Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

luận văn chuyên ngành chứng khoán Nâng cao hiệu quả hoạt động môi giới tại công ty cổ phần chứng khoán Thăng Long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.08 KB, 26 trang )

Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ GVHD: Th.S Đặng Anh Tuấn
MỤC LỤC
Sinh viên: Bùi Thị Quỳnh Thơ Lớp: Tài chính doanh nghiệp
49A
Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ GVHD: Th.S Đặng Anh Tuấn
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TTCK: Thị trường chứng khoán
QLNN: Quản lý nhà nước
UBCKNN: Uỷ ban chứng khoán nhà nước
SGDCK: Sở giao dịch chứng khoán
TTGDTT: Thị trường giao dịch tập trung
CTCK: Công ty chứng khoán
Sinh viên: Bùi Thị Quỳnh Thơ Lớp: Tài chính doanh nghiệp
49A
Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ GVHD: Th.S Đặng Anh Tuấn
LỜI MỞ ĐẦU
Sở giao dịch chứng khoán đầu tiên được thành lập vào năm 1531 tại thành phố
Anvers (thuộc nước Bỉ). Toà nhà của Sở giao dịch Anvers có dòng chữ rất ấn
tượng: “ Phục vụ khách hàng thuộc mọi dân tộc và tiếng nói khác nhau”. Từ thời
điểm lịch sử đó, thị trường chứng khoán (TTCK) lần lượt ra đời ở các nước Hà Lan,
Anh, Pháp, Đức… Đến thể kỉ 19, TTCK ra đời ở Mỹ với Sở giao dịch chứng khoán
New York nổi tiếng.
Hiện nay, TTCK đã hình thành ở hầu hết các nước có nền kinh tế thị trường,
trong đó có Việt Nam. TTCK Việt Nam mới phát triển trong khoảng 10 năm trở lại
đõy. Đặc biệt trong giai đoạn 2006-2010, TTCK đã đạt được nhiều thành tựu đáng
kể và là điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư. Có được điều đó một phần là nhờ
công tác quản lý của nhà nước. Tuy nhiên, vì mới hoạt động nên quản lý nhà nước
trên thị trường này còn nhiều lúng túng và bất cập. Để TTCK Việt Nam phát triển
mạnh mẽ hơn nữa, Nhà nước cần có nhiều biện pháp để phát huy những thành công
đã có và khắc phục những yếu kém còn tồn tại.
Trên đây là lý do em chọn đề tài: “Quản lý nhà nước trên thị trường chứng


khoán Việt Nam giai đoạn 2006-2010 - Thực trạng và giải pháp”

Sinh viên: Bùi Thị Quỳnh Thơ Lớp: Tài chính doanh nghiệp
49A
1
Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ GVHD: Th.S Đặng Anh Tuấn
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1.Sơ lược về TTCK
1.1.1. Khái niệm, bản chất và cách phân loại
* Khái niệm: TTCK là nơi diễn ra hoạt động mua bán các loại chứng khoán
- Vị trí của TTCK trong thị trường tài chính: TTCK là một bộ phận không thể
thiếu của thị trường tài chính. Nó là kênh huy động vốn trực tiếp từ người có vốn
đến người cần vốn. TTCK là hạt nhân trung tâm của thị trường tài chính, là nơi diễn
ra việc mua bán các công cụ nợ và công cụ vốn.
* Bản chất:
- Bản chất của TTCK là thị trường thể hiện giữa cung và cầu của vốn đầu tư
mà ở đó giá cả của chứng khoán chứa đựng thông tin về chi phí vốn hay giá cả của
vốn đầu tư. Thị trường chứng khoán là hình thức phát triển bậc cao của nền sản xuất
và lưu thông hàng hoá.
* Cách phân loại:
- Phân loại theo hàng hoá: người ta có thể phân loại TTCK thành thị trường
trái phiếu và thị trường cổ phiếu.
- Phân loại theo quá trình lưu chuyển vốn: Phân loại thành thị trường sơ cấp và
thị trường thức cấp.
- Phân loại theo hình thức tổ chức: Gồm Sở giao dịch chứng khoán (SGDCK)
và thị trường OTC.
1.1.2 Chức năng của thị trường chứng khoán
Thực tế phát triển kinh tế của các nước trên thế giới đã khẳng định vai trò
quan trọng của thị trường chứng khoán:

* Thứ nhất: TTCK, với việc tạo ra các công cụ có tính thanh khoản cao, có thể
tích tụ, tập trung và phân phối vốn, chuyển thời hạn của vốn phù hợp với yêu cầu
phát triển kinh tế.
* Thứ hai: TTCK góp phần thực hiện tái phân phối công bằng hơn, thông qua
việc buộc các tập đoàn gia đình trị phát hành chứng khoán ra công chúng, giải toả
sự tập trung quyền lực kinh tế của các tập đoàn, song vẫn tập trung vốn cho phát
Sinh viên: Bùi Thị Quỳnh Thơ Lớp: Tài chính doanh nghiệp
49A
2
Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ GVHD: Th.S Đặng Anh Tuấn
triển kinh tế.
* Thứ ba: TTCK tạo điều kiện để tách biệt sở hữu và quản lý doanh nghiệp.
Cơ chế thông tin hoàn hảo tạo khả năng giám sát chặt chẽ thị trường chứng khoán
đã làm giảm tác động tiêu cực trong quản lý, tạo điều kiện kết hợp hài hồ lợi ích của
chủ sở hữu, nhà quản lý và những người làm công.
* Thứ tư: Quốc tế hoá TTCK làm tăng tính lỏng và cạnh tranh trên thị trường
quốc tế. Điều này cho phép các công ty tăng cường đầu tư từ nguồn tiết kiệm bên
ngoài, đồng thời mở rộng cơ hội kinh doanh của các công ty trong nước.
* Thứ năm: TTCK tạo cơ hội cho Chính phủ huy động các nguồn tài chính mà
không tạo áp lực về lạm phát, đồng thời tạo các công cụ cho việc thực hiện chính
sách tài chính tiền tệ của chính phủ.
* Thứ sáu: TTCK cấp một dự báo tuyệt vời về các chu kỳ kinh doanh trong
tương lai. Việc thay đổi giá chứng khóan đi trước chu kỳ kinh doanh cho phép
Chính phủ và các công ty đánh giá kế hoạch đầu tư cũng như việc phân bổ các
nguồn lực. Thị trường cứng khoán cũng tạo điều kiện tái cấu trúc nền kinh tế.
1.1.3. Các chủ thể tham gia TTCK
Các chủ thể tham gia TTCK có thể chia làm ba nhóm: chủ thể phát hành, nhà
đầu tư và các tổ chức có liên quan.
- Chủ thể phát hành: Chính phủ chính quyền địa phương., công ty phát hành cổ
phiếu và trái phiếu, các tổ chức tài chính là chủ thể phát hành các công cụ tài chính.

- Nhà đầu tư: nhà đầu tư các nhân và nhà đầu tư có tổ chức (trong nước và
ngoài nước).
- Các tổ chức có liên quan: Cơ quan quản lý và giám sát hoạt động TTCK, Sở
giao dịch chứng khoán, Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán, Tổ chứ lưu ký
và thanh toán bù trừ chứng khoán, các cơng ty đánh giá hệ số tín nhiệm.
1.2. Vai trò quản lý của nhà nước trên thị trường chứng khoán
1.2.1. Sự cần thiết của quản lý nhà nước trên thị trường chứng khoán
TTCK là một thị trường đặc biệt, là sản phẩm cao cấp của nền kinh tế thị
trường. Tính phức tạp của nó được thể hiện ở cấu trúc và các giao dịch trên thị
trường. Thị trường này đòi hỏi trình tổ chức độ cao, có sự giám sát chặt chẽ của một
Sinh viên: Bùi Thị Quỳnh Thơ Lớp: Tài chính doanh nghiệp
49A
3
Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ GVHD: Th.S Đặng Anh Tuấn
hệ thống pháp lý hoàn chỉnh và đồng bộ.
Vì vậy cần có sự quản lý chặt chẽ của nhà nước trên TTCK để:
•Đảm bảo quyền lợi cho các nhà đầu tư: Một trong những chủ thể quan
trọng trên TTCK là nhà đầu tư. Vai trò của họ với sự bình ổn và phát triển của
TTCK là rất lớn. Họ mua bán chứng khoán trên TTCK nhằm đạt được lợi nhuận kì
vọng. Lợi nhuận cũng như rủi ro của họ gắn liền với những biến động trên TTCK.
Khi quyết định mua chứng khoán, họ giao tiền của mình cho nhà môi giới và nhà
phát hành. Vì thế bất kỳ một thông tin sai lệch nào hay hành vi đầu cơ cũng làm các
nhà đầu tư tổn thất nặng nề. Do đó, họ cần một tổ chức trung lập, hoạt động không
vì mục đích lợi nhuận đứng ra quản lý giám sát thông tin, hạn chế tối đa thiệt hại.
•Đảm bảo tính hiệu quả, công bằng và minh bạch trong giao dịch chứng
khoán: Chỉ tiêu về độ nhanh chóng và an toàn trong giao dịch là hai chỉ tiêu quan
trọng nhất phản ánh hiệu quả của TTCK. Giá chứng khoán dự tăng hay giảm đột ngột
đều ảnh hưởng không tốt đến ổn định kinh tế. Có thể nói TTCK là trung tâm của nền
kinh tế. Vì vậy nhà nước cần đảm bảo sự công bằng và minh bạch, không để xảy ra
tình trạng tung tin sai lệch, mua bán nội gián để TTCK hoạt động có hiệu quả.

•Dung hồ lợi ích của các chủ thể tham gia TTCK: Nhìn chung các chủ thể
tham gia thị trường chứng khoán thường tìm kiếm lợi nhuận bằng những hoạt động
đa dạng, phức tạp và cạnh tranh nhau. Quyền lợi và mục tiêu của các chủ thể này
mặc dù có mối liên hệ mật thiết, hỗ trợ nhau nhưng lại luôn bị chia sẻ. Chủ thể này
đạt được mục tiêu thì có thể chủ thể khác bị thua thịêt. Mỗi chủ thể thường tối đa
hoá lợi ích của mình bằng rất nhiều hoạt động đa dạng và phức tạp. Họ cạnh tranh
nhau tạo điều kiện cho TTCK phát triển. Nhưng cũng chính sự cạnh tranh này tạo
nên những hành vi gian lận. Vì thế cần có sự QLNN để đảm bảo mục tiêu của các
chủ thể này cũng như mục tiêu phát triển chung của TTCK.
•Hạn chế gian lận phát sinh gây tác động xấu đến thị trường và kinh tế -
xã hội: Hàng hoá trên TTCK là chứng khoán, một loại hàng hoá đặc biệt. Nhà đầu
tư chỉ có thể đánh giá chất lượng của hàng hoá này thông qua phân tích, suy đoán,
xem xét thực trạng và sự phát triển của tổ chức phát hành và của ngành đó,… Hơn
nữa giá cả chứng khoán còn phụ thục vào yếu tố tâm lý, môi trường chính trị, pháp
luật, niềm tin… Đây là nguyên nhân cho xuất hiện các hành vi lừa đảo, gian lận,
Sinh viên: Bùi Thị Quỳnh Thơ Lớp: Tài chính doanh nghiệp
49A
4
Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ GVHD: Th.S Đặng Anh Tuấn
tung tin sai lệch, đầu cơ, mua bán nội gián làm cho TTCK bị nhiễu loạn. Trên thực
tờ, vấn đề này là không tránh khỏi. Vấn đề là nhà nước cần có biện pháp và cơ chế
quản lý để hạn chế điều này.
•Kiểm soát và giảm thiểu tối đa những rủi ro hệ thống làm sụp đổ TTCK:
Khi rủi ro hệ thống xảy ra, nó kéo theo một loạt các biến cố khác: nhà đầu tư thua
lỗ, các chủ thể phát hành không huy động được vốn, các công ty chứng khoán phá
sản… Điều đó làm TTCK bị suy yếu thậm chí là sụp đổ. Tính tiềm ẩn của rủi ro hệ
thống đòi hỏi cần có sự nghiên cứu phân tích để đưa ra dự báo và có các bịên pháp
phòng ngừa. Để thực hiện diều đó cần có một bộ phận chuyên nghiệp thực hiện việc
quản lý và giám sát.
•Đảm bảo an toàn trong điều kiện hội nhập kinh tế: Hiện nay, hội nhập là xu

thế tất yếu của kinh tế thế giới. TTCK của các nước cũng không nằm ngoài xu thế trên.
Tuy nhiên, để hội nhập một cách co hiệu quả cần tăng cường công tác an ninh, quản ly
thị trường, đảm bảo các nguyên tắc chuẩn mực quốc tế và thực tế từng quốc gia.
1.2.2. Các hình thức quản lý thị trường chứng khoán trên thế giới
Các cơ quan quản lý TTCK: Thông thường có hai nhóm cơ quan quản lý TTCK:
cơ quan quản lý nhà nước và tổ chức tự quản.
- Các cơ quan quản lý nhà nước về TTCK: Các cơ quan này thực hiện chức năng
quản lý thông qua việc ban hành hoặc đề nghị các cơ quan cấp trên như chính phủ,
Quốc hội ban hành các văn bản pháp luật quy định và điều tiết hoạt động của thị
trường. Ngoài ra các cơ quan này còn dựng các biện pháp khác để can thiệp vào TTCK
khi cần thiết hay khẩn cấp. UBCKNN là cơ quan quản lý chuyên ngành đầy đủ về
TTCK như: phát hành, mua bán, bảo lãnh phân phối chứng khoán… Ngoài ra cơ quan
này còn có vai trò QLNN đối với các Công ty chứng khoán, các Sở giao dịch chứng
khoán và các chủ thể khác, thực hiện việc thanh tra giám sát hoạt động của thị trường.
- Các tổ chức tự quản: TTCK hoạt động đa dạng và phức tạp. Các cơ quan
quản lý nhà nước không thể quản lý toàn bộ và trực tiếp mọi hoạt động của các chủ
thể. Một số vấn đề có thể phân cấp, giao lại cho các tổ chứ tự quản, trên cơ sở tuân
thủ các quy định của nhà nước. Đây là các tổ chức tự định chế. Phạm vi quản lý của
các tổ chức này bao gồm việc quuản lý các hoạt động giao dịch, quản lý các công ty
Sinh viên: Bùi Thị Quỳnh Thơ Lớp: Tài chính doanh nghiệp
49A
5
Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ GVHD: Th.S Đặng Anh Tuấn
chứng khoán đồng thời giải quyết tranh chấp và xử lý các vi phạm theo quy định
của pháp luật. Thông thường có hai tổ chức tự quản là : Sở giao dịch chứng khoán
( SGDCK) và Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khón.
Các hình thức quản lý thị trường chứng khoán: Có 2 hình thức:
- Quản lý bằng pháp luật: Theo hình thức này, cơ quan quản lý sử dụng các văn
bản pháp quy của Nhà nước, các quy định của mình làm công cụ để quản lý hoạt động
diễn ra trên TTCK. Đây là hình thức quản lý phổ biến và thông dụng trên các nước.

o Hình thức này có những ưu điểm sau:
+ Các quyết định đưa ra có tính thực thi cao bởi nó dựa trên cơ sở là hệ thống
các văn bản hiện hành, có tính bắt buộc với tất cả thành viên của thị trường.
+ Đảm bảo sự chặt chẽ và công bằng cho các chủ thể tham gia TTCK trước
pháp luật.
+ Tính rõ ràng và minh bach được bảo đảm. các cơ quan QLNN cũng dễ dàng
theo dõi và xử lý các vi phạm hơn.
o Bên cạnh đó hình thức này còn nhiều nhước điểm:
+ Hình thức này làm giảm tính năng động và sáng tạo của thị trường vì khi
xây dựng pháo luật ta không thể đoán hết được các tình huống sẽ xảy ra. Có những
tình huống phát sinh mà các văn bản pháp luật chưa đề cập tới. Cơ quan quản lý sẽ
rất khó để xử ý các tình huống đó. Tổn thất xảy ra là không tránh khỏi.
+ Các văn bản sẽ không theo kịp sự phát triển của thị trường. Từ dĩ nó làm
giảm hiệu quả hoạt đông của TTCK.
+ Hình thức này sẽ làm tiêu tốn ngân sâch nhà nước.
Để khắc phục phần nào nhược điểm trên người ta đưa ra một hình thức quản lý
khác: Tự quản
- Tự quản: Trên cơ sở các văn bản pháp quy và sự dịnh hướng phân cấp quản
lý, một số tổ chức như SGDCK, Hiệp hội các nhà kinh doanh tự quản lý một số hoạt
động của mình.
o Ngoài việc khắc phục nhược điểm của quản lý bằng pháp luật, nỉ còn có
một số ưu điểm sau:
+ Nâng cao được năng lực chuyên môn và trinh độ quản lý của các tổ chức tự quản.
Sinh viên: Bùi Thị Quỳnh Thơ Lớp: Tài chính doanh nghiệp
49A
6
Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ GVHD: Th.S Đặng Anh Tuấn
+ Phương thức tự quản có thể bổ sung những quy tắc , tiêu chuẩn phù hợp với
thực tế mà văn bản pháp luật chưa đề cập tới. Thông thường các tổ chưc tự quản sẽ
đặt các quy tắc cho thành viên để ngăn ngừa những vi phạm , gian lận trong các

hoạt động trên thị trường.
+ Trong những trường hợp cụ thể, phương thức này có thể mang lại những
mối quan hệ lâu dài cho các chủ thể trên cơ sở tối đa hoá lợi ích của họ.
+ Có thể theo sát những thay đổi trong môi trường kinh doanh chứng khoán
hơn những văn bản pháp luật
o Bên cạnh đó hình thức tự quản cũng dễ phát sinh những rủi ro tiêu cực do
năng lực chuyên môn của tổ chức chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường, do các
yếu tố thiếu trung thựcvà giải quyết vấn đề theo cảm tính.
Tóm lại, tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể và mức độ phát triển của TTCK mà sử
dụng mỗi hình thức hay kết hợp cả hai để QLNN có hiệu quả.
1.2.3. Mục tiêu quản lý nhà nước trên thị trường chứng khoán
Mục tiêu quản lý TTCK là đảm bảo tính trung thực, minh bạch công bằng và
hiệu quả của thị trường.
Đảm bảo sự trung thực, minh bạch của thị trường: Cần hạn chế sự gian lận
để đảm bảo tính chính xác và minh bạch của TTCK. Muốn vậy, phải ngăn chặn các
hành vi lừa đảo, lũng đoạn thị trường, tung tin giả để đầu cơ trục lợi, gây nhiễu giá,
thông qua việc ban hành các quy định pháp lý mang tính bắt buộc với các chủ thể
tham gia vào thị trường.
Đảm bảo tính hiệu quả: hoạt động của TTCK được đánh gía hiệu quả hay
không là thông qua khả năng huy động và phân bổ các nguồn vốn. Hay nói cụ thể
hơn, hiệu quả hoạt đọng chính là sự an toàn, ổn định và phát triển của thị trường.
Muốn thị trường có hiệu quả thì trước hết cần tôn trọng các quy luật cảu nó rồi mới
sử dụng các công cụ tác động tạo nên sự vận hành trơn tru cho thị trường. Tuy
nhiên nếu quản lý quá máy móc, thiên về hành chính thì thị trường sẽ khó có thể
tăng trưởng. Ngược lại nếu quản lý quá lỏng lẻo thì sẽ tạo ra sự bất ổn, tính hiệu quả
lúc đó cũng không đạt được. Vì vậy điều quan trọng là phải có chiến lược và sách
lược phù hợp cho từng thời điểm.
Sinh viên: Bùi Thị Quỳnh Thơ Lớp: Tài chính doanh nghiệp
49A
7

Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ GVHD: Th.S Đặng Anh Tuấn
Đảm bảo tính công bằng: TTCK hoạt động phức tạp và cạnh tranh cao. Vì
vậy phải biết hướng cạnh tranh vào xu thế lành mạnh để tạo ra sự bình đẳng. Sự
công bằng trên TTCK bao gồm: công bằng giữa các chủ thể với cơ quan quản lý và
giữa các chủ thể với nhau.
Không phải lúc nào các mục tiêu này cũng thống nhất với nhau. Tuỳ từng thời
mà nhà quản lý cần ưu tiên thực hiện mục tiêu nào để phù hợp với chính sách tiền tệ
quốc gia.
1.2.4. Nội dung quản lý nhà nước trân thị trường chứng khoán
Quản lý phát hành: Phát hành là một trong những khâu quan trọng, là tiền đề
cho sự hoạt động và phát triển của TTCK. Hoạt động quản ký phát hành hiện nay
được hiểu theo hai chế độ”
Chế độ đăng ký: Nhà phát hành phải đăng ký với cơ quan quản lý trước khi
phát hành. Hồ sơ đăng ký phảỉ trung thực đầy đủ các yêu cầu và được cơ quan có
thẩm quyền phê duyệt. Hầu hất các nước đều cấm người phát hành có những hành
động liên quan cụ thể đến đựt phát hành như: bán chứng khoán, tung tin,… trước
khi gửi hồ sơ đăng ký để bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư.
Chế độ cấp phép: Tổ chức phát hành trước khi phát hành phải có được giấy
phép của cơ quan có thẩm quyền.
Quản lý các giao dịch trên thị trường chứng khoán: Đây là một hoạt động
quan trọng và thường xuyên của nhà quản lý TTCK. Việc quản lý giao dịch trên
TTCK phải đảm bảo tính công khai, bình đẳng, trung thực và cạnh tranh lành mạnh.
Quản lý giao dịch bao gồm hai nội dung chính là:
o Quản lý SGDCK: SGDCK là TTCK tập trung, chiếm phần lớn doanh số
giao dịch của thị trường. Do đó việc quản lý phải vô cùng nghiêm ngặt. Nơi dung
quan trọng của quản lý là: quản lý chứng khoán đưa ra thị trường. Không phải mọi
chứng khoán đều được giao dịch trên Sở. Chỉ những chứng khoán có đủ điều kiện
theo quy định của Sở và của pháp luật, đươc phê duyệt mới được đưa ra giao dịch.
o Quản lý thị trường phi tập trung OTC: Các chứng khoán giao dịch trên thị
trường này thường là của các công ty vừa và nhỏ, các công ty có số vốn khổng lồ.

Sinh viên: Bùi Thị Quỳnh Thơ Lớp: Tài chính doanh nghiệp
49A
8
Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ GVHD: Th.S Đặng Anh Tuấn
Ngoài ra thị trường OTC còn có tính chất hoạt động phức tạp, số lượng chứng
khoán giao dịch lớn nên mức độ rủi ro cũng rất cao so với SGDCK. Việc quản lý thị
trường OTC được tiến hành dựa trên các quy định pháp lý bắt buộc và một hành
lang pháp lý mở cho các giao dịch.
Quản lý các nhà kinh doanh chứng khoán: Nhà kinh doanh chứng khoán có
thể là các cá nhân hay tổ chức thực hiện các nghiệp vụ: Tư vấn đầu tư chứng khoán,
Quản lý danh mục đầu tư, Lưu ký chứng khoán. Nhà kinh doanh là một chủ thể
quan trọng, ảnh hưởng lớn đến sự ổn định của thị trường. Vì vậy, đây là một nhiệm
vụ trọng tâm của nội dung quản lý TTCK. Tại hầu hết các nước, cơ quan QLNN có
quy định về các tổ chứ kinh doanh chứng khoán như: vốn tối thiểu, trụ sở làm việc,
giấy phép hành nghề, đội ngũ nhân viên làm việc. Ngoài ra, để bảo vệ lợi ích của
người gửi tiền và sự an toàn của hệ thống tài chính, pháp luật các nước cũng hạn
chế sự tham gia của các ngân hàng thương mại vào TTCK.
Quản lý chứng khoán quốc tế: trong điều kiện hội nhập, khoảng cách về
không gian giữa các TTCK trên thế giới ngày càng bị xoá bỏ. Tuy nhiên đây lại là
một trong những nguyên nhân chủ yếu gây nên rủi ro hệ thống Do đó việc quản lý
chứng khoán quốc tế rất được coi trọng. Vấn đề này bao gồm 4 nội dung:
o Quản lý phát hành chứng khoán của các tổ chức phát hành chứng
khoán ra nước ngoài.
o Quản lý phát hành chứng khoán của các tổ chức phát hành nước
ngoaif trên thị trường trong nước.
o Quản lý các giao dịch chứng khoán của các tổ chức cá nhân nước
ngoài trên thị trường trong nước và ngược lại
o Quản lý các tổ chức nước ngoài trên TTCK.
Sinh viên: Bùi Thị Quỳnh Thơ Lớp: Tài chính doanh nghiệp
49A

9
Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ GVHD: Th.S Đặng Anh Tuấn
Sinh viên: Bùi Thị Quỳnh Thơ Lớp: Tài chính doanh nghiệp
49A
10
Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ GVHD: Th.S Đặng Anh Tuấn
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRÊN TTCK Ở
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2006 - 2010
TTCK Việt Nam chính thức đi vào hoạt động từ ngày 20/7/2000 với sự khai
trương của trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh. Trước đó,
UBCKNN (SSC) được thành lập ngày 28/11/1996 theo Nghị định 75/CP của Thủ
tướng Chính phủ, có nhiêm vụ chuẩn bị các điều kiên pháp lý, hàng hoá, con người
và cơ sở vật chất cho TTCK Việt Nam. SSC là cơ quan quản lý cao nhất của nhà
nước về chứng khoán. Bân cạnh đó, Bộ Tài chính, Ngân hàng nhà nước, Bộ tư pháp
quản lý nhà nước về một số lĩnh vực trong chứng khoán.
UBCKNN tương đối độc lập với các ban ngành. Điều hành uỷ ban gồm: Chủ
tịch, các Phó chủ tịch, các Uỷ viên kiêm nhiệm cấp thứ trưởng các bộ: Tư pháp, Kế
hoạch đầu tư, Ngân hàng nhà nước. Chủ tịch UBCKNN chịu trách nhiệm trước
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, và Quốc hội về hoạt động của TTCK.
Thực tế cho thấy, trong những năm qua, TTCK Việt Nam đã phát triển với tốc độ nhanh
chóng và ấn tượng. Có được điều đó một phần lớn là nhờ công của các nhà quản lý. Tuy
nhiên, vì là một thị trường còn non trẻ nên Vịêt Nam còn khá nhiều yếu kém trong công tác
quản lý. Điều đó càng thể hiện rõ hơn trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
2.1. Thành tựu
2.1.1. Ban hành Luật chứng khoán (2006)
Để TTCK Việt Nam hoạt động hiệu quả, trước hết cần phải có một đạo luật để
điều chỉnh hành vi của các chủ thể tham gia trên thị trường đồng thời xử lý những
sai phạm xảy ra.
- Năm 2006, Bộ Tài chính ban hành quyết định về phát triển thị trường chứng

khoán. Trong đó khoản 8 điều 1 có nêu lên phương hướng QLNN trên TTCK:
Quản lý nhà nước về thị trường chứng khoán:
a) Xây dựng Luật chứng khoán và các văn bản hướng dẫn trình cơ quan nhà
nước có thẩm quyền phê duyệt trong năm 2006.
Sinh viên: Bùi Thị Quỳnh Thơ Lớp: Tài chính doanh nghiệp
49A
11
Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ GVHD: Th.S Đặng Anh Tuấn
b) Chuyển đổi tổ chức và hoạt động của Trung tâm giao dịch chứng khoán và
Trung tâm lưu kí chứng khoán theo quy định tại luật chứng khoán.
c) Nâng cao tính minh bạch, công khai, công bằng trong hoạt động của hoạt
động thị trường chứng khoán trên cơ sở hoàn thiện và thực thi quy định về công bố
thông tin, quy định quản trị công ty với công ty đại chúng.
d) Nâng cao năng lực hoạch định chính sách, tăng cường hiệu quả giám sát, thanh
tra và xử lý vi phạm luật về chứng khoán và thị trươngf chứng khoán, hoàn thiện và áp
dụng các tiêu chí đánh giá hiệu quả của các công ty chứng khoán công ty quản lý quỹ,
tiêu chí đánh giá các giao dịch bất thường trên thị trường chứng khoán.
đ) Áp dụng các quy tắc quản lý thị trường chứng khoán theo khuyến nghị của
IOSCO về các lĩnh vực: quản lý tổ chức phát hành chứng khoán, quỹ đầu tư tập thể,
tổ chức trung gian thị trường, thị trường thứ cấp.
e) Thực hiện Đề án nâng cấp đào tạo người hành nghề kinh doanh chứng
khoán và đào tạo, tuyên truyền về thị trường chứng khoán cho công chúng đầu tư
giai đoạn 2006-2010 được Bộ Tài chính phê duyệt.”
- Luật Chứng khoán có hiệu lực từ ngày 1-1-2007 tạo hành lang pháp lý quan
trọng cho TTCK tiếp tục phát triển. Các tiêu chuẩn tham gia thị trường với những
thành viên như: Công ty chứng khoán, Công ty niêm yết, Công ty quản lý quỹ
được nâng cấp. Hệ thống giao dịch cổ phiếu OTC dự kiến khởi động vào cuối quớ 1
năm 2008, với 40 cổ phiếu của các Công ty chứng khoán, Ngân hàng và Bảo hiểm,
dự báo sẽ trở thành thị trường giao dịch chứng khoán có quy mô lớn nhất.
2.1.2. Quản lý tốt dòng vốn đầu tư vào TTCK giai đoạn 2006 – 2007

o Dòng vốn trong nước
Trong những năm 2006 – 2007, dòng vốn đầu tư vào TTCK tăng nhanh trong
thời gian ngắn. Đây là một thách thức không nhỏ cho các nhà quản lý thị trường.
Tuy nhiên, việc quản lý đã được thực hiện khá tốt:
- Trong giai đoạn này, nguồn vốn chủ yếu đổ vào thị trường thứ cấp. Vốn trên
thị trường sơ cấp còn khá khiêm tốn. Điều đó làm hạn chế việc mở rộng sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp cũng như việc huy động vốn của nhà nước. Nhận
Sinh viên: Bùi Thị Quỳnh Thơ Lớp: Tài chính doanh nghiệp
49A
12
Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ GVHD: Th.S Đặng Anh Tuấn
thức được điều đó, các nhà quản lý đã có nhiều biện pháp hướng luồng vốn này
sang thị trường sơ cấp như: Đẩy mạnh tiến trình cổ phần hoá và phát hành cổ phiếu
lần đầu ra công chúng (IPO) các doanh nghiệp nhà nước (điển hình là Bảo Việt và
Vietcombank), tăng cường kiểm toán báo cáo tài chính của các công ty niêm yết để
tạo lòng tin cho các cổ đông…
- Nhận thấy việc các ngân hàng thương mại đua nhau cho vay đầu tư chứng
khoán sẽ tạo ra “bong bóng tài chính” trên TTCK, Ngân hàng nhà nước đã ra Chỉ
thị 03. Đây là chính sách có tác động đáng kể đến TTCK. Nó đã hạn chế luồng vốn
tín dụng từ kênh dẫn vốn ngân hàng sang TTCK ở mức 3%. Quyết định này của Ngân
hàng nhà nước là một bước đi đúng đắn. Nó làm giảm nhiệt TTCK vốn phát triển “quá
nóng” trong những tháng cuối năm 2006, đầu năm 2007.
o Dòng vốn ngoại
Sự sôi động của thị trường những năm 2000 - 2006 là một cơ sở để các nước trên
thế giới đánh giá Việt Nam là một nước có nền kinh tế thị trường. Với giới đầu tư, Việt
Nam trở thành một điểm đến mới đầy hấp dẫn. Ngoài tính hấp dẫn của một thị trường
mới nổi, chính sách cởi mở như không ràng buộc trong cơ chế vào - ra đang tạo thuận
lợi để các dòng vốn trên thế giới chuyển hướng vào Việt Nam. Tính đến 31/5/2007, đã
có tới 206 tổ chức, quỹ đầu tư đăng ký tham gia vào thị trường chứng khoán Việt Nam,
trong đó phần lớn là các tổ chức quy mô và có uy tín trên thế giới.

Ủy ban Chứng khoán đã định hướng một số biện pháp nhằm tăng cường quản
lý dòng vốn đầu tư trên TTCK theo quan điểm vừa khuyến khích vừa đảm bảo an
toàn, minh bạch và không can thiệp trực tiếp bằng biện pháp hành chính.
- Kiểm soát hoạt động của nhà đầu tư nước ngoài cũng như lượng vốn đầu tư
gián tiếp được cập nhật từng ngày thông qua hệ thống mã giao dịch và tài khoản của
họ mở tại các ngân hàng thương mại, qua đó có thể giám sát, định hướng được xu
hướng của từng thời kỳ.
- Hạn chế tỷ lệ sở hữu của các nhà đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp
để tránh tình trạng thâu tóm và sát nhập, gây nên sự hỗn loạn cho thị trường.
- Thực hiện đăng ký lại các văn phòng đại diện của các tổ chức nước ngoài,
Sinh viên: Bùi Thị Quỳnh Thơ Lớp: Tài chính doanh nghiệp
49A
13
Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ GVHD: Th.S Đặng Anh Tuấn
quy về một mối là Ủy ban Chứng khoán. Đặc biệt, ủy ban chấm dứt việc ủy quyền
đầu tư qua các cá nhân để tránh thất thu thuế và khó kiểm soát.
2.1.3. Điều hành thị trường chứng khoán thoát khỏi thời khủng hoảng
(Giai đoạn 2008-2010)
Năm 2008 là năm đầy biến động của kinh tế thế giới. Lạm phát lên cao kỉ lục
ở rất nhiều nước. Kinh tế thế giới lâm vào cuộc khủng hoảng trầm trọng. Trong bối
cảnh ấy, kinh tế Việt Nam cũng không sáng sủa hơn. Điều đó ảnh hưởng rất lớn đến
TTCK. Vn-Index tụt xuống đáy, chạm mốc 311 điểm.
Sáu tháng đầu năm 2010, TTCK và kinh tế Việt Nam tiếp tục chịu sự ảnh
hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu từ năm 2008. Tuy nhiên gần đây,
kinh tế thế giới đã có những chuyển biến tích cực, đồng thời kinh tế trong nước cũng
đã có những tín hiệu hồi phục từ các gói kích cầu của Chính phủ. TTCK trong nước đã
có những bước chuyển biến do sự hồi phục và tăng trưởng trở lại của thị trường chứng
khoán nước ngoài, sự ổn định của nền kinh tế trong nước và từ các chính sách kinh tế
vĩ mô, lòng tin của nhà đầu tư trong nước được khôi phục. Để hạn chế những tác động
tiêu cực của cuộc khủng hoảng và để tận dụng tốt hơn những yếu tố chuyển biến của

nền kinh tế, UBCKNN đã rất cố gắng trong công tác chỉ đạo, điều hành, đưa ra những
biện pháp quyết liệt nhằm bình ổn và phát triển thị trường.
- Dưới sự chỉ đạo của Chính phủ, trực tiếp là Bộ Tài chính và sự phối hợp của
các đơn vị trực thuộc Bộ, 6 tháng đầu năm 2010 mặc dù có nhiều biến động lớn (chỉ
số Vn-Index có lúc đó xuống thấp nhất là 235,50 điểm và Hastc-Index là 78,06
điểm ngày 24/2/2010) nhưng nhìn chung UBCKNN vẫn đảm bảo tốt hoạt động trên
các lĩnh vực. 6 tháng đầu năm, UBCKNN soạn thảo các văn bản pháp quy trình
Chính phủ và Bộ Tài chính ký ban hành 14 văn bản và đang tiếp tục soạn thảo các
văn bản hướng dẫn Luật Chứng khoán để hoàn thiện và tạo khung pháp lý ổn định
điều chỉnh các hoạt động thị trường. Nhờ đó hoạt động của thị trường dần đi vào ổn
định và có những chuyển biến tích cực. Bên cạnh đó, ủy ban luôn chủ động nắm bắt
tình hình thực tế và báo cáo Bộ để giải quyết tốt nhất những sự cố xảy ra.
+ Thời gian qua, UBCKNN đã chỉ đạo quyết liệt các đơn vị hoàn thành các đề
án, dự án quan trọng, soạn thảo các văn bản hướng dẫn trình Bộ ban hành để thu
Sinh viên: Bùi Thị Quỳnh Thơ Lớp: Tài chính doanh nghiệp
49A
14
Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ GVHD: Th.S Đặng Anh Tuấn
hẹp thị trường tự do, tăng cường hoạt động quản lý giám sát, kịp thời điều chỉnh các
lĩnh vực mới phát sinh tiếp tục nghiên cứu tái cấu trúc thị trường, chuyển đổi Trung
tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội thành Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội; và
Trung tâm Lưu ký Chứng khoán thành công ty TNHH một thành viên. Từ đầu năm
đến nay, UBCKNN đã cấp giấy chứng nhận phát hành cho 30 tổ chức phát hành với
tổng mức chào bán ra công chúng khoảng 412 triệu cổ phiếu, tương ứng với hơn
4.137 tỷ đồng; tổ chức được 17 phiên đấu giá cổ phần tại hai Sở Giao dịch Chứng
khoán với tổng số cổ phần bán được khoảng 110,1 triệu cổ phiếu, đạt giá trị gần
1.224 tỷ đồng. Đặc biệt, ngày 24/6/2010, thị trường giao dịch chứng khoán công ty
đại chúng chưa niêm yết (thị trường UPCoM) chính thức được khai trương hoạt
động, tạo ra cơ hội đầu tư mới cho các nhà đầu tư.
- Đồng thời, UBCKNN đã tăng cường công tác quản lý, giám sát đối với các

tổ chức trung gian; tiếp tục đẩy mạnh công tác thanh tra giám sát nhằm tăng cường
tính minh bạch, góp phần giữ vững ổn định thị trường chứng khoán. Trong 6 tháng
đầu năm 2010, UBCKNN đã xử phạt vi phạm hành chính đối với 26 tổ chức tham
gia thị trường (tổ chức phát hành, niêm yết, công ty chứng khoán) và 14 cá nhân.
Hoạt động thông tin, tuyên truyền, phổ cập kiến thức và tiếp xúc công chúng đã
được nâng lên một bước, UBCKNN đã chủ động phối hợp với các cơ quan thông tin
của Bộ, các cơ quan chức năng, các phương tiện truyền thông để tổ chức tuyên truyền,
thông báo kịp thời chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về chứng khoán và
TTCK. Kịp thời cải chính những tin đồn không chính xác, sai sự thật làm ảnh hưởng
đến các tổ chức và cá nhân tham gia thị trường. Định kỳ tổ chức công bố thông tin của
công ty đại chúng trên Website và Bản tin ủy ban Chứng khoán Nhà nước.
- Để đem lại hiệu quả hoạt động cao hơn nữa, Ủy ban duy trì và phát triển mới
các mối quan hệ với các tổ chức quốc tế cũng như các UBCKNN và SGDCK của
các nước trong khu vực và trên thế giới nhằm tận dung sự giúp đỡ về chuyên môn,
kỹ thuật về chứng khoán và thị trường chứng khoán như: các dự án hỗ trợ kỹ thuật
của ADB, WB, USAID, Luxemburg…
2.2. Hạn chế
Không thể phủ nhận là trong những năm qua, nhà nước đã quản lý để TTCK
Sinh viên: Bùi Thị Quỳnh Thơ Lớp: Tài chính doanh nghiệp
49A
15
Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ GVHD: Th.S Đặng Anh Tuấn
trở thành một kênh huy động vốn nhanh, hiệu quả, thúc đẩy cổ phần hóa doanh
nghiệp. Quy mô vốn hóa thị trường cổ phiếu và trái phiếu hiện đã chiếm khoảng
36% GDP, gần bằng một nửa kênh dẫn vốn của ngân hàng. Tuy nhiên, việc quản lý
này vẫn còn lúng túng, chưa thể hiện được vai trò kênh huy động vốn cho doanh
nghiệp đầu tư, đổi mới công nghệ, nõng cao sức cạnh tranh
2.2.1. Những yếu kém trong quản lý phát hành chứng khoán
Trong các công việc của UBCKNN, ngoài thanh tra giám sát, quản lý phát
hành chứng khoán cũng là một lĩnh vực “bận rộn”. Nhiệm vụ trọng tâm của Ban

Quản lý phát hành, UBCK, là xét duyệt hồ sơ đăng ký công ty đại chúng, hồ sơ
đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng, xem xét tài liệu phát hành cổ phiếu
trả cổ tức, phát hành cổ phiếu thưởng; thẩm định hồ sơ đăng ký chấp thuận các tổ
chức kiểm toán
Cho đến nay Uỷ ban chứng khoán nhà nước (UBCKNN) mới chỉ thực sự tiến
hành việc quản lý nhà nước (QLNN) với những cổ phiếu được niêm yết và chào bán
tại Trung tâm giao dịch chứng khoán (TTGDCK) Hà Nội và tp Hồ Chí Minh. Sự
phát hành và lưu thông cổ phiếu của hơn 900 công ty cổ phần được chuyển đổi từ
doanh nghịêp nhà nước và các loại chứng khoán khác vẫn diễn ra hoàn toàn biệt lập
và dường như ko có liên quan gì đến UBCKNN. Chưa có sự phân công rõ ràng,
phối hợp đồng bộ giữa UBCKNN với Ban chỉ đạo phát triển đổi mới doanh nghiệp
và Bộ Tài chính trong quá trình cổ phần hoá doang nghiệp, mặc dù đây là nguồn
cung cấp “sản phẩm” chính cho thị trường sơ cấp hiện nay. Đồng thời chưa thiết lập
được chức năng QLNN đối với tín phiếu và trái phiếu kho bạc nhà nước được phát
hành thông qua ngân hàng nhà nước.
2.2.2. Quản lý các giao dịch trên thị trường
o Những bức xúc về điều khiển vĩ mô đối với thị trường giao dịch tập trung.
Từ năm 2000 đến nay, Thị trường giao dịch tập trung (TTGDTT) đã thực sự
trở thành kênh huy động vốn, thúc đẩy việc phát hành trái phiếu Chính phủ, cổ
phiếu của các công ty cổ phần. Nhưng việc điều khiển thị trường thứ cấp của
TTGDTT vẫn còn nhiều hạn chế (đặc biệt là giao dịch cổ phiếu). Thực tiễn hoạt
Sinh viên: Bùi Thị Quỳnh Thơ Lớp: Tài chính doanh nghiệp
49A
16
Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ GVHD: Th.S Đặng Anh Tuấn
động của thị trường bộc lộ nghịch lý lớn nhất là: TTCK được chủ động tạo ra nhưng
Nhà nước lại không quản lý được một cách chủ động. Những biến động trên TTCK
nhiều khi vượt quá tầm kiểm soát của UBCKNN. Những định chế tài chính được sử
dụng trên thị trường thứ cấp của TTGDTT còn nhiều khe hở và bị giới đầu cơ lợi
dụng: lợi dụng “ biên độ giao động cho phép”, “ kết quả khớp lệnh – giá đóng cửa”

để tạo ra những “con số ảo” để đẩy giá trị thực của các chứng khoán lên, gây cơn
sốt ảo nhằm đầu cơ sinh lợi. Mới hoạt động được vài năm nhưng đến nay đã có
nhiều sự cố đáng tiếc xảy ra trên thị trường này. Ví dụ: Việc thiếu kinh nghiệm
QLNN đã tạo điều kiện cho giđầu cơ gây ra sự chao đảo cổ phiếu BBC và cổ phiếu
CAN (2003). Điều này làm ảnh hưởng không tốt đến lòng tin của công chúng và
các nhà đầu tư với TTGDTT và trở thành một trong những nhân tố kìm hảm sự phát
triển của TTCK Việt Nam.
LCK 2006 mặc dù đã trao cho SGDCK, TTGDCK khá nhiều quyền hạn thể
hiện tính chất tự quản trong hoạt động của mình, như ban hành các quy chế hoạt
động, tổ chức và điều hành hoạt động giao dịch chứng khoán, chấp thuận, huỷ bỏ tư
cách thành viên giao dịch… (Điều 37). Tuy nhiên, LCK 2006 chưa quy định thẩm
quyền xử phạt của SGDCK, TTGDCK đối với các thành viên giao dịch của mình.
Đây là yếu tố hết sức quan trọng để SGDCK, TTGDCK trở thành một tổ chức tự
quản đúng nghĩa, đó là khả năng tự cưỡng chế thực thi. Tất cả thẩm quyền của
SGDCK, TTGDCK liên quan đến việc xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp chỉ
dừng lại ở mức độ: “Làm trung gian hồ giải theo yêu cầu của thành viên giao dịch
khi có tranh chấp liên quan đến hoạt động giao dịch chứng khoán” (khoản 8 Điều
37 LCK 2006).
o Quản lý thị trường OTC còn lúng túng
Thị trường OTC hình thành tự phát và đi vào “vận hành” trước cả thị trường
chính thức 2 - 3 năm. Tuy nhiên, đến tận thời điểm 2006, Bộ Tài chính mới bắt tay
vào xây dựng một văn bản pháp lý dưới dạng Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ để
tăng cường quản lý thị trường OTC. Việc chưa thể quản lý chặt chẽ thị trường OTC
có khá nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân là hệ thống luật pháp thiếu
Sinh viên: Bùi Thị Quỳnh Thơ Lớp: Tài chính doanh nghiệp
49A
17
Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ GVHD: Th.S Đặng Anh Tuấn
đồng bộ. Đơn cử, trước thời điểm 1/1/2007 (Luật Chứng khoán có hiệu lực), việc
chào bán chứng khoán ra công chúng của doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa, ngân

hàng thương mại và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không được thực hiện
theo các tiêu chuẩn công bố thông tin công khai, minh bạch và vẫn chưa có sự giám
sát của cơ quan quản lý nhà nước. Ngay cả sau khi Luật Chứng khoán có hiệu lực
thì việc quản lý doanh nghiệp chào bán chứng khoán ra công chúng vẫn tiếp tục gặp
khó khăn do nguyên nhân từ hệ thống luật pháp, như chưa có văn bản hướng dẫn
việc chào bán cổ phiếu riêng lẻ (ngoại trừ Nghị định 52/2006/NĐ-CP về phát hành
trái phiếu doanh nghiệp) theo quy định của Luật Doanh nghiệp.
2.2.3. Quản lý các nhà kinh doanh chứng khoán còn nhiều bất cập
o Quản lý các công ty chứng khoán
Các công ty chứng khoán (CTCK) là cầu nối giữa nhà đầu tư với Trung tâm
giao dịch chứng khón. Người chơi chứng khoán sẽ phải đến các CTCK để thực hiện
một số thủ tục như mở tài khoản chứng khoán, lưu ký chứng khoán, tư vấn đầu tư…
Vì vậy hoạt động của các CTCK ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của thị trường.
Trong khi đó, quản lý hoạt động của các công ty chứng khoán lại là vấn đề nhức
nhối nhất hiện nay.
Các nhà quản lý luôn đưa ra lý do “chưa có hướng dẫn cụ thể, nếu thực hiện
thì sẽ gây hậu quả khôn lường” để cấm những hoạt động không thể quản lý được.
Điều này gây ra những tác hại nghiêm trọng cho quá trình hoạt động và phát triển
của các CTCK. Đơn cử, ngày 4/7/2008, UBCKNN đã có Công văn số 1748 yêu cầu
các CTCK không bán hoặc cho khách hàng bán chứng khoán khi không sở hữu và
không cho khách hàng vay chứng khoán. Trong khi đó, tại khoản 9, điều 71, Luật
Chứng khoán quy định nghĩa vụ của CTCK có ghi rõ công ty chứng khoán “thực
hiện việc bán hoặc cho khách hàng bán chứng khoán khi không sở hữu chứng
khoán và cho khách hàng vay chứng khoán để bán theo quy định của Bộ Tài chính”.
Như vậy, luật không cấm bán khống chứng khoán, mà chỉ yêu cầu phải làm theo
hướng dẫn của Bộ Tài chính. Song, từ khi luật có hiệu lực từ ngày 1-1-2007 đến
nay, không có một hướng dẫn cụ thể nào từ Bộ Tài chính về việc CTCK được phép
Sinh viên: Bùi Thị Quỳnh Thơ Lớp: Tài chính doanh nghiệp
49A
18

Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ GVHD: Th.S Đặng Anh Tuấn
triển khai dịch vụ này.
o Công bố thông tin
Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 38/2007/TT-BTC hướng dẫn về việc
công bố thông tin trên thị trường chứng khoán, thi hành Luật Chứng khoán số
70/2006/QH11 ngày 29/6/2006. Theo đó, đối tượng công bố thông tin bao gồm:
Công ty đại chúng, tổ chức phát hành thực hiện chào bán trái phiếu ra công chúng,
tổ chức niêm yết, công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, công ty đầu tư chứng
khoán, Sở giao dịch chứng khoán ,Trung tâm Giao dịch Chứng khoán và các cá
nhân liên quan.
Tuy đã có công văn hướng dẫn nhưng lại không có hình phạt thích đáng cho
những sai phạm đã làm cho các tổ chức này vì lợi nhuận mà phớt lờ quy định.
Những người chịu trách nhiệm cao nhất trong việc công bố thông tin là tổng giám
đốc, kế toán trưởng, các công ty kiểm toán và kiểm toán viên chịu mức kỷ luật chưa
đủ để răn đe cho những sai phạm sau này có thể xảy ra của các công ty khác.
Vụ cổ phiếu BBT là một ví dụ điển hình. Công ty cổ phần Bông Bạch Tuyết
đã lỗ 15 tỷ trong hai năm 2006, 2007 nhưng bản báo cáo tài chính (đã qua kiểm
toán) lại là lãi. Sự việc bị phanh phui đã dẫn đến hậu quả là cổ phiếu này mất giá
thảm hại và bị đưa vào kiểm soát, chỉ được giao dịch 15 phút cuối phiên giao dịch.
Người chịu trách nhiệm cao nhất là tổng giám đốc, kế toán trưởng vẫn “bình chân
như vại”, để lại những hậu quả và những mất mát cho các cổ đông, đặc biệt là các
cổ đông nhỏ.
Sinh viên: Bùi Thị Quỳnh Thơ Lớp: Tài chính doanh nghiệp
49A
19
Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ GVHD: Th.S Đặng Anh Tuấn
CHƯƠNG 3
CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
Xuất phát từ thực tế trong những năm qua, để thúc đẩy hoạt động của TTCK Việt

Nam , QLNN về chứng khoán và TTCK cần tập trung giải quyết một số vấn đề sau:
3.1. Xác định rị mô hình tổ chức quản lý thị trường chứng khoán
Việc xác định và lựa chọn mô hình quản lý tổ chức TTCK có ý nghĩa chiến
lược để phát triển TTCK Việt Nam, vì: Đây không chỉ là việc lựa chọn cơ quan tổ
chức thực hiện chức năng quản lý TTCK mà còn quyết định đến nội dung, kết cấu
hạ tầng của thị trường vốn, cơ cấu thành viên tham gia TTCK.
- Để thiết lập được mô hình quản lý có tổ chức, có hiệu quả, trước hết cần xác
định rõ: UBCKNN trực thuộc Bộ Tài chính hay trực thuộc Chính phủ.
Hiện nay UBCKNN trực thuộc Bộ Tài chính. Điều này là không nên. Rõ ràng
thị trường CK là một kênh huy động vốn đặc biệt, cực kỳ quan trọng đối với nền
kinh tế thị trường mà UBCKNN là cơ quan trực tiếp điều hành, thế nhưng lại chỉ
ngang tầm một vụ, cục của Bộ Tài chính, không có được quyền lực thực sự trong
việc quyết định những vấn đề lớn. Vậy nên, Uỷ ban này phải trực thuộc Chính phủ,
những quyết sách mới nhanh được. Các nước trên thế giới đều làm vậy. Ở Việt
Nam, cách đây 5-7 năm do thị trường chứng khoán còn quá nhỏ nên việc đưa vào
Bộ Tài chính là biện pháp tức thời nay vẫn chưa tách được. UBCK cần được tách
riêng ra và có quyền lực như một bộ.
- Đối với các SGDCK Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh: cần quy định thẩm
quyền xử phạt của SGDCK, TTGDCK đối với các thành viên giao dịch của mình.
Hơn nữa, phải hiện đại hoá các trang thiết bị, sử dụng các công nghệ mới nhất (ví
dụ như phần mềm quản lý SGDCK: UNICOM.SkyCore. Đây là phần mềm đem lại
sự chuẩn hóa trong quy trình hoạt động và đáp ứng được đầy đủ nghiệp vụ tại Công
ty chứng khoán).
Sinh viên: Bùi Thị Quỳnh Thơ Lớp: Tài chính doanh nghiệp
49A
20
Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ GVHD: Th.S Đặng Anh Tuấn
3.2. Học hỏi kinh nghiệm của các nước trên thế giới
TTCK ở Việt Nam còn non trẻ nên nhà nước chưa có nhiều kinh nghiêm quản lý
là điều dễ hiểu. Vì thế, chúng ta cần học hỏi kinh nghiệm quản lý của các nước trên thế

giới, đặc biệt là các nước có TTCK phát triển như Mỹ, Anh, Nhật, Trung Quốc…
- Sau sự sụp đổ gây chấn động nước Mỹ của nhiều tập đoàn lớn như: Enron,
WorldCom, Peregrine Systems , nước Mỹ mới ban hành một đạo luật nhằm ngăn
chặn những gian dối tài chính và bảo vệ nhà đầu tư tốt hơn.
Đạo luật Sarbanes-Oxley (hay còn gọi là Sarbox, SOX), được Quốc hội Mỹ
thông qua ngày 30/7/2002, là một trong những luật căn bản của nghề kế toán, kiểm
toán. Dài 66 trang, đạo được cho là một sự bổ sung quan trọng nhất trong Luật
Chứng khoán Mỹ, nhằm mang lại tính minh bạch cho thị trường chứng khoán. Mục
tiêu chính của đạo luật này nhằm bảo vệ lợi ích của các nhà đầu tư bằng cách buộc
các công ty đại chúng phải đảm bảo sự minh bạch hơn của các báo cáo, các thông
tin tài chính khi công bố.
Đây có thể là sự tham khảo hữu ích cho những nhà quản lý TTCK Việt Nam.
Nếu tạo ra một hành lang pháp lý chặt hơn đối với hoạt động kiểm toán, kiểm soát
nội bộ, đồng thời gắn trách nhiệm cao đối với các giám đốc điều hành, kế toán
trưởng (hay giám đốc tài chính) như các quy định có thể tham khảo trong Đạo luật
Sarbanes-Oxley thì rất có thể sẽ tạo nên sự minh bạch cao hơn, qua đó tạo thêm
niềm tin cho các nhà đầu tư khi đến với TTCK Việt Nam.
- Hệ thống công bố thông tin trên TTCK Việt Nam còn nhiều hạn chế. Vì vậy
cần học hỏi kinh nghiệm của Mỹ và Trung Quốc trong vấn đề này: Nhờ có hệ thống
thông tin tốt, vận hành trôi chảy mà TTCK Mỹ và Trung Quốc đã hoạt động rất hiệu
quả. Ủy ban Chứng khoán nhà nước giữ vai trò quản lý và giám sát các hoạt động
thuộc lĩnh vực chứng khoán. Các công ty niêm yết, công ty chứng khoán, các công
ty đại chúng, các sở giao dịch chứng khoán hoạt động theo chuẩn thống nhất, đặc
biệt là các quy chế về công bố thông tin trên thị trường.
=> Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam
Một là: Hệ thống thông tin tại các Sở Giao dịch cần được hiện đại hoá, nhất là
các thông tin ngay trên sàn giao dịch.
Sinh viên: Bùi Thị Quỳnh Thơ Lớp: Tài chính doanh nghiệp
49A
21

Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ GVHD: Th.S Đặng Anh Tuấn
Hai là: Phải có chiến lược phát triển hệ thống thông tin từ phía UBCKNN.
Ba là: Cần chú ý đến vấn đề mạng truyền thông giữa các bộ phận thị trường.
Bốn là: Khuyến khích hoạt động của các hãng cung cấp thông tin chuyên
nghiệp, nhất là khi TTCK phát triển, có thị trường phi tập trung.
3.3. Hoàn chỉnh các luật về quản lý thị trường chứng khoán
Trong điều kiện kinh tế phát triển cao, nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển lớn,
đòi hỏi phải phát triển TTCK trở thành kênh huy động vốn quan trọng cho nền kinh
tế. Để đạt được mục tiêu phát triển quy mô TTCK đã đặt ra, đồng thời tạo ra khuôn
khổ pháp luật nhằm quản lý thị trường hoạt động có hiệu quả và lành mạnh, đáp
ứng điều kiện hội nhập đòi hỏi cần phải hoàn chỉnh thể chế về chứng khoán và
TTCK, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho thị trường là một yêu cầu hết sức quan
trọng. Hệ thống pháp luật từng bước được hoàn thiện sẽ tạo ra một môi trường pháp
lý hết sức thuận lợi cho sự phát triển của nền kinh tế nói chung, trong đó có sự phát
triển của TTCK.
- Luật chứng khoán 2006 ra đời đã tạo điều kiện cho thị trường hoạt động có
hiệu quả hơn. Tuy nhiên, trong ba năm qua, TTCK có nhiều biến động phức tạp.
Trong hoàn cảnh khủng hoảng kinh tế như hiện nay, Luật chứng khoán 2006 có
nhiều điều không còn phù hợp nữa. Vì thế các nhà quản lý cần phải sửa đổi và hoàn
thiện hệ thống pháp liên quan đến TTCK. Trong quá trình soạn thảo các văn bản
luật, Bộ Tài chính, UBCKNN cần tổ chức các cuộc hội thảo, tổ chức lấy ý kiến của
các Bộ, ngành, các chuyên gia trong và ngoài nước, thành viên thị trường và các tổ
chức, cá nhân có liên quan. Trên cơ sở các ý kiến đóng góp, các nhà quản lý cần
nghiên cứu, tiếp thu một cách nghiêm túc để hoàn thiện các văn bản.
- Cần có những văn bản pháp luật quy định rõ ràng trách nhiệm của các thành
viên tham gia thị trường để bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư, nhất là các nhà đầu
tư nhỏ lẻ. Phải tránh việc ban hành các chính sách mâu thuẫn nhau, phải can thiệp thị
trường bằng các biện pháp kinh tế, tránh các biện pháp hành chính. Có như thế mới
không gây mất lòng tin của nhà đầu tư để họ không rút vốn ồ ạt ra khỏi thị trường.
Sinh viên: Bùi Thị Quỳnh Thơ Lớp: Tài chính doanh nghiệp

49A
22
Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ GVHD: Th.S Đặng Anh Tuấn
KẾT LUẬN

Trong giai đoạn 2006-2010, TTCK đã có nhiều biến động phức tạp. Hoạt động
của thị trường cho thấy vẫn chưa thực sự ổn định, nhiều doanh nghiệp không thực
hiện đầy đủ các nghĩa vụ của mình đối với nhà đầu tư, đặc biệt là vấn đề công bố
thông tin. Những sai phạm chưa được xử lý nghiêm khắc nên không đủ tính răn đe.
Mặt khác, thị trường giao dịch chứng khoán phi tập trung hình thành tự phát, sôi
động, nhưng tiềm ẩn nhiều rủi ro cho nhà đầu tư. Điều này có thể gây thiệt hại đến
quyền lợi của nhà đầu tư, gây ảnh hưởng xấu đến môi trường đầu tư.
Từ tình hình trên đây các cơ quan chức năng phải có biện pháp thích hợp để
quản lý thị trường nhằm tăng tính hiệu quả, tính minh bạch, ngăn ngừa nguy cơ lừa
đảo, đổ vỡ và ảnh hưởng đến thị trường nói chung, gây mất lòng tin của các nhà đầu
tư trong và nước ngoài.
Sinh viên: Bùi Thị Quỳnh Thơ Lớp: Tài chính doanh nghiệp
49A
23

×