú cả về nội dung và thể
loại. Giữa lịch sử địa phương và lịch sử dân tộc có mối quan hệ đặc biệt.

Đây là mối quan hệ biện chứng không thể tách rời, nằm trong cặp phạm trù “Cái


chung và cái riêng”. Tri thức lịch sử địa phương là biểu hiện cụ thể, sinh động, đa dạng của tri
thức lịch sử dân tộc. Lịch sử địa phương là bộ phận cấu thành lịch sử dân tộc. Nói vậy không
có nghĩa một công trình nghiên cứu lịch sử dân tộc là kết quả của phép tính cộng các cuốn
lịch sử địa phương.

Lịch sử dân tộc được hình thành trên nền tảng khối lượng tri thức lịch sử địa phương
đã được khái quát và tổng hợp ở mức độ cao.

Trong nghiên cứu lịch sử, chúng ta thấy rằng, bất cứ một sự kiện, hiện tượng nào xảy
ra đều mang tính chất địa phương, bởi nó gần với một vị trí không gian cụ thể ở một hoặc một
số địa phương nhất định. Tuy nhiên những sự kiện, hiện tượng đó có tính chất, quy mô, mức
độ ảnh hưởng khác nhau. Có những sự kiện, hiện tượng chỉ có tác dụng, ảnh hưởng ở một
phạm vi nhỏ hẹp của địa phương, nhưng có những sự kiện, hiện tượng xảy ra có mức độ ảnh
hưởng vượt khỏi không gian địa phương, mang ý nghĩa rộng đối với quốc gia, thậm chí đối
với cả thế giới. Chính vì vậy có những sự kiện lịch sử địa phương gắn liền với lịch sử dân tộc
hoặc rộng hơn là lịch sử thế giới. Không chỉ riêng các nhà sử học chuyên nghiên cứu sâu về
lịch sử, mỗi con người (ở mức độ khác nhau) đều có nhu cầu tìm hiểu về cuộc sống và những
hoạt động của chính mình ở những khoảng thời gian và những vị trí không gian khác nhau.
Tri thức lịch sử sẽ làm giàu thêm tri thức của cuộc sống con người. Chính vì lẽ đó, sự am
tường về lịch sử dân tộc còn bao hàm cả sự hiểu biết cần thiết về lịch sử địa phương, hiểu biết
về lịch sử của chính miền quê, xứ sở, nơi chôn nhau cắt rốn của mình, hiểu rõ mối quan hệ
của lịch sử ở địa phương với lịch sử của dân tộc và rộng lớn là lịch sử thế giới.

-Dạy và học lịch sử địa phương Cà Mau có ý nghĩa quan trọng trong việc góp phần
thực hiện mục tiêu giáo dục ở trường phổ thông trong tỉnh. Thông qua việc học lịch sử địa
phương, hoạt động của nhà trường có điều kiện để gắn liền với xã hội, lý luận đi đôi với thực
hành.

Việc học lịch sử địa phương tỉnh nhà còn bồi dưỡng cho các em học sinh những kỹ
năng cần thiết trong việc vận dụng tri thức lý thuyết vào thực tiễn đang đòi hỏi ở địa phương.

Từ hoạt động thực tiễn đó, các em thấy được sự phát triển đa dạng sinh động, phức tạp và thú
vị của lịch sử địa phương và lịch sử dân tộc, thấy được nét độc đáo, đặc thù của lịch sử địa
phương tỉnh nhà, song vẫn tuân theo qui luật phát triển chung của lịch sử dân tộc và lịch sử
nhân loại.

Hoạt động học tập nghiên cứu lịch sử địa phương tỉnh nhà sẽ như nhịp cầu nối tình
cảm của nhà trường với nhân dân địa phương trong tỉnh, cũng là biện pháp để khai thác sức
sáng tạo tiềm tàng của nhân dân địa phương. Nguồn tài liệu lịch sử địa phương, với những
loại hình đa dạng phong phú, sinh động là cơ sở cho việc tạo những biểu tượng lịch sử và hiểu
sâu sắc các khái niệm, các sự kiện, hiện tượng ở bài học lịch sử. Tri thức lịch sử địa phương
tỉnh Cà Mau chúng ta sẽ có ý nghĩa giáo dục sâu sắc lòng tự hào chân chính về những truyền
thống tốt đẹp của địa phương, tình yêu quê hương, xứ sở, ý thức bảo vệ giữ gìn di sản văn
hoá, di tích lịch sử .v.v
Lịch sử địa phương Cà Mau nếu được chúng ta tổ chức giảng dạy tốt ở các trường phổ
thông trong tỉnh là một trong những nguồn quan trọng làm phong phú tri thức của học sinh về
quê hương mình, giáo dục cho các em lòng yêu quê hương, hình thành những khái niệm về
nghĩa vụ đối với quê hương, tạo cho học sinh nhận thức được mối liên hệ giữa lịch sử địa
phương và lịch sử dân tộc.

Giảng dạy lịch sử địa phương tỉnh Cà Mau sẽ góp phần không nhỏ vào việc giáo dục
tư tưởng, chính trị, lao động, đạo đức, thẩm mỹ cho học sinh của tỉnh nhà. Nó có vị trí quan
trọng trong việc hình thành cho thế hệ trẻ tỉnh ta lòng yêu nước xã hội chủ nghĩa. Học sinh tự
hào về đất nước, dân tộc Việc Nam, bắt đầu từ lòng tự hào về những chiến công của cha anh
mình đã làm nên ở ngay trong làng xóm thân yêu khi đấu tranh chống kẻ thù xâm lược. Học
sinh cũng tự hào với những thành tựu kinh tế, văn hoá, xã hội của địa phương Cà Mau chúng
ta từ trước đến nay, đặc biệt trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Học sinh không những
tự hào về truyền thống anh hùng, bất khuất trong đấu tranh Cách mạng mà cũng tự hào về chủ
nghĩa anh hùng cách mạng trong xây dựng, sản xuất, tự hào về những nghề thủ công truyền
thống, về sự tài giỏi khéo léo của những nghệ nhân ở địa phương tỉnh ta đã tạo nên những sản
phẩm nổi tiếng. Giới thiệu cho học sinh những nghề truyền thống, gây cho các em có ý thức

bảo vệ và phát triển nghề truyền thống thủ công địa phương cũng là một trong những nội
dung hướng nghiệp của bộ môn lịch sử.


II- NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY VÀ HỌC LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG:

1-Một số yêu cầu về nội dung và phương pháp:

Một trong những nguyên tắc cơ bản của việc dạy học lịch sử địa phương ở trường phổ
thông là thể hiện mối quan hệ giữa lịch sử địa phương với lịch sử dân tộc, “Cái riêng không
tồn tại ngoài mối liên hệ với cái chung”. Đúng như vậy, việc giảng dạy lịch sử địa phương Cà
Mau trong chương trình lịch sử dân tộc làm cho học sinh hiểu rõ hơn những khái niệm lịch sử
chung và riêng, nhận thức những hình thái kinh tế – xã hội, các giai đoạn phát triển của lịch
sử. Tài liệu lịch sử địa phương Cà Mau này sẽ giúp học sinh hiểu và giải thích được những nét
riêng biệt, đặc thù trong các hiện tượng lịch sử. Điều này rất quan trọng để phát triển tư duy
lịch sử của học sinh.

Dạy học lịch sử địa phương Cà Mau là chúng ta phải làm sao làm cho học sinh thấy rõ
ý nghĩa lịch sử tiến bộ của chế độ xã hội chủ nghĩa đang được xây dựng ở khắp mọi nơi trên
đất nước ta, bước đầu đem lại những thành quả to lớn, cụ thể trong việc nâng cao đời sống
tinh thần và vật chất của nhân dân lao động ở địa phương mình.

Dạy học lịch sử địa phương Cà Mau nếu được tổ chức, chỉ đạo tốt sẽ góp phần giáo
dục lòng tự hào về quê hương tỉnh nhà của học sinh. Cho nên những thành tựu trong chiến
đấu và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở địa phương Cà Mau chúng ta phải làm cho học sinh thấy
rõ nó cũng có ảnh hưởng đến sự thắng lợi của cách mạng cả nước. Sự hy sinh anh dũng của
con em địa phương chúng ta trong sự nghiệp giữ nước đã góp phần giáo dục truyền thống tốt
đẹp của cha ông cho thế hệ trẻ tỉnh nhà hiện tại và mai sau.

Lịch sử địa phương giáo dục học sinh lòng yêu lao động, kính trọng nhân dân lao động

qua nhiều thế hệ, qua giảng dạy phải làm cho học sinh xác định nghĩa vụ bảo vệ, giữ gìn và
phát triển truyền thống tốt đẹp đó của địa phương mình.

Việc giảng dạy lịch sử địa phương Cà Mau phải làm sao cho học sinh nắm vững hơn
khái niệm khoa học hiện đại của hệ thống “Tự nhiên – con người – xã hội”, thấy được vai trò
của con người tác động thiên nhiên phục vụ nhiều nhất cho con người Phải chỉ ra cho học
sinh hiểu rõ rằng, chỉ trong chế độ xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Đảng, khi nhân dân
thực sự “Làm chủ thiên nhiên – làm chủ con người – làm chủ xã hội”, thì việc cải tạo và chinh
phục thiên nhiên mới góp phần tích cực vào việc phát triển lịch sử, đem lại no ấm, hạnh phúc
cho con người.

Dạy học lịch sử địa phương của tỉnh nhà chính là việc cụ thể hoá một cách sinh động,
chi tiết những tri thức lịch sử dân tộc. Do đó những sự kiện, hiện tượng lịch sử không thể tách
rời vị trí không gian cụ thể, nhưng những vị trí không gian đó có sự “thay đổi” theo cơ cấu
đơn vị hành chính địa phương (chủ yếu do tỉnh ta thời gian qua đã có nhiều thay đổi do việc
nhập, tách tỉnh, huyện, xã.v.v ) Chính vì vậy khi trình bày những sự kiện, hiện tượng lịch sử,
cần chú ý xác định rõ vị trí không gian, địa danh lịch sử ở thời điểm sự kiện xảy ra và ở vị trí
không gian hiện tại để học sinh dễ theo dõi, hình dung, tái tạo lịch sử một cách chính xác.
Như vậy sẽ có những sự kiện, hiện tượng lịch sử gắn với các đơn vị hành chính, nhưng cũng
có sự kiện, hiện tượng không hẳn như vậy. Chẳng hạn, một cuộc khởi nghĩa, một trận đánh,
thường liên quan tới nhiều địa phương (xét theo khung giới hành chính) khác nhau. Để giúp
học sinh nắm vững vấn đề này không thể thiếu đồ dùng trực quan (có thể là bản đồ, sơ đồ, sa
bàn .v.v ).

Khi dạy học lịch sử địa phương tỉnh nhà, giáo viên sẽ có ý kiến nhận xét, đánh giá về
vai trò của cá nhân, quần chúng trong lịch sử, về sự đóng góp của địa phương tỉnh ta với toàn
quốc, về mối quan hệ giữa các địa phương trong quá trình phát triển của lịch sử.v.v Thực tế
của việc dạy học cho thấy không ít giáo viên dù đã nắm vững quan điểm cơ bản của chủ nghĩa
duy vật lịch sử, nhưng khi vận dụng vào các trường hợp cụ thể thường lúng túng. Việc đánh
giá vai trò của cá nhân và quần chúng không thể áp đặt chủ quan, càng không thể vận dụng

một cách máy móc, giáo điều quan điểm Mácxit – Lêninnít. Lịch sử địa phương của tỉnh nhà
chúng ta thường rất cụ thể và đòi hỏi khách quan, vì vậy khi nêu tên các nhân vật lịch sử ở địa
phương trong tỉnh không đòi hỏi ở họ sự tiêu biểu toàn diện mà có thể là về một lĩnh vực hoạt
động nào đó. Có những nhân vật có tác dụng tích cực ở một thời kỳ lịch sử này, sau lại giảm
đi ở một thời kỳ khác và ngược lại (nhất là trong thời bình cũng không ít cán bộ do nhiều
nguyên nhân đã bị thoái hoá biến chất ). Lại có những nhân vật có những đóng góp, cống
hiến to lớn trong một thời kỳ, nhưng sau đó lại mang tác dụng tiêu cực, thậm chí có quan
điểm sai lầm, phản động, hoặc không lành mạnh đối với địa phương.v.v Đây là vấn đề hết
sức phức tạp, đòi hỏi người giáo viên phải thận trọng, tỉ mỉ, khi cần thiết cần trao đổi ý kiến
với các nhà khoa học, các cấp lãnh đạo địa phương để có nhận xét thỏa đáng. Vì thế, chúng ta
không thể dùng ý chí chủ quan để phủ nhận sạch trơn những công lao của các nhân vật lịch
sử, cần đánh giá đúng những cống hiến về từng mặt ở từng thời điểm lịch sử cụ thể. Việc nêu
tên những người đã khuất đã khó, song việc lựa chọn để nêu tên những người còn sống ở địa
phương càng khó hơn. Cần phải lắng nghe ý kiến rộng rãi của các tổ chức quần chúng nhân
dân, mặt khác phải có quan điểm khoa học khi xem xét sự cống hiến, vai trò của họ đối với
địa phương, so với người đương thời, đặc biệt là những người đi trước.

Theo chương trình lịch sử bậc phổ thông trung học thì nội dung ngoài phần lịch sử thế
giới, chủ yếu là phần lịch sử Việt nam. Riêng phần lịch sử Việt nam nội dung chủ yếu là lịch
sử dân tộc từ thời kỳ nguyên thuỷ tới nay; trong đó chương trình lịch sử cách mạng Việt Nam
bao gồm những vấn đề quan trọng như :
-Phong trào cách mạng Việt Nam trong những năm trước thành lập Đảng (1925-1930).
-Đảng cộng sản Việt Nam ra đời (3.2.1930).
-Phong trào cách mạng (1930- 1931) và cuộc đấu tranh hồi phục lực lượng cách mạng.
-Cuộc vận động dân chủ (1936-1939).
-Cuộc vận động cách mạng Tháng Tám (1939-1945) và Cách mạng Tháng Tám thành
công (19.8.1945).
-Cuộc đấu tranh bảo vệ và xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân (1945-1946).
-Những năm đầu kháng chiến toàn quốc (1946-1950).
-Bước phát triển mới của cuộc kháng chiến và kháng chiến thắng lợi (1951-1954).

-Tình hình Việt Nam sau Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954 và nhiệm vụ cách mạng trong
thời kỳ mới (1954-1975).
-Cách mạng XHCN ở Miền Bắc và Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Miền nam
(1954-1965).
-Nhân dân hai miền Nam-Bắc trực tiếp đương đầu với Đế quốc Mỹ xâm lược (1965-
1973).
-Cuộc đấu tranh giành toàn vẹn lãnh thổ, thống nhất đất nước, đi đến thắng lợi hoàn
toàn (1973-1975).
-Công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN (1975-1991).

Trong khi đó thì lịch sử cách mạng địa phương Cà Mau không thể tách rời với lịch sử
của dân tộc, ngược lại khi giảng dạy lịch sử dân tộc giai đoạn này thì giáo viên không thể bỏ
qua sự liên hệ với thực tiễn lịch sử của địa phương Cà Mau.

Chính vì vậy với chương trình lịch sử địa phương Cà Mau đòi hỏi phải dạy cho học
sinh những nội dung chuyên về sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Đảng bộ và nhân dân Cà Mau
trong đấu tranh giải phóng dân tộc, trong hai cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp và Đế
quốc Mỹ, trong xây dựng CNXH; về lòng biết ơn đối với công lao to lớn của Đảng, của Bác
Hồ trong tổ chức lãnh đạo sự nghiệp cách mạng vẻ vang của dân tộc; về sự tin tưởng vào con
đường đi lên CNXH mà Đảng và Bác Hồ đã chọn; bồi dưỡng lòng yêu quê hương đất nước,
yêu đồng bào, yêu dân tộc Việt Nam anh hùng, trong đó có nhân dân Cà Mau thân yêu. Khi
giáo viên trình bày nội dung những sự kiện của lịch sử cách mạng dân tộc qua quá trình lịch
sử bậc trung học (cấp THCS, THPT), nhất thiết phải làm sống lại quá khứ hào hùng của lịch
sử cách mạng địa phương Cà Mau vào những thời kỳ này.

-Như vậy ngoài những bài lịch sử địa phương Cà Mau theo phân phối chương trình
của Bộ giáo dục và Đào tạo vừa mới ban hành được áp dụng thực hiện từ năm 2000-2001 như
: ở lớp 6 tiết 33 (Tham quan hoặc giới thiệu một di tích lịch sử gần nhất ở địa phương); ở lớp
7 tiết 33; ở lớp 8 tiết 65, 66; ở lớp 9 tiết 64, 65, 66; ở lớp 11 tiết 33. Chúng ta tái hiện lịch sử
cách mạng nói chung có thể minh hoạ bằng thực tiễn của địa phương Cà Mau. Thật vậy, trong

suốt quá trình lịch sử dân tộc bậc trung học với mỗi sự kiện, hiện tượng đều có liên quan mật
thiết với địa phương. Chính vì vậy và cũng thông qua đó chúng ta tổ chức dạy và học lịch sử
đạt yêu cầu tạo hình ảnh một sự vật cụ thể, vừa tạo biểu tượng về không gian, thời gian, hoàn
cảnh diễn ra sự kiện lịch sử và những nhân chứng lịch sử, vừa liên hệ thực tế với nội dung đó
bằng những vấn đề thuộc về lịch sử cách mạng địa phương Cà Mau.

Trong nhà trường dạy cho học sinh học lịch sử là để các em hình dung rõ ràng các giải
thích đúng, có cơ sở khoa học về lịch sử, biến cố lịch sử. Như chúng ta biết là các sự kiện,
hiện tượng lịch sử không phải xuất hiện một cách ngẫu nhiên là mà nó có nguyên nhân và
tuân theo những qui luật nhất định. Do đó, khi dạy lịch sử người giáo viên phải có nhiệm vụ
giúp cho học sinh nắm được bản chất các sự kiện lịch sử rút ra từ các bài học lịch sử. Để thực
hiện được những yêu cầu này ngoài những phương pháp đặc trưng bộ môn thì việc gắn với
những sự kiện lịch sử địa phương Cà Mau là hết sức quan trọng. Điều quan trọng là giáo viên
không áp đặt những kết luận có sẵn trong sách giáo khoa mà cần tổ chức bài học thành những
vấn đề học tập, tìm hiểu sự kiện lịch sử có liên quan ở địa phương tỉnh nhà. Từ đó giúp học
sinh độc lập suy nghĩ, mạnh dạn trình bày ý kiến riêng của mình, có thể học sinh đánh giá,
nêu ra nhiều ý kiến khác nhau xuất phát từ sự hiểu biết những sự kiện đó ở địa phương khác
nhau trong tỉnh. Chính việc tổ chức cho học sinh tìm hiểu, thảo luận với các tư liệu lịch sử địa
phương của mình sẽ giúp cho chúng ta giáo dục tốt hơn về truyền thống cách mạng địa
phương cho học sinh và cũng nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy bộ môn, thực hiện tốt việc
đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng tích cực lấy học sinh làm trung tâm. Lịch sử là
những sự kiện đã đi qua nhưng không biến mất mà vẫn còn để lại dấu vết của nó qua ký ức
của nhân loại, của các nhân chứng lịch sử, qua những thành tựu văn hoá vật chất, qua các hiện
tượng lịch sử, qua các bia, đền, tượng đài, các công trình văn hóa, qua sách báo, qua tranh
ảnh, qua các ngành nghề truyền thống địa phương Chỉ có trên cơ sở những chứng cứ vật
chất nói trên mới có sự nhận thức và trình bày đúng đắn về lịch sử. để thực hiện tốt yêu cầu
trên và tổ chức dạy lịch sử địa phương cho học sinh, không có hình thức nào hữu hiệu bằng
việc chúng ta tổ chức cho :
-Các nhân chứng lịch sử, các nhân vật lịch sử đến kể lại cho học sinh các vấn đề có
liên quan đến các sự kiện lịch sử cách mạng địa phương.

-Tổ chức cho học sinh đi học tập ở hiện trường, ở các bảo tàng lịch sử địa phương, ở
các nhà truyền thống cách mạng địa phương (xã, huyện, tỉnh).
-Tổ chức cho học sinh đi tham quan các di tích lịch sử địa phương.
-Tổ chức sưu tầm các sử liệu, tranh ảnh, hiện vật có liên quan đến lịch sử địa phương.
-Tổ chức cho học sinh đi viếng các nghĩa trang liệt sĩ, các nhà tưởng niệm, các bia ghi
công, các tượng đài, các anh hùng liệt sĩ ở địa phương (xã, huyện, tỉnh).
-Tổ chức học sinh đi viếng các nhân vật gắn liền với lịch sử địa phương, các anh hùng,
các Bà mẹ Việt Nam anh hùng còn sống.
Vì vậy trong phạm vi đề tài này, chúng tôi đề xuất một vài hoạt động ngoại khoá trong
việc dạy và học lịch sử địa phương sẽ được trình bày ở nội dung tiếp theo.

2-Tổ chức thông qua hoạt động tham quan học tập:

Trong công cuộc đổi mới kinh tế - xã hội của đất nước nói chung và của giáo dục -
đào tạo nói riêng thì hình thức giáo dục ngoài nhà trường là một nhu cầu hoạt động xã hội,
hoạt động ngoại khoá, tham quan học tập, đặc biệt là hoạt động tham quan học tập lịch sử
cách mạng địa phương. Thực tế đã qua, các hoạt động trên đã và đang được khơi dậy mạnh
mẽ trong các nhà trường. Tuy nhiên yêu cầu về chất lượng, nội dung hiệu quả giáo dục,
phương pháp quản lý, tổ chức là những vấn đề được quan tâm và đặt ra ở các nhà trường phổ
thông. Vì vậy cần phải được quản lý, tổ chức, điều hành hoạt động này theo chương trình cụ
thể, có kế hoạch, phương pháp tổ chức và nội dung cụ thể bao gồm :
1-Tham quan các di tích lịch sử, lịch sử văn hoá, di tích văn hóa, văn hoá cổ, di tích
lịch sử cách mạng ở địa phương trong hai thời kỳ kháng chiến trên địa bàn trường (xã, huyện,
tỉnh).
2-Thăm và đặt hoa, dâng hương đài tưởng niệm lịch sử các nghĩa trang liệt sĩ hoặc các
anh hùng liệt sĩ mà trường mang tên, địa phương mang tên tại địa phương (xã, huyện, thị,
tỉnh).
3-Tham quan bảo tàng cách mạng Cà Mau, các nhà truyền thống cách mạng địa
phương.
4-Tham quan các khu căn cứ cách mạng trong hai thời kỳ kháng chiến trong tỉnh.

5-Thăm giao lưu với các đơn vị quân đội ở địa phương, đặc biệt là các đơn vị anh
hùng trong thời kỳ kháng chiến.
6-Thăm các cá nhân anh hùng, các Bà mẹ Việt Nam anh hùng, các nhân chứng lịch sử,
các gia đình anh hùng liệt sĩ ở địa phương.
7-Tham quan Hòn khoai, đài tưởng niệm các liệt sĩ, mộ các liệt sĩ khởi nghĩa Hòn
khoai.
8-Tổ chức cho học sinh gặp gỡ giao lưu, trao đổi về truyền thống cách mạng địa
phương, nghe phát biểu giáo huấn về yêu cầu nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội địa phương
của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các ngành quân sự, công an, văn hoá thông tin,
các tổ chức đoàn thể các cấp ở địa phương (xã, huyện, tỉnh).
9- Tổ chức cho học sinh tham quan các cơ sở sản xuất ngành nghề thủ công truyền
thống, tham gia các hoạt động, các cuộc vận động, các phong traò ở địa phương như : phong
trào đền ơn đáp nghĩa, cuộc vận động xây dựng nhà tình nghĩa, chăm sóc, thăm nom các gia
đình liệt sỹ, thương binh, những Bà mẹ Việt nam anh hùng.
10-Tổ chức cho học sinh gặp gỡ, giao lưu, trao đổi, nghe kể chuyện chiến đấu, chuyện
lịch sử, chuyện sản xuất với các anh hùng lao động, anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân,
các nhân chứng lịch sử, các nhà nghiên cứu, các nhà khoa học, nhà văn, nhà báo, các nghệ
nhân và những người tiêu biểu khác trong phong trào xây dựng, sản xuất và bảo vệ tổ quốc ở
địa phương.

3-Tổ chức học tập thông qua các cuộc thảo luận, hái hoa học tập.

Trong quá trình tổ chức học tập lịch sử địa phương cho học sinh, căn cứ vào mục đích
và yêu cầu của từng nội dung mà chúng ta có những hình thức dạy học khác nhau. Trong cuộc
sống và hoạt động bản thân của học sinh cũng thường đặt ra những câu hỏi vì sao ? Tại sao ?
Nguyên nhân nào ? Do đâu ? Làm thế nào ? Quan hệ ra sao ? Như thế nào ? ở đâu ? Do ai ?
Căn cứ vào những vốn hiểu biết đã được trang bị, các em sẽ tìm kiếm những câu trả
lời thích hợp. Chúng ta biết rằng quá trình nhận thức của con người luôn đi từ chưa biết đến
biết, từ biết ít đến biết nhiều, từ cảm tính đến lý tính, từ kinh nghiệm đến lý luận. Đó chính là
những nấc thang giúp cho học sinh đi sâu vào bản chất của sự vật, hiện tượng. Mặt khác vì

học sinh luôn luôn phải đáp ứng những vấn đề của cuộc sống, của hiện thực khách quan mà
các học sinh này chưa sáng tỏ trên cơ sở của mối liên hệ với những vấn đề đã biết, đã nắm
vững. Đối với việc tổ chức học tập lịch sử địa phương cho học sinh thì với việc tổ chức hình
thức thảo luận, trao đổi đàm thoại, hái hoa học tập sẽ giúp học sinh nắm vững kiến thức một
cách thiết thực, gắn bó với cuộc sống hiện tại và tương lai của học sinh. Qua đó học sinh sẽ
hình thành và phát triển tư duy độc lập sáng tạo. Biết diễn đạt được tư tưởng, biết khái quát,
lập luận trên cơ sở những hiểu biết của mình về lịch sử cách mạng địa phương. Từ đó chúng
ta có thể đánh giá được kết quả lĩnh hội về lĩnh vực giáo dục này mà có những điều chỉnh và
bổ sung. Vì vậy hình thức tổ chức hoạt động thảo luận, trao đổi, đàm thọai, hái hoa học tập
trong học sinh là một trong những hình thức cần thiết và quan trọng trong việc dạy lịch sử địa
phương cho học sinh.
Để thực hiện tốt hoạt động nêu trên nhằm đạt hiệu quả cao trong giáo dục, khi tổ chức
chúng ta cần lưu ý:
a-Đối với các buổi thảo luận, dạ hội lịch sử:
-Vấn đề được đưa ra thảo luận cần liên hệ gắn bó với những ngày lễ kỷ niệm lớn của
địa phương, của cả nước, gắn với các chủ điểm giáo dục hàng tháng, liên hệ đến nội dung của
bài học lịch sử hoặc các bộ môn khoa học xã hội khác.
-Đề tài phải nằm trong nội dung lịch sử của địa phương, là một chủ đề riêng hoặc chủ
đề tổng hợp, có thể có nhiều tài liệu để học sinh tham khảo hoặc đi thực tế điều tra khảo sát.
Thí dụ: nhân ngày 13/12 hàng năm là ngày truyền thống của tỉnh Cà Mau thì nên chọn
ngay đề tài về cuộc khởi nghĩa Hòn Khoai 13/12/1940 hoặc chọn đề tài nói về nhà giáo- nhà
báo- nhà văn- nhà thơ Phan Ngọc Hiển, người tổ chức thắng lợi khởi nghĩa Hòn Khoai.
Nhân kỷ niệm ngày thành lập Đảng 03/2 có thể chọn đề tài sự thành lập Chi bộ Đảng
đầu tiên ở Cà Mau hoặc đề tài về các chiến sĩ cộng sản kiên trung ở Cà Mau.
Nhân kỷ niệm ngày Miền Nam hoàn toàn giải phóng (30/4/1975) nên chọn đề tài về
cuộc tổng tiến công và nổi dậy Mùa xuân năm 1975 tại Cà Mau.
Nhân ngày kỷ niệm thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam 22/12 có thể chọn đề tài
về truyền thống đấu tranh vẻ vang của lực lượng vũ trang Cà Mau hoặc các chiến thắng vang
dội của lực lượng vũ trang Cà Mau trong thời kỳ chống Mỹ ( Đầm Dơi, Cái Nước, Chà Là).
b-Đối với các buổi thi theo hệ thống câu hỏi:

Người chủ trì cũng phải xác định mục đích, yêu cầu nhiệm vụ của cuộc thi phần thảo
luận nêu trên. Tuy nhiên về hình thức và tính chất thì có khác hơn so với buổi thảo luận, ở đây
giáo viên nêu sẵn một hệ thống câu hỏi có chủ đích và trình tự nêu ra để học sinh thi đua trả
lời theo các hình thức chia tổ, đội hoặc nhóm để thi với nhau, có thể trong đội hoặc đội bạn
bổ sung cho câu trả lời hoàn chỉnh hoặc các câu hỏi độc lập xung quanh một chủ đề giáo dục
cho trước để học sinh hái hoa hoặc bốc thăm ngẫu nhiên và trả lời theo yêu cầu câu hỏi đặt ra.
Cũng có thể có câu hỏi dưới dạng học sinh tự nêu vấn đề có liên quan với chủ đề để tự trình
bày hoặc cho đội bạn trả lời. Do đó, trong hình thức trên vấn đề thiết lập mối quan hệ giáo
dục và lĩnh hội không phải chủ yếu giữa giáo viên và học sinh mà còn có mối quan hệ giữa
học sinh với học sinh. Đương nhiên trong bất kỳ hình thức giáo dục nào thì giáo viên vẫn giữ
vai trò chủ đạo.
4-Tổ chức học tập thông qua hình thức kể chuyện.
Kể chuyện lịch sử là hình thức giáo dục, trong đó người trình bày dùng lời nói để
truyền đạt các nội dung theo chủ đề nhất định. Qua đó học sinh tiếp thu một cách có ý thức.
Đây là phương pháp giáo dục cổ truyền được sử dụng phổ biến trong các nhà trường phổ
thông hiện nay. Riêng với việc học tập lịch sử địa phương thì phương pháp này giữ vai trò hết
sức quan trọng, bởi vì qua phương pháp này học sinh có thể lĩnh hội tri thức được giáo dục có
hệ thống theo yêu cầu của nội dung cơ bản cần giáo dục. Mặt khác còn được báo cáo viên mở
rộng có giới hạn những tri thức cần thiết khác. Rõ ràng là trong thời gian nhất định, chỉ dựa
vào chủ yếu là lời nói của giáo viên hoặc báo cáo viên, học sinh có thể lĩnh hội được một khối
lượng kiến thức theo yêu cầu. Đồng thời với hình thức và phương pháp này giáo viên hoặc
báo cáo viên sẽ chủ động về mặt thời gian, chủ động trình bày nội dung cần giáo dục một
cách có hệ thống theo một lôgic chặt chẽ hướng vào những yêu cầu thiết thực nhất trong giáo
dục truyền thống cách mạng địa phương cho học sinh.
Khác với các bộ môn khoa học xã hội khác trong nhà trường phổ thông, đối với bộ
môn lịch sử địa phương thì hiệu quả thực sự của việc giáo dục là ở chỗ trên cơ sở học sinh
hiểu và nắm chắc được các kiến thức cơ bản và thiết thực, học sinh biết vận dụng vào việc
nhìn nhận và giải quyết vấn đề trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Cho nên
việc lựa chọn nội dung để kể chuyện là một yêu cầu hết sức cần thiết. Do đó, đề tài thuyết
trình bao giờ cũng phải có trọng tâm, trọng điểm, phải nêu được bản chất sự vật, hiện tượng

và mối quan hệ của chúng với nhau hoặc với các sự vật, hiện tượng khác, tránh lan man, quá
chi tiết để giúp học sinh tư duy năng động và sáng tạo.
Về hình thức có thể tổ chức cho học sinh nghe kể chuyện về lịch sử địa phương thông
qua các buổi sinh hoạt truyền thống, sinh hoạt chủ điểm, sinh hoạt kỷ niệm các ngày lễ lớn,
sinh hoạt dưới cờ Tùy theo điều kiện và cơ sở vật chất của nhà trường hoặc nơi tổ chức kể
chuyện lịch sử cho học sinh mà có thể bố trí số lượng cho học sinh.
Thí dụ: Nhân ngày truyền thống tỉnh Cà Mau có thể chọn đề tài Nhà giáo Phan Ngọc
Hiển và khởi nghĩa Hòn khoai 13/12/1940. Địa điểm có thể là dưới sân cờ, ở trong hội trường,
ở trong lớp học hoặc ở thực địa nơi có liên quan đến sự kiện trên. Kiến thức cơ bản cần đạt là
nội dung và trong đề tài này khi thuyết trình báo cáo viên phải bám sát vào nội dung đó để
giúp học sinh hiểu và nắm vững. Trên cơ sở đó báo cáo viên sẽ giúp học sinh có thể xác định
được con đường thực hiện lý tưởng cách mạng của nhà giáo cộng sản Phan Ngọc Hiển và
những đồng đội của Ông đã chấp nhận hy sinh cho độc lập dân tộc, cho quê hương đất nước.
Đồng thời qua đó giúp học sinh hiểu đúng đắn con đường mà Đảng ta, cả dân tộc ta trong đó
có những con người ưu tú của quê hương đã chọn là đấu tranh cách mạng giải phóng đất
nước, thà hy sinh tất cả chứ không chịu làm nô lệ, làm kẻ mất nước Bằng vào ngần ấy sự
kiện làm cho các em tự hào với những người con của quê hương, với khởi nghĩa Hòn khoai,
với những cống hiến của địa phương cho cách mạng cả nước dưới sự lãnh đạo của Đảng.


III-CHƯƠNG TRÌNH LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG CÀ MAU:

Gồm có 5 chương và 21 bài cụ thể như sau:

Chương I: Cà Mau vùng đất con người.

Bài 1: Quá trình hình thành tỉnh Cà Mau.
Bài 2: Cà Mau-thiên nhiên của con người.

Chương II: Cà Mau trong thời kỳ 1930-1945:


Bài 3: Sự hình thành chi bộ đầu tiên Cà Mau.
Bài 4: Đại hội thành lập Quận ủy Cà Mau tiến tới thành lập Tỉnh ủy Cà Mau.
Bài 5: Khởi nghĩa Hòn khoai 13/12/1940.
Bài 6: Cách mạng tháng 8 ở Cà Mau.

Chương III: Cà Mau trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp.

Bài 7: Tình hình Cà Mau sau Cách mạng tháng tám.
Bài 8: Mặt trận Tân Hưng ở Cà Mau.
Bài 9: Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân Cà Mau.
Bài 10: Cà Mau khu tập kết 200 ngày đêm.

Chương IV: Cà Mau trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ.

Bài 11: Phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân Cà Mau sau Hiệp định Giơ-ne-vơ
năm 1954.
Bài 12: Phong trào đồng khởi ở Cà Mau với sự kiện Làng rừng.
Bài 13: Nhân dân Cà Mau đấu tranh chống Mỹ- Ngụy (1960-1968).
Bài 14: Chiến Thắng Đầm Dơi- Cái Nước- Chà Là.
Bài 15: Nhân dân Cà Mau những ngày thương nhớ Bác.
Bài 16: Nhân dân Cà Mau kiên cường chống “Bình định”, bảo vệ quê hương.
Bài 17: Nhân dân Cà Mau đấu tranh chống Mỹ –Ngụy (1969-1973).
Bài 18: Cuộc tổng tiến công và nổi dậy muà xuân năm 1975 ở Cà Mau.

Chương V: Cà Mau thời kỳ sau giải phóng đến nay.

Bài 19: Cà Mau những năm đầu giải phóng.
Bài 20: Những thành tựu của tỉnh Minh Hải (Cà Mau-BạcLiêu) sau 22 năm giải phóng
(1975-1996).

Bài 21: Tỉnh Cà Mau sau 4 năm tái lập (1997-2000).


CHƯƠNG I
CÀ MAU VÙNG ĐẤT CON NGƯỜI
_________


Bài 1
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH TỈNH CÀ MAU

I- QUÁ TRÌNH KHẨN HOANG ĐẤT CÀ MAU.
Cà Mau là một tỉnh được khai khẩn muộn màng nhất so với các tỉnh trong nước. Sách
Gia định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức có chép:
“Thời Gia Long, những giồng đất cao ráo ở ven sông Ông Đốc, sông Gành hào, sông
Bảy háp và một vài phụ lưu mới có người khai khẩn, lập thành xóm, ấp. Tuy vậy, đến thời Tự
Đức, Cà Mau vẫn là vùng rừng Đước, Vẹt, Tràm không mấy ai đến lập nghiệp vì thiếu nước
ngọt và ruộng quá nhiều phèn”.
Đến đầu thế kỷ XVII, vùng đất Cà Mau dân cư vẫn thưa thớt, đất đai còn hoang vu.
Trước khi Nhà Nguyễn cai quản, vùng đất Cà Mau đã từng thuộc vào Phù Nam, Chân
Lạp.
Cuối thế kỷ XVII, Mạc Cửu dẫn một số người Trung Hoa chống lại Triều đình Mãn
Thanh, phục Minh đến Chân Lạp và vùng Hà Tiên lập nên 7 xã trong đó có 2 xã cực nam là
Rạch Giá và Cà Mau.
Trước nay có bị giặc xâm lược, ông đã cáo phong và dâng nạp phần đất hai xã để được
Nhà Nguyễn che chở vào năm 1714.
Mạc Thiên Tứ, con của Mạc Cửu đã vâng lệnh Triều đình Chúa Nguyễn lập ra Đạo
Long Xuyên (ở vùng đất Cà Mau ngày nay), tổ chức mang tính chất quân sự.
Đến năm Gia Long thứ 7 (1808), Đạo Long Xuyên được đổi ra Huyện Long Xuyên
thuộc Trấn Hà Tiên (lúc đó đất Nam bộ là 3 Dinh : Dinh Trấn Biên, Dinh Phiên Trấn, Dinh

Long Hồ và một Trấn Hà Tiên). Năm Minh Mạng thứ 6 (1825), Nhà Nguyễn đã đặt một quan
Tri Huyện để cai trị.
Là vùng đất mới được hình thành vài trăm năm nhưng cũng để lại một số địa danh lịch
sử gắn liền với Triều đại Nhà Nguyễn như: nền Công chúa, Ao Kho, Lán tượng, Rạch Long
ẩn, Xóm Long ẩn, Cạnh đền
Cùng với bước đi của lịch sử, Nam bộ được chia thành 6 tỉnh (Lục tỉnh Nam kỳ: Gia
Định, Biên Hoà, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên).
Tỉnh Hà Tiên có 3 Phủ, 7 Huyện. Cà Mau thuộc Huyện Long Xuyên, Phủ An Biên
(Hà Tiên), Tỉnh Hà Tiên.
Cùng với người Khơ me, người Hoa, người Việt (Kinh) đã khai khẩn vùng cực nam
của Tổ quốc. Họ đã đổ biết bao mồ hôi, công sức và có khi cả máu của mình để tồn tại trước
một vùng đất giàu tiềm năng, song cũng không mấy thuận lợi “Dưới sông Sấu lội, trên rừng
Cọp um” hay một vùng nước đen “ Tuk – Kh mâu”.

II- SỰ THÀNH LẬP TỈNH CÀ MAU QUA CÁC THỜI KỲ LỊCH SỬ:
1-Trước năm 1976:
Để ổn định về hình thức trong việc khai thác thuộc địa lần thứ nhất, Pháp chia Nam kỳ
ra 20 tỉnh. Ngày 18/02/1882, một phần đất Bạc Liêu thuộc tỉnh Sóc Trăng, một phần đất Cà
Mau thuộc Rạch Giá được hợp lại thành tỉnh Bạc Liêu.
Ngày 09/03/1956, theo sắc lệnh 143/VN, Chính quyền Sài Gòn lấy quận Cà Mau,
quận Quảng Xuyên và 4 xã của quận Giá Rai: Định Thành, Hoà Thành, Tân Thành, Phong
Thạnh Tây lập thành tỉnh Cà Mau.
Ngày 22/10/1956, Chính quyền Sài Gòn ra sắc lệnh 143/VN ?? đổi tên tỉnh Cà Mau
thành tỉnh An Xuyên.
Về phía chính quyền cách mạng thì lập thành 2 tỉnh Cà Mau và Bạc Liêu dựa theo sự
phân định địa giới hành chính của địch để thuận tiện cho lãnh đạo phong trào cách mạng ở
mỗi nơi.
2-Từ 1976 – 1996:
Sau ngày Miền Nam hoàn toàn giải phóng, tháng 02/1976, Chính phủ lâm thời Cộng
hoà Miền Nam Việt Nam ra Nghị định hợp nhất một số tỉnh ở Miền Nam. Hai tỉnh Cà Mau

(An Xuyên) và Bạc Liêu thành tỉnh Minh Hải. Tỉnh Minh Hải có 2 thị xã: thị xã Cà Mau và
thị xã Minh Hải và có 7 huyện: Vĩnh Lợi, Hồng Dân, Giá Rai, Châu Thành, Thới Bình, Trần
Văn Thời, Ngọc Hiển.
Minh Hải là tỉnh rộng nhất đồng bằng Sông Cửu Long và rộng thứ nhì ở Nam Bộ.
Ngày 11/7/1977, Hội đồng chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ra
quyết định số 181-CP giải thể huyện Châu Thành. Các xã của huyện này được nhập vào các
huyện Giá Rai, Trần Văn Thời và Thới Bình.
Ngày 29/12/1978, Hội đồng chính phủ ra quyết định số 326-CP lập thêm 6 huyện mới:
Phước Long, Cà Mau, U Minh, Phú Tân, Cái Nước, Năm Căn. Số huyện trong tỉnh tăng lên
12 huyện.
Ngày 30/8/1983, Hội đồng Bộ trưởng ra quyết định số 94/HĐBT giải thể huyện Cà
Mau, các xã của huyện này được sáp nhập vào thị xã Cà Mau và các huyện Giá Rai, Thới
Bình, Cái Nước. Tỉnh còn lại 2 thị xã và 11 huyện.
Ngày 17/5/1984, Hội động Bộ trưởng ra nghị định số 75-HĐBT đã đổi tên thị xã Minh
Hải là thị xã Bạc Liêu. Hợp nhất huyện Hồng Dân và huyện Phước Long lấy tên là huyện
Hồng Dân. Hợp nhất huyện Cái Nước và huyện Phú Tân thành huyện Cái Nước.
Ngày 17-18/12/1984 với hai quyết định của Hội đồng Bộ trưởng đổi tên huyện Năm
Căn (cũ) thành huyện Ngọc Hiển (mới). Đổi tên huyện Ngọc Hiển (cũ) thành huyện Đầm Dơi
(mới). Chuyển tỉnh lỵ tỉnh Minh Hải từ thị xã Bạc Liêu về thị xã Cà Mau.
Như vậy tỉnh Minh Hải có 2 thị xã Cà Mau và Bạc Liêu và 9 huyện: Vĩnh Lợi, Hồng
Dân, Giá Rai, Thới Bình, U Minh, Cái Nước, Trần Văn Thời, Đầm Dơi, Ngọc Hiển.
3-Thời kỳ từ cuối năm 1996 đến nay:
Ngày 06/11/1996, Quốc hội khóa IX, trong kỳ họp thứ X đã phê chuẩn việc tách tỉnh
Minh Hải ra làm 2 tỉnh là Cà Mau và Bạc Liêu và thực hiện từ ngày 01/01/1997.
Tỉnh Bạc Liêu hiện nay có diện tích 2.484,96 km2 với dân số 772.078 người, gồm 1
thị xã (Bạc Liêu) và 3 huyện (Vĩnh Lợi, Giá Rai, Hồng Dân).
Tỉnh Cà Mau hiện nay có diện tích 5.211 km2 với dân số 1.133.747 người, gồm 1
Thành Phố (Cà Mau) và 6 huyện (Thới Bình, U Minh, Trần Văn Thời, Cái Nước, Đầm Dơi,
Ngọc Hiển).
Cà Mau là vùng đất mới cả về địa chất và lịch sử, nhưng là vùng đất đầy tiềm năng,

con người Cà Mau được hội nhập khi xưa đi mở đất và nói như Ông Võ Văn Kiệt (Cố vấn
BCH Trung ương Đảng) phát biểu tại Đại hội lần thứ III, tỉnh Đảng bộ Minh Hải tháng
07/1983: “Là một tỉnh có rất nhiều bè bạn. Mảnh đất hào hiệp và phóng khoáng này đã tiếp
hàng vạn người phiêu bạt đi tìm cuộc sống trước đây. Trong 2 cuộc kháng chiến hàng vạn
người khắp nước đã về đây chiến đấu và ngã xuống tại đây, để lại đây biết bao là kỷ niệm”.
Cà Mau là vùng đặc biệt về lịch sử như Ông Võ Văn Kiệt đã nhận xét. Cà Mau là
vùng đất có cả biển Đông và biển Tây. Tiềm năng của rừng của đất rất lớn. Rừng ngập mặn
có giá trị trên thế giới về hệ sinh thái đứng sau rừng Amazon. Biển Cà Mau cũng đầy hứa hẹn
của hải sản và đầu khí trong tương lai.
Câu hỏi:
1-Vùng đất Cà Mau được khai khẩn như thế nào?
2-Tỉnh Cà Mau được thành lập như thế nào?
3-Khái quát giai đoạn lớn của tỉnh Cà Mau?
4-Thực hành cho học sinh sưu tầm các tư liệu, mẩu chuyện ở địa phương liên quan
đến quá trình khai khẩn đất Cà Mau.
5-Thực hành cho học sinh tìm hiểu nguồn gốc một địa danh gắn với quá trình phát
triển tỉnh Cà Mau.


Bài 2:
CÀ MAU – THIÊN NHIÊN VÀ CON NGƯỜI

I-VÀI NÉT VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN CỦA TỈNH CÀ MAU:
Cà Mau là tỉnh cực Nam của Tổ quốc, là phần mũi của bán đảo Cà Mau. Có ranh giới
chung với 2 tỉnh Kiên Giang và Bạc Liêu; giáp biển Đông và vịnh Thái Lan.
+Bắc giáp tỉnh Kiên Giang.
+Nam giáp biển Đông.
+Đông giáp tỉnh Bạc Liêu và biển Đông.
+Tây giáp với vịnh Thái Lan.
Về hành chính tỉnh có một Thành Phố (Cà Mau) và 6 huyện: Thới Bình, U Minh, Cái

Nước, Trần Văn Thời, Ngọc Hiển, Đầm Dơi. Gồm 82 xã, phường, thị trấn. (tính đến thời
điểm cuối năm 2000).
Cà Mau có khí hậu cận xích đạo, nắng nóng và mưa nhiều, độ ẩm cao, nhiệt độ ít thay
đổi. Nhiệt độ trung bình là 26oc, biển từ ba phía nên khí hậu ôn hoà, ít khi xảy ra bão lụt. Cà
Mau có hai mùa: mùa khô kéo dài từ tháng 11 đến tháng 4, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10.
Có số giờ nắng cao: Năm 1968 là 2.498 giờ. Năm 1970 là 2.116 giờ. Lượng mưa năm cao
nhất là 2.945 mm, năm 1979 và năm thấp nhất là 1.446 mm năm 1942.
Cà Mau được hình thành của quá trình bồi tụ phù sa sông Cửu Long tạo nên. Hai dòng
hải lưu và biển Đông và vịnh Thái Lan đón nhận phù sa của sông Cửu Long bồi đắp dần theo
năm tháng tạo nên vùng đất cực kỳ màu mỡ. Đồng thời cũng tạo một bãi bồi là nơi quan trọng
để tôm cá và các sinh vật biển sinh sản và phát triển, tạo ra ngư trường lý tưởng ở biển Cà
Mau.
Đồng bằng Cà Mau màu mỡ và bằng phẳng, độ dốc không lớn, độ cao từ 0,5 đến 3m
so với mực nước biển, đưa nông nghiệp của tỉnh Cà Mau đạt gần một triệu tấn lương thực
trong những năm qua. Cà Mau không phải chỉ độc canh của cây lúa mà các loại cây hoa màu,
cây lương thực cũng rất phát triển, rau, đậu bí, dừa, đay (bố). Trong thời gian qua đã xuất hiện
một số trái cây đặc sản của Cà Mau như dâu Cái Tàu, dưa hấu Cái Keo.
Ngành chăn nuôi thuộc vào hệ rừng ngập nước gồm có rừng đước (rừng mọc ở bãi bồi
nước mặn và nước lợ) ở các huyện Cái Nước, Ngọc Hiển, Đầm Dơi là chủ yếu. Rừng tràm
(rừng mọc ở nước ngọt và nước lợ) chủ yếu là các huyện U Minh, Thới Bình, Trần Văn Thời.
Rừng đước và rừng tràm nối tiếp nhau bao quanh lấy mũi Cà Mau từ Đông sang Tây. Ngoài
ra còn những “lõm” rừng tràm mọc rãi rác. Rừng sát của mũi Cà Mau đứng thứ nhì trên thế
giới về tầm quan trọng và diện tích, chỉ đứng sau rừng sát bên bờ sông Amazon của châu Mỹ
La Tinh.
Năm 1930, diện tích rừng ở Cà Mau – Bạc Liêu (mà chủ yếu ở Cà Mau) chiếm khoảng
300.000 ha. Qua chiến tranh tàn phá bởi chất độc hoá học, bom đạn của kẻ thù, nạn cháy
rừng và sự tác động của con người, ngày nay chúng ta còn lại gần 200.000 ha trong đó có một
số diện tích là trồng mới.
Cà Mau có mật độ kênh rạch, sông ngòi như mạng nhện, mật độ cao nhất trong cả
nước. Có những con sông lớn, sâu dẫn phù sa đến mọi nơi, sông chảy ra vịnh Thái Lan như

sông “Trèm Trẹm” Trẹm, rạch Cái Tàu, sông Ông Đốc, sông Bảy Háp Sông chảy ra biển
Đông như sông Bờ Kè, sông Gành Hào Hệ thống kênh đào như kênh Cà Mau-Bạc Liêu, Cà
Mau-Phụng Hiệp, kênh đào Mương Điều, kênh 16.
Thuận lợi về giao thông đường thủy, lại là sự khó khăn về giao thông đường bộ. Vì đất
thấp, sông ngòi nhiều. Hiện nay tỉnh Đảng bộ cùng Chính quyền và nhân dân đã hoàn thành
xóa cầu khỉ và đang bê tông hoá đường nông thôn, đưa điện về đến được các xã và tận mũi
đất.
Cà Mau được thiên nhiên ưu đãi về tôm cá và thủy hải sản, là tỉnh có diện tích nuôi
trồng thủy hải sản lớn nhất cả nước.
Thiên nhiên ưu đãi, nơi đất lành chim đậu, Cà Mau có nhiều sân chim, vườn chim.
Ngay tại trung tâm Thành Phố Cà Mau cũng có vườn chim tại Lâm Viên 19/5.
Khai thác, bảo vệ và phát triển tài nguyên thiên nhiên đang được Chính quyền và
Đảng bộ các cấp cũng như mỗi người dân Cà Mau rất quan tâm.
Ngoài tiềm năng đã nêu còn một tiềm năng to lớn là nguồn dầu khí ngoài biển khơi
của Cà Mau mà tương lai gần nay mai sẽ là khu công nghiệp lớn, khu công nghiệp Khí, Điện,
Đạm Khánh An được xây dựng sẽ góp phần làm giàu thêm cho Cà Mau và Tổ Quốc.

II- DÂN CƯ VÀ CON NGƯỜI CÀ MAU:
-Đất Cà Mau là nơi hội tụ của dòng người mở đất. Họ đến đây từ nhiều miền quê
khác nhau, nhiều hoàn cảnh khác nhau, kể cả hoàn cảnh của đất nước như người Hoa.
Có 3 dân tộc đến sớm và chủ yếu ở Cà Mau là dân tộc Kinh (người Việt), người
Khơme và người Hoa. Trong đó người Kinh (Việt) chiếm 92,2%, người Khơme chiếm 4,1%
và người Hoa chiếm 3,3%. Ngoài ra một số dân tộc khác mới tới sau này như người Chăm,
Thái, Nùng, Mường từ vài ba thập kỷ trở lại đây.
Người Hoa cũng rời bỏ quê hương Tổ quốc vì họ không chấp nhận chế độ phong kiến
nhà Mãn Thanh.
Người Khơme do cuộc chiến tranh, ngoại xâm và nội chiến đã đẩy một bộ phận người
Khơme xuống đất Cà Mau.

III-TIỀM NĂNG CHÍNH CỦA CÀ MAU :

Cà Mau có 3 tiềm năng chính là Nông – Lâm – Ngư, đây là một tỉnh có được thiên
nhiên ưu đãi. Ngoài ra còn phải kể đến thế mạnh của ngành du lịch sinh thái, ngành dầu khí
trong tương lai.
1-Về nông nghiệp :
-Là tỉnh đất đai màu mỡ, được hình thành từ phù sa châu thổ, rất thích nghi với điều
kiện trồng các loại cây: lúa, hoa màu, cây công nghiệp, mưa thuận gió hòa, rất ít gió bão.
Về cây lúa phần lớn trồng một vụ, nay đã có nhiều vùng thuộc thành phố Cà Mau,
Thới Bình, Trần Văn Thời trồng lúa hai vụ, tổng sản lượng lúa đạt gần triệu tấn/ năm.
Sau cây lúa là cây lương thực màu như ngô, khoai, đậu, bí
Cây dừa có mặt khắp tỉnh Cà Mau, song tập trung nhiều ở Cái Nước, Trần Văn Thời.
Cà Mau cũng có những vườn cây ăn trái nổi tiếng từ xưa tới nay như dưa hấu Cái Keo,
dâu Cái Tàu.
Cùng với trồng trọt là chăn nuôi, người nông dân Cà Mau đã kết hợp thả vịt với trồng
lúa, đặc biệt phát triển mạnh ở huyện Cái Nước và Trần Văn Thời. Sau đàn vịt là đàn heo
cũng được nhân dân phát triển mạnh.
2- Về ngư nghiệp :
Là tỉnh có diện tích nuôi trồng thủy sản lớn nhất cả nước. Thủy sản đa dạng về chủng
loại. Bờ biển dài 253 km từ Đông sang vịnh Thái Lan. Thềm lục địa bằng phẳng, có nhiều cửa
sông lớn là ngư trường lý tưởng của ngành hải sản. Hiện nay ta đang xây dựng cảng Hòn
Khoai tạo điều kiện cho đánh bắt xa bờ phát triển.
Trong quá trình chuyển đổi kinh tế hiện nay sẽ tạo điều kiện cho ngành thủy sản phát
triển.
Đến năm 2000, hải sản đạt 190.000 tấn, bình quân tăng 9,5% hàng năm.
Ngày 06/07/2000, Chính phủ đã chấp thuận chuyển đổi qui hoạch sản xuất nông
nghiệp, lâm-ngư nghiệp theo hướng phát triển mạnh thủy sản, với quan điểm phải đảm bảo
hiệu quả kinh tế, xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái, phát triển Nông – Lâm – Ngư bền vững.
3-Về lâm nghiệp :
Diện tích rừng của Cà Mau có khoảng 130.000 ha, chia thành hai loại: Rừng ngập mặn
dọc theo ven biển bãi bồi giáp từ Bạc Liêu bao quanh mũi đất giáp với Kiên Giang chủ yếu là
đước, vẹt, già. Rừng tràm nằm sâu trong đất liền chủ yếu nối từ U Minh thượng của tỉnh Kiên

Giang đến huyện U Minh – Thới Bình và Trần Văn Thời của tỉnh Cà Mau.
Rừng ngập nước ở Cà Mau được xếp thứ hai sau rừng ngập nước ở Braxin trên thế
giới. Điều đó cho thấy rừng Cà Mau giá trị như thế nào về mặt khoa học. Mặt khác rừng ngập
nước Cà Mau còn là lá phổi cho khu vực bán đảo Cà Mau. Đồng thời rừng ngập nước ở Cà
Mau còn được ví như một hồ nước mênh mông để phát triển thủy sản.
4-Về công nghiệp – xây dựng và dịch vụ du lịch :
Cùng với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế chúng ta dự kiến đến 2005, công nghiệp – xây
dựng – dịch vụ chiếm tỷ trọng là 55%. Trong đó công nghiệp và xây dựng chiếm 36%, dịch
vụ 19%.
Trong công nghiệp, tỉnh Cà Mau đã được Chính phủ phê duyệt xây dựng cụm công
nghiệp Khí, Điện, Đạm – Khánh An. Đây là một khả năng mở ra rất lớn cho kinh tế tỉnh nhà.
Từ cụm công nghiệp đó sẽ mở ra cho các ngành công nghiệp mới.
Trong công nghiệp chế biến cũng mở ra một khả năng chế biến thủy hải sản, phục vụ
cho xuất khẩu. Sau khi chuyển đổi cơ cấu kinh tế, đòi hỏi chúng ta phải xây thêm các nhà máy
chế biến mới, nâng cấp nhà máy cũ để có thể chế biến được 250.000 tấn thủy sản trong tương
lai. Cũng là xứng với danh là tỉnh xuất khẩu thủy hải sản đứng đầu cả nước.
Ta tiếp tục đẩy mạnh xây dựng các cơ sở hạ tầng cơ sở như : đường giao thông, các
cảng và sân bay. Trong đó có hai đường quốc lộ : 1A và 63. Đặc biệt là tu sửa, nâng cấp thành
phố Cà Mau để xứng đáng là trung tâm của tỉnh lỵ
Trong dịch vụ ta chú trọng đến dịch vụ khai thác như thông tin, thương mại đặc biệt
chú ý đến nông thôn. Đồng thời cũng xây dựng khu du lịch sinh thái rừng tràm, rừng ngập
mặn. Trong đó đầu tư khu du lịch Đất Mũi – Khai Long – Hòn Khoai.
Cà Mau là một tỉnh Nông – Lâm – Ngư đang chuyển dịch sang Ngư - Nông – Lâm và
đặc biệt phát triển công nghiệp với sự trợ giúp của Trung ương, đồng thời cũng mở ra rất lớn
về du lịch - dịch vụ.

Câu hỏi:
1-Em hãy nêu những nét chính về tự nhiên của Cà Mau?
2-Cộng đồng cư dân Cà Mau đã hình thành như thế nào?
3-Tiềm năng của tỉnh Cà Mau như thế nào? Nêu khái quát?

4-Thực hành, ngoại khóa : Giáo viên tổ chức cho học sinh đi tham quan, học tập ngoài
trời, sưu tầm các tư liệu có liên quan đến thiên nhiên và con người ở Cà Mau hoặc ở địa
phương nơi học sinh cư trú.
(Kèm bản đồ vị trí tỉnh Cà Mau)

Bài đọc thêm

ĐỖ THỪA LUÔNG, ĐỖ THỪA TỰ VỚI CUỘC KHỞI NGHĨA MÙA XUÂN NĂM
1871


Trong thời thuộc Pháp, trước khi phong trào Cần Vương ra đời, nơi xứ U Minh xa xôi
hẻo lánh, đã có người đứng lên chống Pháp. Đó là anh em Đỗ Thừa Luông, Đỗ Thừa Tự, hai
nông dân ở Rạch Cái Tàu (nay thuộc huyện U Minh tỉnh Cà Mau). Theo Huỳnh Minh, tác giả
của “Bạc Liêu xưa và nay” thì hai Ông là con của cử nhân Đỗ Văn Nhân, gốc ở Lai Vung –
Sa Đéc (nay là tỉnh Đồng Tháp), xuống định cư ở Rạch Cái Tàu từ nhiều năm. Hai ông là
người giỏi võ, không chịu nổi trước cảnh áp bức dân lành của thực dân Pháp và tay sai, nên
đêm 30 tết năm Tân mùi (1871) đã tụ họp bạn bè, người thân và những nông dân quanh vùng
Cái Tàu, cắt máu ăn thề đồng tâm khởi nghĩa.
Buổi lễ đầu tiên chỉ có khỏang 30 người, được tổ chức tại nhà ông Đỗ Thừa Luông.
Buổi lễ tuy đơn sơ nhưng rất trang nghiêm. Sau khi tuyên bố lý do lập Nghĩa Đoàn và đọc lời
khai hội, tất cả mọi người đều phủ phục trước bàn thờ Tổ quốc hô vang câu “Bình tây sát tả,
Việt Nam muôn năm”. Kế đó, mọi người tuần tự cắt máu nguyện thề “Tận trung báo quốc, tận
nghĩa vì dân”. Sau cùng, mọi người đều thống nhất gọi tổ chức của họ là Nghĩa Đoàn và Đỗ
Thừa Luông được bầu làm Trưởng Đoàn, Đỗ Thừa Tự làm phó trưởng Đoàn, nhiều người
khác phụ trách các chi nhánh ở các nơi.
Trong Nghĩa Đoàn có nhiều người Minh Hương tham gia và đông đảo nhân dân vùng
Cái Tàu ủng hộ, nhất là tầng lớp thanh niên. Vì vậy, chưa đầy một tháng, đội quân đã lên đến
khoảng 200 người. Lúc đầu nghĩa quân được vũ trang bằng dao, mác, mã tấu, song hồng hết
sức thô sơ. Để có thêm vũ khí trang bị cho nghĩa quân, ngay trong mùa xuân năm đó (1871),

Đỗ Thừa Luông và Đỗ Thừa Tự đã tổ chức dùng hỏa công diệt gọn hai toán quân tuần tiễu
của Pháp, thu được nhiều súng ống.
Hai ông đã sử dụng chiến thuật du kích khéo léo và lợi dụng địa thế hiểm trở của rừng
U Minh nên đã tạo được nhiều kết quả to lớn, có lần chiếm cả đại bác và tiêu diệt được nhiều
tàu địch.
Đến năm Nhâm Thân (1872) Nghĩa Đoàn đã chiếm cứ một vùng đất khá rộng lớn, từ
rạch Cái Tàu đến An Biên ( Rạch Giá), gần như cả vùng U Minh ở đâu cũng có bóng dáng
của Nghĩa Quân. Cũng trong năm này người Minh Hương đã đề nghị với Đỗ Thừa Luông nên
tạo mối quan hệ với Thiên Địa Hội để làm vây cánh. Đỗ Thừa Luông cho đây là kế sách hay,
nên cho người về Bạc Liêu liên hệ với Thiên Địa Hội, từ đó trong Nghĩa Đoàn, người Minh
Hương ngày càng đông.
Theo những câu chuyện truyền khẩu thì không những hai ông Luông và Tự đều giỏi
võ mà còn có sức mạnh phi thường. Có lần nghĩa quân tấn công chiếm được khẩu đại bác của
địch ở ven rừng U Minh, trên đường đi chuyển về căn cứ, khẩu pháo bị lún sình không kéo
lên được, lúc đó đội quân tiếp viện của Pháp đang kéo đến, Đỗ Thừa Luông cử Tự đem quân
chặn đường tiếp viện của địch, còn ông đích thân lội xuống nước trổ thần lực kéo khẩu đại
bác ra khỏi nơi sình lầy 200m và đem về căn cứ an toàn.
Tiếc rằng, lòng yêu nước và võ công hai ông có thừa nhưng mưu lược lại hạn chế. Biết
được yếu điểm này, quân Pháp đã tổ chức cho tình báo trà trộn vào Nghĩa Đoàn và nắm được
tình hình của nghĩa quân. Ngày 08/ 7 năm Nhâm Thân (1872), quân Pháp mở cuộc hành quân
lớn và đã bao vây được Bộ chỉ huy của Đỗ Thừa Luông, nghĩa quân chống trả mãnh liệt
nhưng chỉ mới được hơn hai ngày đã không còn đạn dược. Quân địch càng lúc càng áp sát,
loa phóng thanh của địch liên tục vang lên những lời khuyến dụ.
Đỗ Thừa Luông nhận thấy tình hình nguy cấp, muốn lui quân để bảo toàn lực lượng
nhưng không có lối thoát. Đến tối hôm đó, hai ông tập trung số nghĩa quân còn sống sót,
mang theo dao găm và mã tấu lặng lẽ thoát vòng vây của địch. Một tiếng súng nổ xé tan bầu
không khí im lìm, mở màn một cuộc chiến không cân sức, Đỗ Thừa Luông thét lớn một tiếng
thảm khốc, tên lính Pháp đang đứng gác ngã xuống vì chiếc dao găm được phóng ra từ tay Đỗ
Thừa Luông.
Súng nổ vang trời, tiếng thét la dậy đất hòa với tiếng kêu thê thảm của những người bị

thương. Nghĩa quân hăng say chiến đấu, hai thanh mã tấu của Đỗ Thừa Luông, Đỗ Thừa Tự
như hai con dao long đang vũ lộng giữa quân thù, dao đến đâu đầu rơi đến đó. Hai ông bị
thương khắp mình, máu tuôn xối xả nhưng vẫn cố gắng vung dao cố chọc thủng vòng vây để
đưa nghĩa quân ra ngoài. Nhưng sức người có hạn, mã tấu, dao găm không thể chống lại súng
thép đạn đồng, nên cuối cùng hai ông đã vĩnh viễn ra đi mang theo hoài bão lớn lao của mình.
Mờ sáng hôm sau, khắp bãi chiến trường, mùi máu tanh nồng nặc, xác chết ngổn
ngang, thây chẳng toàn thây, xác quân thù xen lẫn xác nghĩa quân. Đỗ Thừa Luông đứng sừng
sững lưng tựa vào thân cây tràm tay nắm chặt lấy nhánh tràm như chưa muốn rời xa quê
hương, mắt vẫn mở to trông về phía trước như đang trực diện với quân thù. Đỗ Thừa Tự khắp
mình nhuộm máu đang ngồi tựa lưng vào chân anh, tay phải cầm chặt chuôi dao đang cắm
ngập xuống đất, mắt nhìn về phía tả như đang lo cho toán nghĩa quân. Những tên lính Pháp và
lũ tay sai còn sống đang lặng lẽ kéo lê từng cái xác của đồng bọn, thỉnh thoảng lén nhìn thi
thể của hai ông Luông, Tự như không thể tin rằng đó là hai người chết.
Hoài bão đánh đuổi quân thù ra khỏi bờ cõi tuy không thành công, nhưng tinh thần và
khí tiết của hai ông Đỗ Thừa Luông, Đỗ Thừa Tự đã làm chấn động đến người Pháp. Trong
“Niên giám tổng quát về Đông Dương” của Pháp có đoạn viết: “ Làng Tân Thạnh nằm trên
hai bờ sông Cái Tàu, có 600 cư dân, tất cả làm nghề đốn củi và đánh cá. Tinh thần dân chúng
ở làng này rất sôi động và có ý chí chống đối chính quyền từ lâu. Năm 1872, chính làng này là
nơi anh em Đỗ Thừa ẩn náu, họ là những người làm điên đảo toàn xứ sở này:
“Xóm Cái Tàu có nhiều nhà quốc sự
Đỗ Thừa Luông, Đỗ Thừa Tự với chú Lào Bang”
(Theo Trần Phước Thuận, báo Cà Mau, Xuân 1999).


CHƯƠNG II
CÀ MAU TRONG THỜI KỲ 1930 – 1943


Bài 3:
SỰ THÀNH LẬP CHI BỘ ĐẦU TIÊN Ở CÀ MAU


1-Phong trào đấu tranh của nhân dân Cà Mau trước khi có Đảng:
Cùng với tiếng súng chống Pháp của nhân dân cả nước, nhân dân Cà Mau ngay từ năm
1861 đã nhận chìm xuồng tại các cửa sông Bồ Đề – Rạch Tàu ngăn quân xâm lược.
Năm 1873 nhân dân vùng mũi đất đã cùng anh em Đỗ Thừa Luông, Đỗ Thừa Tự
chống Pháp ở vùng sông Cái Tàu. Đồng thời nhân dân cũng ủng hộ và tham gia nghĩa quân
Nguyễn Trung trực, Nguyễn Hữu Huân để đấu tranh bảo vệ quê hương đất nước.
Cũng trong thời gian này nhân dân Cà Mau đã nổi dậy giết chết tên thực dân Pháp
EsCaMye và tri huyện Phan Tử Long. Đây là những tên cướp nước và bán nước đầu tiên bị
trừng trị nơi mảnh đất cuối cùng của Tổ quốc.
Năm 1924, nhân dân Cà Mau dưới sự lãnh đạo của Trần Văn Nghĩa và Trần Văn Thời
đã chống lại sự cướp đất của PaTisti, tên PaTisti bị thương, tên Hương quản phải quỳ gối xin
lỗi bà con, người nông dân đã bảo vệ được ruộng vườn của mình.
Tháng 05/1927 cuộc đấu tranh của nhân dân Ninh Thạnh Lợi dưới sự lãnh đạo của
Trần Kim Trúc (Hương chủ Chọt) chống lại bọn thực dân và bọn cường hào để bảo vệ đất đai.
Tiêu biểu hơn cả là anh em Mười Chức đấu tranh chống lại bọn địa chủ cướp đất của
gia đình mình vào tháng 02/1928. Cuộc đấu tranh của nông dân Đồng Nọc Nạng có tiếng
vang lớn trong cả nước. Ngày 17/08/1928, Toà đại hình Cần Thơ phải xử và kết tội bọn địa
chủ sang đoạt đất đai của nông dân.
Những cuộc đấu tranh của nhân dân Cà Mau ngay từ ngày đầu Pháp xâm lược và
những tiếp đó trong cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, nó thể hiện tính tất yếu lòng yêu nước
nói chung của nhân dân Việt Nam, đồng thời nó mang tính chất riêng của quê hương Cà Mau.
Đồng thời cũng góp phần vào trang sử chống giặc ngoại xâm và phong kiến của dân tộc.
2-Sự ra đời của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội ở Cà Mau:
Phong trào đấu tranh của nhân dân lên cao cũng chính là mảnh đất tốt cho phong trào
cách mạng phát triển về sau.
Sau khi được thành lập, Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội được thành lập
và phát triển trong cả nước.
Cuối năm 1927, ông Đào Hưng Long được kỳ bộ Nam kỳ Việt Nam thanh niên cách
mạng đồng chí Hội cử về hoạt động, tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lênin cho những thanh

niên có ý thức cách mạng lúc bấy giờ, qua đó tuyển chọn những người ưu tú kết nạp vào Hội.
Tháng 01/1929, Chi hội Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội thị trấn Cà
Mau được thành lập gồm các ông : Lâm Thành Mậu, Nguyễn Văn Chánh (Tư Rạch), Trần Hải
Thoại (Năm Thoại), Tân Văn Hai (Hai Tân) và một số người khác do Đào Hưng Long làm Bí
thư.
Chi đội mở một cửa hiệu bán sách báo lấy tên là Hồng Anh Thư Quán, một quán bán
cơm và cà phê “Đồng Tâm” vừa làm cơ sở để giáo dục, vận động nhân dân yêu nước và là nơi
trao đổi hội họp của Chi hội .
Hoạt động của Chi hội ngày càng gây được ảnh hưởng rộng rãi trong dân nghèo ở
thị trấn và nhân dân vùng lân cận các xã xunh quanh.
Nhiều cuộc đấu tranh của nhân dân chống cướp đất, đòi giảm thuế thân, đòi được vào
rừng đốn cây để sửa chữa nhà cửa. . .đã liên tiếp nổ ra và được đông đảo nhân dân hưởng ứng.
Bọn thực dân Pháp đã thấy sự hoạt động của cách mạng nên chúng tăng cường giám sát và đe
dọa đóng cửa hiệu sách “Hồng Anh Thư Quán” và quán cơm “Đồng Tâm”.
Tháng 09/1929, sau vụ ám sát trên đường BaChie tại Sài Gòn, thực dân Phát điên
cuồng truy lùng các chiến sĩ cách mạng.
Bị truy lùng ráo riết, các thành viên của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội
ở Chi hội Cà Mau phải tạm lánh khỏi địa phương, cũng từ đó Chi hội ngưng hoạt động, kết
thúc vai trò lịch sử của mình một cách vẻ vang. Hầu hết các hội viên của Việt Nam thanh niên
cách mạng đồng chí Hội sau này trở thành Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam.
3-Sự ra đời của Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên ở tỉnh Cà Mau:
-Cùng với sự phát triển của cách mạng Việt Nam, cuối năm 1929 và đầu năm 1930 đã
lần lượt ra đời các tổ chức Cộng sản : Đông dương Cộng sản Đảng (17/06/1929), An Nam
Cộng sản Đảng (10/1929), Đông dương Cộng sản Liên Đoàn (01/1930).
Sự ra đời của các tổ chức cách mạng ở Việt Nam như làn gió mới thổi bùng lên phong
trào công nhân và nhân dân yêu nước.
Ngày 03/02/1930, Hội nghị hợp nhất của Đảng đã họp tại (Hương Cảng), Cửu Long,
Trung Quốc, dưới sự chủ tọa của Nguyễn Ái Quốc đánh dấu sự ra đời của Đảng Cộng sản
Việt Nam , là sự kiện lịch sử trọng đại trong lịch sử của nước ta.
Tháng 01/1930, đặc ủy Hậu Giang do ông Ung Văn Khiêm Bí thư đã trực tiếp xuống

Cà Mau kết nạp 04 Đội viên ưu tú của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội: Lâm
Thành Mậu, Nguyễn Văn Chánh, Tân Văn Hai và Phạm Ngọc Cừ vào An nam Cộng sản
Đảng và thành lập Chi bộ Cà Mau do ông Lâm Thành Mậu làm Bí thư.
Đây là Chi bộ đầu tiên ở tỉnh Bạc Liêu và cũng là tỉnh Cà Mau. Sau ngày 30/02/1930,
Chi bộ Đảng Cộng sản đã đổi tên thành Chi bộ Đảng cộng sản Việt Nam và tổ chức lễ chào
mừng Đảng ra đời bằng các hình thức treo cờ, băng khẩu hiệu và rải truyền đơn ở nhiều nơi
công cộng. Lần đầu tiên lá cờ đỏ búa liềm đã xuất hiện tại Cà Mau cùng với các khẩu hiệu
“Đảng Cộng sản việt Nam muôn năm”, “Đả đảo đế quốc Pháp”, “Đông dương độc lập muôn
năm” đã giành được cảm tình của đông đảo nhân dân lao động và nhất là tầng lớp thanh
niên.
Cũng trong thời gian này Chi bộ của An Nam Cộng sản Đảng ra đời ở xã Phong
Thạnh, huyện Giá Rai (nay thuộc tỉnh Bạc Liêu) gồm các ông : Nguyễn Văn Uông, Châu Văn
Lục, Trần Văn Tiển do ông Nguyễn Văn Uông làm Bí thư. Tại Tân Thành, phong trào tự phát
đấu tranh cuả nhân dân lên rất cao, ông Lâm Thành Mậu, Bí thư Chi bộ thị trấn Cà Mau đã
đến đây tìm hiểu và gây dựng cơ sở. Từ đầu năm 1929, những thanh niên ở đây đứng đầu là
Tăng Hồng Phúc, vận động nhân dân bài trừ những hủ tục trong: ma chay, cưới xin, tang lễ,
chống bất công, buộc địa chủ phải cho nông dân vay lúa trong lúc thiếu kém Phong trào
không những được nhân dân ủng hộ hăng hái mà còn tranh thủ được một số thành phần tốt
trong Ban hội tề. Sau một thời gian tuyên truyền vận động về chủ nghĩa Mác – Lênin và Điều
lệ của Đảng Cộng sản Việt Nam, ông Lâm Thành Mậu đã giới thiệu với cấp trên những thanh
niên ưu tú để kết nạp vào Đảng.
Khoảng tháng 10/1930, Bà Hồng Liên được cấp trên phái về Tân Thành hoạt động và
đã kết nạp được Tăng Hồng Phúc, Phan Khắc Nhượng, Huỳnh Đề Thám, Hồng Lạc Bông vào
Đảng và cũng lập được Chi bộ Đảng xã Tân Thành do Ông Tăng Hồng Phúc làm Bí thư.
Sau khi Chi bộ Tân Thành được thành lập dưới sự lãnh đạo của Chi bộ đã đẩy nhanh
tuyên truyền vận động, tập hợp đông đảo quần chúng vào các tổ chức Nông Hội đỏ, Đoàn
Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội đá banh, Hội âm nhạc
Cùng với sự phát triển của cách mạng Việt Nam ở Cà Mau, sự ra đời của Đảng Cộng
sản ngay từ những ngày đầu từ Chi bộ của An Nam Cộng sản Đảng. Trong năm 1930 tại vùng
đất Cà Mau – Bạc Liêu đã thành lập được ba Chi bộ cộng sản, các đảng viên luôn gắn chặt

với quần chúng, được quần chúng tín nhiệm, hết lòng với sự nghiệp của Đảng.
Mặc dù vậy nhưng vẫn còn hạn chế là cả ba Chi bộ đều thiếu sự lãnh đạo thống nhất,
sự liên hệ với đặc ủy Hậu giang lại quá xa do đó công tác phát triển Đảng còn hạn chế, chưa
theo kịp phong trào cách mạng lúc bấy giờ.

Câu hỏi:
1-Phong trào đấu tranh của nhân dân tỉnh Cà Mau diễn ra như thế nào trước khi có
Đảng ?
2-Nêu sự hoạt động của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội ở Cà Mau ?
3-Trình bày sự ra đời của 03 Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên ở tỉnh Cà Mau và Bạc
Liêu ?
4-Thực hành cho học sinh sưu tầm các tư liệu lịch sử ở địa phương có liên quan đến
giai đọan lịch sử này ở Cà Mau.


Bài đọc thêm.
LÁ CỜ ĐẢNG ĐẦU TIÊN XUẤT HIỆN TẠI CÀ MAU

Cách đây 70 năm nơi tận cùng cực nam của Tổ quốc đã diễn ra sự kiện khá độc đáo.
Đó là lá cờ đỏ búa liềm xuất hiện tại Cà Mau đã gây ấn tượng sâu sắc đối với người Đất Mũi
kiên cường trong những ngày Đảng cộng sản Việt Nam ra đời.
Để chào mừng ngày thành lập Đảng, sáng ngày 03/2/1930 tại Thị trấn Cà Mau (nay là
Thành phố Cà Mau) đã chứng kiến sự kiện lá cờ Đảng phất phới trên sợi dây thép căng ngang
sông Cà Mau, tại bến đò Kinh mười sáu ngày xưa (nay là bến vỏ). Đây là sự kiện diễn ra đầu
tiên của Chi bộ Cà Mau mới ra đời chưa tròn một tháng (so với lúc treo cờ) mà gây ấn tượng
sâu sắc đối với nhân dân khu vực Cà Mau.
Chi bộ thị trấn Cà Mau được thành lập vào tháng 01năm 1930 (thuộc tổ chức An Nam
Cộng sản Đảng, sau này được thống nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam). Chi bộ lúc bấy giờ chỉ
có 04 đồng chí: Lâm Thành Mậu, Nguyễn Văn Chánh, Tân Văn Hai và Phạm Ngọc Cừ, do
ông Lâm Thành Mậu làm Bí thư. Trong những ngày chào mừng thành lập Đảng Cộng sản

Việt Nam, Chi bộ đã tổ chức nhiều hoạt động trên phạm vi thị trấn Cà Mau, nơi mà bọn Thực
dân Pháp và bọn tay sai đã xây dựng bộ máy cai trị khá khắc nghiệt và nghiêm ngặt đối với
nhân dân Cà Mau lúc bấy giờ. Với tinh thần cách mạng tiến công và trách nhiệm của người
Đảng viên cộng sản, các đồng chí trong chi bộ tổ chức các hoạt động tuyên truyền bí mật để
chống kẻ thù; đồng thời tìm mọi cách để nêu cao vai trò cuả Đảng Cộng sản Việt Nam. Cho
nên các đồng chí trong chi bộ đi rãi truyền đơn những nơi công cộng như: ở bến xe, nơi nhóm
chợ, chỗ đông người, hoặc nơi nhiều người đi qua lại Đặc biệt là chi bộ đã khắc phục
những khó khăn, tìm những nơi kín đáo để che tai, mắt kẻ thù, viết từng khẩu hiệu “Đảng
Cộng sản Việt Nam muôn năm !”, “Đả đảo đế quốc Pháp” dán lên góc tường và những nơi
đông người qua lại, nhằm tạo sự chú ý của quần chúng. Đây là sự cố gắng lớn của Chi bộ, chỉ
có thời gian ngắn, trước một đêm ngày 03 tháng 02 năm 1930, mà chi bộ phải tập trung nhiều
công việc khá vất vả; lại trong lúc kẻ thù đang theo dõi mà các đồng chí Đảng viên của chi bộ
đã làm cho chính quyền thực dân Pháp và tay sai ở tại quận Cà Mau lúc bấy giờ hoảng hốt, lo
sợ, láo nháo như cuộc báo động “hỗn loạn” chưa từng có giữa ban ngày ở khu vực cà Mau.
Cho nên suốt cả buổi, bọn chúng lúng túng tìm mọi cách để lấy lá cờ xuống mà trong lòng hồi
hộp (sợ lọt vào ý đồ của Cộng sản). Dù chúng có ngăn chặn, không cho đồng bào ta đến gần
nơi treo cờ, nhưng bà con vẫn tìm mọi cách, lấy cớ qua đò sang sông để được tận mắt nhìn rõ
lá cờ đỏ búa liềm lượn theo gió trên sông Cà Mau. Và cũng chính lá cờ đỏ búa liềm mà người
dân lao động Cà Mau đang mong muốn tự bao giờ, nay đã thành sự thật.
Cuộc hốt hoảng của kẻ thù chưa hết. Lại ngày 01 tháng 05 năm 1930, nhân kỷ niệm
ngày lao động Quốc tế ; các anh thanh niên yêu nước ở ven thị trấn Cà Mau (nay là thành phố
Cà Mau) lại bỏ tiền ra mua nước sơn vải đỏ và giấu bọn tề để vẽ lá cờ Đảng búa liềm treo trên
cây dương ở Đình Tân Hưng (nay thuộc xã Lý Văm Lâm, Thành phố Cà Mau). Đặc biệt lá cờ
này, do 03 anh thanh niên yêu nước đã dũng cảm đề thẳng tên lót của mình vào lá cờ: “NGỌC
- ĐỨC – THẾ” nghĩa là: NGỌC là Nguyễn Ngọc Hương, THẾ là Lương Thế Trân, ĐỨC là
Nguyễn Đức Cao. Để biểu hiện ý trí của mình, sẵn sàng đi theo con đường của Đảng, đánh
bọn xâm lược cướp nước. Đồng thời, lá cờ còn nổi lên dòng chữ: “Diệt trừ Pháp tặc” có nghĩa
là: Biểu hiện quyết tâm đánh Tây (thực dân Pháp) để giải phóng dân tộc, giành độc lập – tự
do. Như sau này Bác Hồ ta đã nói: “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước,
nhất định không chiụ làm nô lệ”. ý chí của người thanh niên yêu nước, ở mũi Cà Mau đã ghi

lời thề vào cờ Đảng, sẳn sàng đem máu của mình tô thắm cho ngọn cờ quang vinh của Đảng
Cộng sản Việt Nam.
Trong ngày 01 tháng 05 năm 1930, không chỉ có lá cờ đỏ búa liềm xuất hiện vào buổi
sáng mặt trời đỏ rực, mà còn các khẩu hiệu, truyền đơn được rãi các nơi, nhất là những nơi
bọn tề và dinh quận, làm cho bọn chúng náo động và hoang mang trong hàng ngũ bộ máy của
bọn thực dân Pháp ở Cà Mau. Bà con ở ven thị trấn rất vui mừng, bàn tán xôn xao, khâm phục
những ai sáng kiến và dũng cảm treo cờ Đảng ngay trong khu vực quản lý nghiêm ngặt của
địch.
Việc xuất hiện cờ Đảng vào ngày 03 tháng 02 năm 1930 và ngày 01 tháng 05 năm
1930 ở khu vực Cà Mau là sự kiện đầu tiên trong lịch sử tỉnh nhà đã đánh dấu bước trưởng
thành nhảy vọt của phong trào cách mạng nhân dân Cà Mau, từ đấu tranh tự phát, chuyển
sang đấu tranh tự giác khá sâu sắc. Và sự kiện treo cờ Đảng, còn biểu hiện tấm lòng người
dân Đất Mũi đối với Đảng; đồng thời khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam có mặt sớm ở mảnh đất tận cùng cực Nam của Tổ quốc.
(Theo Hữu Thành – Bài được đăng trên Báo Cà Mau tháng 01 năm 2000).


Bài 4:
ĐẠI HỘI THÀNH LẬP QUẬN ỦY CÀ MAU TIẾN TỚI THÀNH LẬP TỈNH ỦY
CÀ MAU

1-Đặc điểm tình hình Cà Mau trước Đại hội Quận ủy:
Sau sự kiện 01/05/1931, thực dân Pháp ra sức đàn áp cách mạng, phong trào ở Cà Mau
tạm thời lắng xuống. Khác với các địa phương khác trong cả nước, năm 1932 phong trào đã
dần dần được phục hồi.
Tháng 06/1932 một cơ sở cách mạng được thành lập tại Năm Căn để liên lạc, bảo vệ
các cán bộ bị địch khủng bố chạy về đây lánh tạm. Ngày 01/05/1935 Cà Mau đón nhận một số
chiến sĩ vượt Côn Đảo trở về như: Tống Văn Trân, Tạ Uyên, Phạm Hồng Thám, Nguyễn Hữu
Tiến, Nguyễn Văn Trọng. Trong số cán bộ trên ông Phạm Hồng Thám được bố trí ở lại hoạt
động tại vùng Năm Căn và đến tháng 10/1935 lập được Chi bộ Tân Ân, trong đó có Thầy giáo

Phan Ngọc Hiển và một số Đảng viên khác nữa do ông Nguyễn Văn Hoành Lâm làm Bí thư.
Từ 1931 đến 1935 ở cà Mau đã có 14 Chi bộ được thành lập trong toàn tỉnh. Đây là hạt nhân
quan trọng để Đảng bộ phát triển phong trào cách mạng dân chủ sau này.
Do thắng lợi trong tuyển cử tháng 04 năm 1936, tháng 06 năm ấy, Chính Phủ Mặt trận
bình dân Pháp được thành lập, ban hành một số chính sách có tính chất dân chủ, tiến bộ ảnh
hưởng tích cực đến cách mạng nước ta.
Thực hiện chủ trương của Đảng ta “đấu tranh chống chế độ phản động thuộc địa”,
“chống phát xít, chống chiến tranh”. Được sự chỉ đạo của liên Tỉnh ủy Hậu Giang, Chi bộ Cà
Mau đã bàn bạc và đưa ra kế hoạch đưa một bộ phận của Đảng ra hoạt động công khai gồm
các ông: Lâm Thành Mậu, Văn Trang Thành, Tào Văn Ty, Phan Ngọc Hiển, Hồng Hoa do
ông Lâm Thành Mậu làm Bí thư. Một Chi bộ bí mật khác do ông Phạm Hồng Thám làm Bí
thư.
Phong trào dân chủ do Đảng lãnh đạo đã thu được nhiều thắng lợi. Trong thời gian này
Đảng cùng lãnh đạo nhân dân chống bọn phát xít Hồ Hữu Tường, Đào Hương Long đến Bạc
Liêu. Đồng thời vạch rõ âm mưu thủ đoạn của bọn này trước nhân dân.
2- Đại hội Quận ủy Cà Mau lần thứ nhất:

×