Tải bản đầy đủ (.docx) (58 trang)

đề tài nghiên cứu khoa học BIỂU TƯỢNG VĂN HÓA TRONG THƠ MAI VĂN PHẤN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (249.73 KB, 58 trang )

MỤC LỤC


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề
3. Mục đích nghiên cứu
4. Nhiệm vụ và đối tượng nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu
6. Cấu trúc của đề tài

PHẦN NỘI DUNG

Chương 1: NGHIÊN CỨU NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ BIỂU TƯỢNG

1.1. Khái niệm biểu tượng
1.2. Biểu tượng văn hoá
1.3. Phân biệt hình ảnh và biểu tượng
1.4. Tác giả Mai Văn Phấn
1.4.1. Tác giả Mai Văn Phấn
1.4.2. Tập thơ “ Vừa sinh ra ở đó”

Chương 2: BIỂU TƯỢNG TRONG THƠ MAI VĂN PHẤN

2.1. Biểu tượng ánh sáng, ngọn lửa, ban mai trong thơ Mai Văn Phấn
2.1.1. Ý nghĩa gốc của các biểu tượng trong từ điển
2.1.2. Khảo sát ý nghĩa của biểu tượng trong một số bài thơ
2.2 Biểu tượng nước trong thơ Mai Văn Phấn
2.2.1. Ý nghĩa gốc của biểu tượng trong từ điển
2.2.2. Khảo sát ý nghĩa của biểu tượng trong một số bài thơ


2.3 Biểu tượng đá
2.3.1. Ý nghĩa gốc của biểu tượng trong từ điển
2.3.2. Khảo sát ý nghĩa của biểu tượng trong một số bài thơ
2.4. Bóng tối
2.4.1. Ý nghĩa gốc của biểu tượng trong từ điển
2.4.2. Khảo sát ý nghĩa của biểu tượng bóng tối trong một số bài thơ

KẾT LUẬN

TÀI LIỆU THAM KHẢO




MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài.

1.1. Mai Văn Phấn là một trong những nhà thơ tiêu biểu của văn học Việt
Nam đương đại. Hành trình sáng tạo của ông là một hành trình dài với
những nỗ lực cách tân không ngừng nghỉ. Đặc biệt trong mười năm trở lại
đây ông đã tạo nên diện mạo mới cho thơ ca Việt Nam và được bạn bè trong
nước và thế giới đón nhận nồng nhiệt.

1.2. Theo dõi hành trình sáng tạo của Mai Văn Phấn chúng ta có thể thấy từ
những cầu kì cách tân về hình thức, thơ của ông ngày càng giản đơn nhưng
lại chứa đựng những chiều sâu triết học đầy nhân văn. Cũng bởi vậy mà các
tập thơ của ông được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới. Đặc biệt là tập “Ra
vườn chùa xem cắt cỏ” trờ thành 1 trong 3 tập thơ Châu Á bán chạy nhất
trên mạng thông tin điện tử đa quốc gia Amazon.com. Có thể nói thơ ông

đang góp phần quảng bá hình ảnh đẹp của nghệ thuật Việt Nam ra thế giới

1.3. Đọc thơ Mai Văn Phấn, chúng ta thấy ông vận dụng một cách tối ưu các
thủ pháp của thơ ca phương Tây như: phá vỡ trật tự câu thơ, nhịp, vần thông
thường kết hợp với việc nâng cao giá trị các biểu tượng, mở rộng trường
nghĩa các biểu tượng và tạo nên các “khoảng trống” trong bài thơ của mình.
Những hình ảnh bên cạnh những “khoảng trống” ấy không dễ đọc chút nào.

Để góp phần tìm kiếm một cách đọc thích hợp đối với thơ ca đương đại mà cụ
thể là thơ Mai Văn Phấn, chúng tôi thực hiện đề tài Biểu tượng văn hóa
trong thơ Mai Văn Phấn.

2. Lịch sử vấn đề.

Với những hình ảnh, ngôn từ mới lạ, đặc sắc, thơ Mai Văn Phấn đã chiếm giữ
được vị trí trong trái tim bạn đọc đồng thời nó cũng mang lại một vẻ đẹp, sắc
màu tươi mới cho thơ ca Việt Nam. Đọc thơ ông chúng ta thấy hiện lên một
sự cách tân, đột phá. Vẫn những hình ảnh thơ quen thuộc ấy nhưng gần như
chúng ta cảm thấy khó tiếp cận, khó hiểu. Nó không còn là một văn bản thơ
thuần túy đã có sẵn nội dung cho mình mà nó là một văn bản mở để người
đọc có thể suy nghĩ, nghiền ngẫm. Chính sự đột phá, sự cách tân và nét đặc
sắc cả về nội dung và nghệ thuật ấy, nên ngay khi Mai Văn Phấn vừa cho xuất
hiện trên thi đàn “những đứa con tinh thần của mình” thì đã được rất nhiều
nhà phê bình, nghiên cứu quan tâm.

Vũ Thị Thảo trong “Đặc điểm nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn” đã chỉ ra bốn đặc
điểm nghệ thuật trong thơ ông. Thứ nhất, đọc thơ Mai Văn Phấn là đọc một
thế giới nghệ thuật khá đặc thù, được kiến tạo theo những nguyên tắc và
phương tiện không hề quen thuộc. Thứ hai thơ ông là một sự chuyển động
liên tục với những tìm tòi thi pháp đa dạng, đó là một hành trình luôn có sự

cách tân, tìm tòi, có ý thức học hỏi những nền thơ lớn trên thế giới đặc biệt là
thơ Âu- Mỹ hiện đại. Thứ ba thơ ông được chi phối bởi một nhãn quan nhân
sinh- thẩm mỹ khá đặc biệt. Thứ tư thơ ông đặc biệt chú ý đến tiếng nói của
trực giác, vô thức, tâm linh trong sáng tạo. Đồng thời người nghiên cứu cũng
chỉ ra được cách thức tổ chức thế giới nghệ thuật ấy.

Nguyễn Nhật Huy trong “Những biểu tượng thức giấc trong thơ Mai Văn
Phấn” đã đưa ra cách nhìn của mình về vấn đề đọc thơ Mai Văn Phấn dưới
góc nhìn liên văn bản, để góp phần làm rõ dấu ấn hậu hiện đại trong thơ ông.
Trước hết người viết đối chiếu các biểu tượng trong thơ Mai Văn Phấn với
biểu tượng gốc, sau đó mới đi tìm sự sáng tạo trong các biểu tượng phái sinh
qua bài thơ “Đêm của em”.

PGS.TS Văn Giá trong “Thơ Mai Văn Phấn và Đồng Đức Bốn khác biệt và
thành công” nhận định: “ Trong rất nhiều thi ảnh bề bộn ở thơ Mai Văn Phấn,
có ba hình ảnh chụm nhất, cô đọng nhất nên trở thành tiêu biểu nhất. Đất
đai, ánh sáng và Người tình (được gọi là Em). Cả ba hình ảnh này đều nằm
trong sự quy chiếu của lẽ phồn sinh và hóa sinh bất định với tất cả sự sống
động của chúng”. [ 8, 534]

Nhà văn Nguyễn Tham Thiện Kế lại khai thác thơ Mai Văn Phấn với các ý
tưởng và các triết lý nhân sinh thông qua hình ảnh của cây cỏ: “Qua hình ảnh
ngọn cỏ, Mai Văn Phấn tung hoành thể hiện các ý tưởng và các triết lý nhân
sinh bằng nhiều thủ pháp, tu từ, ẩn dụ, so sánh thị giác, cảm giác…. Và hoàn
toàn làm chủ các kỹ thuật đó trong việc khai triển Thi pháp của từng trường
đoạn sáng tác mà vẫn giữ được sự thuần cảm để dẫn đến một sắc thái tự
nhiên như cỏ” [8, 373]

Trong khi nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên trong “ Ban mai và ngọn
lửa”, Báo hải quan thì lại tìm thấy trong thơ Mai Văn Phấn rất nhiều những

ban mai và ngọn lửa: “Thơ Mai Văn Phấn rất nhiều những ban mai. Cái
nguyên sơ trong trẻo của buổi đầu ngày, khi bóng đêm qua ánh sáng tới,
mang ý nghĩa khải thị, hồi sinh. (…) Có ban mai là có ánh sáng. Ánh sáng
chống lại sự quên lãng, sự chôn vùi, sự tàn úa. Ánh sáng thức dậy những vùng
nhớ, những trăn trở, những tìm kiếm. Con đường thơ của Mai Văn Phấn là
hành trình đi tới ban mai”. [13, 39]

Thơ Mai Văn Phấn đã được các nhà thơ, các nhà nghiên cứu phê bình đánh
giá rất cao.

Nhà thơ Nguyễn Việt Chiến đã mạnh dạn khẳng định rằng: “ Nếu có nhà thơ
nào đó đang lặng lẽ luôn tự đổi mới thơ mình và phá vỡ các nhịp điệu mòn cũ
trong các thể nghiệm thơ hôm nay, theo tôi, người đó phải là Mai Văn Phấn.
Từ trữ - tình – cổ - điển, anh “bay” thẳng một mạch vào hậu- hiện- đại, rồi từ
đó “ lao” vào vòng xoáy đầy ấn tượng của thơ- cách- tân”.

PGS. TS Hồ Thế Hà trong bài viết “Thơ tạo sinh nghĩa Mai Văn Phấn” đã có
một cách tiếp cận khá mới mẻ từ thế giới hình tượng và ngôn ngữ thơ Mai
Văn Phấn. Tác giả này cho rằng: “Mai Văn Phấn đang xóa nhòa ranh giới giữa
văn xuôi và thi ca mà vẫn được gọi là ngôn ngữ thi ca, nghĩa là anh luôn thay
đổi hệ ngôn từ để chúng làm tiền trạm cho cảm xúc và suy nghĩ của mình để
không trở nên xa lạ với mọi người [8, 227]

Mặc dù đã có rất nhiều bài viết, công trình nghiên cứu, khảo sát thơ Mai Văn
Phấn nhưng vấn đề biểu tượng trong thơ ông vẫn chưa thật sự được sáng tỏ.
Đề tài “Biểu tượng văn hóa trong thơ Mai Văn Phấn” mạnh dạn đưa ra một
cách đọc mới đối với thơ ca đương đại.

3. Mục đích nghiên cứu


- Tìm hiểu những biểu tượng trong thơ Mai Văn Phấn.
- Nhận xét, đánh giá vai trò, tác dụng của những biểu tượng đó.
- Nâng cao kỹ năng cảm thụ văn chương.

4. Nhiệm vụ và đối tượng nghiên cứu.

4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu.

- Tổng hợp những vấn đề lý luận chung về biểu tượng
- Tìm hiểu biểu tượng trong thơ Mai Văn Phấn.

4.2. Đối tượng nghiên cứu.

Đối tượng mà người nghiên cứu hướng tới là thơ Mai Văn Phấn. Tuy nhiên
với đề tài này chúng tôi chỉ giới hạn nghiên cứu trong những tác phẩm
hướng tới việc làm sáng rõ nội dung của đề tài. Đó là tập thơ “Vừa sinh ra ở
đó” và “Thơ tuyển Mai Văn Phấn cùng tiểu luận và trả lời phỏng vấn”.

5. Phương pháp nghiên cứu.

- Phương pháp liên văn hóa.
- Phương pháp khảo sát, thống kê, phân loại.
- Phương pháp phân tích.
- Phương pháp tổng hợp, khái quát.

6. Cấu trúc của đề tài.

Đề tài bố cục thành ba phần chính: Mở đầu, nội dung, kết luận. Trong đó phần
nội dung gồm hai chương:
Chương 1: Nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về biểu tượng.

Chương 2: Biểu tượng trong thơ Mai Văn Phấn.

Ngoài ra đề tài còn có phần tài liệu tham khảo và phụ lục.



PHẦN NỘI DUNG




Chương 1
NGHIÊN CỨU NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
VỀ BIỂU TƯỢNG

1.1. Khái niệm biểu tượng.

Nội dung trọng tâm mà đề tài hướng tới là biểu tượng trong thơ Mai Văn
Phấn. Đề tài sẽ tập chung làm sáng tỏ những biểu tượng xuất hiện với tần số
cao và vai trò của nó. Để làm sáng rõ được điều đó trước hết ta phải hiểu
được khái niệm biểu tượng.

Biểu tượng là một khái niệm đang được đẩy mạnh nghiên cứu trên thế giới
bởi đến nay khái niệm biểu tượng vẫn là một lĩnh vực chứa đựng nhiều bí ẩn.

Thực tế đã khẳng định biểu tượng phát triển cùng quá trình tiến hoá của
nhân loại. Khởi nguyên của biểu tượng (Symbole) là một vật được cắt làm
đôi. Hai người mỗi bên giữ một phần sau một thời gian dài gặp lại hai mảnh
vỡ sẽ được ghép lại với nhau để nhận ra mối quan hệ khi xưa. Bằng lối loạn
suy, biểu tượng được hiểu là sự quy ước, một dấu hiệu, một tín hiệu…có ý

nghĩa biểu trưng. Biểu tượng được chia ra và kết hợp lại với nhau, nó chứa
đựng ý tưởng phân ly và tái hợp, gợi lên ý tưởng về một cộng đồng bị chia
tách và hợp thành. Biểu tượng đôi lúc rất cụ thể song cũng có thể là những
thứ rất trừu tượng.

Trong Tiếng Anh biểu tượng được viết bằng chữ “symbol”. Thuật ngữ
“symbol” được bắt nguồn từ Hi Lạp “Symbolon” có nghĩa là ký hiệu, lời nói,
dấu hiệu, triệu chứng…Cũng có thuyết cho rằng symbol bắt nguồn từ động từ
Hi Lạp “Symballo” có nghĩa là “ném vào một vị trí”, “liên kết”, “suy nghĩ về”…

Biểu tượng trong tiếng Hán: “Biểu” có nghĩa là: “bày ra”, “trình bày”, “dấu
hiệu”, để người ta dễ nhận biết một điều gì đó. “Tượng” có nghĩa là “hình
tượng”. Biểu tượng là một hình tượng nào đó được phô bày ra trở thành một
dấu hiệu, ký hiệu tượng trưng, nhằm để diễn đạt về một ý nghĩa mang tính
trừu tượng.

Vấn đề biểu tượng đã được rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Và ở mỗi
nước, mỗi khu vực họ lại đưa ra những khái niệm khác nhau về biểu tượng.
Cụ thể:
Ở trong nước:

Theo từ điển Tiếng Việt (GS Hoàng Phê chủ biên): Biểu tượng là hình ảnh
tượng trưng, là hình ảnh của nhận thức, cao hơn cảm giác, cho ta hình ảnh
của sự vật còn giữ lại trong đầu óc khi tác dụng của sự vật vào giác quan đã
chấm dứt.

Theo từ điển của Vũ Dũng- NXB KHXH - 2000, "Biểu tượng là hình ảnh các vật
thể, cảnh tượng và sự kiện xuất hiện trên cơ sở nhớ lại hay tưởng tượng.
Khác với tri giác, biểu tượng có thể mang tính khái quát. Nếu tri giác chỉ liên
quan đến hiện tại, thì biểu tượng liên quan đến quá khứ và tương lai."


Theo từ điển thuật ngữ văn học (Lê Bá Hán- Trần Đình Sử- Nguyễn Khắc
Phi): “Biểu tượng là khái niệm chỉ một giai đoạn, một hình thức của nhận
thức cao hơn cảm giác, cho ta hình ảnh của sự vật còn giữ lại trong đầu óc
sau khi tác động của sự vật vào giác quan ta đã chấm dứt”. [6, 23]

Theo TS Nguyễn Văn Hậu: Biểu tượng là một hình thái ngôn ngữ - ký hiệu
tượng trưng của văn hoá. Nó được sáng tạo nhờ vào năng lực “tượng trưng
hoá” của con người, theo phương thức dùng hình ảnh này để bày tỏ ý nghĩa
kia nhằm để nhận thức và khám phá ra một giá trị trừu tượng nào đó. Biểu
tượng được xem là “tế bào” cuả văn hóa và là hạt nhân “di truyền xã hội” đầu
tiên của nhân loại. Nó quy định mọi hành vi ứng xử và giao tiếp của con
người đồng thời liên kết họ lại thành một cộng đồng riêng biệt.

Ở các nước khác:

Jean Chevalier và Alain Gheerbrant cho rằng: “Tự bản chất của biểu tượng,
nó phá vỡ các khuôn khổ định sẵn và tập hợp các thái cực lại trong cùng một
ý niệm. Nó giống như một mũi tên bay mà không bay đứng im mà biến ảo,
hiển nhiên mà không nắm bắt được. Ta sẽ cần phải dùng các từ để gợi ra một
hay nhiều ý nghĩa của một biểu tượng”.

Hay nói như Georges Gurvitch: “Các biểu tượng tiết lộ mà che giấu và che
giấu mà tiết lộ”.

Theo quan niệm của Freud: “Biểu tượng diễn đạt một cách gián tiếp, bóng gió
và ít nhiều khó nhận ra niềm ham muốn hay các xung đột. Biểu tượng là mối
liên kết thống nhất nội dung rõ rệt của một hành vi, một tư tưởng, mọi lời nói
với ý nghĩa tiềm ẩn của chúng”.


Từ điển Larousse cho rằng: “ Biểu tượng là một dấu hiệu hình ảnh, con vật
sống động, hay đồ vật, biểu hiện một điều trừu tượng, nó là hình ảnh cụ thể
của một sự vật hay một điều gì đó”.

Theo C.G. Jung: “ Cái mà chúng ta gọi là biểu tượng là một từ ngữ, một danh
từ hay một hình ảnh, ngay cả khi chúng là quen thuộc trong đời sống hàng
ngày vẫn chứa đựng những ý nghĩa khác, bổ sung vào cái ý nghĩa ước định
hiển nhiên và trực tiếp của nó”.

Theo Chu Hy, nhà triết học cổ Trung Quốc nổi tiếng đời Tống (1131- 1200)
trong “Dịch thuyết cương lĩnh” khi bàn về biểu tượng đã viết: “ Tượng là lấy
hình này để tỏ nghĩa kia”.

Như vậy, biểu tượng là những hình ảnh của những sự vật, hiện tượng của thế
giới xung quanh, được hình thành trên cơ sở các cảm giác và tri giác đã xảy
ra trước đó, được giữ lại trong ý thức hay là những hình ảnh mới được hình
thành trên cơ sở những hình ảnh đã có từ trước. Biểu tượng không phải hoàn
toàn là thực tế, bởi vì nó là sự xây dựng lại thực tế sau khi đã được tri giác.
Tuy nhiên, những hình ảnh đó cũng không hoàn toàn là kết quả chủ quan
xuất phát từ những hoạt động tâm trí của chủ thể .

Biểu tượng chính là hiện tượng chủ quan của đối tượng về hiện tượng khách
quan đã được tri giác từ trước .

Lí thuyết mô phỏng, phản ánh đã ngự trị trong văn học phương Tây hàng
nghìn năm, nhưng càng ngày người ta càng khẳng định văn học không bao
giờ là sự bê nguyên hiện thực cuộc sống vào trong tác phẩm - thế giới nghệ
thuật trong tác phẩm là một thế giới hư cấu, giống thật chứ không phải là
thật. Để tạo nên một thế giới như thế, nhà văn sử dụng nhiều yếu tố, trong đó
có những biểu tượng nghệ thuật. Tìm hiểu biểu tượng nghệ thuật sẽ góp

phần hiểu rõ hơn bản chất của việc xây dựng hình tượng trong văn học, đồng
thời giúp cho việc sử dụng thuật ngữ này được chính xác hơn. Biểu tượng là
những hình ảnh sự vật cụ thể cảm tính bao hàm trong nó nhiều ý nghĩa, gây
được ấn tượng sâu sắc đối với người đọc. Biểu tượng nghệ thuật được coi là
kí hiệu thẩm mĩ đa nghĩa, bao gồm cái biểu đạt và cái được biểu đạt. Nó chính
là sự mã hoá cảm xúc, ý tưởng của nhà văn. Biểu tượng trở thành phương
tiện diễn đạt cô đọng, hàm súc, có sức khai mở rất lớn trong sự tiếp nhận của
độc giả. Những tác phẩm sử dụng nhiều biểu tượng thể hiện sự chối từ cách
viết trực tiếp giãi bày tâm tư, tình cảm (nhất là đối với thơ ca). Những tác
phẩm viết theo lối viết biểu tượng không hề dễ đọc một chút nào.Biểu tượng
mang bản chất kí hiệu, nhưng nó khác với kí hiệu thông thường.

Một sự vật, hiện tượng được gọi là biểu tượng khi nó đọng trong nó những ý
nghĩa sâu sắc, nó được cộng đồng giai cấp, dân tộc, nhân loại thừa nhận, nó
luôn hướng về một nghĩa cố định nào đó, nhưng đồng thời lại tiềm ẩn khả
năng mở ra những ý nghĩa khác trong sự cảm nhận của con người. Có thể
nói, biểu tượng là những hình ảnh sự, vật cảm tính chứa đầy ý nghĩa và nó
càng trở nên sinh động hơn trong đời sống văn hoá, trong cảm nhận của con
người. Chẳng hạn, Ngọn lửa, trong các truyền thuyết, “là biểu tượng của sự
tẩy uế, sự toả sáng của tình yêu theo nghĩa tinh thần. Ngọn lửa là hình ảnh
của tinh thần và sự siêu việt, linh hồn của lửa. Theo nghĩa xấu và đen tối,
ngọn lửa làm cho đồi bại, gây chia rẽ, bất hoà: đó là hơi thở cháy bỏng của sự
nổi loạn, mẩu củi cháy dở dày vò của sự thèm muốn, lũ than hồng thuỷ của sự
dâm ô, tiếng nổ giết người của quả lựu đạn

Hiện nay, có nhiều định nghĩa khác nhau về biểu tượng. Tiêu biểu là các định
nghĩa của các nhà nghiên cứu Piere Emmanuel, C.G.Jung, Trần Lê Bảo…Một
số ngành khoa học cũng hình thành những khái niệm riêng về biểu tượng
như Triết học, Tân lí học, Xã hội học… mà chúng tôi thống kê ở trên. Dù đứng
trên những quan điểm và lập trường khác nhau nhưng chúng ta vẫn tìm

được điểm chung của biểu tượng. Biểu tượng là những hình ảnh của những
sự vật, hiện tượng của thế giới xung quanh, được hình thành trên cơ sở các
cảm giác và tri giác đã xảy ra trước đó được hình thành trong ý thức hay là
những hình ảnh mới được hình thành trên cơ sở những hình ảnh có trước.
Biểu tượng không hoàn toàn là thực tế bởi vì nó là sự xây dựng lạ thực tế sau
khi đã được tri giác, nhưng những hình ảnh đó cũng không hoàn toàn là chủ
quan xuất phát từ hoạt động tâm trí của chủ thể. Biểu tượng là hiện tượng
chủ quan của đối tượng về hiện tượng khách quan đã được tri giác. Biểu
tượng vừa chứa đựng yếu tố trực tiếp vừa chứa đựng yếu tố gián tiếp bởi vì
nó được hình thành nhờ sự phối hợp bổ sung lẫn nhau của các giác quan và
đã có sự tham gia của các yếu tố phân tích, tổng hợp. Chính vì thế, biểu tượng
phản ánh được đặc trưng của các sự vật, hiện tượng. Ngày nay, biểu tượng
đã trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học như: Phân tâm
học, Ngôn ngữ học, Xã hội học, Triết học và cả Văn học.

1.2. Biểu tượng văn hoá

Để hiểu được biểu tượng văn hóa trước hết ta phải hiểu thế nào là văn hóa.
Văn hoá là một khái niệm mang nội hàm rộng với nhiều cách hiểu khác nhau,
liên quan đến mọi mặt đời sống vật chất, tinh thần của con người. Hiện có rất
nhiều định nghĩa về văn hoá, mỗi một định nghĩa phản ánh một cách nhìn
nhận và đánh giá khác nhau. Nhà nhân loại học thì đặt văn hoá trong mối
quan hệ với dân tộc, nhà lịch sử nhấn mạnh các qúa trình kế thừa xã hội và
truyền thống đã dựa trên tính ổn định của văn hoá, nhà cấu trúc chú trọng
tới tổ chức của văn hoá,…đều đưa ra những kiến giải riêng của mình. Một số
từ điển cũng đưa ra những khái niệm về văn hoá. Những nhân vật kiệt xuất
cũng có những định nghĩa riêng về văn hoá như: F. Mayor, Hồ Chí Minh…vv…
Theo thống kê trên thế giới có khoảng 400 định nghĩa về văn hóa

Tháng 8/1943 khi còn trong nhà tù Tưởng Giới Thạch, lần đầu tiên Hồ Chí

Minh đã đưa ra định nghĩa của mình về văn hóa: “ Vì lẽ sinh tồn cũng như
mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ,
chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những
công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng.
Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là tổng hợp
của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loại người đã
sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu của đời sống và đòi hỏi của sự
sinh tồn” [ 12, 431]

Theo từ điển tiếng Việt của Hồng Mây- Ngọc Sương- Minh Mẫn: “ Văn hóa là
những điều hiểu biết, kiến thức có trình độ cao, biết cách cư xử”
[ 11, 860]

Theo G.S Đinh Gia Khánh: “Văn hóa là hệ thống hữu cơ những giá trị vật chất
và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực
tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội”
[ 22, 10]

Nhìn trong tổng thể chúng ta thấy rằng tất cả các khái niệm trên đều có
những nét tương đồng “Văn hoá là tổng thể các giá trị vật chất và tinh thần
do con người tác động đến tự nhiên - xã hội và bản thân trong quá trình lịch
sử lâu dài. Nó tích tụ và thể hiện diện mạo, bản sắc của cộng đồng”. Văn hoá
không phải là một cái gì cụ thể, không có hình khối, không thể sờ mò…, nhưng
lại có mặt ở mọi nơi và có thể cảm nhận được không mấy khó khăn. Bởi văn
hoá chính là khuynh hướng lựa chọn, ứng xử của con người trong quá trình
sống.

Do khái niệm và nội hàm văn hoá rất rộng nên không có thể nói rằng mình đã
hiểu hết ngọn nguồn một nền văn hoá, cũng không ai có thể khẳng định rằng
mình đã chạm đến những yếu tố tận cùng của một nền văn hoá. Vì vậy, dù

chính thức khẳng định hay ngầm định các nhà nghiên cứu văn hoá đều quan
tâm đến những biểu tượng văn hoá bởi lẽ nó là đơn vị cơ bản của văn hoá, là
hạt nhân di truyền xã hội và quan trọng hơn là nó sinh ra nhờ năng lực biểu
tượng hoá của con người. Con người tư duy bằng biểu tượng giao tiếp bằng
biểu tượng và thể hiện tâm tư, tình cảm sâu kín nhất cũng như những thăng
hoa, những khát vọng của mình cũng bằng những biểu tượng. Vì thế khi ta lí
giải được những biểu tượng văn hoá có nghĩa là ta đã tìm thấy những giá trị
khoa học và nhân văn của cả dân tộc.

Hệ thống biểu tượng cũng chính là hệ thống các khuôn mẫu văn hoá, nó
quy định mọi hành vi ứng xử của con người và "hoạ kiểu" cho lối sống. Quá
trình "giải mã" hệ thống các biểu tượng cũng là nhằm mục đích thấy được
kiểu lựa chọn khác nhau về văn hoá giữa cộng đồng văn hoá này với cộng
đồng văn hoá khác. Mô hình lựa chọn đó sẽ tạo nên bản sắc riêng của mỗi
cộng đồng - dân tộc. Như vậy, văn hoá được hình thành và tồn tại nhờ vào trí
tuệ và sự sáng tạo ra các biểu tượng của con người. Bản thân một sự vật hiện
tượng cụ thể nào đó vẫn chưa là văn hoá, nếu như chưa cho nó một ý nghĩa,
một giá trị nào đó. Có lẽ, đó cũng là lý do để chúng ta nghiên cứu các vật thể
vật chất đã được coi như một biểu hiện của văn hoá. Chúng là những vật thể
vật chất đã được biểu tượng hoá trở thành những biểu tượng, và được cả
cộng đồng xã hội chấp nhận đồng thời được xem như là bảng giá trị định
hướng của toàn thể cộng đồng, ví dụ như: biểu tượng chùa một cột, biểu
tượng tháp rùa, biểu tượng long, lân, quy, phượng v.v Tóm lại, khi chưa có
một ý nghĩa nào đó được ký thác vào các vật thể thì chúng cũng chỉ là những
vật thể vật chất thông thường, có giá trị sử dụng, giá trị kinh tế hoặc giá trị
khoa học v.v nhưng chưa nói lên được giá trị văn hoá, ví dụ: quả bom, thuốc
nổ, vàng, cái quạt, cái bàn, cái bóng đèn v.v có thể mang - (b’) Ký hiệu mật
ngôn (ẩn dụ) giá trị sử dụng, giá trị khoa học, giá trị kinh tế v.v nhưng chưa
thể khẳng định là có hàm chứa trong nó những "giá trị văn hoá" hay không,
nếu một khi mục đích và động cơ sử dụng nó không đem lại một "giá trị

nhân bản" nào cho cuộc sống của con người. Các vật thể vật chất này, biểu
thị cho một nền "văn minh".

1.3. Phân biệt hình ảnh và biểu tượng.

Với đề tài này, cái mà chúng tôi hướng đến chính là biểu tượng. Ở trên chúng
tôi đã đưa ra những khái niệm biểu tượng của các nhà nghiên cứu trong
nước cũng như trên thế giới đồng thời cũng đưa ra cách hiểu của bản thân
mình. Tuy nhiên để có thể đi sâu vào đề tài này và hiểu được ý nghĩa của biểu
tượng thì một điều vô cùng quan trọng đó là phân biệt được hình ảnh vả biểu
tượng. Chúng ta rất dễ nhầm lẫn giữa chúng bởi vì cả hai đều bắt nguồn từ
hình ảnh, tuy nhiên không phải bất cứ hình ảnh nào cũng là biểu tượng. Biểu
tượng là một khái niệm chỉ một giai đoạn, một hình thức của nhận thức cao
hơn cảm giác cho ta hình ảnh của sự vật còn giữ lại trong đầu óc sau khi tác
động của sự vật vào giác quan ta đã chấm dứt.

Hình ảnh và biểu tượng đều có sự tương đồng là chúng đều cho ta hình ảnh
của sự vật.Tuy nhiên giữa chúng cũng mang sự khác biệt rõ nét, nếu ta không
tìm hiểu kỹ thì sự nhầm lẫn rất dễ xảy ra.

Trước hết hình ảnh có được do chúng ta tri giác trực tiếp sự vật hiện tượng
hoặc cảm giác. Chính vì vậy hình ảnh là cái ở hiện tại. Và khi đi vào trong tác
phẩm hình ảnh đó thể hiện chính cái điều mà chủ thể tri giác được cùng với
đó là tâm tư, tình cảm, cảm xúc…

Biểu tượng là một hình thức của nhận thức cao hơn cảm giác, nó được hình
thành trên cơ sở của cảm giác, tri giác đã xảy ra trước đó được giữ lại trong
ý thức. Như vậy biểu tượng là cấp độ cao hơn của hình ảnh, nó không thể
hiện trực tiếp cái mà chủ thể tri giác được mà đã được tôi luyện trong ý thức.
Nó có thể những gì người ta tri giác, tưởng tượng ở quá khứ hoặc tương lai.

Còn đặt trong chỉnh thể tác phẩm, biểu tượng phải là những hình ảnh được
lặp đi, lặp lại nhiều lần. Biểu tượng mang trong mình một sức gợi vô cùng
lớn, ta không thể hiểu nó đơn giản như hình ảnh. Trước hết biểu tượng phải
được đặt trong chỉnh thể bài thơ sau đó liên hệ, nối ghép nó với ý nghĩa từ cổ
xưa để rồi đưa ra một ý nghĩa phù hợp nhất. Ta có thể so sánh biểu tượng và
hình ảnh theo một sơ đồ đơn giản sau:

1.4. Tác giả Mai Văn Phấn.

1.4.1. Tác giả Mai Văn Phấn.

Nhà thơ Mai Văn Phấn sinh năm 1955, quê gốc Ninh Bình, định cư tại Hải
Phòng hơn 20 năm. Ông có 10 tập thơ, 1 trường ca, tiêu biểu là Đột nhiên gió
thổi, Bầu trời không mái che ( 2009- 2010), thơ tuyển Mai Văn Phấn…,là một
trong những cây bút trung niên đang độ sung sức với nỗ lực không ngừng
ham muốn đổi mới thơ. Dẫu Mai Văn Phấn chẳng sinh ra ở đây, nhưng trong
chàng thi sĩ hào hoa thì hồn thơ lúc nào cũng mọng căng gió bốn biển. Chủ
nhân của những câu thơ có nhịp và vô nhịp, nhịp sóng. Mỗi con sóng tự làm
mới mình sau một lần oằn mình vươn tới. Ấy cũng là nét đặc trưng của thơ
Mai Văn Phấn. Phong vị Hải Phòng có trầm sâu của tinh tế Hà Thành, có chân
chất đằm thắm sen nhãn khoai lúa của châu thổ sông Hồng, và gân guốc vạm
vỡ vầng ngực thủy thủ trên mũi tàu hững bão. Khí chất ấy, cũng hiện diện
trong thơ Mai Văn Phấn.

Mai Văn Phấn đã đạt được một số giải thưởng văn học trong nước. Ông đã
xuất bản 21 tác phẩm, trong đó 10 tác phẩm tái bản hoặc tái bản nhiều lần
có bổ sung bản Anh ngữ, Pháp ngữ hoặc Abani ngữ:

+ Giọt nắng ( thơ, Hội Liên hiệp VHNT TP. Hải Phòng, 1992)
+ Gọi xanh ( thơ, Nxb. Hội Nhà văn, 1995)

+ Cầu nguyện ban mai ( thơ, Nxb. Hải Phòng, 1997)
+ Nghi lễ nhận tên ( thơ, Nxb. Hải Phòng, 1999)
+ Người cùng thời ( trường ca, Nxb. Hải Phòng, 1999)
+ Vách nước ( thơ, Nxb. Hội Nhà văn, 2003)
+ Hôm sau ( thơ, Nxb. Hội Nhà văn, 2009)
+ Và đột nhiên gió thổi ( thơ, Nxb. Văn học, 2009)
+ Bầu trời không mái che ( thơ, Nxb. Hội Nhà văn, 2010)
+ Thơ tuyển Mai Văn Phấn ( thơ cùng tiểu luận và trả lời phỏng vấn, Nxb. Hội
Nhà văn, 2011)
+ Hoa giấu mặt ( thơ, Nxb. Hội Nhà văn, 2012)
+ Vừa sinh ra ở đó (thơ, Nxb. Hội Nhà văn, 2013)

Lao động nghệ thuật bền bỉ và mê mải của Mai Văn Phấn với thơ đã khiến
người ta kinh ngạc trước khả năng sáng tạo của ông. Năm 1992 Mai Văn
Phấn công bố tập thơ đầu tiên mang tên Giọt nắng. Đến năm 2013, sau 20
năm, 10 tập thơ nữa ra đời. Sau tập thơ thứ 10 Hoa giấu mặt (Nxb. Hội Nhà
văn, 2012), năm 2013, song hành với việc liên tiếp cho xuất bản, tái bản tại
Hoa Kỳ, Canada, Anh, Úc và các nước châu Âu; đồng thời trên mạng phát
hành sách của Amazon các tập thơ song ngữ: Firmament without Roof
Cover (Bầu trời không mái che), Out of the Dark Out of the Dark (Buông tay
cho trời rạng), Seeds of Night and Day (Những hạt giống của đêm và
ngày), thì tập thơ mới, tập thứ 11 mang tên Vừa sinh ra ở đó của ông được
Nhà Xuất bản Hội Nhà văn ấn hành (2013). Cho đến nay, rất ít nhà thơ Việt
Nam có được thành công lớn như vậy. Nói như nhà văn Bão Vũ, “Hiện tượng
Mai Văn Phấn không thể coi đó là “cơ duyên” như người ta thường nói, mà
cần gọi đúng tên thật của sự việc: Đó là tài năng.”

Để đạt được những kết quả đó Mai Văn Phấn phải có một sự cố gắng, nỗ lực
không ngừng. Mỗi tập thơ của ông đều mang một điểm mới, sáng tạo không
lặp lại mình và không tự mãn.


Để hiểu sâu hơn những tác phẩm Mai Văn Phấn, chúng ta nên có cái nhìn
khái quát trong quan niệm về thi ca của ông. Ông quan niệm thế nào là thơ?
Như thế nào được coi là một bài thơ hay? Tác giả mong muốn gì ở người đọc
và muốn thể hiện gì trong tác phẩm?

Với Mai Văn Phấn, ông cho rằng văn chương là hành trình đơn độc đi tìm cái
đẹp. Tác phẩm văn học trước hết quay lại hoàn thiện nhân cách, quan niệm
thẩm mĩ và định hướng cho chính nhà văn ấy. Không những vậy, thơ ca ngoài
mục đích tải đạo, tuyên truyền mô phỏng, diễn tả…nó còn tìm cách đặt tên lại
sự vật, định hình lại thế giới. Như vậy văn chương là một hành trình vô cùng
gian khổ và phải do sự nỗ lực của chính bản thân nhà văn, nhà thơ. Những
sáng tác ấy trước hết phục vụ cho chính nhà văn nhà thơ, họ vừa thể hiện
được tâm tư tình cảm đồng thời giúp họ hoàn thiện nhân cách của bản thân
mình. Theo Mai Văn Phấn, thơ ca là cầu nối giữa nhà thơ và thế giới, thơ ca
giúp cho con người trở nên cao quý thánh thiện hơn, làm cho cuộc sống tốt
đẹp hơn.

Người làm thơ luôn có khao khát viết được những bài thơ hay để lại ấn
tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Vậy làm sao để có được một bài thơ hay?
Theo Mai Văn Phấn, thơ hay không hạn chế ở đề tài, không quy định bởi
trường phái, thể loại cũ hay mới, truyền thống hay hiện đại, cũng không nhất
thiết lệ thuộc vào vần điệu, dễ nhớ, dễ thuộc mà cái hay ấy được đánh giá ở
nhiều khía canh khác nhau. Và sự thành công của bài thơ còn phụ thuộc rất
nhiều vào người đọc hay cụ thể hơn là sự đồng sáng tạo của người đọc.

Tuy nhiên để tạo nên một bài thơ hay, Mai Văn Phấn không tập trung vào
những điểm chói sáng mà hướng đến bài thơ hay trong quan hệ chỉnh thể.
Ông cho rằng đây chính là điểm khác biệt giữa thơ mới và thơ cũ.


Đặc biệt, Mai Văn Phấn luôn coi quá trình sáng tạo nghệ thuật là một cuộc
vượt thoát chính bản thân mình. Nhà thơ phải coi những đứa con tinh thần
mình đã sản sinh ra là cái đã cũ thì mới mong đạt đến thành công đỉnh cao
trong nghệ thuật. Và bài thơ khi viết ra rồi thì không còn thuộc về nhà thơ
nữa mà thuộc về độc giả. Và nhà thơ muốn tiếp tục tồn tại phải được tái sinh
ra trong một bài thơ khác đang chờ đợi phía chân trời.

1.4.2. Tập thơ “ Vừa sinh ra ở đó”.

“Vừa sinh ra ở đó” là tập thơ thứ 11 của Mai Văn Phấn và được Nhà xuất bản
Hội Nhà văn ấn hành năm 2013. Nếu Bầu trời không mái che là khoảng
không mở ra vẻ đẹp cuộc sống tự nhiên, phồn thực, sinh sôi; Hoa giấu mặt là
sự ngừng lắng, tinh lọc cần thiết để cảm nhận cái đẹp chốn thung sâu thì 18
bài thơ trong Vừa sinh ra ở đó lại có thể lay động người đọc bởi một ý niệm:
con người liên tục được tái sinh, hồi sinh, được sinh ra từ những vẻ đẹp bình
dị quanh mình.

Chỉ với 18 bài thơ mà trong đó tràn đầy những thi ảnh và không ngừng sinh
sôi: bóng tối, ánh sáng, hoàng hôn, biển cả, doi cát, dòng mương, vườn cây,
cánh bướm, bông hoa, bầu trời, phiến đá, võ sĩ, cánh chim, lòng đất, con
người Ngôn từ và các tứ thơ liên tục được sinh ra. Toàn tập thơ thể hiện
bằng một giọng thơ thuần khiết, trong sáng cùng với đó chủ đề thiên nhiên
xuyên suốt cả tập thơ. Đọc Vừa sinh ra ở đó, người ta có thể choáng ngợp
trước một thế giới hình ảnh, trước những bức tranh thiên nhiên với vẻ đẹp
thuần khiết hiển hiện từ những câu thơ. Từ bông hoa bé nhỏ, tơ nhện giăng,
thân cây đục rỗng, đàn vịt lội, mùi hăng sữa cỏ, hạt cây rụng, đáy hồ lặng im
đến lứa đôi "dìu nhau đi xem ban mai", đến hình môi đức Phật (Tỉnh dậy
trong mưa, Tĩnh lặng). Bức tranh cuộc sống ở đó thấm đẫm sự trong lành,
tinh khôi, mới mẻ dù là cụ thể hay trừu tượng. Song nó hấp dẫn người ta ở
chỗ, thi sĩ đã là một phần trong bức tranh đời sống ấy.


Vừa sinh ra ở đó thể hiện ước muốn nâng niu, gìn giữ, tái sinh và vươn lên
trong ánh sáng tự nhiên như mầm cây. Con người sẽ liên tiếp được tái sinh,
được sinh ra từ những điều vô cùng bình dị. Thơ ca cũng được sinh ra ở đó.
Phần đa những bài thơ của ông đều hướng vào bên trong nội tâm và phơi
bày ra một con người giằng xé, đau đớn trong bản ngã cuộc đời. Thơ ông
luôn hướng vào việc đề cao và hoàn thiện những phẩm chất tốt đẹp của con
người. Đó là một cuộc chiến đấu tay đôi giữa ánh sáng và bóng tối, cuối cùng
chiến thắng, vinh quang thuộc về ánh sáng huy hoàng.

Tập thơ cũng có hình thức vô cùng độc đáo. Một số bài thơ có hình thức phân
đoạn cũng liên tục thay đổi. Lúc thì đánh số thứ tự các khúc thơ (Tỉnh dậy
trong mưa, Tĩnh lặng), lúc thì các phân khúc ấy được cách nhau bằng dấu *,
@ (Quang phổ, Giấc mơ cây). Việc phân khúc thơ ấy không mới nhưng nó thể
hiện ý thức của Mai Văn Phấn.




Tiểu kết

Trong chương I, chúng tôi đã đề cập đến những vấn đề lý luận chung của đề
tài. Qua việc chỉ ra và làm sáng rõ những khái niệm về biểu tượng ở trong
nước cũng như nước ngoài chúng tôi đã mạnh dạn đưa ra cách hiểu về khái
niệm biểu tượng. Ngoài ra, biểu tượng văn hóa cũng được tập chung làm
sáng tỏ. Cùng với đó, sự giống nhau và khác biệt giữa hình ảnh và biểu tượng
đã được chỉ ra và làm sáng rõ. Bên cạnh đó, tác giả Mai Văn Phấn cũng được
tái hiện qua những nét phác họa cơ bản về cuộc đời, sự nghiệp, quan niệm về
văn chương…Kết quả nghiên cứu của chương I sẽ là cơ sở để chúng tôi triển
khai và phân tích chương II của đề tài này.




Chương 2
BIỂU TƯỢNG TRONG THƠ MAI VĂN PHẤN

2.1. Biểu tượng ánh sáng, ngọn lửa, ban mai trong thơ Mai Văn Phấn

Ba biểu tượng ánh sáng, ngọn lửa, ban mai cùng một trường nghĩa nên
chúng tôi xếp trong cùng một mục để tiện cho việc khảo sát. Khảo sát tần số
lặp lại của các biểu tượng này trong thơ Mai Văn Phấn, người đọc có thể thấy
nó giữ một vị trí quan trọng (Xem phụ lục)

2.1.1. Ý nghĩa gốc của các biểu tượng trong từ điển.

Ánh sáng: Trong Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới của Jean Chevalier
và Alain Gheerbrant, biểu tượng ánh sáng được giải thích với những ý nghĩa
chính như sau:

Ánh sáng được liên hệ với bóng tối, để tượng trưng cho những giá trị bổ sung
hoặc thay phiên nhau trong một quá trình biến đổi. Quy luật này được xác
minh trong những hình ảnh của Trung Hoa cổ sơ, cũng như của nhiều nền
văn minh khác. Ý nghĩa của nó là, cũng như trong đời người của mọi cấp độ,
một thời đại đen tối sẽ được nối tiếp, trên mọi bình diện vũ trụ, bằng một thời
đại sáng láng, trong sạch được phục hưng. Ý nghĩa biểu trưng của sự thoát ra
khỏi bóng tối ấy được lặp lại trong các nghi thức thụ pháp, cũng như trong
huyền thoại về cái chết, về tấn kịch sinh trưởng của thực vật hoặc trong quan
niệm về các chu kỳ lịch sử.

Những thành ngữ như ánh sáng thần thánh hoặc ánh sáng tinh thần cho

thấy nội hàm biểu trưng rất phong phú ở Viễn Đông. Ánh sáng là nhận thức:
ở Trung Quốc chữ minh cũng có nghĩa kép , tổng hợp ánh sáng của mặt trời
và mặt trăng, đối với những người theo đạo Phật ở Trung Quốc, minh có
nghĩa là giác ngộ; trong đạo Hồi ánh sáng về thực chất đồng nhất với trí tuệ.

Ánh sáng tiếp theo bóng tối, trong trật tự biểu hiện vũ trụ cũng như là trong
trật tự Khải ngộ nội tâm. Ánh sáng và bóng tối, nói một cách chung hơn, là
một mặt phổ biến được biểu đạt chính xác bằng sự song hành của dương và
âm. Rút cục đây là những mối tương liên không tách rời được, điều này được
biểu thị bằng hình âm dương, trong đó âm chứa đựng dấu vết của dương và
ngược lại. Trong đạo Thiện, sự đối lập ánh sáng- bóng tối là giữa Ormuzd và
Ahrimen; ở phương Tây là giữa thiên thần và ác quỷ; ở Ấn Độ, giữa các Deeva
và Asura; ở Trung Quốc, giữa các thế lực thiên và địa. Đất có nghĩa là bóng
tối, trời có nghĩa là ánh sáng.

Trong truyền thống của người Celtes, ánh sáng tượng trưng cho sự can thiệp
của thần linh trên trời. Ánh sáng là một biểu hiện của các sức tạo nên sự sống
dồi dào của thần Ouranos. Trong nhiều huyền thoại Trung Á, ánh sáng được
nhắc đến hoặc như nguồn nhiệt đem lại sự sống, hoặc như nguồn lực nhập
vào bụng người đàn bà.

Ở Trung Quốc, nhiều vị anh hùng hoặc người sáng lập ra triều đại ra đời sau
khi một ánh sáng huyền diệu tràn ngập phòng khuê của người mẹ.
Nếu ánh sáng mặt trời biểu hiện uy trời, nỗi lo sợ và niềm hy vọng của con
người, thì nó cũng không tỏ ra là một dữ liệu bất biến. Nó có thể biến mất và
sự sống sẽ biến theo. Ánh sáng trời là cứu tinh của người và vì vậy người Ai
Cập cho khâu trên vải niệm họ một lá bùa tượng trưng cho mặt trời.

Trong truyền thuyết đạo Hồi, ánh sáng trước hết là biểu hiện của thánh thần
[2, 11]


Ngọn lửa: Trong Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới của Jean Chevalier
và Alain Gheerbrant, biểu tượng Lửa được giải thích với những ý nghĩa chính
như sau:

Trong tất cả các truyền thuyết, ngọn lửa là biểu tượng của sự tẩy uế, sự
tỏa sáng và tình yêu theo nghĩa tinh thần. Ngọn lửa là hình ảnh của tinh
thần và của sự siêu việt, linh hồn của lửa.

Theo nghĩa xấu và đen tối, ngọn lửa làm cho đồi bại gây chia rẽ bất hòa: đó là
hơi thở cháy bỏng của sự nổi loạn, mẩu củi cháy dở dày vò của sự thèm
muốn, lò than hồng thiêu hủy của sự dâm ô, tiếng nổ giết người của quả lựu
đạn.

* Lửa - bản thể: Ý nghĩa bản thể lửa trong văn hóa nhân loại được tri nhận
và lí giải tương đối phong phú. Theo Giáo thuyết Hindu, những dạng lửa của
thế giới trần gian là: lửa thông thường, lửa sấm sét và mặt trời. Ngoài ra còn
có hai dạng lửa khác: lửa xuyên thấu hoặc lửa hấp thụ và lửa hủy diệt. Theo
Kinh Dịch, lửa ứng với phương Nam, màu đỏ, mùa hè, trái tim…

* Lửa - thần thánh: Ý nghĩa siêu nhiên của lửa trải rộng từ những linh hồn
lang thang (ma chơi, đèn lồng Viễn Đông) đến Anh linh thần thánh (Brahma
với lửa là một). Nhiều nền văn hóa trên thế giới coi lửa là một vị thần có sức
mạnh siêu nhiên. Trong các tôn giáo Ariăng ở châu Á và Kitô giáo, lửa là vị
thần sống và tư duy.

* Lửa - tẩy uế và tái sinh: Ý nghĩa tẩy uế của biểu tượng lửa thường gắn liền
với sự tái sinh. Theo một số truyền thuyết, chúa Ki tô (và các thánh) tái sinh
cơ thể bằng cách đi qua lò lửa của xưởng rèn. Những người theo Đạo giáo
bước vào lửa để tự giải phóng khỏi thân phận mà con người phải chịu đựng.

Họ bước vào lửa mà không bị thiêu cháy. Trong Popol-Vul, hai Anh hùng song
sinh, hai vị thần ngô, đã chết trên giàn thiêu bởi kẻ thù, không có gì để tự vệ
rồi sau đó tái sinh hóa thân thành những đọt ngô xanh. Các cổ thư của người
Ailen nhắc đến ngày hội Beltaines. Vào ngày 1-5, khởi đầu mùa hè, các giáo sĩ
đốt những đống lửa cho gia súc đi qua đó để phòng ngừa các bệnh dịch.

* Lửa - hủy diệt: Ý nghĩa hủy diệt của biểu tượng lửa thể hiện: nó làm tối và
chết ngạt bởi khói của nó; nó đốt cháy, tàn phá, thiêu hủy: lửa của những dục
vọng, của sự trừng phạt, của chiến tranh. Và theo đó, lửa trong tay ma quỷ
lửa trở thành công cụ của quỷ.

* Lửa- giác ngộ: Lửa bên trong, lửa là tri thức xuyên suốt, là sự giác ngộ là sự
hủy bỏ cái vỏ bọc ngoài. Theo sự giải thích phân tâm học của Paul Diel, lửa
đất tượng trưng cho trí khôn, nghĩa là ý thức, với tất cả tính hai chiều đối
nghịch của nó: ngọn lửa bốc lên trời thể hiện khí thế hướng tới sự thăng hoa
tinh thần; ngọn lửa chao đảo biểu thị trí khôn, tinh thần sao nhãng.

* Lửa - phương tiện vận chuyển: Một số nghi lễ hỏa táng có nguồn gốc ở sự
chấp nhận lửa như là một phương tiện vận chuyển, hay là sứ giả, từ thế giới
người sống sang thế giới người chết. Cũng vậy, trong một số lễ tưởng niệm
người chết, người Téléoute đi thành dòng ra nghĩa địa, ở đó người ta đốt hai
đống lửa, một ở đầu quan tài, một ở phía chân. Người ta đặt phần thức ăn

×