Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

Phương pháp dạy học Chương Trình Hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (514.51 KB, 34 trang )

Phương pháp “Chương trình hóa” trong giảng dạy Tin học
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nâng cao hiệu quả và chất lượng trong dạy học là một vấn đề được
xã hội đặc biệt quan tâm. Việc lựa chọn một phương pháp dạy học phù
hợp nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực phục vụ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đang là yêu cầu cấp bách trong giai
đoạn hiện nay. Xu thế toàn cầu hoá đang ảnh hưởng mạnh mẽ đến mô
hình dạy học của nước ta, đặt ngành giáo dục và đào tạo nước ta đứng
trước những thử thách và những cơ hội mới, từ đó đã khẳng định dần vai
trò của cá nhân và cộng đồng trong hoạt động giáo dục.
Trong mấy chục năm qua, ngành giáo dục đã thực hiện nhiều cuộc
cải cách và chấn hưng giáo dục nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đào
tạo, đáp ứng yêu cầu phát triển xã hội, nhằm tạo ra nguồn nhân lực có
phẩm chất và trí tuệ phục vụ công cuộc xây dựng đổi mới, công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước. Để đạt được mục tiêu đề ra, cần tập trung đề
cập đến việc chỉnh sửa nội dung, chương trình và đặc biệt chú trọng đến
phương pháp giảng dạy để người học có thể tiếp thu và lĩnh hội được
lượng kiến thức cần thiết phù hợp với yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn, của
xã hội cũng như trong khu vực và trên thế giới.
Vậy làm thế nào để người học có thể tiếp cận và lĩnh hội nhanh, có
hiệu quả được lượng kiến thức trọng tâm trong một kho tàng kiến thức
khổng lồ của nhân loại được đưa vào giảng dạy trong nhà trường. Đây
không chỉ là câu hỏi tự mỗi người học phải đặt ra mà về phía người dạy,
phải luôn trăn trở, suy nghĩ, tìm cách để đưa ra được một phương pháp
giảng dạy giúp người học có thể lĩnh hội được một lượng tri thức lớn nhất
trong một thời gian nhất định đối với mỗi môn học. Đó chính là phương
pháp giảng dạy của mỗi giáo viên, nó có quan hệ mật thiết và biện chứng,
tác động chi phối đối với chủ thể là người học. Có thể nói, cùng một
lượng kiến thức như nhau, nhưng phương pháp giảng dạy cũng như cách
thức truyền tải lượng kiến thức đó đối với người học khác nhau thì giúp


1
Phương pháp “Chương trình hóa” trong giảng dạy Tin học
cho khả năng tiếp thu, độ nhanh nhạy trong quá trình nhận thức cũng như
hiệu quả của một tiết học, bài học, môn học đến với người học là khác
nhau.
Trong lý luận dạy học, đã có nhiều phương pháp dạy học được đưa
ra trong đó có các phương pháp dạy học truyền thống và hiện đại, được
tất cả các giáo viên trong ngành vận dụng để giảng dạy, xong với nhu cầu
đòi hỏi của thực tiễn, giúp người học có thể phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo trong quá trình nhận thức buộc mỗi giáo viên phải biết vận
dụng những phương pháp đó một cách linh hoạt, sáng tạo đối với từng
đối tượng người học, với từng môn học, với từng cấp học và bậc học.
Sử dụng phương pháp dạy học thích hợp với từng đối tượng người
học không chỉ đơn thuần là cung cấp tri thức mà phải trang bị cho người
học khả năng khám phá và nghiên cứu để phát triển năng lực trí tuệ thông
qua hoạt động tự lực của bản thân. Một trong những phương pháp dạy
học theo quan điểm điều khiển học đang được quan tâm đó là phương
pháp dạy học chương trình hoá (programmed teaching method). Phương
pháp dạy học chương trình hoá lấy người học làm trung tâm nhưng vẫn
có vai trò trực tiếp của người dạy. Bài học chương trình hoá giúp cá biệt
hoá hoạt động học theo nhu cầu và khả năng của người học, qua đó phát
huy được tính tích cực, tự lực trong học tập của từng sinh viên. Sự phân
hoá về năng lực của từng sinh viên tạo điều kiện cho sinh viên yếu, trung
bình, nắm bắt được nội dung tối thiểu của bài học, còn sinh viên khá, giỏi
có thể nâng cao khả năng tự học hỏi và nghiên cứu sau này.
Phương pháp dạy học chương trình hoá được phát triển từ những
năm 50 của thế kỷ trước và đã được ứng dụng vào giảng dạy ở nhiều nơi
trên thế giới như Mỹ, Liên Xô, Ấn Độ,… với các loại phương tiện khác
nhau. Đặc biệt, với sự phổ cập của máy tính cá nhân, việc tổ chức các bài
học chương trình hóa trở nên dễ dàng và ít tốn kém. Do vậy, nhiều tổ

chức đào tạo trên thế giới đã sử dụng nó trong các bài giảng, nhất là các
bài học để tự học.
2
Phương pháp “Chương trình hóa” trong giảng dạy Tin học
Phương pháp dạy học chương trình hóa có hai ưu điểm chủ yếu
là:
− Thể hiện được quan điểm đặt trọng tâm của quá trình dạy học
vào người học và cá biệt hóa quá trình dạy học theo trình độ và năng lực
của từng sinh viên do vậy phát huy được tính tích cực và chủ động của họ
trong học tập.
− Điểm thứ hai dễ nhận thấy hơn là từng cá nhân người học có
thể tiếp thu kiến thức với lượng thời gian khác nhau, theo các diễn tiến
khác nhau tùy vào kiến thức có sẵn, vào khả năng, tốc độ học tập của
riêng họ cũng như phương tiện hiện đại mà họ có.
Trước đây ở Việt Nam, phương pháp dạy học chương trình hóa được
đề cập khá nhiều và cũng đã có khá nhiều người cố gắng áp dụng nó
nhưng có lẽ do số lượng người nắm vững nguyên lý của dạy học chương
trình hóa, đồng thời biết kỹ thuật để xây dựng các bài học đạt được các
tiêu chí của nó chưa nhiều nên các bài học ở dạng này hầu như chưa được
sử dụng.
Tuy có nhiều ưu điểm về mặt lý thuyết nhưng phương pháp dạy học
chương trình hóa đặt ra một số vấn đề khó khăn khi sử dụng là:
− Quá trình chuẩn bị của giáo viên cho một tiết dạy học chương
trình hóa.
− Khả năng điều khiển, quản lý của giáo viên đến từng sinh viên,
một điều không dễ thực hiện nếu không có máy tính hỗ trợ.
Do những khó khăn trên nên mặc dù có nhiều ưu điểm, phương pháp
dạy học chương trình hóa không được ứng dụng nhiều lắm và hiện tại
cũng ít được nhắc đến trong số các phương pháp dạy học hiện đại. Tuy
vậy, những ý tưởng chủ đạo của nó được thể hiện cùng với sự ứng dụng

máy vi tính ngày càng rộng rãi vào cuộc sống nói chung và vào công việc
giảng dạy, học tập nói riêng. Hình thức biên soạn bài học chương trình
hóa đang là một nhu cầu thiết thực không thể không áp dụng trong thời
3
Phương pháp “Chương trình hóa” trong giảng dạy Tin học
đại công nghệ tri thức, thời đại mà việc sử dụng máy tính điện tử là rất
phổ dụng trong mọi hoạt động học tập.
Ngày nay, một trong những thành công của giáo dục hiện đại là áp
dụng những thành tựu của khoa học kỹ thuật và công nghệ vào quá trình
dạy học. Ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học đang là vấn đề có
tính thời sự. Việc thiết kế bài học chương trình hoá trong dạy học có tác
dụng lớn đến sự kích thích hứng thú học tập cho sinh viên, góp phần nâng
cao khả năng tự cập nhật, bổ sung kiến thức thường xuyên, liên tục và
mang lại hiệu quả đáng kể cho người học.
Xuất phát từ những nhận định trên và với mong muốn thử nghiệm sử
dụng phương pháp dạy học chương trình hoá với sự hỗ trợ của máy tính
điện tử cùng các phương tiện hiện đại khác nhằm tổ chức bài học chương
trình hoá với mục đích cá biệt hoá quá trình học của từng sinh viên, tôi
lựa chọn đề tài: “Nghiên cứu sử dụng phương pháp dạy học chương
trình hóa trong các môn Tin học nhằm phát huy tính tích cực, chủ
động sáng tạo trong hoạt động nhận thức của sinh viên.”
2. Mục đích nghiên cứu
Vận dụng phương pháp dạy học chương trình hoá (CTH) nhằm phát
huy tính tích cực, tự lực học tập của sinh viên.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1 Khách thể nghiên cứu
Sinh viên trường ĐHCN trong quá trình học tập một số bài học các
môn Tin học đại cương và chuyên ngành.
3.2 Đối tượng nghiên cứu
Quá trình dạy một số bài học của môn Cơ sở lập trình … được xây

dựng trên cơ sở phương pháp dạy học CTH.
4. Giả thuyết khoa học
4
Phương pháp “Chương trình hóa” trong giảng dạy Tin học
Nếu nghiên cứu, vận dụng phù hợp phương pháp dạy học chương
trình hoá thì sẽ phát huy được tính tích cực, tự lực học tập của sinh viên
và qua đó góp phần nâng cao chất lượng dạy học.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nghiên cứu của đề tài, tôi xác định các nhiệm
vụ nghiên cứu sau:
5.1 Nghiên cứu cơ sở lý luận về phương pháp dạy học CTH và việc
phát huy tính tích cực, tự lực học tập của sinh viên.
5.2 Nghiên cứu việc xây dựng bài học sử dụng phương pháp chương
trình học đối với môn học: Cơ sở lập trình
5.3 Rút ra nhận xét và kết luận trên cơ sở góp ý, đánh giá của Tổ bộ
môn và nhà trường. Từ đó làm căn cứ cho việc phát triển và vận dụng
phương pháp giảng dạy trong tổ bộ môn sau này.
6. Phạm vi nghiên cứu
Thiết kế bài học chương trình hoá cho một số bài học của môn học
Cơ sở lập trình .
7. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu, tôi sử dụng các phương pháp
nghiên cứu cơ bản sau:
7.1. Nghiên cứu lý luận về:
7.1.1. Đổi mới phương pháp dạy học: Nghiên cứu về ứng dụng
công nghệ thông tin (CNTT) trong dạy học.
7.1.2. Phương pháp dạy học chương trình hoá.
7.2. Vận dụng lý luận để xây dựng một số bài học của môn học: Cơ
sở lập trình.
7.3. Kiểm định tại tổ bộ môn để đánh giá tính khả thi của phương

pháp dạy học CTH cho các môn Tin học.
8. Cấu trúc đề tài
5
Phương pháp “Chương trình hóa” trong giảng dạy Tin học
MỞ ĐẦU.
CHƯƠNG 1: Vấn đề phát huy tính tích cực, tự lập học tập của
sinh viên.
CHƯƠNG 2: Phương pháp dạy học chương trình hóa nhằm
phát huy tính tích cực, tự lực học tập của sinh viên
CHƯƠNG 3: Vận dụng phương pháp chương trình hóa trong
việc xây dựng bài dạy môn Tin học
KẾT LUẬN CHUNG CỦA ĐỀ TÀI
HƯỚNG NGHIÊN CỨU TIẾP CỦA ĐỀ TÀI.
TÀI LIỆU THAM KHẢO.
PHỤ LỤC.
6
Phương pháp “Chương trình hóa” trong giảng dạy Tin học
CHƯƠNG 1
1.1. Vấn đề phát huy tính tích cực, tự lực học tập của sinh viên.
1.1.1 Bản chất của quá trình học.
− Học là những hoạt động của sinh viên tìm kiếm kiến thức
dưới sự tổ chức, định hướng và giúp đỡ của giáo viên, nhằm đảm bảo cho
sự lĩnh hội tri thức, kỹ năng, thái độ và chuyển chúng thành kinh nghiệm
của bản thân.
− Theo quan điểm tâm lý học tư duy thì sự học là quá trình
hình thành và phát triển các dạng thức hành động xác định, là sự thích
ứng của chủ thể với tình huống thông qua sự đồng hoá và sự điều tiết.
Hoạt động của chủ thể tương ứng với động cơ thúc đẩy hoạt động đó.
− Theo quan điểm thông tin, học là một quá trình thu nhận
thông tin có định hướng, có sự tái tạo và phát triển thông tin.

1.1.2 Bản chất của quá trình dạy.
− Dạy là hoạt động tổ chức, hướng dẫn và định hướng hoạt
động học theo mục tiêu dạy học, nhằm chỉ đạo, tổ chức việc lĩnh hội nội
dung tri thức, kỹ năng, kỹ xảo cho người học.
− Dạy học là một chức năng xã hội, với mục đích truyền đạt
kiến thức và kinh nghiệm mà xã hội tích lũy được, nhằm biến kiến thức,
kinh nghiệm của xã hội thành phẩm chất năng lực của cá nhân.
− Dạy học là dạy hành động: hành động chiếm lĩnh tri thức và
hành động vận dụng tri thức. Do đó trong dạy học, người dạy cần tổ chức
các tình huống học tập đòi hỏi sự thích ứng của sinh viên để qua đó sinh
viên chiếm lĩnh được tri thức đồng thời phát triển trí tuệ và nhân cách
toàn diện của mình.
7
Phương pháp “Chương trình hóa” trong giảng dạy Tin học
− Theo quan điểm thông tin, dạy là phát thông tin giúp người
học thực hiện quá trình thu nhận thông tin một cách có hiệu quả.
1.1.3 Mối quan hệ của hoạt động dạy và hoạt động học.
− Quá trình dạy học là quá trình thống nhất bao gồm quá trình
dạy và quá trình học, là hệ thống tác động lẫn nhau giữa giáo viên và sinh
viên. Trong hệ thống đó mỗi chủ thể tác động lẫn nhau có chức năng và
vai trò của mình.
− Quá trình dạy học là một quá trình nhận thức: mục đích của
dạy học là giúp cho người học lĩnh hội được tri thức của nhân loại.
− Quá trình dạy học là một quá trình tâm lý: dạy học phải đi
trước, thúc đẩy sự phát triển của các chức năng tâm lý như ý chí, động cơ,
thái độ học tập; cơ chế của hoạt động nhận thức; phát triển và hoàn thiện
nhân cách.
− Quá trình dạy học là một quá trình xã hội: sự tương tác giữa
người với người; nội dung dạy học là tri thức của loài người; mục đích
học tập do xã hội đề ra.

Như vậy, ta có thể hiểu hoạt động dạy - học là sự luân phiên theo
những quy luật của hoạt động nhận thức. Nó mang tính hai chiều và luôn
phải có sự tác động qua lại giữa người dạy và người học; sự tác động qua
lại này được diễn ra trong những điều kiện xác định, bao gồm: chương
trình, nội dung, tài liệu, giảng dạy, tâm lý, đạo đức, thẩm mỹ…
Bản chất của hoạt động dạy học chính là gây ảnh hưởng có chủ định
tới hành vi và quá trình học tập của người học, tạo ra môi trường và điều
kiện để duy trì việc học, kiểm soát quá trình và kết quả học tập nhằm
nâng cao chất lượng học tập. Dạy học chính là cơ cấu và quy trình tác
động đến người học và quá trình học.
8
Phương pháp “Chương trình hóa” trong giảng dạy Tin học
1.2. Quan điểm dạy học lấy người học làm trung tâm là cơ
sở để đổi mới PPDH.
Dạy học tập trung vào người học (learner centred teaching) là một tư
tưởng, một xu thế, một trào lưu đang được đề cập khá sâu rộng trong lý
luận cũng như trong thực tiễn của giáo dục hiện nay ở các nhà trường
Việt Nam. Cách tiếp cận này hoàn toàn đối lập với cách tiếp cận truyền
thống dạy học tập trung vào người dạy.
Trong xu thế gần đây, mô hình dạy học lấy người học làm trung tâm
đang trở thành tư tưởng chủ đạo cho sự đổi mới nền giáo dục truyền
thống đã lỗi thời và kém hiệu quả, thực chất đó là dạy học vì sinh viên và
được thực hiện bởi sinh viên hay nói một cách khác, sinh viên là mục
đích và là chủ thể của quá trình dạy học. Với cách dạy học lấy người học
làm trung tâm sẽ có một kiểu phương pháp dạy học (PPDH) mới được
hình thành để khắc phục những hạn chế, yếu kém của PPDH lấy người
dạy làm trung tâm.
Bản chất của quan điểm dạy học lấy người học làm trung tâm:
Về phương diện vĩ mô:
− Con người từ hệ thống giáo dục quốc dân tạo ra sản phẩm phải

đáp ứng đầy đủ và kịp thời các yêu cầu của xã hội.
− Phải chú ý đầy đủ lợi ích, đặc điểm của người học để phát triển
toàn diện, phải làm cho sinh viên thấy được học tập là niềm vui, là hạnh
phúc.
Về phương diện vi mô:
− Việc dạy học phải xuất phát từ người học.
− Phải để cho sinh viên hoạt động nhiều trong học tập.
− Khuyến khích sinh viên tự do trong tư duy.
− Để cho sinh viên tự kiểm tra đánh giá.
9
Phương pháp “Chương trình hóa” trong giảng dạy Tin học
Quan điểm dạy học lấy người học làm trung tâm là yêu cầu cấp bách
trong thời đại ngày nay nhằm phát huy tính tích cực của người học, đề
cao vai trò tự học của người học kết hợp với sự hướng dẫn của người dạy.
Theo quan điểm dạy học này, quá trình giáo dục không chỉ làm thay đổi
cách giảng dạy của người thầy, mà còn thay đổi tiến trình tổ chức dạy
học. Quá trình dạy học ứng dụng công nghệ dạy học, phương tiện kỹ
thuật trong dạy học, do đó khắc phục được nhược điểm của các phương
pháp cũ, tạo ra chất lượng mới cho giáo dục – đào tạo.
Quan điểm dạy học lấy người học làm trung tâm là cơ sở để đổi mới
phương pháp dạy học: theo quan điểm này nhận thức quá trình dạy học
gồm hai chủ thể thầy và trò, cả hai chủ thể này đều chủ động, tích cực
hoạt động hướng tới tri thức. Thầy truyền đạt tri thức, trò chiếm lĩnh tri
thức và biến nó thành vốn hiểu biết của chính mình để tiếp tục hoạt động
nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Hoạt động của thầy và trò đều là hoạt động có ý thức, dưới sự chỉ
huy của ý thức để đạt được mục tiêu của mình. Sự kết hợp hài hoà
phương pháp dạy của thầy và phương pháp học của trò sẽ cho hiệu quả
thực sự của quá trình dạy học.
1.2.1. Tính tích cực và những biểu hiện của tính tích cực của

sinh viên trong học tập.
− Tính tích cực (TTC) là một phẩm chất vốn có và cần có của con
người trong đời sống xã hội.
− Việc hình thành và phát triển TTC là một trong các nhiệm vụ chủ
yếu của giáo dục, nhằm đào tạo con người năng động, thích ứng và góp
phần phát triển cộng đồng. Có thể coi TTC như là một kết quả của sự
phát triển nhân cách trong quá trình giáo dục.
Đặc điểm của tính tích cực: Khác với động vật, con người không chỉ
tiêu thụ những gì sẵn có trong thiên nhiên mà còn chủ động, bằng lao
động, sản xuất ra những của cải vật chất cần cho sự tồn tại và phát triển
10
Phương pháp “Chương trình hóa” trong giảng dạy Tin học
của xã hội, sáng tạo ra nền văn hoá ở mỗi thời đại. Hình thành và phát
triển TTC xã hội là một trong các nhiệm vụ chủ yếu của giáo dục nhằm
đào tạo những con người năng động, thích ứng và góp phần phát triển
cộng đồng. Có thể xem TTC như là một điều kiện đồng thời là một kết
quả của sự phát triển nhân cách của quá trình giáo dục. TTC thể hiện ở
hai mặt: tự phát và tự giác.
− Tính tích cực tự phát là những yếu tố tiềm ẩn, bẩm sinh thể hiện ở
tính tò mò, hiếu động, linh hoạt và sôi nổi trong hành vi của mỗi người.
Chúng ta cần nuôi dưỡng, coi trọng và phát triển chúng trong quá trình
dạy học.
− Tính tích cực tự giác là trạng thái tâm lý tích cực, có mục đích và
đối tượng rõ rệt, thể hiện ở tính chủ động trong quan sát, nhận xét, phân
tích và chiếm lĩnh đối tượng.
Tính tích cực trong hoạt động học thể hiện ở:
− Óc quan sát, tính phê phán trong tư duy, trí tò mò khoa học.
− Sự độc lập trong việc tiếp nhận và giải quyết các nhiệm vụ học
tập.
− Tích cực trong hoạt động nhận thức: chủ động trong quá trình

phát hiện, tìm hiểu và giải quyết nhiệm vụ nhận thức dưới sự tổ chức,
hướng dẫn của giáo viên.
− Có khát vọng hiểu biết, nỗ lực trí tuệ và nghị lực cao trong quá
trình chiếm lĩnh tri thức.
− Tính tích cực trong hoạt động học còn thể hiện ở sự hứng thú
trong việc nghiên cứu tri thức mới, sẵn sàng của tư duy, sáng tạo trong
tiếp thu và vận dụng kiến thức.
− Tính tích cực nẩy sinh trong quá trình học tập, nhưng nó lại là hậu
quả của nhiều nguyên nhân, có những nguyên nhân xuất phát trong quá
11
Phương pháp “Chương trình hóa” trong giảng dạy Tin học
trình học tập, có những nguyên nhân được hình thành trong quá khứ,
thậm chí từ lịch sử lâu dài của nhân cách.
− Quyết tâm vượt khó trong quá trình học tập, tự giác tham gia vào
các hoạt động học, chủ động trao đổi với nhau và với giáo viên, không
tiếp thu kiến thức một cách thụ động mà thường hay phát biểu ý kiến của
mình trước những vấn đề nêu ra, nêu thắc mắc, đòi hỏi giải thích những
vấn đề chưa đủ rõ, kiên trì hoàn thành các bài tập, không nản trước những
tình huống khó khăn.
− Khi đạt tới một trình độ nhất định, việc học tập tích cực sẽ mang
tính nghiên cứu khoa học và người học cũng làm ra những tri thức mới
cho khoa học.
Tính tích cực học tập đạt những cấp độ từ thấp đến cao:
− Bắt chước: gắng sức làm theo các mẫu hành động của giáo viên.
− Tìm tòi: độc lập giải quyết những vấn đề nêu ra, tìm kiếm những
cách giải quyết khác nhau về một vấn đề.
− Sáng tạo: tìm ra cách giải quyết mới, độc đáo, hữu ích.
Tính tích cực nhận thức phụ thuộc vào những nhân tố sau: hứng thú,
nhu cầu, động cơ, năng lực, ý chí, tính cách, sức khỏe, môi trường.
Để tích cực hóa hoạt động học tập của sinh viên thì hứng thú là vấn

đề đáng quan tâm nhất vì:
− Nó được hình thành một cách nhanh chóng và ở bất cứ lúc nào
trong quá trình dạy học.
− Điều quan trọng hơn cả là người thầy có thể điều khiển hứng thú
của sinh viên qua các yếu tố của quá trình dạy học: nội dung, phương
pháp, phương tiện, hình thức tổ chức dạy học; qua các bước lên lớp,
giảng bài mới, củng cố, vận dụng, kiểm tra kiến thức; qua mối quan hệ
thầy trò…
12
Phương pháp “Chương trình hóa” trong giảng dạy Tin học
Để kích thích hứng thú học tập của sinh viên điều quan trọng nhất là
phải nắm được khả năng, nhu cầu, nguyện vọng của sinh viên.
1.2.2. Tính tự lực và những biểu hiện của tính tự lực của
sinh viên trong học tập.
Để đào tạo nguồn nhân lực có đủ đức, trí, thể, mỹ đáp ứng yêu cầu
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, ngoài việc rèn luyện cho sinh
viên tính tích cực trong học tập còn phải hướng sinh viên đến khả năng tự
lực khám phá tri thức. Theo quan điểm giáo dục hiện nay, tính tự lực
trong học tập được hiểu là:
− Tự học, tự nghiên cứu, tự tìm ra kiến thức bằng hành động của
chính mình, tức là cá nhân hoá việc học.
− Tự mình khám phá những điều mình chưa rõ, chưa có, chứ không
phải thụ động tiếp thu những tri thức được sắp đặt.
− Người học tự mình trực tiếp quan sát, thảo luận, làm thí nghiệm,
giải quyết vấn đề đặt ra theo cách nghĩ của mình, từ đó tiếp thu được kiến
thức mới, kĩ năng mới, bộc lộ và phát huy tiềm năng sáng tạo.
Đặc điểm của tính tự lực:
− Khơi dậy nội lực vốn có, tạo lòng ham học, ham hiểu biết, từ đó
kết quả nhân lên gấp bội.
− Tự lực trong học tập còn giúp người học có thêm niềm vui, niềm

hứng thú, từ đó nảy sinh nhu cầu hành động và thái độ tự tin trong học
tập.
− Ngoài ra, người học còn tự khám phá và lĩnh hội kiến thức, rèn
luyện kĩ năng, xây dựng thái độ và hành vi đúng.
13
Phương pháp “Chương trình hóa” trong giảng dạy Tin học
CHƯƠNG 2.
2.1. Phương pháp dạy học chương trình hoá và sự phát huy
tính tích cực, tự lực học tập của sinh viên.
2.1.1 Khái niệm về phương pháp dạy học CTH:
Vào đầu những năm năm mươi, khi các máy móc điện tử phát triển
và phổ biến rộng rãi trong hầu hết các ngành hoạt động, các nhà giáo học
pháp ở Mỹ, rồi ở Liên Xô, Ấn Độ và một số nước khác đã nghiên cứu áp
dụng một hệ thống phương pháp dạy học có điều khiển theo những
chương trình cài đặt sẵn trong các máy và đặt tên là phương pháp chương
trình hóa.
Phương pháp dạy học CTH là phương pháp dạy học nhằm điều
khiển việc học tập của từng cá nhân sinh viên, đảm bảo việc tự kiểm tra
thường xuyên quá trình học tập, trợ giúp khả năng hoạt động độc lập, tích
cực của người học.
Phương pháp dạy học CTH đặt trọng tâm của quá trình dạy học vào
người học và cá biệt hóa quá trình dạy học theo trình độ và năng lực của
từng sinh viên. Với phương pháp này, từng cá nhân sinh viên có thể tiếp
thu kiến thức với lượng thời gian khác nhau cũng như theo các diễn tiến
khác nhau tùy vào kiến thức có sẵn và khả năng, tốc độ học tập của riêng
mình.
Mục tiêu quan trọng nhất của phương pháp dạy học CTH là nhanh
chóng phản hồi thông tin về mức độ tiếp thu kiến thức của người học để
lấy đó làm cơ sở điều khiển quá trình học một cách có hiệu quả và đảm
bảo chất lượng.

2.1.2 Nhìn nhận phương pháp dạy học chương trình hoá
theo quan điểm điều khiển học.
14
Phương pháp “Chương trình hóa” trong giảng dạy Tin học
Sự phát triển như vũ bão của khoa học và kỹ thuật đã dẫn tới việc
mọi người đang tích cực vận dụng những tư tưởng điều khiển học vào
công tác giáo dục. Theo quan điểm điều khiển học thì dạy học CTH là
một hệ điều khiển mà đối tượng điều khiển chính là con người. Hay nói
cụ thể hơn:
− Giáo dục là quá trình điểu khiển sự phát triển toàn diện của sinh
viên theo một mục đích xác định.
− Dạy học một bộ môn chính là điều khiển sinh viên từng bước tiếp
thu nội dung kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo đối với bộ môn đó đã được quy
định trong chương trình.
Cũng theo quan điểm điều khiển học thì phương pháp dạy học cổ
truyền có nhược điểm sau: Không điều khiển tốt được quá trình nhận thức
của từng cá nhân sinh viên riêng biệt mà phải theo số đông sinh viên, nên
không có những điều chỉnh kịp thời và cần thiết nội dung và phương pháp
giảng dạy cho phù hợp với từng đối tượng sinh viên, đó là một quá trình
điều khiển kém cả về hai mặt:
− Không gian: sự kiểm tra và phản ứng của giáo viên không bao
quát được đồng thời từng đối tượng sinh viên và các yếu tố ảnh hưởng
đến sự phát triển của từng sinh viên.
− Và thời gian: Sự kiểm tra và phản ứng của giáo viên chậm hơn
những thay đổi kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo của từng sinh viên.
15
Giáo viên
Giáo viên
Lựa chọn
Lựa chọn

Nội dung
Nội dung
Phương pháp
dạy và học
Phương pháp
dạy và học
Mục đích
dạy học
Mục đích
dạy học
Sinh viên
trước khi học
Sinh viên
trước khi học
Sinh viên
sau khi học
Sinh viên
sau khi học
Liên hệ ngược bên ngoài
Liên hệ ngược bên trong
Sơ đồ 1.2.1: Sơ đồ điều khiển học của quá trình dạy học
Phương pháp “Chương trình hóa” trong giảng dạy Tin học
2.1.3 Bản chất, đặc điểm, nội dung và yêu cầu của phương
pháp dạy học chương trình hoá.
− Bản chất của phương pháp dạy học chương trình hóa: Chương
trình hóa trong dạy học tương tự như chương trình máy tính: tài liệu
nghiên cứu được chuyển tới sinh viên dưới dạng một trình tự lôgic chặt
chẽ các yếu tố thông tin. Quá trình dạy học được xem như một hệ gồm:
giáo viên, sinh viên và môi trường. Dạy học CTH là điều khiển hệ thông
qua sự tác động qua lại giữa các yếu tố đó nhằm thực hiện chức năng

truyền thụ kiến thức khoa học của xã hội loài người cho sinh viên. Trong
đó quá trình dạy học được tổ chức sao cho:
 Giúp sinh viên tránh được sai lầm.
 Sự sai sót của sinh viên trong quá trình học tập phải được
sinh viên và giáo viên biết rõ và khắc phục kịp thời.
− Đặc điểm của phương pháp dạy học chương trình hóa: Chương
trình hóa là kỹ thuật dạy học được đề xuất đầu tiên bởi nhà tâm lý học
hành vi B.F Skinner vào năm 1958. Theo Skinner, mục đích của dạy học
CTH là điều khiển người học dưới những điều kiện quản lý [44 -
Ellington Henrry, How to Design Programmed Learning Materials].
Phương pháp này có một số đặc điểm sau đây:
 Mục đích dạy - học chung và từng phần được xác định rõ
ràng, cụ thể. Những bước công việc được sắp xếp hợp lí nhất, thuận tiện
nhất, theo con đường ngắn nhất để giải quyết từng nhiệm vụ nhằm đạt tới
mục đích đề ra.
 Nội dung dạy học được chia thành từng liều học. Sau mỗi
liều, sinh viên phải trả lời các câu hỏi kiểm tra. Sau khi trả lời, sinh viên
biết được mình trả lời đúng hay sai, tiếp theo mới chuyển sang liều khác
(luôn đảm bảo mối liên hệ ngược bên trong).
 Việc học tập theo các liều học tiến hành nhanh hay chậm là
tùy theo năng lực của người học (khả năng cá biệt hóa người học).
16
Phương pháp “Chương trình hóa” trong giảng dạy Tin học
 Liều học tiếp theo phụ thuộc vào kết quả trả lời câu hỏi trước
đó (luôn đảm bảo mối liên hệ ngược bên ngoài).
 Mối liên hệ hai chiều giữa thầy và trò được xác lập và duy trì
thường xuyên đảm bảo cho quá trình dạy học được điều khiển và điều
chỉnh sát với mục tiêu của hoạt động theo chương trình.
 Sử dụng hệ thống thiết bị dạy - học điện tử.
Quá trình dạy học CTH có thể được biểu diễn theo sơ đồ mã hóa

như sau:
: Thông báo nguyên tố kiến thức (là phần thông tin hoàn chỉnh về
mặt lôgic) cho sinh viên.
: Câu hỏi kiểm tra kiến thức vừa thông báo hay kỹ năng có liên
quan, người học (sinh viên) trả lời cho người dạy (có thể là giáo viên,
cũng có thể là tài liệu học tập được biên soạn chuyên biệt hay máy dạy
học - máy tính).
: Người dạy nghiên cứu câu trả lời của người học và quyết định quá
trình hướng dẫn tiếp theo. Người học được thông báo về câu trả lời của
mình hoặc được thông báo về sự đúng sai của câu trả lời này (quá trình
kiểm tra và tự kiểm tra).
Cứ mỗi lần người học thực hiện xong ba khâu như vậy người ta gọi
là một liều.

17
Sinh viên
Giáo viên
Liều học
Sơ đồ 1.2.2: Sơ đồ biểu diễn một liều học
Phương pháp “Chương trình hóa” trong giảng dạy Tin học
− Nội dung của phương pháp dạy học chương trình hóa: Nội
dung của việc tổ chức dạy học theo phương pháp CTH bao gồm hai vấn
đề chính:
 Chương trình hóa nội dung dạy học : Trong dạy học CTH,
mục đích của điều khiển cũng chính là mục đích của dạy học. Vì vậy, cần
xác định chính xác và khoa học:
+ Nội dung, khối lượng của các vấn đề lý thuyết, thực hành
để đảm bảo cho sinh viên có những kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo cần thiết.
+ Phải xây dựng được sơ đồ cấu trúc lôgic của cả hệ thống
các bài học, mối liên hệ và sự hỗ trợ qua lại giữa chúng, trình tự nghiên

cứu các bài học, vị trí của các bài học trong toàn bộ kế hoạch.
+ Phải xây dựng sơ đồ cấu trúc lôgic của từng bài học (mô tả
cấu trúc lôgic của bài học, mối quan hệ giữa các phần trong bài, vị trí của
mỗi phần, trình tự nghiên cứu từng phần).
 Chương trình hóa quá trình học tập : Đây là CTH quá trình
tiếp thu kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo và CTH việc đánh giá kết quả học tập
của sinh viên.
+ Xây dựng chương trình tác động nhằm đưa hệ thống học
tập từ trạng thái xuất phát qua những trạng thái chuyển tiếp, đến trạng
thái cuối cùng (tức là đạt mục đích dạy học). Phân tích trạng thái đầu, căn
cứ vào các quy luật của hoạt động nhận thức để dự kiến các trạng thái
trung gian, xác định các biện pháp đưa thông tin tới sinh viên.
+ Chương trình tác động gồm ba khâu cơ bản:
o Đưa thông tin tới sinh viên.
o Sinh viên tự lực thông hiểu thông tin.
o Kiểm tra mức độ lĩnh hội thông tin.
Các khâu này cần được xác định một cách đặc biệt nhằm đảm bảo
cho việc điều khiển được tối ưu.
18
Phương pháp “Chương trình hóa” trong giảng dạy Tin học
Việc điều khiển càng tối ưu nếu như thường xuyên quan tâm tới các
mối liên hệ ngược trong (sinh viên - sinh viên) và ngược ngoài (sinh viên
- giáo viên).
Phải đảm bảo nguyên tắc của quá trình điều khiển là: không cho
phép sinh viên chuyển sang liều sau nếu như chưa nắm vững những yếu
tố thông tin của liều trước. Để đạt được điều này, phải sử dụng chương
trình trên máy tính.
− Yêu cầu của việc dạy học chương trình hóa:
 Phải xây dựng lại toàn bộ cấu trúc nội dung tài liệu.
 Phải xây dựng chương trình cho quá trình nghiên cứu tài liệu

học tập.
 Phải xây dựng hệ thống kiểm tra sự lĩnh hội kiến thức của
sinh viên có hiệu quả nhất.
2.1.4 Các dạng của bài học chương trình hóa:
Việc phân loại các dạng của bài học CTH dựa vào mức độ tối ưu
hóa quá trình điều khiển. Bài học chương trình hóa có thể được tổ chức
theo hai cách cơ bản có tính năng hữu hiệu khác nhau, đồng thời cũng đòi
hỏi sự đầu tư về công sức và khả năng kỹ thuật khác nhau. Đơn giản nhất
là dạng tuyến tính, và phức tạp hơn là dạng phân nhánh với các biến thể
khác nhau.
− Dạng tuyến tính.
Đây là dạng được phát triển từ những năm 1950, do B.K.Skinner,
một nhà tâm lý học Mỹ đưa ra [44 - Ellington Henrry, How to Design
Programmed Learning Materials]. Ở dạng này, một bài học lớn với một
mục tiêu, chủ đề lớn được chia nhỏ thành một dãy tuần tự các bước nhỏ
19
Thông tin
Thông tin
Kiểm tra,
tự kiểm tra
Kiểm tra,
tự kiểm tra
Thông tin bổ sung
hoặc thông tin mới
Thông tin bổ sung
hoặc thông tin mới
Kiểm tra,
tự kiểm tra
Kiểm tra,
tự kiểm tra

Công thức
Phương pháp “Chương trình hóa” trong giảng dạy Tin học
tức là liều học, trong mỗi liều học chứa các thông tin cần chuyển tải. Mỗi
liều học chỉ chứa một kiến thức rất nhỏ cần truyền thụ như một khái
niệm, một kỹ năng rất nhỏ và tiếp sau đó có một số câu hỏi hoặc bài tập
nhằm đánh giá mức độ tiếp thu liều học đó. Quá trình học tập được điều
khiển theo một luồng tuyến tính là: học liều học thứ nhất, sau đó làm các
câu hỏi và bài tập của nó; nếu trả lời tốt thì chuyển đến học liều thứ hai;
nếu trả lời chưa đạt thì quay lại học liều thứ nhất; quá trình lặp tương tự
cho những liều tiếp theo cho đến khi hết bài học.
Sơ đồ 1.2.4 biểu diễn cách thức tổ chức và hoạt động của bài học
dạng tuyến tính. ( Hình biểu diễn 1 liều học, hình biểu diễn phần
câu hỏi kiểm tra của liều học tương ứng.)
Với kiểu chương trình này, người ta phải thiết kế nội dung bài học
sao cho chắc chắn rằng nếu trả lời được thì sinh viên đã nắm được kiến
thức tương ứng qua đó người dạy đạt được mục đích dạy học từng chủ
đề. Như vậy, mọi sinh viên sẽ học theo một chương trình như nhau, đều
cùng phải qua tất cả các bước như nhau, chỉ có tốc độ học sẽ khác nhau
tùy theo năng lực của từng sinh viên. Để hoàn thành được nhiệm vụ học
tập sinh viên phải tự xây dựng câu trả lời cho các câu hỏi kiểm tra, từ đó
hình thành năng lực chủ động trong hoạt động nhận thức của từng cá
nhân.
Ngoài cách tổ chức trên, bài học dạng tuyến tính còn có thể có biến
thể về việc lùi lại hoặc tiến tới nhiều hơn một bước (nhảy vọt) sau một
lần kiểm tra, khi thỏa một số điều kiện đặc biệt nào đó. Sơ đồ 1.2.5 trình
bày sơ đồ tổ chức bài học kiểu này, trong đó mỗi một hình chữ nhật tròn
20
Kiểm tra không
đạt yêu cầu
Bắt

đầ
u
Bắt
đầ
u
Liều học 1
Liều học 1
Sơ đồ 1.2.4. Bài học chương trình hóa dạng tuyến tính đơn giản
Kiểm tra không
đạt yêu cầu
Kiểm tra
đạt yêu cầu
Kết
thú
c
Kết
thú
c
Kiểm tra
đạt yêu cầu
Liều học 2
Liều học 2
….
Phương pháp “Chương trình hóa” trong giảng dạy Tin học
góc biểu diễn một liều học và phần câu hỏi, bài tập kiểm tra của nó. (Trên
sơ đồ này và các sơ đồ tiếp theo nữa các ký hiệu rẽ nhánh được giản lược
để đơn giản hóa việc trình bày.)
Đặc điểm của kiểu chương trình đường thẳng: Chương trình đường
thẳng là chương trình đơn giản nhất, được dùng phổ biến nhất.
 Mỗi một liều có lượng thông tin bé.

 Tài liệu được soạn dựa trên căn cứ trình độ của sinh viên ở
mức cơ bản nhất.
 Người học hầu như không bị sai lầm khi trả lời kiểm tra.
 Đây là chương trình thích ứng cho mọi người (chương trình
thích ứng tối thiểu).
 Đòi hỏi sinh viên tích cực, tự lực xây dựng câu trả lời. Quá
trình tìm câu trả lời cũng chính là quá trình học.
 Hạn chế tốc độ học đối với những người tiếp thu nhanh.
 Ít phát triển được năng lực sáng tạo của sinh viên (nội dung
thông báo, kiểm tra trong mỗi liều thường là dễ).
− Dạng phân nhánh.
Ở dạng phân nhánh đơn giản nhất, ngoài các liều học chính được tổ
chức theo kiểu tuyến tính, luồng hoạt động học tập có thể sẽ bị rẽ sang
một nhánh khác để bổ sung một hoặc một số kiến thức bổ trợ nào đó. Sau
khi học xong liều học bổ trợ, người học quay lại luồng học chính.
Sơ đồ 1.2.6 biểu diễn bài học tổ chức ở dạng này.
Bắ
t
đầ
u
Bắ
t
đầ
u
….
Sơ đồ 1.2.5. Bài học chương trình hóa dạng tuyến tính với các bước nhảy vọt
1
1
2
2

3
3
4
4
5
5
6
6
Kế
t
thú
cc
Kế
t
thú
cc
Kiểm tra đạt yêu cầu, trường hợp
đặc biệt - Nhảy vọt lên trước
Kiểm tra không đạt yêu cầu, trường
hợp đặc biệt - Nhảy vọt về sau
21
Phương pháp “Chương trình hóa” trong giảng dạy Tin học
Dạng phân nhánh cũng có một số biến thể khác, nhằm mục tiêu đa
dạng hóa quá trình học tập, để cá thể hóa cho từng trường hợp riêng biệt
khác nhau của người học.
Sơ đồ 1.2.7 trình bày các dạng biến thể khác của quy trình học tập
theo mô hình này.
Ưu điểm của chương trình phân nhánh:
Nhằm khắc phục nhược điểm của dạng chương trình đường thẳng
(tốc độ học chậm, ít phát triển tư duy sáng tạo), người ta đưa ra kiểu

chương trình phân nhánh. Theo kiểu chương trình phân nhánh, ở mỗi lần
kiểm tra, sinh viên thường phải tự lựa chọn lấy câu trả lời trong số các
câu hỏi cho sẵn. Việc chọn câu trả lời nào (đúng, chưa đúng hoặc sai) nó
quyết định việc sinh viên sẽ tiếp tục chuyển qua liều chính hay chuyển
qua một trong các liều phụ tiếp theo. Những sinh viên trả lời đúng sẽ
được tự đối chiếu kết quả để khẳng định câu trả lời là đúng và tiếp tục
Bắ
t
đầ
u
Bắ
t
đầ
u
….
Sơ đồ 1.2.6. Bài học chương trình hóa dạng phân nhánh đơn giản
1
1
2
2
3
3
4
4
5
5
6
6
Kế
t

thú
cc
Kế
t
thú
cc
Rẽ
nhánh
2.1
2.1
Quay
lại
5.1
5.1
5.2
5.2
5.3
5.3
Bổ sung một
liều học
Bổ sung nhiều
liều học
Bắ
t
đầ
u
Bắ
t
đầ
u

….
Sơ đồ 1.2.7. Bài học chương trình hóa tổng quát với các kiểu phân nhánh khác nhau
Kế
t
thú
cc
Kế
t
thú
cc
….
….
….
….
22
Phương pháp “Chương trình hóa” trong giảng dạy Tin học
nhận thông báo về kiến thức mới hay bài tập rèn luyện kỹ năng mới ở liều
chính tiếp theo sau đó. Những sinh viên trả lời chưa đúng hoặc trả lời sai
tùy theo mức độ sẽ được rẽ nhánh qua một liều phụ, ở đó sinh viên sẽ
được giải thích rõ nguyên nhân sai lầm và hướng dẫn cách hiểu nội dung
thông tin. Sau đó hoặc có thể được quay lại liều đầu để chọn câu trả lời
khác hoặc cũng có thể phải chuyển qua một liều phụ khác nữa để được
giúp đỡ khắc phục sai lầm.
Như vậy, tùy theo năng lực mà từng sinh viên có thể đi theo con
đường dài, ngắn khác nhau trong quá trình học tập. Đặc điểm nổi bật của
dạng chương trình phân nhánh là:
 Mỗi liều chứa một lượng thông tin lớn.
 Câu hỏi sau mỗi liều thông tin có nhiều câu trả lời cho sẵn
để chọn.
 Việc xây dựng các câu hỏi và trả lời dựa trên những sai lầm

có tính điển hình thường gặp của sinh viên.
 Chương trình này thích ứng với nhiều loại sinh viên.
Với những đặc điểm như vậy thì có thể có nhiều loại chương trình
phân nhánh từ đơn giản đến phức tạp. Mức độ phức tạp thể hiện ở số
nhánh rẽ trong chương trình, nó thích ứng với những con đường, những
cách thức suy nghĩ khác nhau của mỗi sinh viên khi giải quyết cùng một
vấn đề. Người ta có thể kết hợp chương trình đường thẳng và chương
trình phân nhánh khi dạy học.
2.1.5 Các yêu cầu kỹ thuật để tạo bài học CTH.
Để tạo bài học chương trình hóa tốt, về mặt kỹ thuật, cần đáp ứng
được ba yêu cầu cơ bản sau:
− Về mặt trình bày kiến thức : cần thể hiện được nội dung của bài
học và nội dung của các phần kiểm tra cùng với khả năng thu nhận phần
trả lời đó. Về phần trình bày nội dung, cần có khả năng tích hợp trên bài
học các dạng dữ liệu khác nhau: từ dạng đơn giản như văn bản, hình ảnh
23
Phương pháp “Chương trình hóa” trong giảng dạy Tin học
tĩnh; đến các dạng dữ liệu phức tạp hơn như âm thanh, hình ảnh động,
phim, … Về nội dung bài kiểm tra cần phải trình bày được các dạng câu
hỏi trắc nghiệm và tự luận khác nhau.
− Về mặt tổ chức bài học : cần có khả năng tổ chức được bài học
thành từng phần độc lập tương đối, mỗi phần chứa một liều học hoặc một
phần kiểm tra. Tốt hơn nữa, tại mỗi thời điểm, người học nói chung chỉ
được phép xem và làm việc trên một phần.
− Về mặt điều khiển : cần có cơ chế để đánh giá được các câu trả lời
của người học và từ đó điều khiển quá trình học tập theo các hướng khác
nhau. Tốt nhất là có thể điều khiển một cách tự động dựa vào kết quả làm
việc của người học.
Để đáp ứng các yêu cầu này, ta có thể chọn các dạng khác nhau như
tài liệu trên giấy, sử dụng văn bản tĩnh trên máy tính, lập trình, sử dụng

các trang web.
2.2. Những ưu, nhược điểm của phương pháp dạy học CTH.
* Ưu điểm của phương pháp dạy học CTH trong việc phát huy
tính tích cực, tự lực học tập của sinh viên.
Phương pháp dạy học CTH là một quá trình điều khiển tối ưu do
thường xuyên có mối liên hệ ngược, nó đã khắc phục được những nhược
điểm lớn của quá trình dạy học hiện nay như: cá biệt hóa kém, chú ý hoạt
động dạy hơn hoạt động học, thiếu kiểm tra thường xuyên, không điều
chỉnh kịp thời
Phương pháp dạy học CTH thể hiện được quan điểm đặt trọng tâm
của quá trình dạy học vào người học và cá biệt hóa người học. Hai điểm
này được đánh giá rất cao trong lý luận dạy học hiện đại.
Điểm thứ nhất được thể hiện ở chổ để cho người học chủ động
tiếp thu kiến thức, giáo viên đóng vai trò hướng dẫn, lúc này giáo viên
được giải phóng thời gian trong hoạt động dạy, vì thế sẽ có thời gian theo
24
Phương pháp “Chương trình hóa” trong giảng dạy Tin học
dõi và giúp đỡ các sinh viên gặp khó khăn trong quá trình thực hiện bài
học, do vậy phát huy được tính tích cực và chủ động của họ.
Điểm thứ hai dễ nhận thấy hơn, từng cá nhân người học có thể tiếp
thu kiến thức với lượng thời gian khác nhau cũng như theo các diễn tiến
khác tùy vào kiến thức có sẵn và khả năng, tốc độ học tập của riêng mình.
Phương pháp dạy học CTH có khả năng cá biệt hóa quá trình dạy
học theo trình độ và năng lực cao độ của từng sinh viên. Quá trình học tập
luôn lấy sinh viên làm trung tâm, giáo viên chỉ là người chỉ đạo, hướng
dẫn. Kết quả học tập luôn bảo đảm cho toàn thể lớp, đồng thời phương
pháp dạy học CTH đã phát huy được sức mạnh của các phương tiện hiện
đại trong việc nâng cao hiệu quả giáo dục trong thời đại ngày nay và hoàn
toàn không hạn chế hay hạ thấp vai trò người thầy, trái lại nó đã đặt ra
trước họ những đòi hỏi mới và yêu cầu cao hơn.

Bên cạnh đó, bài học CTH còn có ưu điểm rất lớn. Trước hết, nó là
một dạng để tổ chức bài học theo kiểu tự học, một dạng bài học ngày
càng trở nên cần thiết trong một xã hội tri thức, với yêu cầu học tập suốt
đời. Thứ hai, nó giúp người học nhanh chóng biết được mức độ tiếp thu
kiến thức của mình, từ đó làm chủ quá trình học. Điều này giúp tránh
những trường hợp người học do chủ quan, chỉ học một cách nông cạn bài
học, không đạt được độ chuyên sâu cần thiết. Một điểm nữa là bài học
được tổ chức theo kiểu này làm cho quá trình học trở nên thú vị hơn, yêu
cầu người học luôn phải suy nghĩ tích cực và vì thế phát huy tốt hơn trí
tuệ của họ.
* Nhược điểm.
Kiểu dạy học này chỉ áp dụng được cho các môn học có nội dung
cấu trúc chặt chẽ, chưa tạo được điều kiện để giáo viên theo dõi những
câu trả lời đầy đủ của sinh viên. Tài liệu học tập dài, cồng kềnh, trang
thiết bị phục vụ học tập thì tốn kém.
25

×