Tải bản đầy đủ (.doc) (83 trang)

Giải pháp nâng cao vai trò quản lí và hiệu quả sử dụng vốn ở Tổng Công ty Đường sông Miền Bắc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (508.22 KB, 83 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
PHẦN MỞ ĐẦU
Khi nói đến sản xuất kinh doanh thì cho dù dưới hình thức kinh tế xã hội
nào vấn đề được nêu ra trước tiên cũng là hiệu quả. Hiệu quả kinh doanh là
mục tiêu phấn đấu của một nền sản xuất, là thước đo về mọi mặt của nền kinh
tế quốc dân cũng như từng đơn vị sản xuất.
Lợi nhuận kinh doanh trong nền kinh tế thị trường là mục tiêu lớn nhất
của mọi doanh nghiệp. Để đạt được điều đó mà vẫn đảm bảo chất lượng tốt,
gía thành hợp lí, doanh nghiệp vẫn vững vàng trong cạnh tranh thì các doanh
nghiệp phải không ngừng nâng cao trình độ sản xuất kinh doanh, trong đó
quản lí và sử dụng vốn là vấn đề quan trọng có ý nghĩa quyết định kết quả và
hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong cơ chế bao cấp trước đây vốn sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp Nhà nước hầu hết được Nhà nước tài trợ thông qua cấp phát vốn, đồng
thời Nhà nước quản lí về giá cả sản xuất theo chỉ tiêu kế hoạch lãi Nhà nước
thu - lỗ Nhà nước bù, do vậy các doanh nghiệp Nhà nước hầu như không quan
tâm đến hiệu quả sử dụng của đồng vốn. Nhiều doanh nghiệp đã không bảo
toàn và phát triển được vốn, hiệu quả sử dụng vốn thấp, tình trạng lãi giả lỗ
thật ăn mòn vào vốn xảy ra phổ biến trong các doanh nghiệp Nhà nước. Bước
sang nền kinh tế thị trường có sự quản lí và điều tiết vĩ mô của Nhà nước,
nhiều thành phần kinh tế song song tồn tại, cạnh tranh lẫn nhau gay gắt. Bên
cạnh những doanh nghiệp làm ăn hiệu quả, đứng vững trong cơ chế mới là
những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả dẫn đến phá sản hàng loạt.
Trước tình hình đó, Nghị quyết đại hội lần thứ VI BCH Trung ương
Đảng cộng sản Việt Nam đã nhấn mạnh " Các xí nghiệp quốc doanh không
còn được bao cấp về giá và vốn, phải chủ động kinh doanh, phải bảo đảm tự
bù đắp chi phí, nộp đủ thuế và có lãi...". Các doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh phải gắn với thị trương, bám sát thị trường, tự chủ về vốn và tự chủ
trong sản xuất kinh doanh.
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh, nhất là trong kinh doanh
đường sông không phải là vấn đề mới mẻ. Nó được hình thành ngay sau khi


tài chính ra đời, nó là lĩnh vực rất rộng và muốn nghiên cứu một cách toàn
diện thì phải có sự đầu tư rất công phu. Trong thời gian thực tập tại Tổng
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Công ty Đường sông Miền Bắc, em chọn đề tài: "Giải pháp nâng cao vai trò
quản lí và hiệu quả sử dụng vốn ở Tổng Công ty Đường sông Miền Bắc"
làm nội dung nghiên cứu cho chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Hướng nghiên cứu là kết hợp giữa lí luận và thực tiễn. Từ việc khảo sát
tình hình thực tế của Tổng Công ty qua các năm, kết hợp với lí luận kinh tế
mà cụ thể là lí luận về quản lí, về vốn, về cạnh tranh... để tiến hành phân tích
tình hình thực tế của Tổng Công ty, qua đó đề xuất một số giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở Tổng Công ty Đường sông Miền Bắc.
Nội dung chuyên đề tốt nghiệp bao gồm:
- Mở đầu.
- Chương I: Vai trò và nội dung của quản lí và nâng cao hiệuquả sử
dụng vốn ở doanh nghiệp sản xuất.
- Chương II: Thực trạng quản lí và sử dụng vốn ở Tổng Công ty Đường
sông Miền Bắc.
- Chương III: Giải pháp nhằm nâng cao vai trò quản lí và hiệu quả sử
dụng vốn ở Tổng Công ty Đường sông Miền Bắc.
Kết luận:
Trước sự thay đổi về chất trong hoạt động của các tổng công ty Việt
Nam, cùng với việc áp dụng đầy đủ chế độ kế toán mới ở doanh nghiệp, vấn
đề quản lí và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đã thay đổi sâu sắc cả về phương
pháp luận và chỉ tiêu đánh giá. Do đó, tạo nên khó khăn rất lớn trong quá trình
nghiên cứu đề tài và những sai sót không thể tránh khỏi. Vì vậy, rất mong sự
đóng góp của các thầy, cô giáo.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của cô giáo Nguyễn
Thu Thảo và các cô chú cán bộ Tổng công ty Đường sông Miền Bắc đã giúp
em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này.

Chương I
VAI TRÒ VÀ NỘI DUNG CỦA QUẢN LÝ VÀ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN Ở DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
I. VỐN VÀ QUẢN LÍ VỐN TRONG KINH DOANH
1. Khái niệm về vốn sản xuất kinh doanh
Bất cứ một doanh nghiệp nào lúc đầu cũng phải có một lượng tiền vốn
nhất định để thực hiện những khoản đầu tư ban đầu cần thiết cho việc xây
dựng và khởi động doanh nghiệp. Vốn là yếu tố vật chất cần thiết nhất và cần
được sử dụng có hiệu quả. Doanh nghiệp cần có vốn để dự trữ vật tư, để đầu
tư mua sắm máy móc thiết bị, để chi phí cho quá trình sản xuất kinh doanh và
được thể hiện ở nhiều hình thái vật chất khác nhau. Do có sự tác động của lao
động vào đối tượng lao động thông qua tư liệu lao động thì hàng hoá và dịch
vụ được tạo ra nhằm tiêu thụ trên thị trường. Sau cùng các hình thái vật chất
khác nhau sẽ lại được chuyển hoá về hình thái tiền tệ ban đầu. Quá trình trao
đổi đó đảm bảo cho sự ra đời, vận hành và phát triển của doanh nghiệp có thể
diễn tả như sau:
Tài sản thực tế
Tiền Tài sản thực tế - Tài sản có tài chính Tiền
Tài sản có tài chính
Sự thay đổi trên làm thay đổi số dư ban đầu (đầu kỳ) của ngân quỹ và sẽ
dẫn đến số dư cuối kỳ lớn hơn số dư đầu kỳ - tạo ra giá trị thặng dư. Điều đó
có nghĩa là số tiền thu được do tiêu thụ hàng hoá và dịch vụ phải đảm bảo bù
đắp toàn bộ chi phí và có lãi. Như vậy số tiền đã ứng ra ban đầu không những
chỉ được bảo tồn mà còn được tăng thêm do hoạt động kinh doanh đem lại.
Toàn bộ giá trị ứng ra cho sản xuất kinh doanh đó được gọi là vốn. Tuy nhiên
giá trị ứng trước đó không đơn thuần là vật chất hữu hình, mà một số tài sản
không có hình thái vật chất cụ thể nhưng nó chứa đựng một giá trị đầu tư nhất
định như: tên doanh nghiệp, nhãn hiệu sản phẩm, lợi thế thương mại, đặc

quyền kinh doanh... cũng có giá trị như vốn. Những phân tích khái quát trên
đây cho ta quan điểm toàn diện về vốn: "Vốn là một phạm trù kinh tế cơ bản.
Trong doanh nghiệp vốn là biểu hiện bằng tiền của tất cả các loại tài sản và
các nguồn lực mà doanh nghiệp sử dụng trong sản xuất kinh doanh. Vốn là
giá trị đem lại giá trị thặng dư".
Như vậy việc quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong doanh
nghiệp là hết sức quan trọng, vừa đem lại hiệu quả kinh tế vừa đem lại hiệu
quả xã hội.
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
2. Vốn cố định và vốn lưu động:
Có nhiều giác độ khác nhau để xem xét vốn sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Đôi khi nó được khắc hoạ trong luật kinh tế như là vốn pháp
định và vốn điều lệ. Một số khác theo nhu cầu nghiên cứu đứng trên giác độ
hình thành vốn lại thể hiện vốn gồm có vốn đầu tư ban đầu, vốn bổ sung, vốn
liên doanh và vốn đi vay. Sở dĩ tồn tại nhiều cách tiếp cận khác nhau là xuất
phát từ sự khác nhau về triển vọng hay quan điểm sử dụng. Với bài luận văn
này, chúng ta sử dụng quan điểm làm quyết định về vốn qua con mắt quản trị
vốn ở công ty sản xuất. Với quan điểm đó, vốn được xem xét trên giác độ chu
chuyển. Quan tâm đến vấn đề này chúng ta cần chú ý đến vốn cố định và vốn
lưu động.
2.1- Vốn cố định:
a) Khái niệm và đặc điểm vốn cố định:
Vốn cố định là biểu hiện bằng tiền của tài sản cố định, đó chính là số vốn
doanh nghiệp đầu tư mua sắm, trang bị cơ sở vật chất. Để là tài sản cố định
phải đạt được cả hai tiêu chuẩn. Một là, phải đạt được về mặt giá trị đến một
mức độ nhất định (ví dụ hiện nay giá trị của nó phải lớn hơn hoặc bằng
5.000.000đồng). Hai là, thời gian sử dụng phải từ trên 1 năm trở lên. Với
những tiêu chuẩn như vậy thì hoàn toàn bình thường với đặc điểm hình thái
vật chất của tài sản cố định giữ nguyên trong thời gian dài. Tài sản cố định

thường được sử dụng nhiều lần, tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất và chỉ
tăng lên khi có xây dựng cơ bản mới hoặc mua sắm. Qua quá trình sử dụng,
tài sản cố định hao mòn dần dưới hai dạng là hao mòn hữu hình và hao mòn
vô hình. Hao mòn vô hình chủ yếu do tiến bộ khoa học công nghệ mới và
năng suất lao động xã hội tăng lên quyết định. Hao mòn hữu hình phụ thuộc
vào mức độ sử dụng khẩn trương tài sản cố định và các điều kiện ảnh hưởng
tới độ bền lâu của tài sản cố định như chế độ quản lý sử dụng, bảo dưỡng,
điều kiện môi trường... Những chỉ dẫn trên đưa ra tới một góc nhìn về đặc
tính chuyển đổi thành tiền chậm chạp của tài sản cố định. Tuy thế, các tài sản
cố định có giá trị cao có thể có giá trị thế chấp đối với ngân hàng khi vay vốn.
b) Cơ cấu vốn cố định:
Cơ cấu vốn cố định là tỉ lệ phần trăm của từng nhóm vốn cố định chiếm
trong tổng số vốn cố định. nghiên cứu cơ cấu vốn cố định có một ý nghĩa
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
quan trọng là cho phép đánh giá việc đầu tư có đúng đắn hay không và cho
phép xác định hướng đầu tư vốn cố định trong thời gian tới. Để đạt được ý
nghĩa đúng đắn đó, khi nghiên cứu cơ cấu vốn cố định phải nghiên cứu trên
hai giác độ: nội dung cấu thành và mối quan hệ tỉ lệ trong mỗi bộ phận so với
toàn bộ. Vấn đề cơ bản trong việc nghiên cứu này phải là xây dựng được một
cơ cấu hợp lý phù hợp với trình độ phát triển khoa học kỹ thuật, đặc điểm
kinh tế kỹ thuật của sản xuất, trình độ quản lý, để các nguồn vốn được sử
dụng hợp lý và có hiệu quả nhất. Cần lưu ý rằng quan hệ tỷ trọng trong cơ cấu
vốn là chỉ tiêu động. Điều này đòi hỏi cán bộ quản lý phải không ngừng
nghiên cứu tìm tòi để có được cơ cấu tối ưu.
Theo chế độ hiện hành VCĐ của doanh nghiệp được biểu hiện thành
hình thái giá trị của các loại tài sản cố định sau đây đang dùng trong quá trình
sản xuất:
1) Nhà cửa được xây dựng cho các phân xưởng sản xuất và quản lý
2) Vật kiến trúc để phục vụ sản xuất và quản lý

3) Thiết bị động lực
4) Hệ thống truyền dẫn
5) Máy móc, thiết bị sản xuất
6) Dụng cụ làm việc, đo lường, thí nghiệm
7) Thiết bị và phương tiện vận tải
8) Dụng cụ quản lý
9) Tài sản cố định khác dùng vào sản xuất công nghiệp
Trên cơ sở các hình thái giá trị của tài sản cố định như trên chỉ ra rõ ràng
cơ cấu vốn cố định chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố. Quan tâm nhất là đặc
điểm về kỹ thuật sản xuất của doanh nghiệp, sự tiến bộ kỹ thuật, mức độ hoàn
thiện của tổ chức sản xuất, điều kiện địa lý tự nhiên, sự phân bổ sản xuất. Vì
vậy khi nghiên cứu để xây dựng và cải tiến cơ cấu VCĐ hợp lý cần chú ý xem
xét tác động ảnh hưởng của các nhân tố này. Trong kết quả của sự phân tích,
đặc biệt chú ý tới mối quan hệ giữa các bộ phận VCĐ được biểu hiện bằng
máy móc thiết bị và bộ phận VCĐ được biểu hiện bằng nhà xưởng vật kiến
trúc phục vụ sản xuất.
c) Nguồn vốn cố định
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Mỗi khoản vốn cố định hay tài sản cố định trong doanh nghiệp không tự
nhiên mà có, nó nhất thiết phải được hình thành từ một nguồn đầu tư nhất
định. Nguồn vốn cố định chính là nguồn gốc tạo dựng, đầu tư để hình thành
nên các tài sản cố định của doanh nghiệp. Trong doanh nghiệp, VCĐ dùng để
hoạt động sản xuất, kinh doanh được hình thành từ các nguồn sau:
Nguồn vốn pháp định: gồm vốn cố định do ngân sách, do cấp trên cấp
phát cho doanh nghiệp, vốn cổ phần do xã viên hợp tác xã và các cổ đông
đóng góp bằng tài sản cố định, hoặc vốn pháp định do chủ xí nghiệp bỏ ra ban
đầu khi thành lập xí nghiệp tư nhân.
Nguồn vốn tự bổ xung: gồm vốn cố định của những tài sản cố định đã
được đầu tư hoặc mua sắm bằng quỹ công ty.

Nguồn vốn liên doanh: gồm các khoản vốn do các đơn vị tham gia liên
kết gặp bằng tài sản cố định và bằng vốn đầu tư xây dựng cơ bản đã hoàn
thành.
2.2 - Vốn lưu động:
a) Khái niệm và đặc điểm của vốn lưu động:
Vốn lưu động và biểu hiện bằng tiền của tài sản lưu động và vốn lưu
thông. Đó là số vốn doanh nghiệp đầu tư để dự trữ vật tư, để chi phí cho quá
trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, chi phí cho hoạt động quản lý của doanh
nghiệp. Hoàn toàn khách quan không như vốn cố định, VLĐ tham gia hoàn
toàn vào quá trình sản xuất kinh doanh, chuyển qua nhiều hình thái giá trị
khác nhau như tiền tệ, đối tượng lao động, sản phẩm dở dang, bán thành
phẩm, thành phẩm và trở lại hình thái tiền tệ ban đầu sau khi tiêu thụ sản
phẩm. Như vậy vốn lưu động chu chuyển nhanh hơn vốn cố định, quá trình
vận động của VLĐ thể hiện dưới hai hình thái:
- Hình thái hiện vật: đó là toàn bộ nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang,
bán thành phẩm, thành phẩm.
- Hình thái giá trị: là toàn bộ giá trị bằng tiền của nguyên vật liệu, bán
thành phẩm, thành phẩm, giá trị tăng thêm do việc sử dụng lao động sống
trong quá trình sản xuất và những chi phí bằng tiền trong lĩnh vực lưu thông.
Sự lưu thông về mặt hiện vật và giá trị của VLĐ ở các doanh nghiệp sản
xuất có thể biểu diễn bằng công thức chung:
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
T - H - SX - H' - T'
Trong quá trình vận động, đầu tiên VLĐ biểu hiện dưới hình thức tiền tệ
và khi kết thúc cũng lại bằng hình thức tiền tệ. Một vòng khép kín đó gợi mở
cho chúng ta thấy hàng hoá được mua vào để doanh nghiệp sản xuất sau đó
đem bán ra, việc bán được hàng tức là được khách hàng chấp nhận và doanh
nghiệp nhận được tiền doanh thu bán hàng và dịch vụ cuối cùng. Từ các kết
quả đó giúp ta sáng taọ ra một cách thức quản lý vốn lưu động tối ưu và đánh

giá được hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
b) Cơ cấu vốn lưu động:
Xác định cơ cấu VLĐ hợp lý có ý nghĩa tích cực trong công tác sử dụng
hiệu quả vốn lưu động. Nó đáp ứng yêu cầu vốn cho từng khâu, từng bộ phận,
đảm bảo việc sử dụng tiết kiệm hợp lý VLĐ. Trên cơ sở đó đáp ứng được
phần nào yêu cầu của sản xuất kinh doanh trong điều kiện thiếu vốn cho sản
xuất.
Cơ cấu VLĐ là quan hệ tỉ lệ giữa giá trị mỗi loại và nhóm đó so với toàn
bộ giá trị VLĐ. Tỉ lệ giữa giá trị mỗi loại và nhóm trong toàn bộ VLĐ hợp lý
thì chỉ hợp lý tại mỗi thời điểm naò đó và tính hợp lý chỉ mang tính nhất thời.
Vì vậy trong quản lý phải thường xuyên nghiên cứu xây dựng một cơ cấu hợp
lý đảm bảo độ "khoẻ mạnh" đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh từng thời
kỳ. Để thuận lợi cho việc quản lý và xây dựng cơ cấu vốn như thế, người ta
thường có sự phân loại theo các quan điểm tiếp cận khác nhau:
- Tiếp cận theo quá trình tuần hoàn và luân chuyển, VLĐ chia thành 3 loại:
+ Vốn trong dự trữ: là bộ phận vốn dùng để mua nguyên vật liệu, phụ
tùng thay thế, dự trữ... chuẩn bị đưa vào sản xuất.
+ Vốn trong sản xuất: là bộ phận trực tiếp phục vụ cho giai đoạn sản
xuất như: sản phẩm dở dang, chi phí phân bổ, bán thành phẩm, tự chế tự
dùng.
+ Vốn trong lưu thông: là bộ phận trực tiếp phục vụ cho giai đoạn lưu
thông như tiền mặt, thành phẩm.
- Tiếp cận về mặt kế hoạch hoá, VLĐ được chia thành VLĐ không định
mức và VLĐ định mức.
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
+ VLĐ định mức là số vốn tối thiểu cần thiết cho hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp trong kỳ, nó bao gồm vốn dự trữ vật tư hàng hoá và vốn phi
hàng hoá.
+ VLĐ không định mức là số vốn lưu động có thể phát sinh trong quá

trình kinh doanh và trong sản xuất, dịch vụ phụ thuộc nhưng không đủ căn cứ
để tính toán được.
c) Nguồn vốn lưu động:
Nguồn vốn lưu động của doanh nghiệp gồm có vốn tự có, vốn coi như tự
có và vốn đi vay. Từ các nguồn vốn khác nhau này doanh nghiệp có phương
cách huy động trên nhiều nguồn, hỗ trợ lẫn nhau đảm bảo cho yêu cầu của
doanh nghiệp.
- Vốn tự có bao gồm:
+ Nguồn vốn pháp định: chính là vốn lưu động do ngân sách hoặc cấp
trên cấp cho đơn vị thuộc khối nhà nước; nguồn vốn cổ phần nghĩa vụ do xã
viên hợp tác xã và các cổ đông đóng góp hoặc vốn pháp định của chủ doanh
nghiệp tư nhân.
+ Nguồn vốn tự bổ sung: Nguồn này hình thành từ kết quả sản xuất kinh
doanh của đơn vị thông qua quỹ khuyến khích phát triển sản xuất và các
khoản chênh lệch hàng hoá tồn kho theo cơ chế bảo toàn giá trị vốn.
+ Nguồn vốn lưu động liên doanh: gồm có các khoản vốn của các đơn vị
tham gia liên doanh, liên kết góp bằng tiền, hàng hoá, sản phẩm, nguyên vật
liệu, công cụ lao động nhỏ v.v...
- Vốn coi như tự có: được hình thành do phương pháp kết toán hiện
hành, có một số khoản tiền tuy không phải của doanh nghiệp nhưng có thể sử
dụng trong thời gian rỗi để bổ sung vốn lưu động. Thuộc khoản này có: tiền
thuế, tiền lương, bảo hiểm xã hội, phí trích trước chưa đến hạn phải chi trả có
thể sử dụng và các khoản nợ khác.
- Vốn đi vay: nhằm đảm bảo nhu cầu thanh toán bức thiết trong khi hàng
chưa bán đã mua hoặc sự không khớp trong thanh toán. Nguồn vốn đi vay là
nguồn vốn cần thiết, song cần chú ý tới các hình thức vay khác nhau với tỉ lệ
lãi suất khác nhau và phải trả kịp thời cả vốn và lãi vay.
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Bằng cách nghiên cứu các nguồn của cả vốn lưu động và vốn cố định

như trên, người kinh doanh có thể đạt được sự tổng hợp về các nguồn vốn
theo các chỉ dẫn của kế toán tài chính. Nguồn vốn ở các doanh nghiệp giờ đây
trở thành nguồn vốn chủ sở hữu và nợ phải trả, nguồn vốn chủ sở hữu thể hiện
ở khoản "có"; nợ phải trả chính là khoản vay, nợ của doanh nghiệp đối với
các tổ chức, cá nhân... để đầu tư, hình thành tài sản của doanh nghiệp, được
sử dụng trong một thời gian nhất định và sau đó phải hoàn trả cả vốn lẫn lãi
như đã cam kết. Ý nghĩa của việc nghiên cứu này cho ta tạo quan hệ giữa vốn
và nguồn vốn về phương diện giá trị đầu tư như sau:
Giá trị TSCĐ + Giá trị TSLĐ = Nguồn vốn chủ sở hữu + Nợ phải trả
II. NỘI DUNG HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ VỐN VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG
VỐN
1. Nội dung hoạt động quản lý vốn cố định và vốn lưu động:
1.1 - Nội dung hoạt động quản lý vốn cố định:
Quản lý vốn cố định (VCĐ) nghĩa là phải đi đến các quyết định. Giống
như việc quản lý hoạt động kinh doanh của công ty, việc quản lý VCĐ ảnh
hưởng quan trọng đến sự tồn tại và hiệu quả sử dụng vốn. Quản lý VCĐ thành
công đòi hỏi các nhà quản lý phải gắn liền sự vận động của VCĐ với các hình
thái biểu hiện vật chất của nó. Hơn thế nữa, để quản lý có hiệu quả VCĐ
trước hết cần nghiên cứu những tính chất và đặc điểm của tài sản cố định
trong doanh nghiệp. Trong khoa học quản lý VCĐ thường đi vào những nội
dung cụ thể sau:
a) Hao mòn và khấu hao tài sản cố định
* Hao mòn tài sản cố định
Như đã đề cập sơ lược ở trên, trong quá trình sử dụng cũng như không sử
dụng tài sản cố định đều bị hao mòn dưới hai hình thức: hao mòn hữu hình và
hao mòn vô hình. Giống như hai khía cạnh của một vấn đề, cả hao mòn hữu hình
và hao mòn vô hình đều làm cho giá trị tài sản cố định giảm xuống và chịu ảnh
hưởng bởi những nhân tố nào đều thể hiện dưới những dạng khác nhau.
Hao mòn hữu hình là sự hao mòn về vật chất, tức là sự tổn thất dần về
chất lượng, tính năng kỹ thuật của TSCĐ. Thực chất kinh tế của hao mòn hữu

hình là giá trị của tài sản cố định dần dần giảm đi cùng với việc chuyển dần
giá trị của nó vào giá trị sản phẩm được sản xuất ra. Khi tài sản cố định không
được sử dụng, hao mòn hữu hình được thể hiện ở chỗ tài sản cố định bị mất
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
dần thuộc tính do ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên, do quá trình xảy ra trong
nội tại nguyên liệu cấu thành tài sản cố định đó. Như vậy hao mòn hữu hình
có ảnh hưởng quyết định tới độ bền của tài sản cố định và do đó nó chịu ảnh
hưởng của ba nhóm nhân tố.
Nhóm một thuộc chất lượng chế tạo như: vật liệu dùng để chế tạo ra tài sản
cố định, trình độ kỹ thuật, công nghệ chế tạo, chất lượng xây dựng và lắp đặt.
Nhóm hai thuộc quá trình sử dụng: được xem xét về mức độ đảm nhận
về thời gian và cường độ sử dụng, tay nghề công nhân, việc chấp hành quy
tắc, quy trình kỹ thuật, chế độ bảo dưỡng, sửa chữa.
Nhóm ba thuộc các yếu tố tự nhiên như độ ẩm, khí hậu, thời tiết...
Hao mòn vô hình là sự hao mòn chủ yếu do năng suất lao động xã hội
tăng lên và sự tiến bộ về khoa học kỹ thuật, tổ chức sản xuất. Hệ quả của hai
nguyên do này dẫn đến việc người ta sản xuất ra tài sản cố định cùng loại
nhưng lại có chất lượng cao hơn mà giá lại rẻ hơn. Và như thế tài sản cố định
của ta nghiễm nhiên bị sụt giá.
Xuất phát từ việc nghiên cứu hao mòn tài sản cố định cung cấp cho
chúng ta những luận cứ cần thiết minh chứng cho việc "bảo vệ" tài sản cố
định nhằm giảm tối đa tổn thất hữu hình và hao mòn vô hình. Những biện
pháp thường được sử dụng như nâng cao cường độ và thời gian sử dụng, nâng
cao chất lượng, hạ giá thành chế tạo và xây lắp tài sản cố định, tổ chức tốt
việc bảo quản và sửa chữa máy móc thiết bị, nâng cao ý thức trách nhiệm của
công nhân. Một ý nghĩa khác là nó cũng cung cấp cho ta cơ sở tốt để lập nên
kế hoạch khấu hao tài sản cố định, kế hoạch bảo toàn và phát triển vốn cố
định.
* Khấu hao tài sản cố định:

Trong quá trình tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất, hình thái vật chất
của tài sản cố định không thay đổi nhưng giá trị của nó hao mòn dần và
chuyển từng phần vào giá thành sản phẩm mới được sản xuất ra. Phần giá trị
này được thu hồi dưới hình thức khấu hao và được hạch toán vào giá thành
sản phẩm. Như vậy khấu hao tài sản cố định là một khoản cấu thành phí lưu
thông và được bù đắp bằng doanh thu bán hàng. Về thực chất, khấu hao là
quá trình giảm giá trị của tài sản cố định. Việc suy giảm giá trị của tài sản cố
định cuối cùng sẽ dẫn đến khấu hao hết tài sản cố định, khi đó phải đầu tư để
có được tài sản cố định khác. Vậy quá trình này diễn ra trong bao lâu? Sở dĩ
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
đòi hỏi yêu cầu chính xác tương đối về thời gian như vậy bởi hai nguyên
nhân: thứ nhất nếu xác định không đúng thời gian sử dụng dẫn đến còn đang
sử dụng đã khấu hao hết, thứ hai chưa khấu hao hết đã hỏng. Cả hai nguyên
nhân này đều có ảnh hưởng không tốt tới sự vận động của vốn cố định và giá
thành sản phẩm làm ra. Để xác định đúng đắn thời hạn sử dụng tài sản cố định
chúng ta phải dựa vào cơ sở đã chỉ ra là phải xác định đúng được hao mòn của
tài sản cố định hay khấu hao tài sản cố định.
Khấu hao tài sản cố định được phân bổ trên hai hình thức là khấu hao cơ
bản và khấu hao sửa chữa lớn. Khấu hao cơ bản nhằm tái bồi hoàn lại giá trị
tài sản cố định đã hao mòn. Khấu hao sửa chữa lớn nhằm bảo vệ duy trì và
kéo dài năng lực sử dụng bình thường của TSCĐ. Như vậy hai hình thức khấu
hao này có phương thức bù đắp và mục đích khác nhau, do đó tiền trích
khấuhao tài sản cố định được chia thành hai bộ phận theo phương pháp xác
định tỷ lệ:
Tỉ lệ khấu
hao cơ bản
=
Nguyên giá Chi phí thanh lý Giá trị đào
thải

TSCĐ (ước tính) (ước tính)
Nguyên giá TSCĐ x Thời hạn sử dụng TSCĐ
Tỉ lệ khấu
hao sửa chữa
=
Phí tổn sửa chữa lớn (ước tính)
Nguyên giá TSCĐ x Thời hạn sử dụng
TSCĐ
Bộ phận thứ nhất của tiền trích khấu hao là tiền trích khấu hao cơ bản,
dùng để bù đắp TSCĐ sau khi bị đào thải đã mất giá trị sử dụng. Theo quy
định của Nhà nước về chế độ khấu hao cơ bản trong các doanh nghiệp nhà
nước, từ ngày 1/1/1995 các doanh nghiệp nhà nước được phép giữ lại toàn bộ
khấu hao cơ bản đã trích để đầu tư thay thế, đổi mới tài sản cố định. Còn các
doanh nghiệp khác phải lập quỹ khấu hao để duy trì hoạt động của doanh
nghiệp, thực hiện yêu cầu tái sản xuất mở rộng.
Bộ phận thứ hai là tiền khấu hao sửa chữa lớn nhằm sửa chữa tài sản cố
định một cách có hệ thống và kế hoạch để duy trì khả năng sản xuất của tài
sản cố định trong suốt thời kỳ sử dụng. Doanh nghiệp trích tiền khấu hao sửa
11
+
_
Website: Email : Tel : 0918.775.368
chữa lớn gửi vào một tài khoản riêng ở ngân hàng đầu tư và phát triển để
dùng làm nguồn vốn cho kế hoạch sửa chữa lớn TSCĐ.
Giờ đây ta có thể thấy mối quan hệ giữa thời hạn sử dụng TSCĐ và tỉ lệ
trích khấu hao, do đó có thể chỉ ra ý nghĩa cụ thể ở phần hao mòn đã đề cập
đến. Rõ ràng nếu tỉ lệ khấu hao quá thấp hay thời hạn sử dụng quá dài, sẽ
không đủ bù đắp hao mòn thực tế của TSCĐ, vì vậy không đảm bảo được
công tác bảo toàn và phát triển vốn. Ngược lại nếu tỉ lệ khấu hao quá cao hay
thời hạn sử dụng TSCĐ được xác định quá ít, sẽ làm tăng giá thành sản phẩm

một cách giả tạo, tạo ra những khó khăn cho việc tiêu thụ hàng hoá.
b) Kế hoạch khấu hao tài sản cố định:
Bằng cách lập lên kế hoạch khấu hao tài sản cố định, doanh nghiệp đã có
thể định ra được tiến độ và mức trích khấu hao tài sản cố định từng nhóm và
toàn bộ doanh nghiệp. Để lập kế hoạch khấu hao tài sản cố định cần phải xác
định được tổng giá trị TSCĐ đầu kỳ, tổng giá trị TSCĐ tăng thêm và giảm đi
trong kỳ, mức khấu hao phải trích trong năm và tình hình phân phối sử dụng
các quỹ khấu hao. Theo quy định số 517/TTg ngày 21/10/1995 kế hoạch khấu
hao TSCĐ bao gồm:
- TSCĐ không phải tính khấu hao cơ bản và khấu hao sửa chữa lớn (đất đai).
- TSCĐ tăng thêm trong năm kế hoạch, nếu tăng vào một ngày nào đó
của tháng thì tháng sau mới tính khấu hao.
Giá trị bình quân
của TSCĐ tăng
thêm trong năm
=
Giá trị TSCĐ tăng trong năm x số tháng sử
dụng TSCĐ
12
- TSCĐ giảm bớt trong năm kế hoạch, nếu giảm bớt từ một ngày nào đó
của tháng thì tháng sau không tính khấu hao.
Giá trị bình quân
của TSCĐ giảm
trong năm KH
=
Giá trị TSCĐ giảm trong năm x Số tháng không sử
dụng TSCĐ
12
- Tổng giá trị bình quân TSCĐ phải tính khấu hao trong năm được xác
định theo công thức:

12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Tổng giá trị bình
quân TSCĐ phải
tính khấu hao
trong năm KH
=
=
Tổng giá
trị TSCĐ
có đầu kỳ
+
+
Tổng giá trị
TSCĐ bình
quân tăng
trong kỳ
-
-
Tổng giá trị
TSCĐ bình
quân giảm
trong kỳ
Cùng với các yêu cầu trên, ta còn phải xác định được chỉ tiêu tổng quỹ
khấu hao cơ bản và quỹ khấu hao sửa chữa lớn. Sau đó phải xác định được chỉ
tiêu quỹ khấu hao cơ bản trích nộp vào quỹ khấu hao của kỳ kế hoạch theo
công thức sau:
Quỹ khấu
hao cơ bản
phải trích kỳ

kế hoạch
=
=
Quỹ khấu hao
cơ bản năm
trước chuyển
sang
+
+
Tổng giá trị
khấu hao cơ
bản kỳ kế
hoạch
-
-
Quỹ khấu
hao cơ bản
chuyển sang
năm sau
Nghiên cứu các chỉ tiêu của kế hoạch khấu hao TSCĐ cho ta một ý nghĩa
đáng lưu ý trong việc đề xuất các ý kiến cho quản lý vốn cố định ở doanh
nghiệp. Bằng việc xem xét mức độ tăng giảm của các chỉ tiêu và xác định các
nguyên nhân tăng giảm đó, người quản lý thấy rõ được phần nào cảnh quan
và tình hình TSCĐ của doanh nghiệp để có các biện pháp điều chỉnh hợp lý.
Một ý nghĩa khác là cung cấp những thông số cần thiết cho việc lập các kế
hoạch, chương trình khác của doanh nghiệp về thị trường, cạnh tranh...
c) Bảo toàn và phát triển vốn cố định:
Trong quá trình tham gia vào cạnh tranh với các doanh nghiệp khác
nhằm phục vụ tốt cho nhu cầu của khách hàng, doanh nghiệp cần có một hậu
phương với tiềm lực vững mạnh, đó chính là vốn. Để phát huy được ý nghĩa

đó doanh nghiệp không những một mặt phải duy trì và phát triển các hoạt
động kinh doanh, mặt khác quan trọng hơn là phải bảo toàn và phát triển được
vốn nói chung và vốn cố định nói riêng.
Vấn đề đặt ra như trên không có nghĩa rằng việc doanh nghiệp làm ăn có
lãi thực thì không phải bảo toàn và phát triển vốn. Ý kiến đó xuất phát từ việc
hiểu không đầy đủ về vấn đề bảo toàn vốn. Nếu chúng ta tiếp cận theo quan
điểm nhân quả thì thấy rõ vấn đề bảo toàn vốn luôn cần thiết trong suốt quá
trình hoạt động kinh doanh của công ty. Được tồn tại trong môi trường kinh tế
tự do, hoạt động kinh doanh không tránh khỏi những biến động về giá cả, lạm
phát... mà gây tác động không nhỏ tới tiền vốn của công ty. Lạm phát tăng
13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
làm cho sức mua của đồng tiền và giá trị của đồng vốn giảm xuống so với
thực tế. Mặt khác, bất kỳ một tác động chủ quan nào thể hiện tính vô trách
nhiệm, buông lỏng quản lý đều dẫn đến hư hỏng, mất mát tài sản cố định. Tất
cả những nguyên nhân đó đưa ta đến kết quả phải bảo toàn và phát triển vốn.
Bảo toàn vốn là quá trình thu hồi lại vốn đã bỏ ra ban đầu, phát triển vốn là
lấy lợi nhuận để bổ sung vốn kinh doanh làm tăng vốn kinh doanh. Bảo toàn
và phát triển vốn được phải thông qua sử dụng có hiệu quả vốn, tức là với một
lượng vốn như cũ nhưng tạo ra nhiều lợi nhuận hơn.
Như chúng ta đã biết, vốn cố định là biểu hiện bằng tiền của tài sản cố
định. Tài sản cố định có đặc điểm tham gia vào nhiều chu kỹ kinh doanh và
thu hồi dần dưới dạng khấu hao. Việc bảo toàn vốn phải lấy cả từ hao mòn
hữu hình và hao mòn vô hình, bất kỳ một sự thiếu sót nào đều có thể mắc lỗi.
Về mặt hữu hình: thì doanh nghiệp phải giữ cho TSCĐ không bị loại
khỏi sản xuất kinh doanh trước khi hết niên hạn sử dụng, không sử dụng vốn
cố định sai mục đích hoặc đi mua bán lại TSCĐ tạo chênh lệnh giá để ăn chia
vào vốn, phải duy trì và nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ.
Về mặt vô hình: đòi hỏi công ty phải có tỉ lệ khấu hao hợp lý bảo đảm
cho tái sản xuất TSCĐ mới.

Tuy vậy, chúng ta cần phải xác định được số vốn cố định cần phải bảo
toàn đến cuối kỳ theo công thức:
Vốn cố
định
phải
bảo
toàn
=
=
Vốn cố
định được
giao đầu
kỳ
--
Khấu
hao đã
trích
trong kỳ
X
Hệ số
điều chỉnh
TSCĐ
±
Giá trị
TSCĐ
(tăng, giảm
trong kỳ)
Những thành công trong công tác bảo toàn VCĐ sẽ tạo cơ sở tốt cho kế
hoạch phát triển VCĐ. Phát triển VCĐ được doanh nghiệp trích từ lợi nhuận
để lại doanh nghiệp và phần khấu hao cơ bản để lại đầu tư xây dựng cơ bản,

thực hiện tái sản xuất mở rộng và mua sắm mới TSCĐ.
1. 2 - Nội dung hoạt động quản lý vốn lưu động:
a) Xác định vốn lưu động định mức kỳ kế hoạch:
Xuất phát từ vai trò không thể thiếu của vốn lưu động đòi hỏi chúng ta
phải luôn có một lượng vốn lưu động để đáp ứng các nhu cầu khác nhau của
14
Website: Email : Tel : 0918.775.368
doanh nghiệp. Nhưng lượng vốn lưu động đó là bao nhiêu thì phù hợp bởi nếu
VLĐ thừa quá hoặc thiếu quá đều không có lợi, VLĐ thừa quá sẽ gây ứ đọng
vốn và ngược lại nếu ít quá sẽ gây cho doanh nghiệp những khó khăn, tác
động xấu đến hoạt động kinh doanh. Những khía cạnh đó đòi hỏi chúng ta
phải xác định được lượng VLĐ định mức cho kỳ kế hoạch. VLĐ định mức
được hiểu là số VLĐ có thể quy định mức tối thiểu, cần thiết thường xuyên
cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Theo chế độ hiện hành, Tổng Công ty Đường sông Miền Bắc Việt Nam
là Tổng công ty nhà nước, VLĐ định mức của Tổng công ty được nhà nước
cấp một lần. Trường hợp nhà nước điều chỉnh giá trị thì mức vốn đó được nhà
nước xác định và bổ sung kịp thời.
Để xác định được VLĐ định mức kỳ kế hoạch, doanh nghiệp phải lần
lượt tính toán VLĐ ở từng khâu từ dự trữ, sản xuất, tiêu thụ, đối với từng loại
nguyên vật liệu, sau đó tổng hợp lại thành VLĐ định mức kỳ kế hoạch.
Thứ nhất, vốn lưu động định mức ở khâu dự trữ. Việc xác định VLĐ
định mức ở khâu dự trữ cần phải kết hợp chặt chẽ với kế hoạch thu mua
nguyên vật liệu và dự tính chi phí sản xuất của doanh nghiệp. VLĐ định mức
ở khâu dự trữ được tính toán căn cứ vào mức luân chuyển kế hoạch hàng ngày
và định mức số ngày dự trữ. Mức luân chuyển hàng ngày được tính bằng cách
lấy mức luân chuyển chia cho 360 ngày. Còn định mức số ngày dự trữ xác
định như sau:
- Đối với nguyên vật liệu nhập khẩu (Nhà nước độc quyền quản lý) định
mức số ngày dự trữ được cơ quan cấp trên quy định cho doanh nghiệp.

- Đối với nguyên vật liệu mua trong nước có thể áp dụng công thức sau:
Định
mức số
ngày dự
trữ
=
Số ngày
cách nhau
giữa 2 lần
mua
x
Hệ số
thu
mua
xen kẽ
+
Số
ngày
vận
chuyển
+
Số ngày
chỉnh lý
chuẩn bị
+
Số
ngày
bảo
hiểm
Thứ hai, VLĐ định mức ở khâu sản xuất: được xác định riêng cho sản

phẩm dở dang, nửa thành phẩm tự chế, chi phí chờ phân bổ.
- VLĐ định mức cho sản phẩm dở dang được xác định theo công thức:
Định mức
VLĐ cho
sản phẩm
=
Mức luân chuyển cả
năm của thành phẩm
theo giá thành công
: 360 x
Hệ số
thành
phẩm dở
x
Chu kỳ
sản xuất
sản
15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
dở dang xưởng dang phẩm
- VLĐ định mức cho nửa thành phẩm tự chế xác định theo công thức:
Định mức
VLĐ cho
nửa thành
phẩm tự chế
=
Mức luân chuyển cả
năm của thành phẩm
theo giá thành công
xưởng

: 360 x
Định
mức
ngày
dự trữ
x
Hệ số
thành
phẩm tự
chế
Trong đó số ngày dự trữ của nửa thành phẩm phụ thuộc vào mức độ sản
xuất có nhịp nhàng không.
- VLĐ định mức cho chi phí chờ phân bổ được tính theo công thức:
Định mức VLĐ
cho chi phí
chờ phân bổ
=
Mức dự trữ
đầu năm của
chi phí chờ
phân bổ
+
Số phát sinh
chi phí chờ
phân bổ trong
năm
-
Số phải
phân bổ
trong năm

Thứ ba, VLĐ định mức ở khâu tiêu thụ: bao gồm VLĐ định mức cho
thành phẩm và hàng hoá mua ngoài dùng cho tiêu thụ sản phẩm.
- VLĐ định mức cho thành phẩm được xác định theo công thức:
Vốn lưu động
định mức cho
thành phẩm
=
Tổng giá thành
công xưởng của
số lượng hàng hoá
: 360 x
Định mức số
ngày dự trữ
thành phẩm
- Đối với hàng hoá mua ngoài dùng cho tiêu thụ sản phẩm (là hàng hoá
doanh nghiệp mua rồi tiêu thụ ngay), VLĐ định mức xác định theo công thức:
Định mức VLĐ
cho hàng hoá mua
ngoài tiêu thụ
=
Tổng giá thành
cả năm theo
giá mua
: 360 x
Định mức số
ngày dự trữ
hàng hoá mua
ngoài
Trong ba bộ phận trên, tuỳ theo đặc điểm của từng ngành thì mức độ
quan trọng của từng bộ phận sẽ khác nhau. Đối với doanh nghiệp sản xuất thì

VLĐ ở khâu sản xuất là quan trọng nhất. Điều đó đòi hỏi doanh nghiệp trong
quá trình quản lý và sử dụng vốn phải ưu tiên cho bộ phận này một tỉ lệ hợp
lý, không ngừng tăng vốn cho sản xuất, giảm ở mức cho phép với vốn dự trữ
và lưu thông.
b) Kế hoạch nguồn VLĐ định mức:
16
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Như chúng ta đã biết, VLĐ của doanh nghiệp được hình thành từ các 3
nguồn khác nhau như nguồn vốn tự có, vốn coi như tự có và vốn đi vay. Để
lập được kế hoạch nguồn VLĐ định mức đòi hỏi tất yếu là phải căn cứ vào
tình hình thực tế VLĐ năm trước và nhu cầu về vốn trong năm kế hoạch.
c) Bảo toàn và phát triển VLĐ:
Một số lý do dẫn đến tất yếu phải bảo toàn vốn nói chung đã được đề cập
trong phần bảo toàn và phát triển VCĐ. Song do xuất phát từ đặc trưng của
VLĐ là chu chuyển toàn bộ, môt lần vào giá thành sản phẩm và hình thái vật
chất VLĐ thường xuyên biến đổi. Do vậy mà trạng thái tài sản lưu động và
vốn lưu thông cũng thường xuyên biến đổi. Theo quan điểm tiếp cận như vậy
thì các quyết định về bảo toàn và phát triển vốn lưu động phải được thực hiện
trên cả hai phương diện là hiện vật và giá trị. Vốn lưu động sẽ được bảo toàn
khi và chỉ khi bảo toàn được cả hai mặt này.
Bảo toàn về mặt hiện vật: phải bảo đảm cho VLĐ đầu kỳ bằng VLĐ cuối
kỳ để thoả mãn đẳng thức:
Số VLĐ đầu kỳ
=
VLĐ cuối kỳ
Đơn giá sản phẩm mà doanh
nghiệp KD
Giá 1 SP kinh doanh tại thời điểm
đó
Bảo toàn vốn lưu động về mặt giá trị, thực chất không cần thiết số VLĐ

đầu kỳ phải bằng số VLĐ cuối kỳ, mà đòi hỏi doanh nghiệp phải giữ được giá
trị thực tế hay sức mua của vốn, thể hiện ở khả năng mua sắm vật tư cho khâu
dự trữ và tài sản lưu động định mức nói chung, duy trì khả năng thanh toán
của doanh nghiệp. Do vậy, trong quá trình sản xuất kinh doanh các doanh
nghiệp phải thường xuyên thực hiện việc hạch toán đúng giá trị thực tế của
vật tư, hàng hoá theo mức diễn biến giá cả trên thị trường nhằm tính đúng,
tính đủ chi phí vật tư, hàng hoá vào giá thành sản phẩm, giá vốn hàng hoá và
phí lưu thông để thực hiện bảo toàn vốn lưu động.
Tuy vậy, chúng ta cần phải xác định được số vốn lưu động cần phải bảo
toàn theo công thức sau:
Số VLĐ phải bảo
toàn đến cuối kỳ
=
Số VLĐ được
giao đầu kỳ
x
Hệ số trượt giá
VLĐ
17
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Quan tâm đến công thức này cần chú ý đến: số vốn được giao, hệ số
trượt giá. Số vốn đã được giao là số vốn lưu động giao lần đầu cho doanh
nghiệp đã xác định trong biên bảo giao nhận vốn. Còn khi nói tới hệ số trượt
giá VLĐ do cơ quan chủ quản và cơ quan tài chính xác định cho doanh
nghiệp, nó dựa trên cơ sở mức tăng (giảm) giá thực tế cuối năm so với đầu
năm của một số vật tư chủ yếu tính theo cơ cấu kế hoạch vốn lưu động định
mức của từng doanh nghiệp, phù hợp với đặc điểm, cơ cấu TSLĐ của từng
ngành, từng doanh nghiệp.
Khi đã có được những kết quả quan trong công tác bảo toàn vốn, doanh
nghiệp sẽ rất thuận lợi trong việc thực hiện phát triển vốn. Phát triển VLĐ

được lấy từ quỹ khuyến khích phát triển sản xuất trích từ lợi nhuận để lại.
III. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG QUẢN LÍ VỐN VÀ HIỆU
QUẢ SỬ DỤNG VỐN
1. Các nhân tố ảnh hưởng:
1.1- Chu kì sản xuất:
Đây là một đặc điểm quan trọng gắn trực tiếp tới hiệu quả sử dụng vốn.
Nếu chu kì ngắn, doanh nghiệp sẽ thu hồi vốn nhanh nhằm tái tạo, mở rộng
sản xuất kinh doanh. Ngược lại, nếu chu kì dài doanh nghiệp sẽ có một gánh
nặng là ứ đọng vốn và trả lãi các khoản vay hay các khoản phải trả.
1.2 - Kĩ thuật sản xuất:
Các đặc điểm riêng có về kĩ thuật tác động liên tục với một số chỉ tiêu
quan trọng phản ánh hiệu quả sử dụng vốn cố định như hệ số đổi máy móc
thiết bị, hệ số sử dụng về thời gian, công suất.
Nếu kĩ thuật sản xuất đơn giản, doanh nghiệp dễ có điều kiện, máy móc,
thiết bị nhưng lại phải luôn đối phó với các đối thủ cạnh tranh và với yêu cầu
của khách hàng về chất lượng sản phẩm. Do vậy, doanh nghiệp dễ dàng tăng
doanh thu, lợi nhuận trên VCĐ nhưng khó giữ được chỉ tiêu này lâu dài. Nếu
kĩ thuật sản xuất phức tạp, trình độ trang bị máy móc thiết bị cao, doanh
nghiệp có lợi thế trong cạnh tranh, song đòi hỏi tay nghề công nhân, chất
lượng nguyên vật liệu cao sẽ làm giảm lợi nhuận vốn cố định.
1.3 - Đặc điểm về sản xuất:
18
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Sản phẩm của doanh nghiệp là nơi chứa đựng chi phí và cũng chứa đựng
doanh thu cho doanh nghiệp, qua đó quyết định lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Nếu sản phẩm là tư liệu tiêu dùng, nhất là sản phẩm công nghiệp nhẹ
như rượu bia... thì sẽ có vòng đời ngắn, tiêu thụ nhanh và qua đó giúp doanh
nghiệp thu hồi vốn nhanh. Hơn nữa những máy móc dùng để sản xuất ra
những sản phẩm này có giá trị thấp, do vậy dễ có điều kiện đổi mới. Ngược
lại, nếu sản phẩm có vòng đời dài, có giá trị lớn, được sản xuất trên dây

chuyền có giá trị lớn như máy thu hình, ôtô, xe máy... sẽ là tác nhân hạn chế
doanh thu.
1.4 - Tác động của thị trường:
Tuỳ theo mỗi loại thị trường mà doanh nghiệp tham gia sẽ tác động đến
hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh theo những khía cạnh khác nhau. Nếu thị
trường đó là cạnh tranh tự do, những sản phẩm của doanh nghiệp đã có uy tín
lâu đối với người tiêu dùng thì sẽ là tác nhân tích cực thúc đẩy doanh nghiệp
mở rộng thị trường. Đối với thị trường sản phẩm không ổn định (theo màu,
theo thời điểm, thị hiếu) thì hiệu quả sử dụng vốn cũng không ổn định qua
việc doanh thu biến động lớn qua các thời điểm này.
1.5 - Trình độ tổ chức quản lí, tổ chức sản xuất, hạch toán nội bộ
doanh nghiệp:
Để có hiệu quả cao thì bộ máy tổ chức quản lí, tổ chức sản xuất phải gọn
nhẹ, trùng khớp nhịp nhàng với nhau, với mỗi phương thức sản xuất và loại
hình sản xuất sẽ có những tác động khác nhau tới tiến độ sản xuất, phương
pháp và quy định vận hành máy móc, số ca, số tổ sản xuất , số bộ phận phục
vụ sản xuất ...
Mặt khác, đặc điểm của công tác hạch toán, kế toán nội bộ doanh nghiệp
(luôn gắn với tính chất của tổ chức sản xuất và quản lí trong cùng doanh
nghiệp) có tác động không nhỏ. Công tác kế toán đã dùng những công cụ của
mình để đo hiệu quả sử dụng vốn... Kế toán phải có nhiệm vụ phát hiện
những tồn tại trong quá trình sử dụng vốn và đề xuất những biện pháp giải
quyết.
1.6 - Trình độ lao động, cơ chế khuyến khích và trách nhiệm vật
chất trong doanh nghiệp:
19
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Nếu công nhân trong doanh nghiệp có trình độ cao đủ để thích ứng với
trình độ công nghệ dây chuyền sản xuất thì các máy móc trong dây chuyền sẽ
được sử dụng tốt hơn và năng suất chất lượng sẽ cao hơn. Song trình độ lao

động phải được đặt đúng chỗ, đúng lúc... thì hiệu quả công việc mới cao.
Để sử dụng tiềm năng lao động có hiệu quả cao nhất doanh nghiệp phải
có một cơ chế khuyến khích vật chất cũng như trách nhiệm một cách công
bằng. Ngược lại, nếu cơ chế khuyến khích không công bằng, quy định trách
nhiệm không rõ ràng, dứt khoát sẽ làm cản trở mục tiêu nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn.
1.7 - Các nhân tố khác:
Các chính sách vĩ mô của Nhà nước tác dụng một phần không nhỏ tới
hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Cụ thể hơn, từ cơ chế giao vốn, đánh
giá tài sản cố định, thuế vốn, thuế doanh thu... đến chính sách cho vay bảo hộ
và khuyến khích một số loại công nghệ nhất định đều có thể làm tăng, giảm
hiệu quả sử dụng TSCĐ, TSLĐ của doanh nghiệp.
Mặt khác, cơ chế chính sách cũng tác động đến kế hoạch mua sắm
nguyên vật liệu của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp được hưởng nguồn
nguyên vật liệu, chọn được người cung cấp tốt nhất. Doanh nghiệp phải kết
hợp được yêu cầu của chính sách này với yêu cầu của thị trường. Từ đó tác
động tới hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
2. Hiệu quả sử dụng vốn cố định và vốn lưu động:
Bất kỳ hoạt động nào của con người, hoạt động nói chung và hoạt động
kinh doanh nói riêng, đều mong muốn đạt được những kết quả hữu ích
nào đó. Kết quả đạt được trong kinh doanh mới chỉ đáp ứng được phần nào
yêu cầu của cá nhân và xã hội. Tuy nhiên kết quả đó được tạo ở mức nào với
giá nào là vấn đề cần được xem xét vì nó phản ánh chất lượng của hoạt động
tạo ra kết quả đó. Mặt khác, nhu cầu của con người bao giờ cũng lớn hơn khả
năng tạo ra sản phẩm của họ. Bởi thế, con người cần phải quan tâm đến việc
làm sao với khả năng hiện có, có thể làm ra được nhiều sản phẩm nhất. Do đó
nảy sinh vấn đề là phải xem xét lựa chọn cách nào để đạt được hiệu quả lớn
nhất. Chính vì thế khi đánh giá hoạt động kinh tế người ta thường sử dụng
hiệu quả kinh tế cùng với các chỉ tiêu của nó. Hiệu quả kinh tế là một phạm
trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực xã hội để đạt được kết

20
Website: Email : Tel : 0918.775.368
quả cao nhất với chi phí nguồn lực thấp nhất. Hiệu quả kinh tế có thể tính
theo công thức sau:
Kết quả đầu vào
Hiệu quả kinh tế =
Yếu tố đầu ra
Xuất phát từ những nguyên lý chung như vậy, trong lĩnh vực vốn kinh
doanh định ra hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh. Hiệu quả sử dụng vốn chính
là quan hệ giữa đầu ra và đầu vào của quá trình kinh doanh, hay cụ thể là
quan hệ giữa toàn bộ kết quả kinh doanh và toàn bộ chi phí của quá trình kinh
doanh đó được xác định bằng thước đo tiền tệ. Tuy nhiên, hiệu quả sử dụng
vốn không chỉ thể hiện đơn thuần ở kết quả kinh doanh và chi phí kinh doanh,
mà còn thể hiện ở nhiều chỉ tiêu liên quan khác.
2.1 - Một số chỉ tiêu chung về tình hình sử dụng vốn:
a) Cơ cấu vốn:
Sức mạnh tiềm ẩn của một doanh nghiệp nhiều khi được thể hiện thông
qua cơ cấu vốn. Chứng minh cho luận điểm này chúng ta thấy rằng trình độ
sử dụng vốn của ban lãnh đạo doanh nghiệp và tình hình sản xuất kinh doanh
là những yếu tố quan trọng khắc hoạ nên sức mạnh của doanh nghiệp. Đồng
thời chính những yếu tố đó tạo nên một cơ cấu vốn đặc trưng cho doanh
nghiệp, không giống các doanh nghiệp cùng loại khác. Như vậy tỉ số cơ cấu
vốn không phải là một con số ngẫu nhiên mà là con số thể hiện ý chí của
doanh nghiệp. Về mặt giá trị, tỉ số đó cho ta biết trong tổng số vốn ở doanh
nghiệp đang sử dụng có bao nhiêu đầu tư vào vốn lưu động, có bao nhiêu đầu
tư vào tài sản cố định. Vấn đề đặt ra là phải xây dựng được cơ cấu vốn khoẻ,
hợp lý.
Cơ cấu cho từng loại vốn được tính như sau:
Tỉ trọng VCĐ
(Tỉ trọng TSCĐ)

=
TSCĐ và đầu tư dài hạn
Tổng vốn
Tỉ trọng VLĐ
(Tỉ trọng TSLĐ và vốn
lưu thông)
= 1- Tỉ trọng vốn cố
định
21
Website: Email : Tel : 0918.775.368
b) Vòng quay toàn bộ vốn:
Đây là chỉ tiêu đo lượng hiệu quả sử dụng vốn trong kỳ, nó phản ánh
một đồng vốn được doanh nghiệp huy động vào sản xuất kinh doanh mang lại
mấy đồng doanh thu
Doanh thu thuần
Vòng quay toàn bộ vốn =
Tổng số vốn
c) Kỳ thu tiền trung bình:
Trong quá trình tiến hành sản xuất kinh doanh, việc phát sinh các khoản
phải thu, phải trả là điều tất yếu. Khi các khoản phải thu càng lớn, chứng tỏ
vốn của doanh nghiệp đang bị ứ trong khâu thanh toán. Nhanh chóng thu
được vốn bị ứ đọng trong khâu thanh toán là bộphận quan trọng trong công
tác tài chính nói chung và công tác quản lý, sử dụng vốn nói riêng. Vì vậy, sẽ
không ngạc nhiên khi các nhà quản lý, các nhà kinh doanh, rất quan tâm tới
thời gian thu hồi của các khoản phải thu. Để nắm chắc thông tin về khả năng
thu hồi vốn và làm cơ sở cho việc dự tính các quyết định của mình, các nhà phân
tích đã đưa ra chỉ tiêu "kỳ thu tiền trung bình". Chỉ tiêu này được xác định như
sau:
Kỳ thu tiền
trung bình

=
Các khoản phải thu
=
Các khoản phải thu x
360
Doanh thu bình quân
ngày
Doanh thu năm
2. 2 - Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng VCĐ:
a) Sức sản xuất của TSCĐ:
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng nguyên giá bình quân TSCĐ đem lại
mấy đồng giá trị sản lượng (hay doanh thu thuần).
Sức sản xuất của tài
sản cố định
=
Tổng doanh thu thuần (hay giá trị tổng sản
lượng)
Nguyên giá bình quân TSCĐ
22
Website: Email : Tel : 0918.775.368
b) Sức sinh lời của TSCĐ
Chỉ tiêu sức sinh lời của TSCĐ cho biết một đồng nguyên giá bình quân
TSCĐ đem lại mấy đồng lợi nhuận thuần hay lãi gộp.
Sức sinh lợi của tài
sản cố định
=
Lợi nhuận thuần (hay lãi gộp)
Nguyên giá bình quân TSCĐ
c) Suất hao phí tài sản cố định:
Chỉ tiêu này cho thấy để có một đồng doanh thu thuần hoặc lợi nhuận

thuần cần có bao nhiêu đồng nguyên giá TSCĐ
Suất hao phí tài sản =
Nguyên giá bình quân TSCĐ
Giá trị tổng sản lượng (hay doanh thu thuần,
lợi nhuận thuần)
d) Hiệu quả sử dụng vốn cố định:
Hiệu quả sử dụng
vốn cố định
=
Giá trị tổng sản lượng (hay DT thuần, lợi
nhuận)
Số vốn cố định
2.3 - Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động:
a) Sức sản xuất của vốn lưu động:
Sức sản xuất của vốn lưu động cho biết một đồng vốn lưu động đem lại
mấy đồng doanh thu thuần (giá trị tổng sản lượng)
Sức sản xuất của
vốn lưu động
=
Tổng doanh thu thuần (hay giá trị tổng sản
lượng)
Vốn lưu động bình quân
b) Sức sinh lời của vốn lưu động
Sức sinh lời của vốn lưu động cho biết một đồng vốn lưu động tạo ra
mấy đồng lợi nhuận thuần hay lãi gộp trong kỳ.
Sức sinh lời của vốn
lưu động
=
Lợi nhuận thuần (hay lãi gộp)
Vốn lưu động bình quân

c) Số vòng quay của vốn lưu động (hệ số luân chuyển)
23
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Số vòng quay của
vốn lưu động
=
Tổng doanh thu thuần
Vốn lưu động bình quân
Chỉ tiêu này cho biết vốn lưu động quay được mấy vòng trong kỳ. Nếu
số vòng quay tăng, chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động tăng và ngược
lại.
d) Thời gian của một vòng luân chyyển
Thời gian một vòng
luân chuyển
=
Thời gian của kỳ phân tích
Số vòng quay của vốn lưu động trong kỳ
Chỉ tiêu này cho chúng ta biết số ngày cần thiết để vốn lưu động quay
được một vòng. Thời gian một vòng luân chuyển càng nhỏ thì tốc độ luân
chuyển càng lớn.
e) Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động:
Hệ số đảm nhiệm
vốn lưu động
=
Vốn lưu động bình quân
Tổng doanh thu thuần
Chỉ tiêu này cho biết để tạo ra một đồng doanh thu thì cần bao nhiêu vốn
lưu động bình quân.
Trong khi phân tích để tìm ra một kết luận về tính hiệu quả hay không
hiệu quả, cần tính ra các chỉ tiêu trên rồi so sánh giữa kỳ phân tích với kỳ gốc.

Khi tính các chỉ tiêu cần chú ý các nhân tố sau:
+ Tổng doanh thu thuần = Tổng doanh thu bán hàng trong kỳ - (Thuế
VAT hoặc thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu+ chiết khấu hàng bán + giảm
giá hàng bán + doanh thu hàng đã bán bị trả lại).
+ Thời gian của kỳ phân tích: quy định một tháng là 30 ngày, một quý là
90 ngày và một năm là 360 ngày.
Tổng vốn lưu động 4 quý
+ Vốn lưu động bình quân =
4
V
1/2
+ V
2
+ V
3
... + V
n/2
Hoặc =
24
Website: Email : Tel : 0918.775.368
n-1
Với V
1
, V
2
, V
3
... là vốn lưu động hiện có vào đầu các tháng,
n là số thứ tự các tháng.
2. 4 - Phân tích tình hình thanh toán và khả năng thanh toán:

a) Phân tích tình hình thanh toán:
Như chúng ta đã biết, các giao dịch kinh tế tài chính trong kinh doanh ở
mọi doanh nghiệp thường xuyên phát sinh các khoản phải thu, phải trả và cần
một thời gian nhất định mới thanh toán được. Các quan hệ nợ nần lẫn nhau
giữa các doanh nghiệp về các khoản tiền mua bán hàng, giữa các doanh
nghiệp với ngân sách về các khoản phải nộp thuế theo luật định, giữa doanh
nghiệp với người lao động về tiền lương... là các quan hệ tất yếu khách quan.
Tuy nhiên, trong kinh doanh các doanh nghiệp phải ngăn ngừa và giảm tối đa
các khoản nợ đến hạn hoặc quá hạn vẫn chưa trả được hoặc chưa đòi được.
Bởi vì, sự chiếm dụng vốn quá hạn của khách hàng, một mặt gây khó khăn về
vốn cho doanh nghiệp, mặt khác do thiếu vốn, thiếu tiền mặt để thanh toán
các khoản phải trả, doanh nghiệp sẽ phải đi vay, chịu lãi suất tín dụng, điều đó
làm giảm tỉ suất lợi nhuận, làm chậm tốc độ luân chuyển vốn. Chính vì vậy,
phân tích tình hình thanh toán của doanh nghiệp trở lên tối cần thiết nhằm
xem xét mức biến động của các khoản phải thu, phải trả, tìm ra nguyên nhân
của các khoản nợ đến hạn chưa đòi được hoặc nguyên nhân của việc tăng các
khỏan nợ đến hạn chưa trả được.
b. Phân tích khả năng thanh toán của doanh nghiệp :Khả năng thanh
toán phản ánh tình trạng tài chính tốt hay xấu của doanh nghiệp và có ảnh
hưởng đến tình hình thanh toán. Khả năng thanh toán xác định như sau:

Số tiền có thể dùng để thanh toán
K =
Các khoản nợ phải trả
Trong đó: - K là hệ số khả năng thanh toán
- Số tiền có thể dùng thanh toán bao gồm toàn bộ số vốn bằng tiền và
những tài sản có thể chuyển hoá thành tiền một cách nhanh chóng.
25

×