Tải bản đầy đủ (.doc) (219 trang)

Phân tích thực trạng và đề xuất những giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo ở trường Cao đẳng Công nghệ Bắc Hà.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (832.03 KB, 219 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Thế kỷ 21 đánh dấu quá trình hội nhập và toàn cầu hóa
mạnh mẽ của các quốc gia trên thế giới, trong đó có sự phát triển
nhanh của nền kinh tế tri thức. Mỗi quốc gia đều tìm cho mình
con đường phát triển riêng dựa trên khai thác lợi thế như: Nguồn
nhân lực, khoa học công nghệ…Trong đó, sự phát triển của giáo
dục, khoa học công nghệ là động lực then chốt cho sự phát triển
nhanh, bền vững của mỗi quốc gia. Thực tế cho thấy, lợi thế sẽ
thuộc về quốc gia, tổ chức có chất lượng nguồn nhân lực tốt, sở
hữu công nghệ tiên tiến, hiện đại và phù hợp với nhu cầu xã hội.
Trong những năm qua, giáo dục Việt Nam đã có nhiều
thành tích nhưng cũng bộc lộ những hạn chế và bất cập, tình
trạng thừa thầy, thiếu thợ khá phổ biến làm cho cơ cấu bị mất
cân đối; chất lượng lao động không qua đào tạo không đáp ứng
được nhu cầu; các trường chỉ tập trung vào việc hoàn thiện kỹ
năng cứng cho người học trong đó kỹ năng mềm lại không được
1
chú trọng. Thực tế đã có nhiều hội thảo được tổ chức trong thời
gian qua nhằm đánh giá thực trạng chất lượng giáo dục và tìm
ra giải pháp góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và tìm ra
giải pháp góp phần nâng cao chất lượng đào tạo. Hội thảo "Nhân
tài với thịnh suy đất nước" do TƯ hội khoa học phát triển nguồn
nhân lực, nhân tài Việt Nam tổ chức ngày 27/9/2011. Hội thảo
cũng đã tổng kết đánh giá về thực trạng chất lượng giáo dục
Việt Nam là "Nhân thì có, còn tài thì ít", ngày 27/9/2011 ban
Tuyên giáo Trung ương đã tổ chức tọa đàm "Đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục và đào tạo" trong đó nhiều ý kiến của các
chuyên gia về giáo dục là cần phải đổi mới toàn diện và đổi mới
tận gốc để góp phần nâng cao chất lượng đào tạo trong thời gian
tới.


Thách thức trên đối với giáo dục trong thời gian tới là rất
lớn. Chính phủ cũng đã thảo luận về dự thảo Chiến lược phát
triển giáo dục Việt Nam đến năm 2020 là đổi mới căn bản và
toàn diện theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc
tế; chất lượng giáo dục toàn diện được nâng cao; giáo dục đạo
đức kỹ năng sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành được
2
chú trọng; đáp ứng nhu cầu nhân lực, nhất là lao động chất
lượng cao phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước; đảm bảo
công bằng xã hội trong giáo dục và cơ hội học tập suốt đời đối
với mỗi người dân. Để đạt được các mục tiêu, các giải pháp
cũng đã được Chính phủ đưa ra và có sự phối hợp của các
trường, các cơ sở đào tạo, của các ngành và toàn xã hội.
Mặt khác đường lối phát triển của Đảng và Nhà nước ta
trong giai đoạn hiện nay là phát triển nền kinh tế với nhiều thành
phần kinh tế, theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong bối cảnh Việt Nam
chịu sự cạnh tranh khốc liệt của cơ chế thị trường trong và ngoài
nước về lĩnh vực đào tạo; để thắng lợi trong cạnh tranh, chất
lượng đào tạo là yếu tố quan trọng, quyết định sự thành công
hay thất bại của các trường đào tạo đại học, cao đẳng, trung cấp
chuyên nghiệp và dạy nghề.
Thực trạng trên đặt ra nhiệm vụ cho các bộ ngành, trong đó
Trường Cao đẳng Công nghệ Bắc Hà cũng không năm ngoài xu
thế đó. Nếu chất lượng đào tạo tốt (có nghĩa là học sinh, sinh
vên tốt nghiệp có trình độ chuyên môn vững vàng, có phẩm chất
3
đạo đức tốt, tỷ lệ làm việc cao, tỷ lệ làm đúng nghề cao) khi đó
học sinh, sinh viên đến học ở trường tăng lên, xét về mặt vi mô
làm cho quy mô của Trường phát triển, thu nhập của cán bộ

công nhân viên cao; về mặt vĩ mô đã đào tạo cho xã hội nguồn
nhân lực tốt giúp cho xã hội có đội ngũ quản lý, đội ngũ lao
động tốt, tạo ra năng suất cao, chất lượng sản phẩm tốt, làm cho
nền kinh tế, xã hội phát triển. ngược lại chất lượng đào tạo
không tốt (có nghĩa là học sinh, sinh viên tốt nghiệp có trình độ
chuyên môn không vững vàng, có phẩm chất đạo đức chưa tốt,
tỷ lệ có việc làm thấp, tỷ lệ làm việc đúng nghề thấp) khi đó học
sinh, sinh viên đến học ở trường giảm xuống, xét về mặt vi mô
làm cho quy mô đào tạo của Trường giảm. thu nhập của cán bộ
công nhân viên thấp; về mặt vĩ mô đã đào tạo cho xã hội nguồn
nhân lực kém, xã hội có đội ngũ quản lý, đội ngũ lao động kém,
tạo ra năng suất thấp, chất lượng sản phẩm thấp làm cho nền
kinh tế, xã hội kém phát triển.
Chương trình đào tạo chưa hợp lý giữa lý thuyết và thực
hành. Chương trình đào tạo còn nặng về lý thuyết chiếm khoảng
70% số tiết, thực hành thì ít chiếm khoảng 30% số tiết về một số
4
môn học chuyên ngành. Đó là sự mất cân đối trong chương trình
đào tạo của nhà trường, học sinh, sinh viên sau khi ra trường sẽ
thiếu kỹ năng làm việc thực hành ở các nhà máy. Trong khi đó
lại không vận dụng được hết lý thuyết được học và thực tế sản
xuất dẫn đến tình trạng thừa thầy và thiếu thợ.
Sinh viên ra trường vẫn chưa bắt kịp và làm quen với kỹ
thuật mới của các doanh nghiệp, tỷ lệ sinh viên làm được việc
về kiến thức chuyên môn kém đa số vừa làm vừa học kinh
nghiệm của các đồng nghiệp; mặt khác sẽ không được làm theo
ý nguyện làm việc làm việc đúng chuyên ngành, đa số làm trái
ngành trái nghề. Các doanh nghiệp thường xuyên thay đổi mô
hình sản xuất hoặc mua những máy móc có trang thiết bị hiện
đại vào làm việc để theo kịp cơ chế của thị trường nên nhiều

sinh viên rất lúng túng, thiếu hiểu biết về chuyên môn không thể
làm được việc như các doanh nghiệp mong đợi ở họ.
Các doanh nghiệp nhận sinh viên về làm việc hầu như họ
phải tiến hành đào tạo lại hoặc đào tạo bổ sung tay nghề, đào tạo
bổ sung kỹ năng thực hành tại các doanh nghiệp từ 3 đến 6
tháng vì trình độ tay nghề của các sinh viên còn kém, còn chậm,
5
còn chưa thích nghi được với môi trường mới, phong cách làm
việc, áp lực công việc.
Xuất phát từ thực tế trên tôi thấy cần thiết phải nghiên cứu
đề tài: " Phân tích thực trạng và đề xuất những giải pháp
nâng cao chất lượng đào tạo ở trường Cao đẳng Công nghệ
Bắc Hà ".
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu chung
Đánh giá chất lượng đào tạo của Trường Cao đẳng Công
nghệ Bắc Hà từ đó đề xuất và hoàn thiện giải pháp nâng cao
chất lượng đào tạo của Nhà trường.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về chất lượng
đào tạo trong giáo dục cao đẳng;
- Đánh giá thực trạng chất lượng đào tạo của Trường Cao
đẳng Công nghệ Bắc Hà.
- Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo
của Trường Cao đẳng Công nghệ Bắc Hà.
- Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo
Trường Cao đẳng Công nghệ Bắc Hà.
6
1.3. Câu hỏi nghiên cứu
- Thế nào là chất lượng đào tạo cao đẳng? Đo lường chất

lượng đào tạo cao đẳng bằng những chỉ tiêu nào?
- Chất lượng đào tạo của Trường Cao đẳng Công nghệ Bắc
Hà như thế nào?
- Các yếu tố nào ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo?
- Giải pháp nào cần có để nâng cao chất lượng đào tạo của
Trường Cao đẳng Công nghệ Bắc Hà?
1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.4.1. Đối tượng nghiên cứu
Trường Cao đẳng Công nghệ Bắc Hà là một cơ sở giáo
dục nghề nghiệp đa ngành, đa nghề. Để nghiên cứu và đề xuất
giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo của Trường Cao đẳng
Công nghệ Bắc Hà, đối tượng khảo sát gồm:
- Những sinh viên đang học tại Trường .
- Những sinh viên đã tốt nghiệp.
- Nhóm cán bộ, giáo viên giảng dạy tại Trường
- Những đơn vị sử dụng lao động được đào tạo tại Trường
Cao đẳng Công nghệ Bắc Hà
1.4.2. Phạm vi nghiên cứu
7
- Về nội dung nghiên cứu: Giải pháp nâng cao chất lượng
đào tạo Trường Cao đẳng Công nghệ Bắc Hà .
- Về không gian nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu
về nâng cao chất lượng đào tạo Trường Cao đẳng Công nghệ
Bắc Hà và những doanh nghiệp sử dụng.
- Về thời gian nghiên cứu: Số liệu nghiên cứu được thu thập
từ năm 2010 - 2012.
2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO
2.1. Cơ sở lý luận
2.1.1. Một số khái niệm cơ bản về chất lượng và chất lượng đào

tạo
2.1.1.1. Khái niệm chất lượng
Chất lượng luôn là vấn đề quan trọng, là một phạm trù
phức tạp mà con người thường hay gặp trong các lĩnh vực hoạt
động của mình. Việc phấn đấu nâng cao chất lượng được xem là
8
một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của bất kỳ cơ sở
tham gia hoạt động nào.
Vậy chất lượng là gì? Thuật ngữ "chất lượng" có nhiều
quan điểm khác nhau trong cách tiếp cận và từ đó đưa ra nhiều
địnhh nghĩa khác nhau:
Chất lượng là “tổng thể những tính chất, thuộc tính cơ bản
của sự vật (sự việc)… làm cho sự vật (sự việc) này phân biệt với
sự vật (sự việc) khác” (Từ điển tiếng Việt phổ thông, NXB Giáo
dục 1998).
Hay: Chất lượng là "cái làm nên phẩm chất, giá trị của sự
vật" hoặc là "cái tạo nên bản chất sự vật, làm cho sự vật này
khác với sự vật kia" (Từ điển tiếng Việt phổ thông, NXB Khoa
học xã hội, H.1987).
Hay: Chất lượng là "sự phù hợp với những yêu cầu hay
đặc tính nhất định" (Theo Philip B. Grosby người Mỹ).
Hay: Chất lượng là "tiềm năng của một sản phẩm hay dịch
vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu của người sử dụng" (Tiêu chuẩn
Pháp - NFX 50 - 109)
Hay: Chất lượng là "tập hợp các đặc tính của một thực thể
tạo cho thực thể đó khả năng làm thỏa mãn nhu cầu đã xác định
hoặc tiềm ẩn" (TCVN -ISO 8402 (1994)
Chất lượng phải dựa trên căn bản là đào tạo, huấn luyện và
9
giáo dục thường xuyên. Chính vì vậy, trách nhiệm về giáo dục

phụ thuộc 80% - 85% vào ban lãnh đạo.
Trên đây là một số định nghĩa tiêu biểu về chất lượng. Mỗi
định nghĩa được nêu ra dựa trên những cách tiếp cận khác nhau
về vấn đề chất lượng. Mặc dù vậy tổ chức quốc tế về tiêu chuẩn
hóa ISO đưa ra trong ISO 8402:1984: “chất lượng là một tập
hợp các tính chất đặc trưng của một thực thể, tạo cho nó khả
năng thỏa mãn những nhu cầu đã được nêu rõ hoặc còn tiềm
ẩn”. Đây là định nghĩa có ưu điểm nhất, nó được xem xét một
cách toàn diện và rộng rãi hơn; phản ánh được bản chất của sự
vật và nội dung để so sánh sự vật này với sự vật khác.
2.1.1.2. Khái niệm đào tạo
Đào tạo đề cập đến việc dạy các kỹ năng thực hành, nghề
nghiệp hay kiến thức liên quan đến một lĩnh vực cụ thể, để
người học lĩnh hội và nắm giữ những tri thức, kỹ năng nghề
nghiệp một cách có hệ thống để chuẩn bị cho người đó thích
nghi với cuộc sống và khả năng đảm nhận được một công việc
nhất định.
Khái niệm về đào tạo thường có nghĩa hẹp hơn khái niệm
giáo dục, thường đào tạo đề cập đến giai đoạn sau, khi một
người đã đạt đến một độ tuổi nhất định, có một trình độ nhất
10
định.
Có nhiều dạng đào tạo: đào tạo cơ bản, đào tọa chuyên
sâu, đào tạo chuyên môn và đào tạo nghề, đào tạo lại, đào tạo từ
xa, tự đào tạo
2.1.1.3. Khái niệm về chất lượng đào tạo
Chất lượng đào tạo được đánh giá qua mức độ đạt được
mục tiêu đào tạo đã đề ra đối với một chương trình đào tạo (Lê
Đức Ngọc, Lâm Quang Thiệp – Đại học quốc gia hà nội).
Chất lượng đào tạo là kết quả của quá trình đào tạo được

phản ánh ở các đặc trưng về phẩm chất, giá trị nhân cách và giá
trị sức lao động hay năng lực hành nghề của người tốt nghiệp
tương ứng với mục tiêu, chương tình đào tạo theo các ngành
nghề cụ thể (Trần Khánh Đức – viện nghiên cứu phát triển giáo
dục).
Chất lượng giáo dục là chất lượng thực hiện các mục tiêu
giáo dục (Lê Đức Phúc – Viện Khoa học Giáo dục).
Do đó, việc nâng cao chất lượng đào tạo được xem là
nhiệm vụ quan trọng của các cơ sở đào tạo nói chung và các
cơ sở đào tạo trung cấp chuyên nghiệp nói riêng.
Các quan niệm về chất lượng đào tạo:
- Chất lượng được đánh giá bằng "đầu vào"
Một số nước phương tây có quan điểm cho rằng "Chất
lượng đào tạo phụ thuộc vào chất lượng hay số lượng các yếu tố
11
đầu vào của cơ sở đào tạo đó". Quan điểm này được gọi là
"quan điểm nguồn lực" có nghĩa là:
"Nguồn lực" = "Chất lượng"
Theo quan điểm này nếu một trường tuyển được học sinh,
sinh viên giỏi, có đội ngũ cán bộ giảng dạy uy tín, có cơ sở vật
chất tốt… thì được coi là trường có chất lượng đào tạo tốt.
Quan điểm này đã bỏ qua quá trình tổ chức và quản lý và
đào tạo diễn ra rất đa dạng và liên tục trong một khoảng thời
gian. Sẽ khó giải thích trường hợp một trường đã có nguồn lực
"đầu vào" dồi dào nhưng chất lượng đầu ra hạn chế hoặc ngược
lại. Theo cách đánh giá này, cho rằng dựa vào chất lượng nguồn
lực đầu vào có thể đánh giá được chất lượng đầu ra.
- Chất lượng được đánh giá bằng "đầu ra"
"Đầu ra" là kết quả, là sản phẩm của quá trình đào tạo
được thể hiện bằng năng lực, chuyên môn nghiệp vụ, sự thành

thạo trong công việc hay khả năng cung cấp các dịch vụ của cơ
sở đào tạo đó. Có quan điểm cho rằng "đầu ra" của quá trình đào
tạo có tầm quan trọng hơn nhiều so với "đầu vào".
Có thể hiểu là kết quả của quả trình đào tạo và được thể
hiện ở các phẩm chất, giá trị nhân cách, năng lực hành nghề của
người tốt ghiệp tương ứng với mục tiêu đào tạo của từng ngành
đào tạo. Với yêu cầu đáp ứng nhu cầu nhân lực của thị trường
12
lao động, quan niệm về chất lượng đào tạo không chỉ dừng lại ở
kết quả của quá trình đào tạo trong nhà trường mà còn phải tính
đến mức độ thích ứng và phù hợp của người tốt nghiệp với thị
trường lao động như tỷ lệ có việc làm sau khi ra trường, khả
năng làm chủ và vị trí của người đó trong doanh nghiệp.
- Chất lượng được đánh giá bằng "Giá trị gia tăng"
Quan điểm này cho rằng một trường có tác động tích cực
và tạo ra sự khác biệt của sinh viên về trí tuệ, nhân cách… của
học sinh, sinh viên, điều đó đã cho thấy trường đã tạo ra giá trị
gia tăng cho học sinh, sinh viên đó. "giá trị gia tăng" được xác
định bằng giá trị của "đầu ra" trừ đi giá trị của "đầu vào" kết quả
thu được được coi là chất lượng đào tạo của trường.
Quan điểm này chỉ tồn tại về mặt lý thuyết vì trên thực tế
rất khó có thể thiết kế một thước đo thống nhất về mặt định
lượng để đánh giá chất lượng "đầu vào" và "đầu ra" từ đó tìm ra
mức chênh lệch để đánh giá chất lượng đào tạo.
- Chất lượng được đánh giá bằng “Giá trị học thuật”
Đây là quan điểm truyền thống của nhiều trường học
phương tây, chủ yếu dựa vào sự đánh giá của các chuyên gia về
năng lực học thuật của đội ngũ giảng viên trong từng trường
13
trong quá trình thẩm định, công nhận chất lượng đào tạo của

trường. Điều này có nghĩa là trường nào có đội ngũ giảng viên
có học vị, học hàm cao, có uy tín khoa học lớn thì được xem là
trường có chất lượng cao.
Hạn chế của quan điểm này là ở chỗ, cho dù năng lực học
thuật có thể được đánh giá một cách khách quan, thì cũng khó
có thể đánh giá những cuộc cạnh tranh của các trường để nhận
tài trợ cho các chương trình nghiên cứu trong môi trường không
thuần học thuật. Ngoài ra, liệu có thể đánh giá được năng lực
chất xám của đội ngũ giảng dạy và nghiên cứu khi có xu hướng
chuyên ngành hóa ngày càng sâu, phương pháp luận ngày càng
đa dạng. Đặc biệt là trong lĩnh vực giáo dục hiện nay có quá
nhiều các trường trung cấp, cao đẳng, đại học, xu thế đa dạng
hóa ngành nghề, lĩnh vực đào tạo; sự buông lỏng trong quản lý
cũng như khả năng quản lý yếu kém trong giáo dục đã làm cho
số lượng các học thuật mà các trường sở hữu tăng những chất
lượng cũng đang báo động.
- Chất lượng được đánh giá bằng “Văn hóa tổ chức riêng”
Quan điểm này cho rằng văn hóa tổ chức riêng có tác dụng
14
hỗ trợ cho quá trình liên tục cải tiến chất lượng. Vì vậy một
trường được đánh giá là có chất lượng khi nó có được “Văn hóa
tổ chức riêng” nhằm mục tiêu là không ngừng nâng cao chất
lượng đào tạo. Quan điểm này bao hàm cả giả thiết về bản chất
của chất lượng và bản chất của tổ chức.
- Chất lượng được đánh giá bằng “Kiểm toán”
Quan điểm này tiếp cận từ các yếu tố bên trong của tổ
chức và nguồn thông tin cung cấp cho việc ra quyết định. Nếu
kiểm toán tài chính xem xét các tổ chức có duy trì chế độ sổ
sách tài chính hợp lý hay không, thì kiểm toán chất lượng quan
tâm xem các trường có thu nhập đủ thông tin cần thiết hay

không, quá trình thực hiện các quyết định về chất lượng có hợp
lý và hiệu quả không. Quan điểm này cho rằng, nếu một cá nhân
có đủ thông tin cần thiết thì có thể có được các quyết định chính
xác, khi đó chất lượng giáo dục được đánh giá thông qua quá
trình thực hiện, còn “đầu vào” và “đầu ra” chỉ là các yếu tố phụ.
Trên thực tế có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm
chất lượng đào tạo, do khái niệm “chất lượng” được dùng chung
cho cả hai quan điểm: Chất lượng tuyệt đối và chất lượng tương
15
đối, do đó khái niệm chất lượng đào tạo cũng mang tính trừu
tượng.
Với quan niệm chất lượng tuyệt đối thì “chất lượng” được
dùng cho những sản phẩm, những đồ vật hàm chứa trong đó
những phẩm chất, những tiêu chuẩn cao nhất khó có thể vượt
qua được. Nó được dùng với nghĩa chất lượng cao, hoặc chất
lượng hàng đầu.
Với quan niệm chất lượng tương đối thì “chất lượng” được
dùng để người ta gán cho sản phẩm, đồ vật. Theo quan niệm này
thì một vật một sản phẩm, hoặc một dịch vụ được xem là có chất
lượng khi nó đáp ứng được mong muốn của người sản xuất định
ra và các yêu cầu người tiêu thụ đòi hỏi. Từ đó nhận ra rằng chất
lượng tương đối có hai khía cạnh:
Thứ nhất: Đạt được mục tiêu (phù hợp với tiêu chuẩn) do
người sản xuất đề ra. Khía cạnh này chất lượng được xem là
“chất lượng bên trong”.
Thứ hai: Chất lượng được xem là sự thỏa mãn tốt nhất
những đòi hỏi của người dùng, ở khía cạnh này chất lượng được
xem là “chất lượng bên ngoài”
16
Kết quả đào tạo phù hợp với nhu cầu xã

hội => Đạt chất lượng ngoài
Kết quả đào tạo khớp với mục tiêu đào
tạo => Đạt chất lượng trong
Kết quả đào tạo
Nhu cầu xã hội
Mục tiêu đào tạo
Theo cách tiếp cận trên thì tại mỗi trường, cơ sở đào tạo
cần xác định mục tiêu và chiến lược sao cho phù hợp với nhu
cầu của người học, của xã hội để đạt được “chất lượng bên
ngoài” đồng thời phải cụ thể hóa các mục tiêu trên thông qua
quá trình tổ chức, phối hợp giữa các bộ phận các hoạt động của
nhà trường sẽ được hướng vào nhằm mục đích đạt mục tiêu đó,
đạt “chất lượng bên trong”.

17
Sơ đồ 2.1: Sơ đồ quan niệm về chất lượng đào tạo
Nguồn: Trần Khánh Đức, 2004
Sản phẩm của quá trình đào tạo là con người và các dịch
vụ đào tạo (đầu ra) của quá trình đào tạo và được thể hiện cụ thể
ở các phẩm chất, giá trị nhân văn và năng lực vận hành nghề
nghiệp. Với yêu cầu đáp ứng nhu cầu nhân lực của thị trường
lao động, quan điểm về chất lượng đào tạo không chỉ dừng ở kết
quả của quá trình đào tạo với những điều kiện đảm bảo chất
lượng như: Cơ sở vật chất, đội ngũ giảng viên,… mà còn phải
tính đến mức độ phù hợp và thích ứng của học sinh tốt nghiệp
đối với yêu cầu công việc, yêu cầu của người sử dụng lao động
và xã hội.
Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng: Chất lượng đào tạo trước
hết phải là kết quả của quá trình đào tạo và được thể hiện trong
hoạt động nghề nghiệp của người học. Quá trình thích ứng với

thị trường lao động không chỉ phụ thuộc vào chất lượng đào tạo
mà còn phụ thuộc các yếu tố của thị trường như: Quan hệ cung –
cầu, giá cả sức lao động, chính sách sử dụng và bố trí công việc
của Nhà nước, người sử dụng lao động. Do đó khả năng thích
18
ứng còn phản ánh cả về hiệu quả đào tạo ngoài xã hội và thị
trường lao động.
2.1.1.4. Khái niệm chất lượng đào tạo của trường cao đẳng
Chất lượng đào tạo trường cao đẳng là sự đáp ứng mục
tiêu do nhà trường đề ra, đảm bảo các yêu cầu về mục tiêu giáo
dục đại học trình độ cao đẳng của Luật Giáo dục, phù hợp với
yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội
của địa phương và của ngành.
Chất lượng đào tạo của trường cao đẳng là kết quả của quá
trình đào tạo được phản ánh ở các đặc trưng về phẩm chất, giá
trị nhân cách và giá trị sức lao động hay năng lực hành nghề của
người tốt nghiệp tương xứng với mục tiêu chương trình đào tạo
theo các ngành nghề cụ thể.
Như vậy khi nói đến chất lượng đào tạo của trường cao
đẳng ta vừa nói đến chất lượng của người học đồng thời cũng
phải tính đến chất lượng của hệ thống các sản phẩm trung gian
cấu thành nên sản phẩm cuối cùng đó. Ta vẫn khẳng định chất
lượng của cơ sở vật chất, của trang thiết bị, của đội ngũ những
người thầy, của phương pháp dạy học, chất lượng của mỗi bài
19
học, mỗi hoạt động giáo dục đều tham gia cấu thành chất lượng
đào tạo.
Trong lĩnh vực đào tạo chất lượng đào tạo với đặc trưng
sản phẩm là “con người lao động" có thể là kết quả (đầu ra) của
quá trình đào tạo, với yêu cầu đáp ứng nhu cầu nhân lực của thị

trường lao động, quan niệm về chất lượng đào tạo cao đẳng
không chỉ dừng ở kết quả của quá trình đào tạo trong nhà trường
với những điều kiện đảm bảo nhất định như: cơ sở vật chất, đội
ngũ giảng viên mà còn phải tính đến mức độ phù hợp và thích
ứng của người tốt nghiệp đối với cơ quan, các tổ chức sản xuất –
dịch vụ, khả năng phát triển nghề nghiệp của bản thân họ trong
tương lai
2.1.2. Nội dung nghiên cứu chất lượng đào tạo tại trường cao
đẳng
2.1.2.1. Đánh giá chất lượng đào tạo của trường
Để đánh giá được chất lượng đào tạo của một trường thì
phải dựa vào chuẩn đầu ra của một trường đào tạo chuyên
nghiệp là một trong các hệ thống thông số thể hiện sự gắn kết
nhà trường với nhu cầu đào tạo của xã hội.
20
Chuẩn đầu ra của trường cao đẳng thể hiện rõ chất lượng
sản phẩm đầu ra trong đào tạo của nhà trường. Chuẩn đầu ra là
thông qua kiến thức chuyên môn; kỹ năng thực hành, khả năng
nhận thức công nghệ và giải quyết vấn đề; công việc mà người
học có thể đảm nhận sau khi tốt nghiệp và các yêu cầu đặc thù
khác đối với từng trình độ, ngành đào tạo.
Chất lượng đào tạo trường cao đẳng là sự đáp ứng mục
tiêu do trường đề ra, đảm bảo các yêu cầu về mục tiêu giáo dục
đại học trình độ cao đẳng của luật giáo dục, phù hợp với yêu cầu
đào tạo nguồn nhân lực cho sự phát triển kinh tế, xã hội của địa
phương và ngành.
Tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục trường cao đẳng
là mức độ yêu cầu và điều kiện mà trường cao đẳng phải đáp
ứng để được công nhận là đạt chuẩn chất lượng giáo dục.
Trần khánh Đức (2005), quản lý và kiểm định chất lượng

giáo dục nhân lực theo ISO&TQM, nhà xuất bản giáo dục Hà
Nội thì hệ thống các chỉ tiêu đánh giá chất lượng đào tạo của
trường đối với từng ngành đào tạo nhất định bao gồm:
+ Phẩm chất xã hội - nghề nghiệp
21
+ Các chỉ số về sức khỏe, tâm lý, sinh học
+ Trình độ kiến thức, kỹ năng chuyên môn;
+ Năng lực hành nghề (cơ bản và thực tiễn);
+ Khả năng thích ứng với thị trường lao động
+ Năng lực và tiềm năng phát triển nghề nghiệp
2.1.2.2. Đánh giá của cán bộ, giáo viên
Để nâng cao chất lượng đào tạo trường thì cán bộ, giáo
viên trong trường cần phải có những đánh giá khách quan dựa
trên những tiêu chí về chất lượng đào tạo đối với từng đối
tượng.
Chất lượng chương trình đào tạo của trường cao hay thấp
đều được phản ánh bằng kết quả của học tập của học sinh sinh
viên.
Sự vận dụng, khả năng tiếp thu kiến thức trong giờ học của
học sinh sinh viên sau khi kết thúc môn học.
Đối với các môn thực hành, sự đảm bảo trong mỗi giờ học
đạt hay không đạt được đánh giá bằng kỹ năng thực hành nghề
nghiệp có thuần thục hay không.
Tinh thần, thái độ và đạo đức của học sinh sinh viên được
22
cán bộ, giáo viên đánh giá rất nghiêm túc khi tham gia quản lý,
giảng dạy.
2.1.2.3. Đánh giá của học sinh, sinh viên
Trong lĩnh vực đào tạo, số lượng học sinh, sinh viên quyết
định sự tồn tại và phát triển của trường. Tuy nhiên để có được

kết quả đó cần phải nâng cao chất lượng đào tạo cho mỗi trường
bằng cách lấy ý kiến đánh giá của HSSV sau khi kết thúc năm
học.
Đối với mỗi học sinh sinh viên đang hay đã tốt nghiệp tại
các trường đều có những ý kiến, đánh giá trên cơ sở đào tạo
thực tiễn bằng các câu hỏi đánh giá sau:
Trình độ, chuyên môn nghề nghiệp của giáo viên tham gia
giảng dạy từng môn học;
Tinh thần, thái độ làm việc của cán bộ quản lý đào tạo và
giáo viên lên lớp;
Tình hình sức khỏe, khả năng làm việc mỗi cán bộ, giáo
viên có đáp ứng được nhu cầu công việc hay không.
2.1.2.4. Đánh giá của người sử dụng lao động
Người sử dụng lao động là người thụ hưởng cuối cùng
23
của quá trình đào. Những kỹ năng cơ bản của học sinh, sinh
viên được người sử dụng lao động quan tâm:
Kiến thức chuyên môn, các kỹ năng cơ bản và thái độ
hay hành vi cần thiết trong một xã hội có khuynh hướng toàn
cầu hóa.
Bên cạnh đó, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng nghiên cứu, kỹ
năng trình bày, tổ chức… là các kỹ năng không thể thiếu
được.
Nhiệt tình trong công tác, sự sáng tạo, kiến thức chuyên
môn, cá tính, các hoạt động trong lĩnh vực khác, kiến thức thực
tế, thứ hạng trong học tập và uy tín của trường đào tạo.
Mức độ quan hệ với đồng nghiệp trong doanh ngiệp.
Kết luận:
Từ cách đánh giá trên ta có cái nhìn sơ bộ về chất lượng
nói chung và chất lượng đào tạo nói riêng. Cũng qua đó, ta có

những cách tiếp cận với vấn đề về “chất lượng đào tạo” theo
nhiều khía cạnh khác nhau, để từ đó đưa ra phương pháp đánh
giá chất lượng đào tạo một cách tương đối toàn diện.
2.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo
24
Chất lượng giáo dục nói chung và đào tạo nghề nói riêng
chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan. Với
mỗi trường đào tạo có thể bị ảnh hưởng bởi các yếu tố khác
nhau nhưng để đánh giá được chất lượng đào tạo của một trường
thì cần dựa vào các các nhóm 02 ảnh hưởng như sau:
25

×