Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Khóa luận tốt nghiệp Nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn tại công ty cổ phần XD TM và DL Phương Bắc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.02 MB, 79 trang )


Trang 1

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG TÀI SẢN NGẮN
HẠN CỦA DOANH NGHIỆP
1.1 Tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm và phân loại doanh nghiệp
1.1.1.1 Khái niệm doanh nghiệp
Theo điều 4 luật doanh nghiệp năm 2014 định nghĩa: “Doanh nghiệp là tổ chức
kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký thành lập
theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh”.
Căn cứ vào định nghĩa trên thì doanh nghiệp có những đặc điểm sau:
 Là đơn vị kinh tế, hoạt động trên thương trường, có trụ sở giao dịch ổn định,
có tài sản;
 Đã được đăng ký kinh doanh;
 Hoạt động kinh doanh.
Luật doanh nghiệp 2014 cũng giải thích kinh doanh là việc thực hiện liên tục
một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ
sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi. Như vậy
doanh nghiệp là tổ chức kinh tế vị lợi, mặc dù thực tế một số tổ chức doanh nghiệp có
các hoạt động không hoàn toàn nhằm mục tiêu lợi nhuận.
1.1.1.2 Phân loại doanh nghiệp
a) Theo bản chất kinh tế của chủ sở hữu
Doanh nghiệp được chia ra làm ba loại hình chính dựa trên hình thức và giới hạn
trách nhiệm của chủ sở hữu:
 Doanh nghiệp tư nhân
 Doanh nghiệp hợp danh
 Doanh nghiệp trách nhiệm hữu hạn
b) Căn cứ vào hình thức pháp lý doanh nghiệp
Theo luật doanh nghiệp 2014 thì hình thức pháp lý của các loại hình doanh
nghiệp tại Việt Nam bao gồm:


 Công ty trách nhiệm hữu hạn (bao gồm công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành
viên trở lên và công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên) là doanh nghiệp
mà các thành viên trong công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ
tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty.
Thang Long University Library

Trang 2

 Công ty cổ phần là doanh nghiệp mà vốn điều lệ của công ty được chia thành
nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Cá nhân hay tổ chức sở hữu cổ phần của
doanh nghiệp được gọi là cổ đông và chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các
nghĩa vụ tài sản khác trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp.
 Công ty hợp danh là doanh nghiệp trong đó có ít nhất hai thành viên là chủ sở
hữu của công ty, cùng kinh doanh dưới một cái tên chung (gọi là thành viên
hợp danh). Thành viên hợp doanh phải là cá nhân và chịu trách nhiệm bằng
toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty. Ngoài ra trong công ty
hợp danh còn có các thành viên góp vốn.
 Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu
trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh
nghiệp. Mỗi cá nhân chỉ được quyền thành lập một doanh nghiệp tư nhân.
 Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được thành lập theo Luật đầu tư
nước ngoài 1996 chưa đăng kí lại hay chuyển đổi theo quy định.
c) Căn cứ vào chế độ trách nhiệm
Căn cứ vào chế độ trách nhiệm có thể phân loại các doanh nghiệp thành có chế
độ trách nhiệm vô hạn và chế độ trách nhiệm hữu hạn.
 Doanh nghiệp có chế độ trách nhiệm vô hạn: là loại hình doanh nghiệp mà ở
đó chủ sở hữu doanh nghiệp có nghĩa vụ phải trả nợ thay cho doanh nghiệp
bằng tất cả tài sản của mình, khi doanh nghiệp không đủ tài sản để thực hiện
các nghĩa vụ tài chính của nó. Theo pháp luật Việt Nam, có hai loại doanh
nghiệp có chế độ trách nhiệm vô hạn là doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp

danh.
 Doanh nghiệp có chế độ trách nhiệm hữu hạn: là những doanh nghiệp mà ở đó
chủ sở hữu chỉ phải chịu trách nhiệm về mọi khoản nợ và nghĩa vụ tài chính
của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp. Điều đó có
nghĩa là khi số tài sản của doanh nghiệp không đủ để trả nợ thì chủ sở hữu
không có nghĩa vụ phải trả nợ thay cho doanh nghiệp.
1.1.2. Hoạt động cơ bản của doanh nghiệp
1.1.2.1 Hoạt động huy động vốn
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường thì các phương thức huy động vốn của
doanh nghiệp được đa dạng hóa. Tùy theo tình hình phát triển thị trường tài chính của
mỗi quốc gia, tùy theo loại hình thức doanh nghiệp và các đặc điểm hoạt động kinh
doanh cụ thể mà mỗi doanh nghiệp có hình thức huy động vốn khác nhau.
Vốn của doanh nghiệp bao gồm vốn chủ sở hữu và nợ.

Trang 3

Vốn chủ sở hữu được huy động từ:
 Vốn góp ban đầu
 Lợi nhuận không chia
 Phát hành cổ phiếu mới
Các hình thức huy động nợ chủ yếu là huy động từ:
 Tín dụng ngân hàng
 Tín dụng thương mại
 Tín dụng thuê mua
 Phát hành trái phiếu
1.1.2.2 Hoạt động sản xuất kinh doanh
Trong thời đại ngày nay, hoạt động sản xuất tạo ra của cải vật chất và dịch vụ
luôn gắn liền với cuộc sống của con người, công việc sản xuất thuận lợi khi các sản
phẩm tạo ra được thị trường chấp nhận tức là đồng ý sử dụng sản phẩm đó. Để được
như vậy thì các chủ thể tiến hành sản xuất phải có khả năng kinh doanh.

Hoạt động kinh doanh là hoạt động mua bán trao đổi hàng hóa và dịch vụ giữa
các doanh nghiệp với nhau hoặc giữa các doanh nghiệp với người tiêu dùng cuối cùng
với mục đích là thu được lợi nhuận nhằm mục đích mở rộng sản xuất kinh doanh.
Vậy hoạt động sản xuất kinh doanh được hiểu là một quá trình liên tục từ nghiên
cứu thị trường và tìm cách đáp ứng nhu cầu đó thông qua việc thỏa mãn nhu cầu người
tiêu dùng để đạt được mục đích kinh doanh của doanh nghiệp
Đặc điểm cơ bản cùng hoạt động sản xuất kinh doanh là:
 Hoạt động kinh doanh luôn chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế, hệ thống
chính sách và luật pháp của nhà nước cũng như các yếu tố môi trường kinh
doanh khác.
 Phải nghiên cứu phân tích để xác định được nhu cầu của thị trường
 Xây dựng được chiến lược kinh doanh trên cơ sở huy động và sử dụng hợp lý
của nguồn lực của doanh nghiệp
1.1.2.3 Hoạt động khác
Khi doanh nghiệp hoạt động, nguồn thu của doanh nghiệp không chỉ từ hoạt
động sản xuất kinh doanh chính của doanh nghiệp đó mà nguồn thu có thể xuất phát từ
nhiều hoạt động khác, bao gồm thu nhập từ chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng bất
động sản; thu nhập từ quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản; thu nhập từ chuyển
nhượng, cho thuê, thanh lý tài sản; thu nhập từ lãi tiền gửi, cho vay vốn, bán ngoại tệ;
Thang Long University Library

Trang 4

hoàn nhập các khoản dự phòng; thu khoản nợ khó đòi đã xóa nay đòi được; thu khoản
nợ phải trả không xác định được chủ; khoản thu nhập từ kinh doanh của những năm
trước bị bỏ sót và các khoản thu nhập khác, kể cả thu nhập nhận được từ hoạt động sản
xuất, kinh doanh bên ngoài Việt Nam.
Thu nhập từ hoạt động chuyển nhượng bất động sản; chuyển nhượng dự án
(không gắn liền với chuyển nhượng quyền sử dụng đất, chuyển nhượng quyền thuê
đất); chuyển nhượng quyền thực hiện dự án, chuyển nhượng quyền thăm dò, khai thác,

chế biến khoáng sản theo quy định của pháp luật phải hạch toán riêng để kê khai nộp
thuế thu nhập doanh nghiệp với mức thuế suất 25%, không được hưởng ưu đãi thuế
thu nhập doanh nghiệp và không được bù trừ với thu nhập hoặc lỗ của các hoạt động
sản xuất kinh doanh khác. Trường hợp doanh nghiệp có các hoạt động chuyển nhượng
bất động sản; chuyển nhượng dự án (không gắn liền với chuyển quyền sử dụng đất,
chuyển quyền thuê đất); chuyển nhượng quyền thực hiện dự án, chuyển nhượng quyền
thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản theo quy định của pháp luật thì được bù trừ
lãi, lỗ của các hoạt động này với nhau để kê khai nộp thuế thu nhập doanh nghiệp.
1.1.3. Tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp
1.1.3.1 Khái niệm tài sản ngắn hạn
Trong nền kinh tế hiện nay, có nhiều ngành nghề mới liên tục ra đời, cùng với đó
là sự vận động liên tục của các nguồn vốn của doanh nghiệp nên khái niệm về tài sản
ngắn hạn ngày càng được mở rộng. Tài sản là tất cả những nguồn lực có giá trị thuộc
quyền sở hữu của doanh nghiệp và là yếu tố quan trọng không thể thiếu trong quá trình
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Khác với những tư liệu lao động, đối tượng lao
động chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất, đến chu kỳ sản xuất tiếp theo phải sử dụng
đối tượng lao động khác. Lượng tiền ứng trước để thỏa mãn nhu cầu về các đối tượng
lao động gọi là tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp.
Như vậy, có thể định nghĩa: “Tài sản ngắn hạn là loại tài sản có thể dễ dàng
chuyển đổi sang tiền trong vòng 1 năm hoặc trong 1 chu kỳ sản xuất kinh doanh. Tài
sản ngắn hạn bao gồm tiền và các khoản tương đương tiền, các khoản phải thu ngắn
hạn, các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn, hàng tồn kho và những tài sản khác có tính
thanh khoản cao”.
Tài sản ngắn hạn quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp bởi đó là loại tài sản được sử dụng trong hoạt động kinh doanh hàng ngày, chi
trả cho các chi phí phát sinh để tạo ra sản phẩm. Cơ cấu của các loại tài sản ngắn hạn
của doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thường chiếm tỷ trọng cao trong tổng tài sản.
Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn có ảnh hưởng đến việc
hoàn thành chỉ tiêu kinh doanh của doanh nghiệp. Mặc dù phần lớn các trường hợp


Trang 5

phá sản trong kinh doanh là hệ quả của nhiều yếu tố, chứ không phải do việc quản trị
tài sản ngắn hạn quyết định tất cả. Nhưng cũng phải thấy rằng sự quản lý không tốt các
loại tài sản ngắn hạn và các khoản nợ ngắn hạn là nguyên nhân đầu tiên dẫn đến những
thất bại của doanh nghiệp.
Trong doanh nghiệp, tài sản ngắn hạn được phân biệt với tài sản dài hạn ở những
đặc điểm về luân chuyển. Khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh, khác với tài
sản dài hạn chỉ dịch chuyển từng phần vào giá thành sản phẩm, thì tài sản ngắn hạn
dịch chuyển toàn bộ và một lần vào giá trị sản phẩm. Chính vì vậy, tài sản ngắn hạn
chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất kinh doanh và khi kết thúc chu kỳ sẽ hoàn thành
một vòng luân chuyển. Ngoài ra, trong quá trình luân chuyển ngày, tài sản ngắn hạn
liên tục thay đổi hình thái. Trong doanh nghiệp sản xuất, sự thay đổi này được thể hiện
qua chu trình: T-H-SX-H’-T’. Mở đầu chu kỳ sản xuất kinh doanh, tài sản ngắn hạn có
hình thái tiền tệ. Sau đó chuyển sang hình thái nguyên vật liệu dự trữ. Qua quá trình
sản xuất, các nguyên vật liệu dự trữ thành thành phẩm hay bán thành phẩm. Kết thúc
quá trình này, khi đã tiêu thụ được thành phẩm, tài sản ngắn hạn lại quay trở về hình
thái ban đầu. Đối với doanh nghiệp thương mại, quá trình này bao gồm: T-H-T’. Tài
sản ngắn hạn cũng có hình thái ban đầu là tiền tệ, sau đó chuyển sang hàng hóa và cuối
cùng quay trở lại hình thái tiền tệ. Như vậy, có thể nói tài sản ngắn hạn luôn tham gia
vào tất cả các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh thông qua sự vận động thường
xuyên và thay đổi các hình thái.
Từ đó có thể thấy rằng đặc điểm của tài sản ngắn hạn bao gồm những điểm sau:
 Tài sản ngắn hạn có tính thanh khoản cao nên đáp ứng được khả năng thanh
toán của doanh nghiệp.
 Tài sản ngắn hạn là một bộ phần của nguồn vốn sản xuất nên nó vận động và
luân chuyển liên tục trong mọi giai đoạn của quá trình sản xuất kinh doanh.
 Tài sản ngắn hạn có thể dễ dàng chuyển đổi từ dạng vật chất sang tiền tệ nên
việc quản lý là rất phức tạp.
1.1.3.2 Vai trò của tài sản ngắn hạn

Để tiến hành sản xuất kinh doanh, ngoài những tài sản cố định như máy móc, nhà
xưởng, thiết bị … doanh nghiệp cũng phải bỏ ra một lượng tiền nhất định để mua sắm
hàng hóa, nguyên vật liệu phục vụ cho quá trình sản xuất. Như vậy, tài sản ngắn hạn là
điều kiện đầu tiên để doanh nghiệp đi vào hoạt động hay nói các khác tài sản ngắn hạn
là điều kiện tiên quyết của quá trình sản xuất kinh doanh.
Thang Long University Library

Trang 6

Ngoài ra tài sản ngắn hạn còn đảm bảo cho quá trình tái sản xuất của doanh
nghiệp được tiến hành thường xuyên, liên tục. Tài sản ngắn hạn còn là công cụ phản
ánh đánh giá quá trình mua sắm, dự trữ, sản xuất, tiêu thụ của doanh nghiệp.
Tài sản ngắn hạn còn có khả năng quyết định đến quy mô hoạt động của doanh
nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp hoàn toàn tự chủ trong việc sử
dụng vốn nên khi muốn mở rộng quy mô của danh nghiệp phải huy động một lượng
vốn nhất định để đầu tư ít nhất là đủ để dự trữ vật tư hàng hóa. Tài sản ngắn hạn còn
giúp cho doanh nghiệp chớp được thời cơ kinh doanh và tạo lợi thế cạnh tranh cho
doanh nghiệp.
Tài sản ngắn hạn còn là bộ phận chủ yếu cấu thành nên giá thành sản phẩm do
đặc điểm luân chuyển toàn bộ một lần vào giá trị sản phẩm. Giá trị của hàng hóa bán
ra được tính toán trên cơ sở bù đắp được giá thành sản phâm cộng thêm một phần lợi
nhuận. Do đó, tài sản ngắn hạn đóng vai trò quyết định trong việc tính giá cả của hàng
hóa bán ra.
1.1.3.3 Phân loại tài sản ngắn hạn
Việc quản lý và sử dụng tài sản ngắn hạn muốn tiến hành một cách khoa học và
hiệu quả đòi hỏi nhà quản lý phải nắm được thành phần và kết cấu của tài sản ngắn
hạn, từ đó có các biện pháp điều chỉnh và nâng cao hiệu suất sử dụng tài sản ngắn hạn.
Người ta sử dụng các tiêu thức khác nhau để phân loại tài sản ngắn hạn tùy thuộc vào
mục tiêu của nhà quản lý. Có hai tiêu thức phân loại chủ yếu thường được sử dụng:
phân loại theo hình thái biểu hiện và phân loại theo vai trò của tài sản ngắn hạn đối với

quá trình sản xuất kinh doanh.
a) Phân loại theo hình thái biểu hiện
Theo cách phân loại này tài sản ngắn hạn có thể chia thành các loại sau:
 Tiền và các khoản tương đương tiền:
Gồm tiền mặt tại quỹ, tiền gửi ngân hàng, tiền đang chuyển. Tiền là loại tài sản
có tính thanh khoản cao nhất, đứng đầu tiên bên tài sản trên bảng cân đối kế toán. Loại
tài sản này có thể dễ dàng chuyển đổi thành các tài sản khác hoặc thanh toán các nghĩa
vụ tài chính cho doanh nghiệp, bởi vậy nó cho phép doanh nghiệp duy trì khả năng chi
trả và phòng tránh rủi ro thanh toán. Bên cạnh đó các tài sản dạng đặc biệt như: vàng,
bạc, đá quý, kim khí quý được dùng chủ yếu cho mục đích dự trữ. Tuy nhiên, tiền mặt
cũng là loại tài sản không hoặc gần như không sinh lợi, bởi vậy việc giữ tiền mặt ở
mức độ nào để vừa đảm bảo an toàn vừa tiết kiệm vốn lại là một câu hỏi quan trọng
cần nhà quản trị tài chính quan tâm giải quyết.


Trang 7

 Đầu tư tài chính ngắn hạn:
Mục tiêu của các doanh nghiệp là việc sử dụng các loại tài sản sao cho hiệu quả
đạt được là nhất. Các loại chứng khoán gần như tiền mặt được giữ vai trò như một
“bước đệm” cho tiền mặt vì nếu số dư tiền mặt nhiều doanh nghiệp có thể đầu tư vào
những loại chứng khoán có khả năng thanh khoản cao, nhưng khi cần thiết thì hoàn
toàn cũng có thể chuyển đổi chúng sang tiền mặt một cách dễ dàng và ít tốn kém chi
phí. Do đó trong việc quản trị tài chính người ta sử dụng những loại chứng khoán có
khả năng thanh khoản cao để duy trì tiền mặt ở mức độ mà doanh nghiệp mong muốn.
Qua phân tích trên ta thấy tiền mặt là một loại hàng hóa nhưng đây là hàng hóa đặc
biệt-một tài sản có tính thanh khoản nhất. Trong kinh doanh, doanh nghiệp luôn cần có
một lượng tiền mặt và phải dùng nó để trả cho các hóa đơn một cách đều đặn. Khi
lượng tiền mặt này hết, doanh nghiệp phải bán các chứng khoán có khả năng thanh
khoản cao để có lại được lượng tiền như ban đầu. Ta có thể thấy rõ hơn điều này qua

sơ đồ sau:
Sơ đồ 1.1. Sơ đồ luân chuyển tiền mặt











 Các khoản phải thu:
Trong nền kinh tế thị trường việc mua bán trả chậm là một hoạt động không thể
thiếu. Các doanh nghiệp bán hàng song có thể không nhận được ngay tiền hàng lúc
bán mà có thể phải nhận sau một thời gian xác định mà hai bên đã thoả thuận, chính
việc này đã hình thành nên phần lớn các khoản phải thu của doanh nghiệp.Việc cho
các doanh nghiệp khác nợ như vậy chính là hình thức tín dụng thương mại. Với hình
thức này có thể làm cho doanh nghiệp đứng vững trên thị trường và trở nên giàu có
Các chứng khoán thanh
khoản cao
Đầu tư tạm thời bằng
cách mua chứng
khoán có tính thanh
khoản cao
Bán những chứng
khoán thanh khoản
cao để bổ sung cho
tiền mặt

Dòng thu tiền
mặt
Tiền mặt
Dòng chi tiền
mặt
Thang Long University Library

Trang 8

nhưng cũng không tránh khỏi những rủi ro trong hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp. Khoản phải thu giữ một vai trò quan trọng bởi nếu các nhà quản lý không cân
đối giữa các khoản phải thu thì doanh nghiệp sẽ gặp phải những khó khăn thâm chí có
thể dẫn đến tình trạng mất khả năng thanh toán.

 Hàng tồn kho:
Trong quá trình luân chuyển tài sản ngắn hạn phục vụ cho sản xuất, kinh doanh
thì việc vật tư hàng hoá dự trữ, tồn kho là những bước đệm cần thiết cho quá trình hoạt
động bình thường của doanh nghiệp. Hàng tồn kho có ba loại: nguyên vật liệu thô
phục vụ cho quá trình sản xuất, kinh doanh; sản phẩm dở dang và thành phẩm. Các
doanh nghiệp không thể tiến hành sản xuất đến đâu mua hàng đến đó mà cần phải có
nguyên vật liệu dự trữ. Nguyên vật liệu dự trữ không trực tiếp tạo ra lợi nhuận nhưng nó
có vai trò rất lớn để cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tiến hành được
bình thường. Tuy nhiên nếu doanh nghiệp dự trữ quá nhiều sẽ gây tốn kém chi phí, dẫn
đến ứ đọng vốn và thậm chí nếu sản phẩm thuộc loại khó bảo quản có thể bị hư hỏng.
Ngược lại, nếu doanh nghiệp dự trữ quá ít nguyên vật liệu sẽ làm cho quá trình sản xuất
kinh doanh bị gián đoạn, các khâu tiếp theo trong quá trình sản xuất sẽ không thể tiếp tục
được nữa, việc này đồng thời với việc không hoàn thành được kế hoạch sản xuất. Hàng
tồn kho trong quá trình sản xuất là các loại nguyên liệu nằm tại từng công đoạn của
dây truyền sản xuất. Thông thường quá trình sản xuất của các doanh nghiệp được chia
thành nhiều công đoạn, giữa những công đoạn này bao giờ cũng xuất hiện những bán

thành phẩm. Khi tiến hành sản xuất xong sản phẩm hầu hết các doanh nghiệp chưa thể
tiêu thụ hết sản phẩm. Phần vì lý do có “độ trễ” nhất định giữa quy trình sản xuất và
tiêu dùng, phần khác là do phải có đủ lô hàng mới xuất được Những doanh nghiệp
mà sản xuất mang tính thời vụ và có quy trình chế tạo tốn nhiều thời gian thì phần dự
trữ, tồn kho sản phẩm sẽ lớn. Do đó để đảm bảo cho sự ổn định sản xuất, doanh nghiệp
phải duy trì một lượng hàng tồn kho dự trữ an toàn và tuỳ thuộc vào loại hình doanh
nghiệp khác nhau mà mức dự trữ an toàn khác nhau.
Phân loại theo hình thái biểu hiện cho phép doanh nghiệp xem xét đánh giá mức
tồn kho dự trữ và khả năng thanh toán của doanh nghiệp, biết được kết cấu tài sản
ngắn hạn theo hình thái biểu hiện để có hướng điều chỉnh hợp lý và hiệu quả.
b) Phân loại theo vai trò của tài sản ngắn hạn với quá trình sản xuất kinh doanh
 Tài sản ngắn hạn trong khâu dự trữ : là toàn bộ tài sản ngắn hạn có trong
khâu dự trữ của doanh nghiệp mà không tính đến hình thái biểu hiện của chúng, bao
gồm: tiền mặt tại quỹ, tiền gửi ngân hàng, tiền đang chuyển, hàng mua đang đi đường,
nguyên nhiên vật liệu tồn kho, công cụ dụng cụ trong kho, hàng gửi gia công, trả trước
cho người bán.

Trang 9

 Tài sản ngắn hạn trong khâu sản xuất: là toàn bộ tài sản ngắn hạn có trong
khâu sản xuất của doanh nghiệp, bao gồm: giá trị bán thành phẩm, các chi phí sản xuất
kinh doanh dở dang, chi phí trả trước, chi phí chờ kết chuyển, các khoản chi phí khác
phục vụ cho quá trình sản xuất…
 Tài sản ngắn hạn trong khâu lưu thông: là toàn bộ tài sản ngắn hạn có trong
khâu lưu thông của doanh nghiệp, bao gồm: thành phẩm tồn kho, hàng gửi bán, các
khoản nợ phải thu của khách hàng.
Cách phân loại tài sản ngắn hạn theo vai trò với quá trình sản xuất kinh doanh
giúp cho các nhà quản lý doanh nghiệp xác định được các nhân tố gây ảnh hưởng đến
quá trình luân chuyển của tài sản ngắn hạn để có thể đưa ra các biện pháp quản lý thích
hợp để nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn một cách cao nhất.

1.1.3.4 Kết cấu của tài sản ngắn hạn và các nhân tố ảnh hưởng đến kết cấu tài sản
ngắn hạn
Kết cấu tài sản ngắn hạn là tỷ trọng giữa từng bộ phận tài sản ngắn hạn trên tổng
số tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp. Bên cạnh việc nghiên cứu các cách phân loại tài
sản ngắn hạn theo những tiêu thức khác nhau, doanh nghiệp còn phải đánh giá và nắm
bắt được kết cấu của tài sản ngắn hạn ở từng cách phân loại đó. Kết cấu tài sản ngắn
hạn thể hiện thành phần và các mối quan hệ tỷ lệ thành phần trong tổng số tài sản ngắn
hạn của doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp có kiểu kết cấu tài sản ngắn hạn khác nhau.
Việc phân tích kết cấu tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp theo các tiêu thức phân loại
khác nhau sẽ giúp doanh nghiệp hiểu rõ hơn những đặc điểm của tài sản ngắn hạn mà
mình đang quản lý, sử dụng từ đó xác định đúng các trọng điểm và các biện pháp quản
lý tài sản ngắn hạn có hiệu quả phù hợp với các điều kiện của doanh nghiệp. Bên cạnh
đó việc phân tích, theo dõi kết cấu tài sản ngắn hạn trong các thời kì khác nhau có thể
thấy được những biến đổi tích cực cũng như những hạn chế trong việc quản lý tài sản
ngắn hạn của doanh nghiệp. Các nhân tố ảnh hưởng đến kết cấu của tài sản ngắn hạn
doanh nghiệp có nhiều loại, tuy nhiên có thể chia thành những nhóm chính:
 Các nhân tố về mặt cung ứng vật tư như khoảng cách giữa doanh nghiệp với
nơi cung cấp, khả năng cung ứng của thị trường, kì hạn giao hàng và khối
lượng vật tư được cung cấp mỗi lần giao hàng, chủng loại vật tư được cung
cấp…đều ảnh hưởng đến tỷ trọng tài sản ngắn hạn vào khâu dự trữ.
 Các nhân tố về mặt sản xuất cũng như đặc điểm kĩ thuật, công nghệ sản xuất
của doanh nghiệp, mức độ phức tạp của sản phẩm chế tạo: độ dài của chu kì
sản xuất, trình độ tổ chức của quá trình sản xuất.
Thang Long University Library

Trang 10

 Những nhân tố về thanh toán: những doanh nghiệp sử dụng phương thức thanh
toán hợp lí, giải quyết thanh toán kịp thời thì tỷ trọng tài sản ngắn hạn sẽ
không thay đổi. Đồng thời việc chấp hành kỉ luật thanh toán của khách hàng

cũng ảnh hưởng tới kết cấu của tài sản ngắn hạn.
 Điều kiện tiêu thụ sản phẩm cũng có ảnh hưởng nhất định tới kết cấu tài sản
ngắn hạn. Quy mô sản phẩm tiêu thụ lớn hay nhỏ, khoảng cách giữa các công
trình và doanh nghiệp dài hay ngắn đều ảnh hưởng đến tỷ trọng tài sản ngắn
hạn trong lưu thông.
1.2. Hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp
Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường hiện nay thì việc nâng cao hiệu quả sử
dụng tài sản ngắn hạn có ý nghĩa hết sức quan trọng trong công tác quản lý tài chính
doanh nghiệp. Thực tế trong nhiều năm trở lại đây cho thấy tài sản ngắn hạn ở một số
doanh nghiệp được sử dụng còn tùy tiện, kém hiệu quả và đặc biệt là ở các doanh
nghiệp nhà nước. Do đó, việc sử dụng hiệu quả tài sản ngắn hạn hiện nay luôn là yêu
cầu mang tính cấp thiết đối với sự phát triển của các doanh nghiệp.
1.2.1. Hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn
1.2.1.1 Khái niệm hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn
Hiệu quả sản xuất kinh doanh luôn là vấn đề mà các doanh nghiệp quan tâm,
quản trị kinh doanh sản xuất có hiệu quả thì doanh nghiệp mới có thể bám trụ và phát
triển trên thị trường. Để đạt được hiệu quả đó đòi hỏi doanh nghiệp phải cần nhiều cố
gắng và có những chiến lược cũng như sách lược hợp lý ngay từ khâu sản xuất cho đến
tận khi sản phẩm được đến tay người tiêu dùng.
Mục đích cuối cùng của doanh nghiệp bao giờ cũng là đạt được những mục tiêu
mà doanh nghiệp đã đề ra. Chính vì vậy quan niệm về hiệu quả kinh doanh của mỗi
doanh nghiệp là hoàn toàn khác nhau. Tuy nhiên để đi đến mục đích cuối cùng thì vấn
đề chung mà các doanh nghiệp đều cần phải quan tâm và chú trọng đến đó chính là
hiệu quả sử dụng vốn và tài sản trong doanh nghiệp.
Hiệu quả sử dụng tài sản trong doanh nghiệp là một phạm trù kinh tế phản ánh
trình độ, năng lực khai thác và sử dụng tài sản của doanh nghiệp vào hoạt động sản
xuất kinh doanh của mình nhằm mục đích tối đa hoá lợi ích và tối thiểu hoá chi phí.
Với mỗi doanh nghiệp có một sự cân đối về tài sản riêng, mỗi loại tài sản cũng
phải khác nhau. Nếu như các doanh nghiệp kinh doanh về lĩnh vực chế biến hay về
lĩnh vực công nghiệp nặng thì tài sản cố định là phần chiếm một tỷ lệ rất cao trong

tổng giá trị tài sản của doanh nghiệp. Ngược lại với các doanh nghiệp lĩnh vực thương

Trang 11

mại thì tài sản ngắn hạn lại chiếm tỷ lệ chủ yếu trong tổng giá trị tài sản của doanh
ngiệp.
Đặc biệt đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu thì tài sản ngắn hạn đóng một
vai trò hết sức là quan trọng. Các nhà quản lý doanh nghiệp xuất nhập khẩu luôn phải
cân nhắc làm thế nào để sử dụng các loại tài sản ngắn hạn một cách hiệu quả nhất.
Sử dụng tài sản ngắn hạn một cách hiệu quả là kết quả đạt được cao nhất với mục
tiêu mà doanh nghiệp đã đặt ra. Nghĩa là phải làm như thế nào để có được nhiều lợi
nhuận nhất từ việc khai thác và sử dụng tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp vào hoạt
động sản xuất kinh doanh nhằm tối đa hóa lợi ích và tối thiểu hóa chi phí.
1.2.1.2 Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn
Dù là loại hình doanh nghiệp nào thì việc nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn
hạn bao giờ cũng là một biện pháp quan trọng giúp các doanh nghiệp đạt được mục
tiêu lợi nhuận và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh
doanh diễn ra thường xuyên, liên tục.
Kết quả kinh doanh của doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào công tác quản lý và
sử dụng tài sản ngắn hạn. Nếu doanh nghiệp không đảm bảo đủ lượng tài sản ngắn hạn
đáp ứng kịp thời cho quá trình sản xuất kinh doanh thì quá trình này sẽ bị gian đoạn,
ảnh hưởng đến việc quay vòng vốn. Ngược lại, nếu doanh nghiệp tăng cường quản lý,
nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn sẽ làm cho vốn quay vòng nhanh, chớp được
cơ hội đầu tư, thu được nhiều lợi nhuận. Thường xuyên nâng cao hiệu quả sử dụng tài
sản ngắn hạn sẽ góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và tăng lợi nhuận
cho doanh nghiệp.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh và lợi nhuận luôn là mối quan tâm và mục tiêu
hàng đầu của các doanh nghiệp. Để đạt được mục tiêu đó thì một trong những biện
pháp mà mất kì một doanh nghiệp nào cũng cần đó là không ngừng nâng cao hiệu quả

sử dụng tài sản ngắn hạn. Đó chính là chìa khóa, là con đường ngắn nhất giúp doanh
nghiệp có được kết quả kinh doanh tốt nhất cho mình.
Sự vận động của tài sản ngắn hạn phản ánh sự vận động của vật tư, hàng hóa,
vốn bằng tiền…tài sản ngắn hạn luân chuyển nhanh hay chậm phản ánh số lượng vật
tư sử dụng tiết kiệm hay lãng phí, tốc độ thu hồi các khoản phải thu như thế nào. Từ
đó, doanh nghiệp có các biện pháp thích hợp nhằm kiểm tra giảm sát một cách toàn
diễn đối với các khoản mục trong cơ cấu tài sản ngắn hạn, đảm bảo tài sản ngắn hạn
không bị ứ đọng ở các khâu. Sử dụng tài sản ngắn hạn hợp lýkhông những giúp giảm
chi phí hạ giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh trên thị trường mà còn giúp doanh
Thang Long University Library

Trang 12

nghiệp khai thác tối đa năng lực làm việc của tài sản cố định, làm tăng lợi nhuận, góp
phần vào công tác bảo toàn và phát triển vốn kinh doanh.
Mục tiêu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là thu được lợi nhuận và lợi ích
xã hội chung, nhưng bên cạnh đó một vấn đề quan trong đặt ra cho các doanh nghiệp
là bảo toàn tài sản ngắn hạn. Do đặc điểm của tài sản ngắn hạn là chu chuyển một lần,
toàn bộ vào giá trị của sản phẩm, hình thái vốn lưu động thường xuyên biến đổi nên
việc bảo toàn tài sản ngắn hạn thực chất là đảm bảo cho số vốn cuối kì đủ mua một
lượng vật tư, hàng hóa tương đương với đầu kì khi giá cả hàng hóa tăng lên.
Như vậy, có thể nói nâng cao hiệu quả tổ chức và sử dụng tài sản ngắn hạn luôn
là mối quan tâm hàng đầu của mỗi doanh nghiệp. Nó gắn liền với sự phát triển của mỗi
doanh nghiệp, là tiêu chí để đo hiệu quả kinh doanh giữa các kỳ. Do vậy, phải không
ngừng nâng cao hiệu quả cao nhất với chi phí thấp nhất, đảm bảo mục tiêu kinh doanh
của các doanh nghiệp.
1.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp
1.2.2.1 Chính sách quản lý tài sản ngắn hạn
Chính sách quản lý tài sản ngắn hạn là mô hình tài trợ cho tài sản ngắn hạn mà
doanh nghiệp theo đuổi. Trước khi xem xét chính sách quản lý tài sản ngắn hạn của

doanh nghiệp, chúng ta tìm hiểu các mô hình quản lý tài sản ngắn hạn và quản lý nợ
ngắn hạn. Sự kết hợp giữa chúng sẽ tạo nên những chính sách quản lý tài sản ngắn hạn
khác nhau.
Chính sách tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp có thể được nhận biết thông qua
mô hình quản lý tài sản ngắn hạn và mô hình quản lý nợ ngắn hạn của doanh nghiệp.
Khi kết hợp hai mô hình này, ta có thể có 3 chính sách: chính sách cấp tiến, chính sách
thận trọng và chính sách dung hòa.
Hình 1.1. Chính sách quản lý tài sản ngắn hạn
Cấp tiến
Thận trọng
Dung hòa





 Chính sách quản lý cấp tiến: Sự kết hợp giữa mô hình quản lý tài sản ngắn
hạn cấp tiến và nợ ngắn hạn cấp tiến tạo nên chính sách tài sản ngắn hạn cấp tiến. Với
chính sách này, doanh nghiệp đã sử dụng một phần tài sản ngắn hạn để tài trợ cho tài
TSNH

TSDH
NV
NH

NV
DH
TSNH



TSDH
NV
NH

NV
DH
TSNH

TSDH
NV
NH

NV
DH

Trang 13

sản dài hạn. Ưu điểm của chính sách này là chi phí huy động vốn thấp hơn, tuy nhiên
sự ổn định của nguồn không cao do nguồn ngắn hạn được sử dụng nhiều, khả năng
thanh toán ngắn hạn cũng không được đảm bảo. Tóm lại, chính sách này đem lại thu
nhập cao và rủi ro cao.
 Chính sách quản lý thận trọng:Chính sách này là sự kết hợp giữa mô hình
quản lý tài sản ngắn hạn thận trọng và nợ ngắn hạn thận trọng. Doanh nghiệp đã sử
dụng một phần nguồn tài sản dài hạn để tài trợ cho tài sản ngắn hạn. Chính sách này
mang lại khá nhiều ưu điểm như khả năng thanh toán được đảm bảo, tính ổn định của
nguồn cao và hạn chế các rủi ro trong kinh doanh. Tuy nhiên, doanh nghiệp lại mất chi
phí huy động vốn cao hơn do lãi suất dài hạn thường cao hơn lãi suất ngắn hạn. Tóm
lại, chính sách này, doanh nghiệp có mức thu nhập thấp và rủi ro thấp.
 Chính sách quản lý dung hòa:Với hai kiểu chính sách trên, doanh nghiệp chỉ
có thể đạt được thu nhập cao với mức rủi ro cao (chính sách cấp tiến) hoặc mức rủi ro

thấp nhưng thu nhập lại thấp (chính sách thận trọng). Để dung hòa giữa hai phương án,
doanh nghiệp có thể lựa chọn chính sách dung hòa: kết hợp quản lý tài sản thận trọng
với nợ cấp tiến hoặc kết hợp quản lý tài sản cấp tiến với nợ thận trọng. Chính sách này
dựa trên cơ sở nguyên tắc tương thích: tài sản dài hạn được tài trợ hoàn toàn bằng
nguồn ngắn hạn và tài sản ngắn hạn được tài trợ bằng nguồn dài hạn. Tuy nhiên, trên
thực tế, để đạt được trang thái tương thích không hề đơn giản do vấp phải những vấn
đề như sự tương thích kì hạn, luồng tiền hay khoảng thời gian, do vậy chính sách này
chỉ cố tiến tới trạng thái tương thích, duy hòa rủi ro và tạo ra mức thu nhập trung bình.
Trên đây là các mô hình cơ bản về chính sách quản lý tài sản ngắn hạn trong
doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp có thể lựa chọn một chính sách tài sản ngắn hạn
riêng và việc quản lý tài sản ngắn hạn tại mỗi doanh nghiệp sẽ mang những đặc điểm
rất khác nhau. Tuy nhiên, về cơ bản, nội dung chính của quản lý tài sản ngắn hạn vẫn
quản lý các bộ phận cấu thành nên tài sản ngắn hạn.
1.2.2.2 Quản lý tiền mặt
Tiền mặt là một bộ phận cấu thành của tài sản ngắn, có tính thanh khoản cao nhất
và trực tiếp quyết định khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Tuy nhiên, tiền mặt bản
thân nó không sinh lời, nó chỉ sinh lời khi được sử dụng vào mục đích nhất định. Hơn
nữa do có tính thanh khoản cao nên tiền mặt rất dễ bị thất thoát, gian lận và lợi dụng.
Vì vậy quản lý tiền mặt đòi hỏi vừa phải đảm bảo độ an toàn tuyệt đối, khả năng sinh
lời cao song cũng phải đáp ứng kịp thời các nhu cầu thanh toán của doanh nghiệp.
Trong các doanh nghiệp, nhu cầu tiền mặt thường do 3 lý do chính: nhằm đáp ứng yêu
cầu giao dịch, thanh toán hằng ngày như chi trả tiền mua hàng, trả tiền lương, tiền
công, cổ tức hoặc nộp thuế…; nắm bắt các cơ hội kinh doanh, cơ hội đầu tư sinh lời;
Thang Long University Library

Trang 14

nhu cầu dự phòng hoặc đề phòng các rủi ro bất ngờ ảnh hưởng đến việc thu chi tiền
mặt của doanh nghiệp. Quản lý tiền mặt là nội dung quan trọng trong việc quản lý tài
sản ngắn hạn. Nội dung chủ yếu của công tác quản trị tiền mặt của doanh nghiệp là xác

định đủ mức dự trữ biên và quản lý hoạt động thu chi tiền mặt. Để xác định được mức
dự trữ tiền tối ưu, chúng ta có thể áp dụng mô hình Baumol.
William Baumol là người đầu tiên đưa ra mô hình quyết định số dư tiền mặt kết
hợp giữa chi phí cơ hội và chi phí giao dịch. Mô hình này được thiết lập nhằm xác
định số dư tiền mặt mục tiêu với các giải định là: Nhu cầu về tiền của doanh nghiệp là
ổn định, không có dự trữ tiền mặt cho mục đích an toàn, doanh nghiệp chỉ có hai hình
thức dự trữ: tiền mặt và chứng khoán khả thị, không có rủi ro trong đầu tư chứng
khoán. Mô hình này xác định mức tiền mặt mà tại đó, tổng chi phí là nhỏ nhất.
Tổng chi phí (TC) bao gồm:
 Chi phí giao dịch (TrC): là chi phí chuyển chứng khoán thành tiền mặt để đáp
ứng nhu cầu chi tiêu một năm.
TrC
=
T x F
C

T: Tổng nhu cầu về tiền trong năm
C: Quy mô một lần bán chứng khoán
F: Chi phí cố định của một bán chứng khoán
 Chi phí cơ hội (OC): là chi phí mất đi khi tiền mặt không đầu tư được vào
chứng khoán khả thị.
OC
=
C x K
2

C/2: Mức dự trữ tiền mặt trung bình
K: lãi suất đầu tư chứng khoán
 Tổng chi phí (TC)
TC = TrC + OC

Để tổng chi phí là nhỏ nhất thì đạo hàm cấp một của TC bằng 0 và mức dự trữ
tiền mặt tối ưu là:
Hình 1.2. Mô hình mức dự trữ tiền mặt tối ưu

Chi phí giữ tiền mặt
Dự trữ tiền mặt
Tổng chi phí
C*
Phí cơ hội

Trang 15

Ta có công thức:
C*=

2𝑥𝑇𝑥𝐹
𝐾

C
*
chính là mức dự trữ tiền mặt tại đó phí cơ hội bằng phí giao dịch và tổng chi
phí cực tiểu.
Ngoài mô hình Baumol thì chúng ta có thể áp dụng mô hình Miller Orr để xác
định mức dự trữ tiền tối ưu.
Mô hình Miller Orr, với các giả định của mô hình Miller Orr là:
 Thu chi tiền mặt tại doanh nghiệp là ngẫu nhiên.
 Luồng tiền mặt ròng biến động theo phân phối chuẩn.
Trong đó, chênh lệch giữa giới hạn trên và giới hạn dưới phụ thuộc 3 yếu tố: Sự
biến động của dòng tiền hàng ngày tại Công ty; phí giao dịch trên thị trường tài chính;
lãi suất của các nguồn huy động vốn.

Hình 1.3. Mô hình Miller Orr

Việc sử dụng mô hình Miller Orr giúp Công ty có cơ sở để xác định được mức
dự trữ tiền mặt tối ưu cho hoạt động sản xuất kinh doanh, phù hợp với điều kiện phát
triển, thông qua hoạt động tính toán mức dự trữ theo công thức:
 Tồn quỹ tiền mặt mục tiêu:
Z
*
= (3Fσ² / 4K + L)
1/3
Trong đó:
Z
*
là số dư tiền mặt tối ưu
F là chi phí cố định phát sinh khi giao dịch trên thị trường tài chính
0
Giới hạn trên
Giới hạn dưới
Mức tiền mặt
theo thiết kế
Thời gian
A
B
Số dư tiền mặt
Thang Long University Library

Trang 16

σ² là phương sai của dòng tiền mặt hàng ngày
K là chi phí cơ hội giữ tiền mặt

L là tồn quỹ tiền mặt tối thiểu (giới hạn dưới)

 Tồn quỹ tiền mặt tối đa:
H
*
= 3Z
*
- 2L
Trong đó:
H
*
là số dư tiền mặt tối đa
Z
*
là số dư tiền mặt tối ưu
L là tồn quỹ tiền mặt tối thiểu (giới hạn dưới)
 Tồn quỹ tiền mặt trung bình:
C
trung bình
=
4Z
*
- L
3

Trong đó:
C
trung bình
là tồn quỹ tiền mặt trung bình
Z

*
là số dư tiền mặt tối ưu
L là tồn quỹ tiền mặt tối thiểu (giới hạn dưới)
Mục tiêu của quản lý tiền mặt là phải đảm bảo cho việc tăng đầu tư lượng tiền
mặt nhàn rỗi nhằm thu lợi nhuận trong khi vẫn duy trì mức thanh khoản hợp lý để đáp
ứng các nhu cầu trong tương lai. Các công ty cần phải lập kế hoạch khi nào thì có tiền
nhàn rỗi có thể dành cho đầu tư và khi nào thì cần vay thêm tiền.
Như vậy để quản lý tiền mặt hiệu quả thì ta cần đưa ra các biện pháp sau:
 Quản lý chặt chẽ các khoản thu chi bằng tiền doanh nghiệp cần phải xây dựng
các nội quy, quy chế về quản lý các khoản thu, chi, đặc biệt là các khoản thu
chi bằng tiền mặt để tránh sự mất mát, lạm dụng tiền của doanh nghiệp mưu
lợi cho cá nhân.
 Tất cả các khoản thu chi bằng tiền mặt phải được thông qua quỹ, không được
chi tiêu ngoài quỹ.
 Phải có sự phân định rõ ràng trong quản lý tiền mặt giữa nhân viên kế toán
tiền mặt và thủ quỹ. Việc xuất nhập quỹ tiền mặt hàng ngày do thủ quỹ tiến
hành trên cơ sở các phiếu thu chi tiền mặt hợp thức và hợp pháp.

Trang 17

 Tăng tốc quá trình thu tiền và làm chậm đi quá trình chi tiền. Dự đoán được
thời gian chi trả, doanh nghiệp có thể tận dụng lượng tiền mặt trôi nổi trên một
số dư tiền mặt nhỏ hơn.
 Cần quản lý chặt chẽ các khoản tạm ứng tiền mặt. Xác định rõ đối tượng tạm
ứng, mức độ tạm ứng và thời gian được tạm ứng.
 Thường xuyên đảm bảo khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn cho doanh
nghiệp. Để chủ động trong thanh toán doanh nghiệp phải thực hiện tốt việc lập
kế hoạch lưu chuyển tiền tệ, trên cơ sở đó có biện pháp thích ứng nhằm đảm
bảo sự cân bằng thu chi tiền mặt của doanh nghiệp và nâng cao khả năng sinh
lời của số tiền mặt nhàn rỗi.

1.2.2.3 Quản lý hàng tồn kho
Việc quản lý hàng tồn kho rất quan trọng không phải chỉ vì nó chiếm tỷ trọng lớn
trong tổng tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp mà quan trọng hơn là tránh được tình
trạng vật tư hàng hóa bị ứ đọng, đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp được diễn ra bình thường, góp phần đẩy nhanh tốc độ chu chuyển tài sản
ngắn hạn. Các doanh nghiệp sản xuất thường có ba loại hàng tồn kho ứng với ba giai
đoạn khác nhau của một quá trình sản xuất: Tồn kho nguyên vật liệu, tồn kho sản
phẩm dở dang, tồn kho thành phẩm.
Đối với các doanh nghiệp thương mại, hàng tồn kho chủ yếu là dự trữ hàng hóa
để bán. Để xác định được mức độ đầu tư vào hàng tồn kho tối ưu cần so sánh lợi ích
đạt được từ dự trữ hàng tồn kho với chi phí phát sinh do dự trữ hàng tồn kho để có
phương thức quyết định hợp lí. Các chi phí liên quan đến dự trữ hàng tồn kho gồm:
 Chi phí đặt hàng: gồm chi phí giao dịch, chi phí vận chuyển, chi phí giao
nhận hàng theo hợp đồng. Trên thực tế chi phí cho mỗi lần đặt hàng thường bao gồm
các chi phí cố định và chi phí biến đổi. Tuy nhiên trong các mô hình quản lý, tài sản
ngắn hạn về hàng tồn kho đơn giản thường giả định chi phí cho mỗi lần đặt hàng là cố
định và độc lập với số đơn vị hàng đặt mua.
 Chi phí lưu trữ (chi phí tồn trữ): là những chi phí liên quan đến việc thực
hiện dự trữ hàng tồn kho trong một khoảng thời gian xác định trước. Chi phí lưu trữ
bao gồm chi phí lưu kho và chi phí bảo quản; chi phí hư hỏng và chi phí thiệt hại do
hàng tồn kho bị lỗi thời, giảm giá, biến chất; chi phí bảo hiểm; chi phí cơ hội về tài sản
ngắn hạn lưu giữ đầu tư vào hàng tồn kho; chi phí trả tiền lãi vay để mua vật tư, hàng
hóa dữ trữ; chi phí thuế. Thông thường, chi phí lưu trữ hàng năm giao động từ 20-45%
tính trên giá trị hàng tồn kho cho hầu hết các doanh nghiệp. 
Thang Long University Library

Trang 18

 Chi phí thiệt hại khi không có hàng (hàng tồn kho hết): bao gồm chi phí đặt
hàng khẩn cấp, chi phí thiệt hại do ngừng trệ sản xuất, lợi nhuận bị mất do hết thành

phẩm dự trữ để bán cho khách hàng… 
Mô hình đặt hàng kinh tế - EOQ (Economic Order Quantity) là một mô hình
quản lý hàng tồn kho mang tính định lượng được sử dụng để xác định mức tồn kho tối
ưu cho doanh nghiệp. Dựa trên cơ sở giữa chi phí tồn trữ hàng tồn kho và chi phí đặt
hàng có mối quan hệ tương quan tỷ lệ nghịch với nhau. Cụ thể, nếu số lượng sản phẩm
cho mỗi lần đặt hàng tăng lên thì số lần đặt hàng trong kỳ sẽ giảm xuống và dẫn đến
chi phí đặt hàng trong kì giảm trong khi chi phí tồn trữ hàng hóa lại tăng lên. Do đó
mục đích của quản lý hàng tồn kho là cân bằng hai loại chi phí này: chi phí tồn trữ và
chi phí đặt hàng sao cho tổng chi phí tồn kho là thấp nhất. Các giả định của mô hình:
 Nhu cầu về hàng tồn kho là ổn định
 Không có biến động giá, hao hụt, mất mát trong khâu dự trữ
 Thời gian từ khi đặt hàng đến khi nhận hàng là không đổi
 Chỉ có duy nhất hai loại chi phí: chi phí đặt hàng và chi phí dự trữ
 Không xảy ra thiếu hụt hàng hàng tồn kho nếu đơn đặt hàng được thực hiện
đúng hạn.
Hình 1.4. Mô hình EOQ

Trong mô hình EOQ, tổng chi phí bao gồm:
Chi phí đặt hàng là các chi phí về vận chuyển, kiểm tra hàng hóa về chất lượng
và số lượng, bốc xếp hàng vào kho. Chi phí này thường là một con số cố định trên mỗi
đơn hàng, không phụ thuộc vào số lượng hàng mua/lần là nhiều hay ít. Khi doanh

Trang 19

nghiệp tự sản xuất các yếu tố đầu vào thì chi phí đặt hàng chính là chi phí thiết đặt lại
chế độ máy móc, dừng việc, chuẩn bị dụng cụ và không phụ thuộc vào số sản phẩm
tạo ra sau lần thiết đặt đó là ít hay nhiều.
Chi phí đặt hàng =
S
x

O
Q
Chi phí cất trữ là chi phí về nhà kho (là các chi phí thuê mặt bằng, người trông
coi, điện, nước,….) và chi phí về hàng hóa (chi phí về biến chất, lỗi thời. mất cắp, ứ
đọng vốn). Chi phí cất trữ có thể được tính toán theo hai cách: một giá trị cụ thể hoặc
một tỷ lệ phần trăm của giá mua đơn vị.
Chi phí dự trữ =
Q
x
C
2
Trong đó:
S: lượng hàng cần đặt trong năm
O: chi phí một lần đặt hàng
Q/2: mức tổng kho trung bình
C: Chi phí dự trữ kho trên một đơn vị hàng tồn kho trong năm
Tổng chi phí = Chi phí đặt hàng + Chi phí dự trữ

Tổng chi phí là một hàm của Q. Để tổng chi phí nhỏ nhất, đạo hàm cấp một của
hàm tổng chi phí phải bằng 0 và lượng đặt hàng tối ưu hay mức dự trữ kho tối ưu là:
Q* =

2𝑥𝑆𝑥𝑂
𝐶

Thời gian dự trữ tối ưu:
T* =
Q*
S/360
Điểm đặt hàng (Số lượng hàng còn lại trong kho còn lại trong kho khi bắt đầu đặt

hàng)
OP =
Thời gian chờ đặt hàng
x
S
+
Q
an toàn

360
Chú ý: Nếu doanh nghiệp không dự trữ an toàn thì Q
an toàn
bằng 0
Thang Long University Library

Trang 20

Ngoài mô hình EOQ cũng có thể sử dụng mô hình ABC để quản lý hàng tồn kho.
Mô hình ABC là mô hình quản lý hàng tồn kho trên cơ sở: Áp dụng mức độ khác nhau
với các nhóm hàng lưu kho có giá trị cao hay thấp khác nhau.
Hình 1.5. Mô hình ABC











Ví dụ: Một doanh nghiệp có hàng nghìn danh mục hàng lưu kho với giá trị từ rất
đắt đến rất rẻ và chúng ta chia danh mục thành 3 nhóm: A, B và C. Nhóm A chiếm
10% về mặt số lượng trong danh mục nhưng lại chiếm đến 50% giá trị tiền đầu tư vào
hàng lưu kho. Nhóm B chiếm 30% về mặt số lượng danh mục và chiếm 35% giá trị
tiền đầu tư vào hàng tồn kho. Nhóm C chiếm 60% về mặt số lượng trong danh mục
nhưng chỉ chiếm 15% giá trị tiền đầu tư vào hàng lưu kho.
Bằng việc chia hàng lưu kho thành nhiều nhóm, các doanh nghiệp có thể tập
trung vào nhóm mà cần sự kiểm soát hiệu quả nhất, mà cụ thể ở ví dụ cụ thể này là
nhóm A, tiếp theo là nhóm B và cuối cùng là nhóm C. Nếu như nhóm A được xem xét
quản lý một cách thường xuyên thì nhóm B sẽ ít được thường xuyên, có thể là hàng
tháng, hàng quý và nhóm C sẽ ít hơn nữa có thể là hàng năm.
1.2.2.4 Quản lý các khoản phải thu
Trong số các khoản mục phải thu của doanh nghiệp, phải thu khách hàng đóng
vai trò quan trọng nhất. Phải thu khách hàng là khoản mục xuất hiện trong quan hệ
mua bán trả chậm giữa các doanh nghiệp, hay còn gọi là khoản tín dụng thương mại.
Khi doanh nghiệp bán hàng trả chậm cho khách hàng của mình nghĩa là doanh nghiệp
cấp tín dụng thương mại cho khách hàng. Trong nền kinh tế thị trường, các khoản tín
dụng thương mại ngày càng trở nên phổ biến và cũng thể hiện mối quan hệ ràng buộc
giữa các doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh.














Trang 21

Chính sách tín dụng thương mại
Việc lựa chọn chính sách tín dụng thương mại là hết sức quan trọng vì quyết định
bán hàng trả chậm có thể cùng một lúc gây nhiều tác động. Chúng ta hãy xem xét
những ảnh hưởng của quyết định cấp tín dụng (bán hàng trả chậm).
Việc cấp tín dụng thương mại cho khách hàng có thể giúp tăng lợi nhuận do tăng
doanh thu, nhưng cũng gây ra những chi phí cơ hội đầu tư vào các khoản phải thu, chi
phí quản lý khoản phải thu hay các chi phí dự phòng nợ phải thu khi khách hàng
không trả. Do vậy, nguyên tắc cơ bản để đưa ra chính sách tín dụng đó là:
 Khi lợi ích gia tăng lớn hơn chi phí gia tăng thì doanh nghiệp nên cấp tín
dụng.
 Khi lợi ích gia tăng nhỏ hơn chi phí gia tăng thì doanh nghiệp nên thắt chặt
tín dụng.
 Trường hợp cả lợi ích và chi phí đều giảm thì doanh nghiệp cần xem xét
phần chi phí tiết kiệm được có đủ bù đắp cho phần lợi ích bị giảm đi không.
Phân tích tín dụng
Là một bước cơ bản trước khi đưa ra quyết định cấp tín dụng thương mại cho
khách hàng. Việc phân tích tín dụng bao gồm hai nội dung cơ bản:
 Phân tích khả năng tín dụng của khách hàng: Trước khi đánh giá uy tín của
khách hàng. Doanh nghiệp cần xây dựng các tiêu chuẩn tín dụng phù hợp. Các tiêu
chuẩn này có thể là:
 Tiêu chuẩn về năng lực trả nợ: được xác định bẳng khả năng thanh toán
nhanh, khả năng thanh toán tức thời và quy mô vốn bằng tiền của khách
hàng.
 Tiêu chuẩn về quy mô vốn kinh doanh: thể hiện năng lực tài chính dài hạn
của khách hàng.

 Tiêu chuẩn về khả năng phát triển: xác định khả năng phát triển của khách
hàng và ngành nghề kinh doanh trong tương lai.
Sau đó, doanh nghiệp tiến hành đánh giá khả năng tín dụng của khách hàng dựa
trên thông tin từ các nguồn khác nhau như: báo cáo tài chính, báo cáo tín dụng, ngân
hàng và các tổ chức thương mại, kinh nghiệm của doanh nghiệp. Nếu khách hàng đáp
ứng được các tiêu chuẩn của doanh nghiệp đề ra, doanh nghiệp sẽ tiến hành cấp tín
dụng thương mại cho khách hàng. Nếu cần cân nhắc, lựa chọn giữa nhiều khách hàng,
Công ty có thể sử dụng phương pháp chấm điểm tín dụng trên cơ sở các tiêu chuẩn đã
xây dựng kèm theo trọng số. Sau đó, doanh nghiệp sẽ xếp hạng khách hàng và có thể
phân loại theo từng mức độ rủi ro để dễ dàng quản lý cũng như đưa ra quyết định.
Thang Long University Library

Trang 22

 Phân tích lợi ích thu được từ khoản tín dụng thương mại: Để hiểu rõ về các
phương án, doanh nghiệp có thể lượng hóa những lợi ích ròng thu được từ việc cấp tín
dụng thông qua xác định giá trị hiện tại ròng NPV.
 Quyết định tín dụng khi xem xét một phương án: cấp tín dụng
Mô hình cơ bản:
NPV =
CF
t

-
CF
0

K
CF
0

= VC x S x (ACP/365)
CF
t
= [S x (1 – VC) – S x BD – CD] x (1 – T)
 Trong đó:
 VC: tỷ lệ chi phí biến đổi trên doanh thu
 S: doanh thu dự kiến mỗi kỳ
 ACP: thời gian thu tiền trung bình
 BD: tỷ lệ nợ xấu trên doanh thu
 CD: chi phí tăng thêm của bộ phận tín dụng
 T: thuế suất thuế TNDN
 Sau khi tính toán chỉ tiêu NPV, doanh nghiệp đưa ra quyết định trên cơ sở
 NPV > 0: cấp tín dụng
 NPV < 0: không cấp tín dụng
 NPV = 0: bàng quan
 Quyết định tín dụng khi xem xét hai phương án: cấp tín dụng và không cấp tín
dụng.
Bảng 1.1. Quyết định tín dụng
Chỉ tiêu
Không cấp tín dụng
Cấp tín dụng
Số lượng bán (Q)
Q
0
Q
1
(Q
1
> Q
0

)
Giá bán (P)
P
0
P
1
(P
1
> P
0
)
Chi phí SX bình quân (AC)
AC
0
AC
1
(AC
1
> AC
0
)
Xác suất thanh toán
100%
h (h ≤ 100%)
Thời hạn nợ
0
T
Tỷ suất chiết khấu
0
R

 Phương án bán trả ngay (không cấp tín dụng):

Trang 23

NPV
0
= P
0
Q
0
– AC
0
Q
0
 Phương án bán trả chậm (cấp tín dụng):
NPV
1
=
P
1
Q
1
h
-
AC
1
Q
1

1 + R

 Doanh nghiệp đưa ra quyết định trên cơ sở
 NPV
0
> NPV
1
: không cấp tín dụng
 NPV
0
< NPV
1
: cấp tín dụng
 NPV
0
= NPV
1
: bàng quan
Theo dõi các khoản phải thu
Việc theo dõi các khoản phải thu có thể được tiến hành theo ba phương pháp:
 Theo dõi thời gian thu tiền trung bình (ACP):
Thời gian thu tiền trung bình =
Phải thu khách hàng x 365
Doanh thu thuần
Theo dõi sự thay đổi của thời gian thu tiền trung bình sẽ giúp doanh nghiệp kịp
thời đưa ra những điều chỉnh về chính sách tín dụng và thu tiền. Tuy nhiên, đây lại là
một chỉ tiêu tổng quát chịu ảnh hưởng của sự thay đổi về quy mô doanh thu và quy mô
khoản phải thu, đồng thời có xu hướng ẩn đi những thay đổi cá biệt trong khách hàng
nên không đạt được nhiều hiệu quả trong việc quản lý thu nợ.
 Theo dõi mẫu hình phải thu: Mẫu hình phải thu là tỷ lệ phần trăm doanh thu
chưa thu được trên tổng doanh thu phát sinh trong một tháng và được theo dõi trong
nhiều tháng kể từ tháng phát sinh. Theo dõi sự thay đổi trong mẫu hình phải thu có thể

giúp doanh nghiệp ghi nhận ngay sự thay đổi trong hành vi thanh toán của khách hàng
do các khoản phải thu đã được chia nhỏ theo từng tháng phát sinh doanh thu.
 Theo dõi “tuổi” của các khoản phải thu: Theo phương pháp này, các khoản
phải thu sẽ được sắp xếp theo độ dài thời gian để theo dõi và có biện pháp giải quyết
thu nợ khi đến hạn cũng như chính sách dự phòng hợp lí.
1.2.3. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn
Hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn là một phạm trù rộng, bao hàm nhiều mặt tác
động khác nhau. Vì vậy, khi phân tích các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn ta
cần xem xét trên nhiều khía cạnh, góc độ đánh giá khác nhau.
1.2.3.1 Nhóm chỉ tiêu tổng quát
 Tỷ suất sinh lời của tài sản ngắn hạn:
Thang Long University Library

Trang 24

Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của tài sản ngắn hạn. Chỉ tiêu này cho
biết doanh nghiệp đầu tư 100 đồng tài sản ngắn hạn thì tạo ra bao nhiêu đồng lợi
nhuận sau thuế.
Tỷ suất sinh lời của TSNH
=
Lợi nhuận ròng x100
Tài sản ngắn hạn bình quân

Đơn vị tính: %
Chỉ tiêu này cao phản ánh lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp cao, các doanh
nghiệp đều mong muốn chỉ số này càng cao càng tốt vì như vậy có nghĩa doanh nghiệp
đã sử dụng được hết giá trị của tài sản ngắn hạn. Hiệu quả của việc sử dụng tài sản
ngắn hạn thể hiện ở lợi nhuận của doanh nghiệp, đây chính là kết quả cuối cùng mà
doanh nghiệp đạt được. Chỉ tiêu này càng cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn là tốt
góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh cho doanh nghiệp.

 Số vòng quay của tài sản ngắn hạn ( sức sản xuất của tài sản ngắn hạn):
Số vòng quay của tài sản ngắn hạn =
Doanh thu thuần
Tài sản ngắn hạn bình quân
Đơn vị tính: vòng
Chỉ tiêu này cho biết trong kỳ phân tích các tài sản ngắn hạn quay được bao
nhiêu vòng, chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn là tốt.
Hay nói cách khác chỉ tiêu này cho biết một đồng giá trị tài sản ngắn hạn đầu tư trong
kì thu được bao nhiêu đồng doanh thu thuần, chỉ tiêu này thể hiện sự vận động của tài
sản ngắn hạn trong kỳ. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ tài sản ngắn hạn vận động
nhanh, đó là nhân tố góp phần nâng cao lợi nhuận.
- Suất hao phí của tài sản ngắn hạn so với doanh thu
Suất hao phí của tài sản ngắn hạn =
TSNH bình quân
Doanh thu thuần
Đơn vị tính: lần
Chỉ tiêu này cho biết doanh nghiệp muốn có 1 đồng doanh thu thuần trong kỳ thì
cần bao nhiêu đồng TSNH, đó là căn cứ để đầu tư các tài sản ngắn hạn cho phù hợp.
Chỉ tiêu này càng thấp chứng tỏ hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn càng cao.


- Suất hao phí của tài sản ngắn hạn so với lợi nhuận sau thuế

Trang 25

Suất hao phí của TSNH so
với lợi nhuận sau thuế
=
TSNH bình quân
Lợi nhuận sau thuế

Đơn vị tính: lần
Chỉ tiêu này cho biết để có 1 đồng lợi nhuận sau thuế thì cần bao nhiêu đồng tài
sản ngắn hạn. Chỉ tiêu này càng thấp chứng tỏ hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn càng
cao. Chỉ tiêu này còn là căn cứ để các doanh nghiệp xây dựng dự toán về nhu cầu tài
sản ngắn hạn khi muốn có mức lợi nhuận như mong muốn.
1.2.3.2 Nhóm chỉ tiêu phản ánh tốc độ luân chuyển của tài sản ngắn hạn
- Số vòng luân chuyển (số vòng quay) của tài sản ngắn hạn:

Đơn vị tính: vòng
Trong đó, tổng số luân chuyển thuần bao gồm doanh thu thuần, doanh thu tài
chính và thu nhập khác.
Chỉ tiêu này cho biết trong kỳ tài sản ngắn hạn quay được bao nhiêu vòng. Số
vòng quay càng lớn, hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn càng cao và ngược lại.
- Thời gian một vòng luân chuyển của TSNH:
Thời gian một vòng luân chuyển
của TSNH
=
360
Số vòng quay của TSNH
Đơn vị tính: ngày
Chỉ tiêu này cho biết mỗi vòng quay của TSNH hết bao nhiêu ngày. Chỉ tiêu này
càng thấp chứng tỏ các tài sản ngắn hạn vận động nhanh, góp phần nâng cao doanh thu
và lợi nhuận cho doanh nghiệp.
 Hệ số đảm nhiệm tài sản ngắn hạn:
Chỉ tiêu này phản ánh số tài sản ngắn hạn cần có để đạt được một đồng doanh thu
thuần trong kỳ. Hệ số này càng nhỏ thì hiệu quả sử dụng vốn ngắn hạn càng cao.
Hệ số đảm nhiệm tài sản ngắn hạn =
Tài sản ngắn hạn bình quân
Tổng số luân chuyển thuần
Đơn vị tính: Lần

Chỉ tiêu này cho biết doanh nghiệp muốn có 1 đồng luân chuyển thuần thì cần
bao nhiêu đồng tài sản ngắn hạn đầu tư. Chỉ tiêu này càng thấp thì hiệu quả sử dụng tài
sản ngắn hạn càng cao. Thông qua chỉ tiêu này các nhà quản trị kinh doanh xây dựng
kế hoạch về đầu tư tài sản ngắn hạn một cách hợp lý góp phần nâng cao hiệu quả kinh
doanh.
Số vòng luân chuyển của TSNH
=
Tổng số luân chuyển thuần
TSNH bình quân
Thang Long University Library

×