Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

Nghiên cứu sản xuất giống nhân tạo Cá Chim Vây Vàng trên thế giới và ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.2 MB, 72 trang )

MỞ ĐẦU
Với diện tích lãnh thổ trải dài theo vĩ tuyến bắc nam, phía
tây tiếp giáp hoàn toàn với biển hình thành nên bờ biển dài
3260km. Việt Nam là nước có khí hậu nhiệt đới gió mùa, có
nhiều vũng vịnh kín gió, đầm phá rộng lớn. Đây là đặc điểm
thuận lợi để ngành NTTS phát triển. Song song với việc khai
thác đánh bắt nguồn lợi là nuôi trồng và bảo vệ. Khi khai thác
đánh bắt giảm xuống thì nuôi trồng yêu cầu phải tăng lên cùng
với sự gia tăng kim ngạch xuất khẩu. Đặc biệt hơn là nuôi trồng
thủy sản nước mặn và nước lợ.
Theo đánh giá thì ngành NTTS nói chung, NTTS nước mặn
và lợ nói riêng tuy chưa phát triển tương xứng với tiềm năng
hiện có của nước ta nhưng hiện tại đang trên đà phát triển và có
nhiều hứa hẹn trong tương lai.
Nhiều sảm phẩm lớn với khối lượng lớn tiêu thụ nội địa và đã
xuất khẩu ra thị trường ngoại quốc tạo ra cho sự phát triển
ngành nói chung ở nước ta. Hiện nay có nhiều loài có giá trị
kinh tế đang được nuôi phổ biến ở nhiều tỉnh chủ yếu là lồng bè
pg. 1
1
trên biển và một số nuôi trong ao đất, tuy nhiên nguồn cung cấp
giống vẫn chưa thật sự chủ động và phong phú, phụ thuộc nhiều
vao khai thác tự nhiên. Tập trung ở một số đối tượng
như : Cá Mú ( Epinephelus spp), Cá Chim Vây Vàng
( Trachinotus blochii), Cá Mú (Epinephelus spp), Cá Giò
(Rachycentron canadum), Cá Chẽm (Lates calcarifer), Cá Cam
(Seriola spp) Cá Hồng (Lutjanus erythropterus), và một số
loài có chất lượng khác. Chúng là nguồn thực phẩm được ưa
chuộng với chất lượng dinh dưỡng cao, chất lượng thịt ngon và
có giá trị kinh tế cao.
Cá Chim Vây Vàng ( Trachinotus blochii) là loài phân bố


tương đối rộng ở biển nhiệt đới, có thể tìm thấy ở tây Thái Bình
Dương, các nước thuộc khu vực Đông Nam Á như : Nhật Bản,
Đài Loan, Indonesia, miền nam Trung Quốc…. Ở Việt Nam
chúng tập trung nhiều ở Vịnh bắc bộ, trung và nam bộ. Cá đạt
trọng lượng thương phẩm cỡ 0,8 – 1,0 kg/con. Với thị trường
xuất khẩu như : Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Công, Singapo,
Mỹ giá dao động vào khoảng 6 USD/kg và tiêu thụ ở thị trường
trong nước.
pg. 2
2
Nhằm thúc đẩy nuôi cá lồng trên biển phát triển và mở rộng
diện tích hơn, nhằm đa dạng hóa đối tượng cá, chủ động từ khâu
sản xuất giống tạo nên sự phát triển bền vững trong tương lai.
Từ yêu cầu thực chung, nhằm gắn liền ngiên cứu khoa học vào
sản xuất dể tạo ra hiệu quả kinh tế và năng suất cao. Bên cạnh
đó để tạo điều kiện cho sinh viên làm quen với phương pháp
ngiên cứu khoa học và hoàn thành thí nghiệm. Trường Đại học
Nha Trang , khoa Nuôi trồng Thủy sản phân công tôi thực hiện
đề tài ” Nghiên cứu sản xuất giống nhân tạo Cá Chim Vây
Vàng trên thế giới và ở Việt Nam”
Mục tiêu đề tài : Tìm hiểu qui trình ương nuôi ấu trùng, làm
hoàn thiện kỹ thuật trong sản xuất giống nhân tạo.
Để thực hiện mục tiêu trên đề tài triển khai các nội dung
sau.
i) Hệ thống bể ương, mật độ ương.
ii) Các loại thức ăn và cách cho ăn.
iii) Quản lý môi trường bể ương.
-Thay nước.
- Si phông.
pg. 3

3
- Theo dõi môi trường.
iv) Theo dõi tốc độ sinh trưởng.
Mặc dù bản thân đã rất cố gắng, nhưng do Cá Chim Vây Vàng
là một đối tượng mới được đưa vào ngiên cứu, thời gian thực tập
hạn chế nên đề tài không tránh khỏi thiếu sót. Rất mong được
đóng góp của thầy cô cùng các bạn để đề tài được hoàn chỉnh
hơn.
Nha Trang tháng 09 năm
2009.
SV thực tập
Nguyễn Công Thạch.

Chương I : TỔNG QUAN
1.Tình hình nuôi cá biển trên thế giới.
Từ những năm 70 của thế kỹ XX. Nghề nuôi cá biển đã bắt
đầu phát triển với những đối tượng tiên phong và vẫn tiếp tục
phát triển cho đến nay như : Cá Mú, Cá Giò , Cá Cam, cá Măng,
Cá Tráp, Cá Đù Đỏ. Đạt giá trị sản lượng cao, từ những năm 80
pg. 4
4
đến 90 đã sinh sản thành công trên 40 loài, trong đó 20 loài đạt
trình độ sản xuất hàng loạt cung cấp giống cho nghề nuôi
thương phẩm.
Theo thống kê của FAO giai đoạn từ năm 1988 - 1997 số
lượng cá nước mặn và cá nược lợ trên toàn thế giới hàng năm
tăng lên 10%. Năm 1997 sản lượng đạt 2 triệu tấn, trị giá 8 tỷ
USD trong đó sản lượng cá hồi Đại Dương chiếm ưu thế đạt
640.000 tấn ( Hanbey 2000).
Khu vực Đông Nam Á trong 3 thế kỷ qua nghề nuôi cá biển

cũng đã phát triển mạnh với nhiều hình thức nuôi chủ yếu là
lồng trên biển chủ yếu đạt năng suất cao với các đối tượng : Cá
Mú, Cá Giò, cá Măng , Cá Đù Đỏ.
Với diện tích chỉ mới sử dụng 0,17% trong tổng số 2002.000
ha, Indonesia có tiềm năng về phát triển nuôi trên biển. Các loài
đang được nuôi phổ biến ở : : : Indonesia như : Cá Mú
( Epinephelus spp), Cá Chẽm (Lates calcarifer), ) Cá Hồng
(Lutjanus erythropterus), Cá Viên Vàng ( Grathonodin
speciousus). Đối với các loài cá : Mú, Măng, Vược được sản
xuất giống đại trà về ương nuôi thâm canh ấu trùng bằng bể xi
pg. 5
5
măng hoặc bể sợi thủy tinh. Sản lượng nuôi năm 1997 Cá Măng
đạt 237.720 tấn,Cá Vược đạt 4210 tấn. Năm 2001 Cá Mú đạt
7670 tấn, Cá Vược đạt 850 tấn.
Ở Nauy sự thành công phải kể đến cá hồi. Năm 1981 sản
lượng cá hồi chỉ đạt 8000 tấn, Nhưng 1997 sản lượng nuôi đạt
312000 tấn và năm 1998 sản lượng cá hồi Đại Dương đạt
348.600 tấn. Đến năm 2000 đạt 412.7000 tấn ( Hjelt 2000). Sự
thành công của nghề nuôi cá hồi đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến
tình hình nuôi trên thế giới.
Ở Thái Lan sự phát triển ổn định và tăng mạnh mẽ đem lại
một sản lượng lớn trong hai thập kỷ qua với 2 đối tượng chính là
Cá Mú và Cá Chẽm. Sản lượng Cá Chẽm từ năm 1988 đến 1996
từ 645 tấn lên đến 2998 tán và Cá Mú đạt từ 375 đến 723 tấn.
Thái Lan đã hoàn thành qui trình sản xuất giống nhân tạo Cá
Chẽm đã sản xuất hơn 100 triệu cá giống/ năm.
Việc cho sinh sản thành công loài cá Hồi ( Salmon gairdiri)
đã phát triển từ rất sớm ở Đài Loan. Sau đó mở rộng ra các đối
tượng khác nhau như : Cá Đối Nục ( Mugil cẹphalus). Đối với

việc nuôi trong ao sẽ tạo ra những tác động bất lợi của môi
pg. 6
6
trường, hiện Đài Loan đang tập trung phát triển nghề nuôi lồng
trên biển
Năm 2000 có khoảng 1500 lồng trong đó khoảng 80% số
lồng nuôi cá Giò ( Rachycontron Canadum) và số lượng cộng lại
nuôi với các đối tượng như : Mú chấm Đỏ ( E . coioides), Tráp
Đỏ ( Pangrus majos). Năm 1990 sản lượng cá đạt 103 tấn. Năm
1998 tăng gấp 3 lần đạt 1500 tấn. Qua đó thấy rằng cá Giò là
đối tượng nuôi chính đang có triển vọng và là nguồn thu ngoại
tệ chính tại Đài Loan ( M.Ssu, và ctv20001).
Australia có lịch sử nghề nuôi cá biển trên 2 thập kỷ qua và
đã đạt được những thành tựu đáng kể. Đối tượng nuôi chính Cá
Hồi Đại Dương (Atlantic salmon) và Cá Ngừ Vây Xanh
(Southern Bluefin Tuna) với sản lượng 12.000 tấn, đạt khoảng
150 triệu UDS hàng năm. Ngoài ra một số loài Cá Hồi
(Oncorhynchus mykiss), Cá Hồng (Pagrus auratus), Cá Tráp
Đen cũng đang được nuôi lồng trên biển với sản lượng đạt 11,8
tấn năm 1998 (Gooley và ctv, 2000) với tốc độ phát triển hiện
nay, dự kiến đến năm 2010 Australia có thể đạt 2,5 tỷ UDS từ
pg. 7
7
nghề nuôi cá công nghiệp, trong đó nghề nuôi cá Hồi chiếm 1 tỷ
UDS và cá Ngừ chiếm 300 triệu UDS (Husey,1999).
Có thể khẳng định rằng NTTS phát triển rất sớm ở các nước
trên thế giới, hiện nay và cũng như trong tương lai sự phát triển
bền vững và nhanh chóng sẽ là ngành không thể thiếu trong phát
triển kinh tế nói chung.
2. Tình hình nuôi ở Việt Nam.

Ngành NTTS Việt Nam nói chung được đánh giá là đã phát
triển nhưng chưa tương xứng với tiềm năng hiện có của quốc
gia. Riêng về cá biển chỉ mới đóng góp 1 phần (< 1%) so với
tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu. Nguyên nhân chủ yếu là chúng
ta chưa tập trung ngiên cứu đối với các đối tượng nước mặn.
Nghề nuôi cá biển ở nước ta hiện nay đang mang tính chất thu
gom và giữ sống trong lồng nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm
để xuất khẩu. Có nhiều đối tượng có giá trị kinh tế hiện nay
đang được nuôi, dù đã ngiên cứu sản xuất giống nhưng số lượng
chưa nhiều, chưa đáp ứng đủ nhu cầu đầu vào cho quá trình
pg. 8
8
nuôi, nhiều loài phải nhập ngoại, chưa có qui trình nuôi cụ thể
cho từng loài.
Nghề nuôi cá biển ở nước ta bắt đầu hình thành và phát triển
vào những năm 90 của thế kỹ XX với nhiều đối tượng như : Cá
Mú , Cá Chẽm, Cá Măng, Cá Chình, Cá Chẽm Mỏ Nhọn và cả
Tôm hùm, Trai ngọc. Nghề nuôi cá cảnh cũng được biết đến
( L.A.Tuấn 1998. Trích). Những khu vực nuôi chủ yếu là những
vùng biển Quản Ninh, dọc theo bờ biển miền trung từ Thừa
Thiên Huế đến Bình Thuận, Bà Rịa Vũng Tàu và một số tỉnh tây
nam bộ.
Theo Nguyễn Trọng Nho và ctv (200) số lượng lồng nuôi trên
biển tăng gấp 10 lần. Năm 1998 có trên 10.000 lồng, trong đó
hơn 6000 được đặt ở ven biển Nha Trang và Vịnh Hạ Long
chiếm diện tích xấp xĩ khoảng 150 ha. Số lượng cá và động vật
thân mềm đạt 540 tấn, giá trị hơn 1 tỷ đồng. Hầu hết các lồng
này do tư nhân quản lý.
Năm 1994 Viện Hải Dương Học đã ngiên cứu một số đặc
điểm sinh học sinh sản và sản xuất thành công giống nhân tạo 2

loài cá ngựa : Cá Ngựa Đen (Hippocampus kuda) và Cá Ngựa 3
pg. 9
9
chấm (H . trimaculatus), sau 8 tháng ương nuôi có đạt chiều dài
13cm tương ứng với khối lượng 50g ( Trương Sinh Kì 2000).
Năm 1994 -1995 Viện Nghiên Cứu Hải Sản – Hải Phòng đã
nghiên cứu sản xuất thành công giống cá Mú Mỡ (Epinphelus
tauvina), Cá Mú Đen (Epinphelus malabaricus) tại Vịnh Hạ
Long. Kết quả sau 3 tháng ương nuôi đạt chiều dài 13 cm tương
ứng với khối lượng 50g. Năm 2001 Viện Nghiên cứu Nuôi
trồng Thủy sản I đã nghiên cứu cho sinh sản nhân tạo thành
công loài Cá Giò (Rachycentron canadum).
Năm 2000 – 2004 Khoa NTTS, Trường Đại học Thủy sản cũ
(nay là ĐH Nha Trang) đã nghiên cứu sinh sản nhân tạo, ương
giống và nuôi thương phẩm thành công 2 loài : Cá Chẽm (Lates
calcarifer Bloch, 1790) và Cá Chẽm Mõm Nhọn (Psammoperca
waigiensis Cuvier&Valencienes, 1828).
Năm 2001 Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I đã
nghiên cứu cho sinh sản nhân tạo thành công loài Cá Giò
(Rachycentron canadum).
pg. 10
10
Năm 2002 -2004 Khoa NTTS, Trường Đại học Thủy sản cũ
(nay là Đại học Nha Trang) đã nghiên cứu sinh sản nhân tạo,
ương giống và nuôi thương phẩm thành công 2 loài : Cá Chẽm
(Lates calcarifer Bloch, 1790) và Cá Chẽm Mõm Nhọn
(Psammoperca waigiensis Cuvier&Valencienes, 1828).
Theo những tài liệu tham khảo được liệt kê ở trên thì có thể
khẳng định rằng ngành NTTS ở VIệt Nam đã được chú trọng
hơn nhiều ở những năm gần đây, nhiều để tài ngiên cứu đã

thành công được áp dụng vào sản xuất đại trà của nhiều tác giả,
cá nhân, cũng như tổ chức Việt Nam. Những ngiên cứu đánh
dấu một bước phát triển mới của ngành nuôi trồng ở nước ta chú
trọng hơn vào các đối tượng nước mặn và nước lợ. Chính phủ
Việt Nam cũng đã có những chính sách khuyến khích ngiên cứu
cho ngành, tạo điều kiện để ngành phát triển mạnh hơn nữa vào
thời điểm hiện tại và trong tương lai. Tạo ra một sự phát triển
bền vững, hoàn thành một chu trình sản xuất khép kín từ khâu
bố mẹ, con giống, thức ăn tạo ra sản phẩm cuối cùng là chất
lượng cá thương phẩm đạt chất lượng cao. Những ngiên cứu đã
mở ra một triển vọng cho sự phát triển ngành trong tương lai tạo
pg. 11
11
ra một sự tương xứng với tiềm năng hiện và sự thuận lợi của
nước ta.
3. Một số nghiên cứu về đặc điểm sinh học và sản xuất giống
Cá Chim Vây Vàng (Trachinotus blochii)
3.1 Hệ thống phân loại
Ngành: Vertebrata
Lớp: Osteichthyes
Bộ: Perciformes
Họ: Carangidae
Giống: Trachinotus
Loài: Trachinotus blochii
(Lacepède, 1801)
pg. 12
12
Tên tiếng việt: cá Chim Vây Vàng, cá Sòng Mũi Hếch, cá
Chim Trứng [5]
Tên Tiếng Anh: Snub-noes pompano

Longfin pompano[1].
3.2. Đặc điểm và hình thái nhận dạng
Cơ thể hơi tròn, cao và bề bên dẹp chính giữa lưng hình vòng
cung. Trên đường bên vẩy sắp xếp khoảng 135-136 cái, chiều
dài so với chiều cao 1,6 - 1,7 lần, so với chiều cao đầu 3,5 - 4
lần, cuống đuôi ngắn và dẹp, đầu nhỏ chiều cao đầu lớn hơn
chiều dài, môi tù về phía trước. Lỗ mũi mỗi bên 2 cái gần nhau,
lỗ mũi trước nhỏ hình tròn, lỗ mũi sau to hình bầu dục.
Miệng nhỏ xiên, xương hàm trên lồi, hàm trên và dưới có
răng nhỏ hình lông, răng phía sau dần thoái hóa, lưỡi không có
răng, rìa phía trước xương nắp mang hình cung tương đối to, rìa
sau cong. Bộ phận đầu không có vẩy, cơ thể có nhiều vẩy tròn
nhỏ dính dưới da. Vây lưng thứ 2 và vây hậu môn có vẩy, phía
trước đường bên hình cung cong tròn tương đối lớn, trên đường
bên vẩy không có gờ, vây lưng thứ 1 hướng về phía trước, gai
pg. 13
13
bằng và có 5-6 gai ngắn. Cá giống giữa các gai có màng liền
nhau, cá trưởng thành màng thái hóa thành những gai tách rời
nhau, vây lưng thứ 2 có 1 gai và 19 - 20 tia vây, phần trước của
vây kéo dài hình như lưỡi liềm. Vây hậu môn có 1 gai và 17 - 18
tia vây phía trước có 2 gai ngắn, cũng có dạng hình lưỡi liềm.
Còn vây ngực tương đối ngắn, vây đuôi hình trăng lưỡi liềm.
Ruột uốn cong 3 lần (chiều dài ruột/chiều dài của cá = 0.8).
Lưng màu tro bạc, bụng màu ánh bạc, mình không có vân đen,
vây lưng màu ánh bạc vàng, rìa vây màu tro đen, vây hậu môn
màu ánh bạc vàng, vây đuôi màu vàng tro[7].

Hình1.1: Cá Chim Vây Vàng ( Trachinotus blochii
Lacepède, 1801 )

3.3 Đặc điểm phân
bố
pg. 14
14
Phân bố về địa lý: Theo Borut Forlan (2004) cá Chim Vây
Vàng sống ở vùng biển mở và được tìm thấy ở Thái Bình
Dương, Đại Tây Dương, Ấn Độ Dương. Ở châu Á cá Chim
Vây Vàng phân bố ở miền
Nam Nhật Bản, Indonesia, Trung Quốc (Hoàng Hải, Đông Hải,
Nam
Hải, Quảng Đông, Phúc Kiến,
Hải Nam), Đài Loan. Ở Việt Nam được tìm thấy trên Vịnh Bắc
Bộ, miền Trung và Nam Bộ[5] .
Phân bố về sinh thái :
Cá Chim Vây Vàng là loài cá nước ấm, có tập tính di cư,
sống ở tầng giữa và tầng mặt. Ở giai đoạn cá giống hàng năm
sau mùa đông cá thường tập thành đàn sống ở vũng, vịnh, cửa
sông. Cá trưởng thành sinh trưởng tốt nhất ở điều kiện nhiệt độ
từ 22-28
0
C, là loài sống rộng muối 3 - 33‰. Dưới 20‰ cá sinh
trưởng nhanh, trong điều kiện độ mặn cao tốc độ sinh trưởng
chậm lại. Nhu cầu hàm lượng ôxy hòa tan > 2,5 mg/L. Theo
Potonetal (1989) cá trưởng thành sống ở vùng cát hoặc gần vùng
pg. 15
15
Hình 1.2: Bản đồ phân bố cá chim Vây Vàng
trên thế giới (phần chấm đỏ là khu vực cá phân bố)
rạn san hô, độ sâu ít nhất 7 m. Ngoài ra cá giống thường thấy
sống ở vùng cát hoặc gần vùng đất cát sét (Borut Forlan, 2004).

3.4 Đặc điểm dinh dưỡng
Cá Chim Vây Vàng là loài cá ăn tạp thiên về động vật, có
thể kiếm thức ăn ở trong cát, cá trưởng thành có thể bắt những
động vật vỏ cứng như : Ngao, cua, ốc. Giai đoạn cá giống thức
ăn là động vật phù du và động vật đáy, chủ yếu là luân trùng
(Rotifer), ấu thể Copepoda, Artemia. Cá con ăn tôm cá nhỏ, hai
mảnh vỏ nhỏ. Thức ăn chính của cá trưởng thành là : Các loại
tôm, cá nhỏ. Trong điều kiện ương nuôi cá dài 2 cm thức ăn là
cá tạp xay nhỏ, tôm tép băm nhỏ. Cá trưởng thành ăn tôm nhỏ
và thức ăn công nghiệp hoặc toàn thức ăn công nghiệp trong
nuôi thương phẩm . Trong điều kiện môi trường nước bình
thường Cá Chim Vây Vàng có cường độ bắt mồi thay đổi theo
nhiệt độ nước (Lâm Cẩm Tôn, 1995). Những động vật thân
mềm sống ở cát và các loài động vật không xương sống khác là
thức ăn tự nhiên chính của loài này (Bianchi.G, 1985).
pg. 16
16
Theo Nur. Muflich Juniyanto, Syamsul Akbat and Zakimin
(2008), thức ăn cho các giai đoạn được sử dụng như sau : Giai
đoạn nuôi vỗ cá bố mẹ được cho ăn cá tạp, hỗn hợp thức ăn
viên, vitamin E và vitamin tổng hợp. Khẩu phần cho ăn 3-5%
khối lượng thân. Ấu trùng được cho ăn thức ăn tươi sống (luân
trùng, Artemia) và thức ăn tổng hợp. Luân trùng được cho vào
ngày thứ 3 đến ngày 14 lượng từ 5 - 15 con/mL, cho ăn 1 ngày 3
lần (sáng, trưa, chiều). Từ ngày thứ 10 thức ăn viên được bổ
sung vào với luân trùng cỡ hạt 200 - 300 µm. Artemia được đưa
vào ngày thứ 14 với mật độ 0,25 con/mL. Đến ngày 15 dừng
cho ăn luân trùng và lượng thức ăn viên được tăng dần cứ 1-
2
h

/lần. Ngày 18 lượng Artemia cũng phải được tăng lên 0,5
con/ml và dừng cho ăn ở ngày 22. Cá giống sử dụng thức ăn
viên kích cỡ hạt phụ thuộc vào cỡ miệng của cá. Tổng lượng
thức ăn viên được sử dụng trong một ngày có thể 1kg/4,2 vạn
cá, đặc biệt là ngày tuổi thứ 30 [10].
3.5. Đặc điểm sinh trưởng
Cá Chim Vây Vàng có kích thước tương đối lớn, kích thước
có thể đạt 45 - 60 cm. Cá sinh trưởng nhanh, trong điều kiện
pg. 17
17
nuôi bình thường 1 năm đạt 0,5- 1,0 kg/con. Từ năm thứ 2 trở
đi mỗi năm khối lượng tăng tuyệt đối là 1 kg.
Theo Trương Bang Kiệt (2001) : Thử nghiệm ương nuôi cá
giống thời kỳ đầu cá sinh trưởng chậm cá dài 2,6 cm với khối
lượng 0,52 gam. Qua 192 ngày nuôi cá dài 9,9 cm đạt khối
lượng 20,53 gam. Bình quân ngày khối lượng tăng 0,6 gam và
hệ số sinh trưởng trung bình ngày 1,04% [6]. Trong điều kiện
nhân tạo cá 1 ngày tuổi có chiều dài 0,2 cm, sau 30-35 ngày đạt
chiều dài 3,4 cm [10].
3.6. Một số đặc điểm sinh học sinh sản
Mùa vụ sinh sản ngoài tự nhiên của cá Chim Vây Vàng ở
vùng địa lý khác nhau là khác nhau. Ví dụ, ở Trung Quốc từ
tháng 4 – 9, trong khi tại Đài Loan lại có thể cho cá sinh sản
nhân tạo từ tháng 3 đến tháng 10 [3]. Quá trình sinh sản của cá
Chim Vây Vàng không tuân theo chu kỳ trăng hàng tháng như
nhiều loài cá biển khác [10].
Tuổi và kích thước thành thục lần đầu của cá Chim Vây Vàng
ngoài tự nhiên tương đối muộn, cá thành thục ở tuổi 7
+
- 8

+
[5].
pg. 18
18
Tuy nhiên, trong điều kiện nuôi nhân tạo cá có thể thành thục
sớm hơn. Theo Anony Mous (2007), trong điều kiện nuôi nhốt
để cá đạt được thành thục và trở thành cá bố mẹ phải mất
khoảng 3 năm.
Năm 2006, Trại Nuôi trồng Thuỷ sản Thực nghiệm Yên
Hưng (Trường Cao đẳng Thuỷ sản Bắc Ninh) nhập công nghệ
sản xuất cá Chim Vây Vàng từ Trung Quốc, tuyển chọn cá bố
mẹ có khối lượng từ 2 - 6 kg, từ 3 trở lên.
Sức sinh sản tuyệt đối của Cá Chim Vây Vàng đạt 40-60 vạn
trứng/cá cái. Theo Nur. Muflich Juniyanto, Syamsul Akbat and
Zakimin (2008) cho sinh sản Cá Chim Vây Vàng với tỷ lệ đực
cái là 1:1, kích thích bằng hormone. Sử dụng kết hợp HCG 250
IU/kg và Fibrogen 50 IU/kg cá cái thành thục, liều lượng tiêm cá
đực bằng 1/2 cá cái và tiêm 2, khoảng cách giữa các lần là 24
giờ, cá thường đẻ trứng sau khi tiêm lần 2 từ 12 – 24 giờ,
khoảng 60 - 70% lượng trứng trong buồng trứng, đường kính
trứng thụ tinh khi trương nước: 0,8 – 0,85 mm [10].
pg. 19
19
4. Tình hình nghiên cứu sản xuất giống nhân tạo Cá Chim
Vây Vàng trên thế giới và Việt Nam
Ở Đài Loan, (1986): Lâm Liệt Đường đã thu gom 126 con cá
Chim Vây Vàng, kích cỡ không đồng đều nuôi chung với nhau.
Năm 1989 bắt đầu thực nghiệm cho sinh sản nhân tạo, qua 5 lần
tiêm kích dục tố thì có 4 đợt đẻ, tổng số trứng thụ tinh là 500
vạn. Qua nhiều hình thức thực nghiệm ương nuôi cuối cùng thu

được 38,6 vạn giống, kích cỡ 2-3 cm. Đây là lần đầu tiên sinh
sản nhân tạo cá Chim Vây Vàng thành công (Lê Phúc Tổ, 2005).
Năm 1993 Trung tâm chuyển giao công nghệ ĐH Trung Sơn
kết hợp với Trạm Nghiên cứu Thủy sản Quảng Đông - Trung
Quốc cho sinh sản thành công cá Chim Vây Vàng, ương nuôi ấu
trùng trong bể xi măng với quy mô nhỏ. Đến năm 1998, Trung
tâm kết hợp với công ty trách nhiệm hữu hạn giống thủy sản
Thắng Lợi - Hải Nam Trung Quốc thành công sản xuất giống
nhân tạo trên quy mô lớn, ương nuôi ấu trùng trong ao đất.
Hiện nay, Trung tâm phát triển biển Batam (Indonesia) đã
thành công việc cho sinh sản nhân tạo cá Chim Vây Vàng. Đã
pg. 20
20
chủ động nguồn giống và không phụ thuộc vào nguồn giống từ
tự nhiên.Tỷ lệ nở 65-75%, tỷ lệ sống từ lúc nở đến 22 ngày tuổi
đạt 20-25%[10].
Ở Việt Nam, năm 2006 Trại Nuôi trồng Thuỷ sản Thực
nghiệm Yên Hưng ( Trường Cao đẳng Thuỷ sản Bắc Ninh) đã
nhập công nghệ sản xuất giống cá Chim Vây Vàng từ Trung
Quốc đã đạt được kết quả như sau: Tỷ lệ đẻ trung bình 87,5%, tỷ
lệ thụ tinh 60%, tỷ lệ nở 80%, tỷ lệ sống từ ấu trùng mới nở đến
cỡ 2- 3 cm đạt 30% và thu được 65.000 con giống cỡ 4 - 6 cm
[6]. Hiện nay, công nghệ sản xuất giống dần dần được hoàn
thiện, điều đó dự báo rằng nuôi thương phẩm công nghiệp sẽ
khởi sắc trong tương lai không xa ở Việt Nam
Tóm lại cá Chim Vây Vàng là loài mới được nghiên cứu ở
Việt Nam có nhiều ưu điểm như : Rất háu ăn, tốc độ sinh trưởng
nhanh, cá sống trong điều kiện rộng muối (3- 33‰), giá trị
thương mại cao, thị trường xuất khẩu rộng. Do đó Cá Chim Vây
Vàng được đánh giá là đối tượng có tiềm năng lớn trong phát

triển nuôi thương phẩm ở vùng nước lợ, mặn, đặc biệt như vùng
biển nhiệt đới nước ta.
pg. 21
21
Chương II Phương pháp ngiên cứu
1. Đối tượng, thời gian và địa điểm ngiên cứu.
a) Đối tượng : Cá Chim Vây Vàng (Trachinotus blochii,
Lucèpede, 1801).
b)Thời gian : Từ 28/8/2008 đến 8/11/2008
c) Địa điểm : Trại thực ngiệm của trường Đại học Nha
Trang , Đường Đệ, Vĩnh Hòa, Nha Trang.
2. Nội dung nghiên cứu.
pg. 22
22


Hình 2.1: Sơ đồ khối nội dung ngiên cứu.
3. Phương pháp thu thập số liệu.
pg. 23
23
Qui trình ương nuôi
Kỹ thuật
ương nuôi,
chuẩn bị
nguồn thức
ăn tơi sống
Kỹ thuật
ấp nở trứng
Kỹ thuật
chăm sóc

quản lý
Công tác
phòng trị
bệnh
Kết luận và đế xuất ý kiến
Kết quả nghiên cứu và thảo
luận
Có hai phương pháp được dùng để thu thập số liệu trong quá
trình tiến hành ngiên cứu và báo cáo.
Một là : Thu thập số liệu thông tin gián tiếp qia các báo cáo
khoa học, tài liệu, sách tham khảo… các số liệu thông tin đã
được xử lý.
Hai là : Thu thập số liệu thông tin trực tiếp qua qua theo dõi,
thực hiện, tìm hiểu quá trình ương nuôi.
3.1. Tìm hiểu quá trình ương nuôi.
3.1.1 Hệ thống các bể ương nuôi và các thiết bị chuyên
dùng.
Hệ thống bể nuôi luân trùng, thiết bị ấp, làm giàu artermia,
làm giàu luân trùng.
Hệ thống thiết bị nuôi tảo.
Hệ thống các bể chứa, lắng, lọc nước dùng cho sản xuất.
Các vật dụng, thiết bị hổ trợ cho quá trình ương nuôi.
3.1.2 Tìm hiểu công tác chuẩn bị cho quá trình ương nuôi.
Vệ sinh bể ương, thiết bị trai.
pg. 24
24
Nguồn nước cấp, quá trình xử lý và nước thải.
Thời gian chuẩn bị gây nuôi nguồn thức ăn tươi sống và
chuẩn bị cho quá trình ương nuôi.
3.1.3 Quá trình vận chuyển ấp nở trứng.

Phương pháp đóng túi, vận chuyển trứng, số lượng trứng và
mật độ trứng được đóng túi khi vận chuyển.
Mật đồ ấp : Xác định mât độ trước khi cho trứng vào ấp bằng
cách định lượng.
3.1.4 Quá trình chăm sóc quản lý.
Mật độ ương.
Thức ăn và cách cho ăn và thời gian sử dụng các loại thức ăn
khác nhau.
Quản lý môi trường, sử lý hóa chất, thuốc kháng sinh.
Quá trình si phông đáy. Thay nước cho bể ương.
3.1.5 Theo dõi các giai đoạn phát triển , tốc độ sinh trưởng
và tỷ lệ sống cá qua đợt ương nuôi.
pg. 25
25

×