Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

Nghiên cứu các giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty lâm nghiệp Xuân Đài – Tân Sơn – Phú Thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (432.21 KB, 76 trang )

PHẦN I
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Sự cần thiết
Ngày nay khi mà đất nước ta đang chuyển mình trong quá trình xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có sự quản lý của Nhà nước,
các Doanh nghiệp không còn được bao cấp về giá, vốn nữa. Nó đòi hỏi các
Doanh nghiệp phải chủ động trong hoạt động sản xuất kinh doanh, tiêu thụ
sản phẩm của mình, tự chủ về vốn cũng như trong lĩnh vực quản lý sao cho
tốt. Do đó, các chủ Doanh nghiệp, các nhà quản trị phải quan tâm đến vấn đề
như làm thế nào để tìm kiếm được lợi nhuận trong kinh doanh khi hội nhập
với nền kinh tế thị trường, nhất là khi đất nước ta ra nhập WTO. Tuy nhiên,
trước sự cạnh tranh khốc liệt của nền kinh tế thị trường và sự hội nhập toàn
cầu hoá như hiện nay khiến các Doanh nghiệp nói chung và các Doanh nghiệp
lâm nghiệp nói riêng phải xác định được đúng đắn thực lực, khả năng về vốn
và biện pháp quản lý, sử dụng vốn để từng bước nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh sao cho có lãi, từng bước phát triển và đứng vững trên thị trường.
Công ty Lâm nghiệp Xuân Đài là Công ty mới được chuyển đổi từ
lâm trường quốc doanh sang Công ty Lâm nghiệp trên cơ sở thực hiện Nghị
định 200/2004/NĐ-CP về sắp xếp, đổi mới lâm trường quốc doanh. Hoạt
động của Công ty có vai trò và đóng góp quan trọng cho sự phát triển kinh tế -
xã hội của không chỉ huyện Tân Sơn nói riêng mà của cả tỉnh Phú Thọ nói
chung. Vậy công ty lâm nghiệp Xuân Đài đã nâng cao được hiệu quả sản xuất
kinh doanh hay chưa? và làm thế nào để nâng cao và duy trì sản xuất kinh
doanh được liên tục và tạo ra khả năng sinh lời của đồng vốn. Nhận thức được
vai trò và tầm quan trọng của việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
trong công ty lâm nghiệp, cùng với sự nhất trí của khoa ktế và quản trị kinh
doanh và sự hướng dẫn của thầy giáo T.S Trần Hữu Dào tôi mạnh dạn chọn
đề tài “ Nghiên cứu các giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
của Công ty lâm nghiệp Xuân Đài – Tân Sơn – Phú Thọ ”.
1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu


1.2.1. Mục tiêu tổng quát
Góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, đổi mới, ổn định và
không ngừng phát triển các Công ty Lâm nghiệp trong giai đoạn hiện nay.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
Nghiên cứu kết quả chuyển đổi từ Lâm trường quốc doanh sang Công ty
Lâm nghiệp tại Công ty Lâm nghiệp Xuân Đài – Tân sơn – Phú Thọ.
Nghiên cứu hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty Lâm Nghiệp Xuân
Đài trước và sau khi chuyển đổi.
Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh
doanh của Công ty.
1.3. Nội dung nghiên cứu
Thu thập và hệ thống hóa cơ sở lý luận về đánh giá hiệu quả sản xuất kinh
doanh của Công ty.
Nghiên cứu kết quả quá trình chuyển đổi từ Lâm trường quốc doanh sang
mô hình Công ty Lâm Nghiệp:
+ Đánh giá kết quả thực hiện đề án chuyển đổi Lâm trường quốc doanh
sang Công ty lâm nghiệp.
+ Nghiên cứu những thành công, hạn chế và bài học kinh nghiệm khi
chuyển đổi Lâm trường quốc doanh sang Công ty lâm nghiệp.
Nghiên cứu hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty Lâm Nghiệp Xuân
Đài trước và sau khi chuyển đổi:
+ Thu thập số liệu để đánh giá tình hình hoạt động và kết quả sản xuất
kinh doanh của Công ty trong giai đoạn 2005-2008.
+ Đánh giá tình hình hoạt động và hiệu quả sản xuất kinh doanh sau khi
chuyển đổi.
Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh
doanh của Công ty.
2
1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nghiên cứu: Tại Công ty Lâm nghiệp Xuân Đài, Phú Thọ.

- Đối tượng nghiên cứu: Tình hình và kết quả sản xuất kinh doanh của
Công ty giai đoạn 2005-2008.
1.5. Phương pháp nghiên cứu:
* Phương pháp thu thập số liệu:
Điều tra, thu thập thông tin số liệu từ Công ty, phỏng vấn trực tiếp cán bộ
công nhân viên trong Công ty.
Tìm hiểu các Nghị định, Nghị Quyết, Chỉ thị, Thông tư của Nhà nước ban
hành về Công ty Lâm nghiệp.
Kế thừa các tài liệu, báo cáo chuyên đề.
Thu thập số liệu về hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty Lâm nghiệp
Xuân Đài trong giai đoạn 2005-2008 từ các báo cáo tài chính của Công ty.
* Phương pháp xử lý và phân tích số liệu:
Phương pháp xử lý số liệu:
Dùng phần mền Excel để tính toán số liệu.
Phương pháp phân tích số tích số liệu:
Phương pháp tổng hợp phân tích thống kê, tính toán các chỉ tiêu cụ thể
như tốc độ phát triển liên hoàn, tốc độ phát triển bình quân, và một số chỉ tiêu
kinh tế khác để phục vụ cho việc so sánh đánh giá số liệu.
Phương pháp so sánh: Dựa trên biểu số liệu để so sánh, đánh giá kết quả
đạt được của Công ty.
Phương pháp chuyên gia: Tham khảo ý kiến của những người có kiến
thức kinh nghiệm về vấn đề nghiên cứu như hỏi ý kiến của các thầy cô giáo
trong trường, các cán bộ quản lý tại Công ty …
3
PHẦN II
KHÁI QUÁT CƠ SỞ LÝ LUẬN
2.1.Doanh nghiệp lâm nghiệp
2.1.1. Khái niệm
a,Doanh nghiệp
Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế được thành lập để thực hiện các hoạt

động kinh doanh với mục tiêu thu lợi nhuận. Theo luật doanh nghiệp ban
hành ngày 12 tháng 12 năm 2005, doanh nghiệp được định nghĩa như sau:
“Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch
ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục
đích thực hiện các hoạt động kinh doanh”.
b,Doanh nghiệp lâm nghiệp
Doanh nghiệp lâm nghiệp(DNLN) là một loại hình doanh nghiệp hoạt
động trong lĩnh vực lâm nghiệp với đặc trưng cơ bản nhất là lấy đất đai và
tài nguyên rừng làm tư liệu sản xuất chủ yếu.
Như vậy, doanh nghiệp lâm nghiệp trước hết là một tổ chức thực hiện
hoạt động kinh doanh chủ yếu trong lĩnh vực lâm nghiệp với các hoạt động
xây dựng rừng, khai thác, vận chuyển và chế biến lâm sản, thực hiện các dịch
vụ trong lĩnh vực lâm nghiệp, đáp ứng nhu cầu về lâm sản đối với toàn bộ nền
kinh tế. Bên cạnh đó doanh nghiệp lâm nghiệp còn phải làm nhiệm vụ phát
huy chức năng phòng hộ của rừng đối với quốc gia, đồng thời phát huy tốt
nhất các chức năng về văn xã của rừng đối với xã hội.
2.1.2. Mục tiêu của doanh nghiệp
Doanh nghiệp lâm nghiệp nói riêng và doanh nghiệp nói chung đều hoạt
động vì các mục tiêu sau:
Mục tiêu lợi nhuận: Lợi nhuận được coi là mục tiêu trung tâm số một
của các doanh nghiệp. Lợi nhuận là nguồn vốn cơ bản để đầu tư tái sản xuất
mở rộng, tăng cường tiềm lực của doanh nghiệp nhằm đứng vững và phát
triển trong cơ chế thị trường.
4
Mục tiêu cung ứng: DNLN có nhiệm vụ sản xuất và cung ứng dịch vụ
lâm sản hàng hóa để thõa mãn nhu cầu của thị trường. Chất lượng lâm sản và
dịch vụ cung ứng càng tốt thì hoạt động kinh doanh càng phát triển và lợi
nhuận thu được càng nhiều. Vì vậy, doanh nghiệp cần phải biết dự đoán nhu
cầu của thị trường để có kế hoạch sản xuất phù hợp.
Mục tiêu phát triển: Mở mang sản xuất và phát triển kinh doanh không

những là nhu cầu bình thường của một doanh nghiệp mà còn là dấu hiệu lành
mạnh của một nền kinh tế phát triển. Do đó phấn đấu cho doanh nghiệp phát
triển cũng có ý nghĩa là góp phần củng cố và phát triển nền kinh tế quốc gia.
Để thực hiện mục tiêu phát triển, doanh nghiệp cần phải bỏ thêm vốn hay
dành một phần lợi nhuận để đầu tư, tăng thêm cơ sở vật chất kỹ thuật.
Mục tiêu trách nhiệm xã hội: Doanh nghiệp là một tế bào của xã hội nên
phải đặt mục tiêu trách nhiệm xã hội trong hoạt động của mình.Đối với
DNLN, mục tiêu trước hết đòi hỏi doanh nghiệp phải triệt để tôn trọng quy
hoạch sản xuất đã được phê duyệt, đặc biệt là phải hoàn tất nhiệm vụ trồng
rừng phòng hộ, thực hiện các biện pháp kỹ thuật để chống xói mòn đất, khai
thác lợi dụng rừng hợp lý đảm bảo sự bền vững của tài nguyên rừng. Ngoài
ra, cũng giống như các đơn vị kinh doanh khác, DNLN phải cõ trách nhiệm
bảo vệ lợi ích, quyền lợi của khách hàng, của những người cung ứng cho
mình và nhân viên trong Doanh nghiệp, góp phần tích cực vào sự phát triển
toàn diện kinh tế xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng trên từng địa bàn cụ
thể.
2.1.3. Một số đặc trưng của DNLN
Việc tổ chức kinh doanh được thực hiện trên một diện tích rất lớn về
đất đai, tài nguyên rừng.
Tư liệu sản xuất của doanh nghiệp là tư liệu đặc biệt: đó là đất đai và
tài nguyên rừng, nếu người quản lý, sử dụng có những giải pháp đúng đắn
thích hợp thì tư liệu sản xuất đó không những không mất đi mà còn được tái
5
tạo lại và ngày càng phong phú; nếu ngược lại thì tài nguyên rừng sẽ bị cạn
kiệt dần và mất đi.
Hoạt động sản xuất kinh doanh (SXKD) của doanh nghiệp phức tạp, đa
dạng và có chu kỳ sản xuất kinh doanh dài: đối tượng lao động chủ yếu của
lâm trường là cây rừng, một thực thể chịu sự chi phối rất nhiều của điều kiện
tự nhiên (khí hậu, đất đai) và các giải pháp kỹ thuật tác động; quá trình sản
xuất vừa mang tính chất nông nghiệp vừa mang tính chất công nghiệp; chu

kỳ kinh doanh dài ngày nên việc thu hồi vốn sẽ chậm, rủi ro cao, đòi hỏi phải
tổ chức quản lý theo dõi chặt chẽ, cụ thể và liên tục…
Địa bàn hoạt động SXKD của DNLN rộng và phức tạp: phạm vi hoạt
động của doanh nghiệp rất rộng bao gồm diện tích đất và rừng quản lý và cả
những khu vực có diện tích rừng, đất lâm nghiệp của các hộ gia đình, cá nhân
hoặc các tổ chức khác xen kẽ trong địa bàn sản xuất. Diện tích này chủ yếu ở
vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới hải đảo, cơ sở hạ tầng thấp kém, nền kinh
tế chậm phát triển, là nơi có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số đời sống còn
nhiều khó khăn.
2.2.Một số vấn đề về hiệu quả sản xuất kinh doanh
2.2.1.Khái niệm về hiệu quả sản xuất kinh doanh
Từ trước đến nay, các nhà kinh tế đã đưa ra rất nhiều khái niệm khác nhau
về hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Từ các khái niệm về hiệu quả sản xuất kinh doanh ở trên, ta có thể đưa ra
một khái niệm ngắn gọn như sau: “Hiệu quả sản xuất kinh doanh là một
phạm trù kinh tế biểu hiện tập trung của sự phát triển kinh tế theo chiều sâu,
phản ánh trình độ khai thác các nguồn lực trong quá trình tái sản xuất nhằm
thực hiện mục tiêu kinh doanh”. Nó là thước đo quan trọng của sự tăng
trưởng kinh tế và là chỗ dựa cơ bản để đánh giá thực hiện mục tiêu kinh tế
của doanh nghiệp trong từng thời kỳ. Trình độ lợi dụng các nguồn lực chỉ có
thể đánh giá trong mối quan hệ với kết quả tạo ra để xem xét xem mỗi sự hao
phí các nguồn lực xác định có thể tạo ra kết quả ở mức độ nào.
6
Như vậy, hiệu quả sản xuất kinh doanh phản ánh mặt lượng của các hoạt
động sản xuất kinh doanh, phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất
trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Ngoài ra, doanh nghiệp được coi là sản xuất có hiệu quả phải đạt được
kết quả tối đa với chi phí là tối thiểu. Vì vậy, để đánh giá chính xác hiệu quả
SXKD người ta sử dụng cả hai chỉ tiêu: kết quả sản xuất và chi phí sản xuất.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh vừa là một phạm trù cụ thể vừa là một

phạm trù trừu tượng. Nếu là phạm trù cụ thể thì trong công tác quản lý phải
định lượng thành các chỉ tiêu, con số để tính toán, so sánh. Nếu là phạm trù
trừu tượng phải được định tính thành mức độ quan trọng hoặc vai trò của nó
trong lĩnh vực SXKD. Từ đây ta có thể chia hiệu quả thành hai loại: Hiệu quả
sản xuất kinh doanh (hiệu quả kinh tế) và hiệu quả kinh tế xã hội. Hiệu quả
trực tiếp của doanh nghiệp là hiệu quả kinh tế, còn hiệu quả của ngành hoặc
của nền kinh tế quốc dân là hiệu quả kinh tế xã hội.
2.2.2.Bản chất của hiệu quả sản xuất kinh doanh
Bản chất của hiệu quả sản xuất kinh doanh là nâng cao năng suất lao
động xã hội và tiết kiệm lao động xã hội. Đây là hai mặt có mối quan hệ mật
thiết với vấn đề hiệu quả kinh tế. Để đạt được mục tiêu kinh doanh, các doanh
nghiệp buộc phải chú trọng các điều kiện nội tại, phát huy năng lực, hiệu quả
các yếu tố sản xuất và tiết kiệm chi phí.
Để hiểu rõ về hiệu quả sản xuất kinh doanh cần phân biệt rõ hai khái
niệm hiệu quả và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Kết quả hoạt động
SXKD là những gì mà doanh nghiệp đạt được sau một quá trình sản xuất kinh
doanh nhất định. Kết quả SXKD của doanh nghiệp có thể là những đại lượng
cân đong đo đếm được như doanh thu, lợi nhuận…và cũng có thể là các đại
lượng chỉ phản ánh chất lượng hoàn toàn có tích chất định tính như uy tín của
doanh nghiệp, chất lượng sản phẩm.Trong khi đó, để tính toán đánh giá hiệu
quả SXKD người ta sử dụng cả hai chỉ tiêu kết quả đạt được và chi phí bỏ ra.
7
Vì vậy, bản chất của hiệu quả SXKD là phản ánh mặt lượng của các
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, là những gì mà Doanh nghiệp đạt
được.
2.2.3. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp
Hiệu quả kinh doanh là một trong những công cụ hữu hiệu để các nhà
quản trị thực hiện chức năng của mình. Việc tính toán và xem xét hiệu quả
SXKD không chỉ cho biết việc sản xuất đạt ở trình độ nào mà còn cho phép

các nhà quản trị phân tích, tìm ra những biện pháp thích hợp trên cả hai
phương diện tăng kết quả và giảm chi phí nhằm nâng cao hiệu quả SXKD
của doanh nghiệp.
Việc tính toán hiệu quả SXKD còn giúp đưa ra được lựa chọn phương án
tốt nhất trong điều kiện mọi nguồn tài nguyên đều là hữu hạn và ngày càng
cạn kiệt, khan hiếm do sự khai thác sử dụng của con người; Mặt khác, cùng
với sự phát triển của khoa học công nghệ cho phép cùng những nguồn lực
nhất định con người có thể chế tạo nhiều sản phẩm khác nhau, tức là có nhiều
phương án SXKD khác nhau, do đó đòi hỏi cần lựa chọn phương án tốt nhất.
Nâng cao hiệu quả SXKD tức là đã nâng cao khả năng sử dụng các
nguồn lực có hạn trong sản xuất, đạt được sự lựa chọn tối ưu. Trong điều kiện
khan hiếm nguồn lực như hiện nay thì nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
là điều kiện không thể không đặt ra đối với bất kỳ doanh nghiệp SXKD nào
Ngoài ra, nâng cao hiệu quả SXKD của doanh nghiệp còn được thể
hiện thông qua vai trò quan trọng, nó là điều kiện sống còn để doanh nghiệp
có thể tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường như hiện nay.
Thứ nhất: Nâng cao hiệu quả SXKD là cơ sở để đảm bảo sự tồn tại và
phát triển của doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh gay gắt như hiện
nay. Trong cuộc cạnh tranh đó, có nhiều doanh nghiệp trụ vững phát triển sản
xuất nhưng cũng không ít doanh nghiệp đã thua lỗ, phải giải thể hay phá sản.
Sự tồn tại của doanh nghiệp được xác định bởi sự có mặt của doanh nghiệp
8
trên thị trường, mà hiệu quả kinh doanh lại là nhân tố trực tiếp đảm bảo sự tồn
tại đó. Để có thể tồn tại và đứng vững trên thị trường, doanh nghiệp phải đảm
bảo có lợi nhuận và lợi nhuận đó không ngừng tăng theo thời gian (hay có thể
nói nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh nhằm đạt mục tiêu tối đa hoá lợi
nhuận).
Thứ hai: Nâng cao hiệu quả SXKD là nhân tố thúc đẩy sự cạnh tranh và
tiến bộ trong kinh doanh. Chính sự thúc đẩy cạnh tranh đòi hỏi các doanh
nghiệp phải tự tìm tòi, đầu tư tạo nên sự tiến bộ trong kinh doanh.

2.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh
Hoạt động SXKD là yếu tố tạo nên hiệu quả sản xuất kinh doanh nên
các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh cũng ảnh hưởng
đến hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Căn cứ vào tính tất yếu thì các nhân tố có thể được chia thành hai
nhóm như sau:
+ Nhóm nhân tố khách quan là những nhân tố mà sự ảnh hưởng của nó
đến kết quả sản xuất kinh doanh ngoài ý muốn của bản thân doanh nghiệp,
bao gồm: môi trường kinh tế, môi trường thể chế, môi trường công nghệ, môi
trường văn hoá - xã hội, môi trường tự nhiên.
Đối với DNLN, do đặc thù nghề nghiệp là sản xuất ngoài trời lấy rừng
và tài nguyên rừng làm tư liệu sản xuất chính nên môi trường tự nhiên bao
gồm các nhân tố: thời tiết, khí hậu, mùa, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa
lý… có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của DNLN.
+ Nhóm nhân tố chủ quan là nhóm nhân tố nội tại mà doanh nghiệp có
thể kiểm soát và điều chỉnh được, bao gồm: lực lượng lao động, cơ sở vật
chất kỹ thuật, bộ máy quản trị doanh nghiệp.
Căn cứ vào tiêu thức nội dung kinh tế của các nhân tố ảnh hưởng, chia
thành hai loại:
+ Những nhân tố về điều kiện kinh doanh như: Tiềm năng và
thực trạng cơ sở vật chất kỹ thuật, lao động, tiền vốn…
9
+ Những nhân tố thuộc về kết quả SXKD, những nhân tố này
thường ảnh hưởng dây chuyền qua các khâu từ cung ứng vật tư đến khâu sản
xuất, khâu tiêu thụ và kết quả hoạt động tài chính của doanh nghiệp.
Căn cứ và tiêu thức phản ánh tính chất của các nhân tố ảnh hưởng, chia
thành hai loại:
+ Những nhân tố số lượng là những nhân tố phản ánh về qui mô, kết
quả sản xuất kinh doanh như: số lượng về lao động, vật tư, vốn, khối lượng
sản phẩm sản xuất và tiêu thụ…

+ Những nhân tố về chất lượng là những nhân tố phản ánh hiệu suất kinh
doanh như: giá thành, lợi nhuận, mức doanh lợi, hiệu quả sử dụng vốn…
Căn cứ vào xu thế tác động chia thành hai loại:
+ Nhân tố tích cực bao gồm những nhân tố ảnh hưởng làm tăng hiệu
quả SXKD.
+ Nhân tố tiêu cực bao gồm những nhân tố làm giảm hiệu quả SXKD
2.3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả SXKD của DNLN
2.3.1 Hệ thống chỉ tiêu theo Quyết định 224/2006/QĐ-TTg
2.3.1.1 Hệ thống đánh giá hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh:
Để đánh giá tình hình hoạt động và hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công
ty lâm nghiệp sử dụng phương pháp: Tổng hợp số liệu, Thống kê – phân tích
và so sánh với các chỉ tiêu sau (Căn cứ vào Quyết định số 224/2006/QĐ-TTg
của Thủ tướng Chính phủ về quy chế giám sát và đánh giá hiệu quả hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Nhà nước):
a) Doanh thu và thu nhập khác;
b) Lợi nhuận thực hiện và tỷ suất lợi nhuận thực hiện trên vốn Nhà nước;
c) Nợ phải trả quá hạn và khả năng thanh toán nợ đến hạn;
d) Tình hình chấp hành chế độ, chính sách, pháp luật về: thuế và các
khoản thu nộp ngân sách, tín dụng, bảo hiểm, bảo vệ môi trường, lao động,
tiền lương, chế độ tài chính, kế toán, kiểm toán, chế độ báo cáo tài chính và
báo cáo khác;
10
e) Tình hình thực hiện sản phẩm, dịch vụ công ích;
Về phương pháp đánh giá quy định như sau:
Chỉ tiêu 1: Doanh thu và thu nhập khác so với năm trước đối với từng
ngành: Ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản, công nghiệp khai thác mỏ
(trừ khai thác dầu khí), công nghiệp cơ khí (sản xuất các sản phẩm từ kim
loại, sản xuất máy móc, thiết bị):
Tăng từ 5% trở lên: xếp loại A
Tăng, giảm dưới 5%: xếp loại B

Giảm từ 5% trở lên: xếp loại C
Chỉ tiêu 2: Lợi nhuận thực hiện và tỷ suất lợi nhuận thực hiện trên vốn
Nhà nước
- Các doanh nghiệp có lãi:
+ Tỷ suất lợi nhuận thực hiện trên vốn Nhà nước tăng hơn so với năm
trước: xếp loại A
+ Tỷ suất lợi nhuận thực hiện trên vốn Nhà nước bằng hoặc thấp hơn năm
trước: xếp loại B
- Các doanh nghiệp bị lỗ: xếp loại C
- Đối với doanh nghiệp có lỗ kế hoạch, Bộ Tài chính có hướng dẫn
riêng;
Chỉ tiêu 3: Nợ phải trả quá hạn và khả năng thanh toán nợ đến hạn
- Doanh nghiệp không có nợ phải trả quá hạn và có hệ số khả năng
thanh toán nợ đến hạn lớn hơn 1: xếp loại A;
- Doanh nghiệp không có nợ phải trả quá hạn và có hệ số khả năng
thanh toán nợ đến hạn từ 0,5 đến 1: xếp loại B;
- Doanh nghiệp có nợ phải trả quá hạn hoặc hệ số khả năng thanh toán
nợ đến hạn nhỏ hơn 0,5: xếp loại C
- Hệ số khả năng thanh toán nợ đến hạn của doanh nghiệp là khả năng
thanh toán hiện thời được xác định bằng tổng giá trị tài sản lưu động và đầu tư
ngắn hạn so với tổng số nợ ngắn hạn gồm cả nợ dài hạn đã đến hạn.
11
Chỉ tiêu 4: Tình hình chấp hành các quy định pháp luật hiện hành
- Doanh nghiệp không có vi phạm các quy định của pháp luật hiện
hành: xếp loại A
- Doanh nghiệp có kết luận của cơ quan có thẩm quyền về vi phạm các
quy định của pháp luật hiện hành nhưng chưa đến mức bị xử phạt hành chính:
xếp loại B
- Doanh nghiệp bị xử phạt vi phạm hành chính trong việc chấp hành
các quy định của pháp luật hoặc người quản lý điều hành doanh nghiệp có

hành vi vi phạm pháp luật trong quá trình thực thi nhiệm vụ của doanh nghiệp
đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự: xếp loại C
Chỉ tiêu 5: Tình hình thực hiện sản phẩm, dịch vụ công ích
- Hoàn thành vượt mức về sản lượng với chất lượng sản phẩm hoặc
dịch vụ bảo đảm tieê chuẩn quy định: xếp loại A;
- Hoàn thành về sản lượng với chất lược sản phẩm, dịch vụ bảo đảm
tiêu chuẩn quy định: xếp loại B
- Không hoàn thành sản lượng hoặc chất lượng sản phẩm, dịch vụ
không bảo đảm tiêu chuẩn quy định: xếp loại C
Ngoài hệ thống 5 tiêu chí trên, đối với các công ty lâm nghiệp do đặc thù
của sản xuất lâm nghiệp lấy rừng và đất rừng làm tư liệu sản xuất chủ yếu nên
cần đánh giá thêm về hiệu quả sử dụng đất đai
2.3.1.2 Hệ thống đánh giá kết quả hoạt động của Hội đồng quản trị, Ban
giám đốc
Ngoài việc đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, ta
còn phải đánh giá kết quả hoạt động của Hội đồng quản trị, Ban giám đốc căn
cứ vào các chỉ tiêu sau:
a) Mức độ hoàn thành chỉ tiêu Nhà nước giao về tỷ suất lợi nhuận trên
vốn Nhà nước đầu tư
b) Kết quả phân loại doanh nghiệp theo quy định tại Điều 14 Quyết
định số 224/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ
12
c) Việc chấp hành các quy định của chủ sở hữu, Điều lệ Công ty và
các quy định của pháp luật hiện hành.
Căn cứ theo Quyết định số 224/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ
có quy định việc xếp loại kết quả hoạt động của Hội đồng quản trị, Ban giám
đốc như sau:
- Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ khi:
+ Đạt hoặc vượt chỉ tiêu Nhà nước giao về tỷ suất lợi nhuận trên vốn Nhà
nước đầu tư

+ Doanh nghiệp xếp loại A
- Không hoàn thành nhiệm vụ nếu thuốc một trong những trường hợp
sau:
+ Không hoàn thành chỉ tiêu Nhà nước giao về tỷ suất lợi nhuận trên vốn
Nhà nước đầu tư
+ Không chấp hành đầy đủ các nghị quyết, quyết định của chủ sở hữu,
Điều lệ của doanh nghiệp (đối với Hội đồng quản trị); không chấp hành các
nghị quyết, quyết định của chủ sở hữu, Hội đồng quản trị và Điều lệ của
doanh nghiệp (đối với Ban giám đốc);
+Doanh nghiệp xếp loại C
- Hoàn thành nhiệm vụ: các trường hợp còn lại.
2.3.2. Các chỉ tiêu hiệu quả bộ phận
* Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn
- Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định
+ Chỉ tiêu doanh thu trên một đồng vốn cố định( Sức sản xuất của vốn cố định)
Doanh thu trên một đồng
vốn cố định
=
Tổng doanh thu trong kỳ
Vốn cố định bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn cố định tạo ra được bao nhiêu đồng
lợi nhuận.
+ Chỉ tiêu lợi nhuận trên một đồng vốn cố định ( Sức sinh lời của vốn cố định)
= Lợi nhuận trong kỳ
13
Vốn cố định bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn cố định tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận.
- Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động
+ Chỉ tiêu doanh thu trên một đồng vốn lưu động( Sức sản xuất của vốn lưu động)
Doanh thu trên một đồng

vốn lưu động
=
Tổng doanh thu trong kỳ
Vốn lưu động bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn lưu động tạo ra được bao nhiêu đồng
doanh thu.
+ Chỉ tiêu lợi nhuận trên một đồng vốn lưu động( Sức sinh lời của vốn lưu động)
Lợi nhuận trên một đồng
vốn lưu động
=
Lợi nhuận trong kỳ
Vốn lưu động bình quân trong kỳ
2.3.3. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng lao động.
* Chỉ tiêu năng suất lao động bình quân
Chỉ tiêu năng suất lao
động
=
Tổng doanh thu trong kỳ
Số lao động bình quân trong kỳ
* Chỉ tiêu lợi nhuận bình quân tính cho một lao động
Lợi nhuận bình quân tính
cho một lao động
=
Lợi nhuận trong kỳ
Số lao động bình quân trong kỳ
* Hệ số sử dụng lao động:
Hệ số sử dụng lao động =
Tổng số lao động được sử dụng
Tổng số lao động hiện có
2.3.4. Các chỉ tiêu phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp

* Hệ số khả năng thanh toán tổng quát
Hệ số khả năng
thanh toán tổng quát
= Tổng tài sản doanh nghiệp
Tổng nợ phải trả
14
Chỉ tiêu này nhỏ hơn 1 là báo hiệu sự phá sản của doanh nghiệp, tổng tài
sản hiện có không đủ trả nợ mà doanh nghiệp phải thanh toán.
* Hệ số khả năng thanh toán nhanh
Hệ số khả
năng thanh
toán nhanh
=
Vốn bằng tiền+ Các khoản phải thu+ Đầu tư ngắn hạn
Tổng nợ ngắn hạn
* Hệ số cơ cấu vốn chủ sở hữu
Hệ số cơ cấu vốn
chủ sở hữu
= Vốn chủ sở hữu
Tổng tài sản doanh nghiệp
Hệ số này cho biết tỷ lệ vốn chủ sở hữu trong tổng vốn của doanh nghiệp.
2.4 Chủ trương đổi mới lâm trường quốc doanh giai đoạn 2006 – 2010
Năm 1999, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 187/1999/QĐ-
TTg ngày 16/9/1999 “Về đổi mới tổ chức và cơ chế quản lý lâm trường quốc
doanh”. Nhìn chung việc sắp xếp, đổi mới LTQD theo Quyết định 187 đã gặp
nhiều cản trở, vướng mắc và không thành công. Trong bối cảnh đó, ngày
16/6/2003, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết 28-
NQ/TW về tiếp tục đổi mới sắp xếp và phát triển nông, lâm trường quốc
doanh, nội dung cụ thể như sau:
- Những lâm trường đang quản lý chủ yếu là rừng trồng và đất qui

hoạch để trồng rừng sản xuất và quản lý rừng sản xuất chủ yếu là rừng tự
nhiên có qui mô diện tích tập trung thì tổ chức lại thành Công ty lâm nghiệp
trên cơ sở phương án sản xuất, kinh doanh.
- Những lâm trường đang quản lý chủ yếu là rừng phòng hộ có diện
tích từ 5000ha trở lên, rừng đặc dụng có diện tích từ 1000 ha trở lên (trường
hợp đặc biệt có thể nhỏ hơn) thì chuyển thành Ban quản lý rừng phòng hộ,
Ban quản lý rừng đặc dụng hoạt động theo cơ chế đơn vị sự nghiệp có thu.
- Những lâm trường đang quản lý diện tích ít (dưới 1000ha), phân bố
xen kẽ với đất nông nghiệp, gần khu dân cư thì rà soát điều chỉnh lại qui mô
diện tích phù hợp và chuyển thành đơn vị có thu, làm dịch vụ sản xuất cây
15
giống, xây dựng mô hình ứng dụng và chuyển giao kỹ thuật cho nông dân
trong vùng.
- Diện tích rừng sản xuất là rừng nghèo kiệt, rừng phòng hộ, rừng đặc
dụng nhỏ, phân tán; diện tích hoang hoá và đất khác, đất sử dụng không có
hiệu quả của lâm trường trong những loại rừng nêu trên, thì chính quyền địa
phương giao, cho thuê cho các đối tượng theo qui định của pháp luật đất đai
và pháp luật bảo vệ và phát triển rừng.
- Giải thể đối với những lâm trường kinh doanh thô lỗ liên tục trong 3
năm trở lên, không có phương án khắc phục hiệu quả; những lâm trường có
diện tích ít nhưng không có nhu cầu và điều kiện chuyển sang đơn vị dịch vụ;
những lâm trường không cần giữ lại chính quyền địa phương thu hồi đất để
giao hoặc cho thuê đối với tổ chức hoặc hộ gia đình, cá nhân sử dụng vào sản
xuất kinh doanh lâm nghiệp theo qui định pháp luật.
Để thực hiện Nghị quyết 28-NQ/TW của Bộ Chính trị, Chính phủ đã
ban hành Nghị định 200/2004/NĐ-CP về sắp xếp đổi mới lâm trường quốc
doanh. Điểm mới của Nghị định 200/2004/NĐ-CP của Chính phủ là: Thực
hiện thí điểm cổ phần hóa các lâm trường thuộc sở hữu Nhà nước đang kinh
doanh rừng trồng, có điều kiện sản xuất tương đối thuận lợi, gần các trung
tâm kinh tế, lâm trường có ít lao động đồng bào thiểu số. Trước mắt thí điểm

cổ phần hoá các lâm trường kinh doanh rừng trồng gắn với cơ sở chế biến,
thực hiện bán cổ phần ưu đãi cho người sản xuất cung cấp nguyên liệu cho
các cơ sở chế biến.
Về cơ chế quản lý đối với các lâm trường quốc doanh được tổ chức lại
thành Công ty Lâm nghiệp được qui định như sau:
- Các Công ty Lâm nghiệp 100% vốn Nhà nước hoạt động theo Luật
Doanh nghiệp Nhà nước, khi chuyển sang mô hình Công ty trách nhiệm hữu
hạn một thành viên hoặc cổ phần hóa thì hoạt động theo Luật Doanh nghiệp.
- Các Công ty Lâm nghiệp 100% vốn Nhà nước thực hiện cổ phần hoá
cơ sở chế biến nông lâm sản, thương mại, dịch vụ theo Nghị định số
16
64/2002/NĐ-CP ngày 19 tháng 6 năm 2002 của Chính phủ về chuyển doanh
nghiệp Nhà nước thành Công ty cổ phần; thực hiện bán cổ phần cho người
sản xuất nguyên liệu; thí điểm cổ phần hoá rừng trồng.
- Các Công ty Lâm nghiệp được lựa chọn các hình thức khoán rừng và
đất lâm nghiệp cho các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân để bảo vệ, trồng và
khai thác rừng có hiệu quả theo qui định của pháp luật.
- Các Công ty Lâm nghiệp được dùng các lợi thế của Công ty (vốn, kỹ
thuật, thị trường…) liên doanh, liên kết với các hộ gia đình, các tổ chức, cá
nhân trong và ngoài nước để trồng rừng, kết hợp sản xuất nông, lâm nghiệp,
chế biến tiêu thụ sản phẩm, đồng thời làm dịch vụ theo qui định của pháp luật.
17
PHẦN III
ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN VÀ TÌNH HÌNH TỔ CHỨC KINH DOANH CỦA
CÔNG TY LÂM NGHIỆP XUÂN ĐÀI
3.1 Đặc điểm cơ bản của công ty lâm nghiệp Xuân Đài
3.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty lâm nghiệp Xuân Đài
Lâm trường Xuân Đài được thành lập tháng 6 năm 1988, trên cơ sở tách
ra từ lâm trường Tam Cửu trực thuộc liên hiệp các xí nghiệp Nông Lâm Công
nghiệp Vĩnh Phú. Lâm trường quản lý và hoạt động sản xuất trên địa bàn 5 xã

phía Tây Bắc huyện Thanh Sơn - Tỉnh Phú Thọ. Trụ sở lâm trường đóng tại:
Xã Văn Luông – Thanh Sơn – Phú Thọ.
Đến tháng 8 năm 1995 lâm trường được bàn giao sang công ty nguyên
liệu giấy Vĩnh Phú trực thuộc TCT giấy Việt Nam, theo quyết định số
1404/QĐ-UB ngày 05/08/1995 của UBND tỉnh Vĩnh Phú.
Do sự sắp xếp về tổ chức ngày 01/01/1999 lâm trường Tam Cửu sáp nhập vào
lâm trường Xuân Đài, theo quyết định số 1382/QĐ-HĐQT ngày 21/11/1998 của
hội đồng quản trị TCT giấy Việt Nam và lấy tên là lâm trường Xuân Đài. Trụ sở
lâm trường đóng tại xã Văn Luông - Huyện Thanh Sơn – Phú Thọ. Địa bàn quản lý
và sản xuất trên 12 xã phía Tây Nam huyện Thanh Sơn – Phú Thọ.
Từ năm 1999 cho đến nay lâm trường Xuân Đài hoạt động theo sự sắp
xếp mô hình tổ chức của TCT giấy Việt Nam.
Từ sau ngày 01/05/2007 thực hiện Nghị định số 61/2007/NĐ-CP ngày
09/04/2007 của Thủ tướng Chính phủ về việc điều chỉnh địa chính giới hành
chính Huyện Thanh Sơn để thành lập huyện Tân Sơn thì địa bàn quản lý của
lâm trường nằm trên hai huyện gồm 5 xã phía Tây Bắc huyện Thanh Sơn, 7
xã phía Tây Nam huyện Tân Sơn.
Từ ngày 31/05/2007 thực hiện Quyết định số 668/QĐ-TTg về việc phê
duyệt đề án sắp xếp đổi mới lâm trường quốc doanh thuộc TCT Giấy Việt
18
Nam, lâm trường Xuân Đài chuyển thành công ty lâm nghiệp. Trụ sở chính của
công ty hiện nay đóng tại xã Văn Luông - Huyện Tân Sơn - Tỉnh Phú Thọ.
3.1.2. Các đặc điểm cơ bản
a. Đặc điểm tự nhiên

Vị trí địa lý
Công ty lâm nghiệp Xuân Đài có trụ sở đóng tại: Xã Văn Luông - Huyện
Tân Sơn - Tỉnh Phú Thọ, hoạt động trên 12 xã của 2 huyện gồm: 5 xã Tây
Bắc huyện Thanh Sơn và 7 xã phía Tây Nam huyện Tân Sơn; cụ thể:
+ Về toạ độ: Công ty Lâm nghiệp Xuân Đài nằm từ 20º56’18” đến

21º09’36” độ vĩ Bắc, từ 104º55’43” đến 105º12’23” độ kinh Đông.
+ Về địa giới: Phía Bắc giáp xã Mỹ Thuận, huyện Tân Sơn.
Phía Đông giáp xã Dịch Quả, huyện Thanh Sơn.
Phía Tây giáp với huyện Đà Bắc - Tỉnh Hoà Bình.
Phía Nam giáp với xã Cự Thắng, huyện Thanh sơn.

Khí hậu thuỷ văn
Công ty lâm nghiệp Xuân Đài nằm trong vùng miền núi trung du Bắc Bộ
thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, được chia làm hai mùa rõ rệt: Mùa
mưa từ tháng 4 đến tháng 10, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau. Khu
vực này chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc vào mùa khô và gió Phơn Tây
Nam (gió Lào) từ tháng 2 đến tháng 6. Nhiệt độ trung bình trong năm là
23,8
0
C.
Lượng mưa bình quân 1.292 mm/năm. Tổng số ngày mưa trong năm là
176 ngày. Lượng mưa phân bố không đồng đều, lượng mưa cao nhất vào
tháng 7, tháng 8, lượng mưa thấp nhất vào tháng 1, tháng 2. Mùa mưa bắt đầu
từ tháng 4 đến tháng 10. Độ ẩm không khí trung bình 87%.
19
Ngoài ra do địa hình chia cắt lớn nên trong khu vực có rất nhiều suối,
nhưng hầu hết đều cạn nước vào mùa khô và nước lớn, lũ quét vào mùa mưa,
do đó gây không ít khó khăn cho sản xuất nông-lâm nghiệp. Trong địa bàn
huyện Tân Sơn có một con sông chính đó là sông Bứa, do rất nhiều suối nhỏ
tạo thành cùng với 2 chi lưu lớn đó là sông Mua bắt nguồn từ các vùng núi
cao phía Đông huyện Phù Yên (Sơn La) và sông Gian bắt nguồn từ các dãy
núi cao trung bình ở ranh giới huyện Tân và tỉnh Hoà Bình. Hai con sông này
hợp lại tại làng Kệ Sơn xã Minh Đài rồi đổ ra sông Hồng tại ngã 3 Gò Quang
Húc với tổng chiều dài 120 km, chiều rộng trung bình 200m tạo điều kiện tốt
cho vận chuyển lâm sản.


Địa hình và thổ nhưỡng
Địa bàn của công ty quản lý thuộc vùng đồi núi trung du Bắc Bô, độ cao
trung bình từ 200-700 m so với mặt nước biển (đỉnh cao nhất 1386 m-Núi
Voi), độ dốc trung bình từ 20
0
-30
0
, đồi núi chạy dọc theo hướng Tây Bắc-
Đông Nam, dưới chân núi xen lẫn 1 số tràn ruộng do suối tạo thành.
Thành phần cơ giới đất thịt trung bình, hơi chặt tỷ lệ đá lẫn 10-15%.
Thích hợp cho việc trồng cây Keo. Tuy nhiên, với địa hình chia cắt và độ dốc
lớn gây ảnh hưởng tới việc thi công trồng rừng và khai thác vận chuyển lâm
sản.
b. Đặc điểm về kinh tế - xã hội
Công ty lâm nghiệp Xuân Đài đóng trên địa bàn huyện Tân Sơn, là
huyện mới thành lập theo Nghị định số 61/2007/NĐ-CP ngày 09/04/2007 của
thủ tướng chính phủ. Huyện có tổng diện tích tự nhiên là 68.858 ha, trong đó
diện tích đất lâm nghiệp chiếm 89,5%.
Dân số của huyện là 75172 người, dân tộc thiểu số chiếm 83%, trong
đó chủ yếu là dân tộc Mường sinh sống.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế của huyện đạt 10,2%.
20
Giao thông vận tải: Huyện có quốc lộ 32A chạy qua, đây là cầu nối giao
lưu kinh tế văn hoá – xã hội giữa các trung tâm kinh tế như: Hà Nội, thành
phố Việt Trì với các tỉnh Tây Bắc.
Văn hoá giáo dục: Tân Sơn là một huyện có trình độ dân trí thấp, không
đồng đều giữa các dân tộc.
Nông nghiệp: Huyện Tân Sơn có điểm xuất phát thấp so với mặt bằng
chung của tỉnh Phú Thọ. Tập quán canh tác chậm được đổi mới, an ninh

lương thực chưa ổn định, bình quân lương thực đầu người đạt 270
kg/người/năm, tình trạng thiếu đói giáp vụ vẫn xảy ra ở các xã vùng cao, vùng
sâu.
Cơ sở hạ tầng phục vụ đời sống của nhân dân chưa đảm bảo tối thiểu,
điện nước sinh hoạt còn nhiều bất cập.
Vì vậy, cần phải đầu tư, mở rộng sản xuất tạo thêm việc làm nâng cao thu
nhập cho người dân, góp phần xoá đói giảm nghèo trong vùng.
3.2 Chức năng, nhiệm vụ của công ty lâm nghiệp Xuân Đài
Công ty lâm nghiệp Xuân Đài có chức năng, nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Sản xuất và kinh doanh cây giống nguyên liệu giấy và các dịch vụ kỹ
thuật liên quan đền trồng rừng.
- Trồng rừng, chăm sóc rừng, quản lý bảo vệ rừng, khai thác rừng và vận tải
cung ứng nguyên liệu gỗ theo kế hoạch và tiến độ của Tổng công ty (TCT) giấy
Việt Nam.
- Sản xuất chế biến lâm sản, thu mua kinh doanh các loại lâm sản nguyên
liệu giấy.
- Kinh doanh các ngành nghề khác theo quy định của TCT Giấy Việt
Nam và pháp luật cho phép.
21
- Được TCT Giấy Việt Nam uỷ quyền ký kết hợp đồng kinh tế và tổ chức
thực hiện các hợp đồng kinh tế đã ký kết với các đối tác phân cấp quản lý của
TCT.
- Thực hiện các quy định của Nhà nước về bảo vệ tài sản, tài nguyên, môi
trường, quốc phòng và an ninh quốc gia.
3.3. Tình hình tổ chức sản xuất kinh doanh của công ty
3.3.1 Đặc điểm về mặt hàng kinh doanh của công ty
Hiện nay công ty có những sản phẩm chủ yếu là: Cây keo, cây bạch đàn,
cây bồ đề, chè búp tươi.
Công ty chủ yếu trồng cây keo làm mặt hàng chủ yếu để kinh doanh. Việc
lấy cây keo làm mặt hàng chủ yếu là do một số nguyên nhân sau:

Cây keo là cây có khả năng sinh trưởng nhanh, năng xuất cao, làm giảm vòng
chu kỳ kinh doanh giúp cho công ty nhanh thu hồi được vốn. Cây keo là cây có khả
năng cải tạo đất, điều này sẽ giúp cho việc trồng lại rừng mới gặp nhiều thuận lợi.
Cây keo là loài cây có hàm lượng xenlulo cao thuận lợi cho việc làm giấy.
Vì vậy, TCT Giấy Việt Nam đã chủ yếu lập kế hoạch trồng cây keo làm
nguyên liệu. Các công ty thành viên chủ yếu trồng rừng keo để cung cấp cho
TCT. Cây keo là cây chủ đạo trong kế hoạch khai thác rừng từ năm 2008 đến
2015 của công ty. Hiện nay công ty bán sản phẩm này với giá 600.000đ/m
3
đối với TCT Giấy Việt Nam, đối với khách hàng bên ngoài TCT mức giá là
900.000đ/m
3
.
Đối với cây bạch đàn, theo kế hoạch từ năm 2008 đến năm 2015, thì
không phải là cây chủ đạo nên diện tích trồng cũng thấp, trong 3 năm 2008-
2010 công ty không có kế hoạch khai thác loài cây này. Nguyên nhân là do từ
năm 2000-2002 công ty không thực hiện trồng loại cây này. Chính vì vậy,
trong 3 năm 2008-2010 công ty không có trữ lượng khai thác. Cây bạch đàn
cũng có giá bán tương tự với cây keo là 600.000đ/m
3
và 900.000 đ/m
3
.
22
Đối với cây bồ đề, hiện nay công ty không có kế hoạch trồng tiếp chỉ khai
thác số diện tích cây đã trồng. Do vậy, diện tích khai thác trong kế hoạch
thấp. Nguyên nhân là do loài cây nay không đạt hiệu quả cho công ty và chất
lượng để làm giấy bị hạn chế. Công ty thường bán loài cây này với giá
400.000đ/m
3

.
3.3.2 Cơ cấu đất đai tài nguyên của công ty lâm nghiệp Xuân Đài
Nhìn vào biểu cho thấy: Tổng diện tích đất đai công ty quản lý là
6.093,10 ha, trong đó diện tích đất nông lâm nghiệp là 3.740,39ha chiếm
61,42% trên tổng diện tích đất đai công ty quản lý. Công ty không có diện
tích rừng tự nhiên là rừng sản xuất mà chủ yếu là rừng tự nhiên nhằm mục
đích phòng hộ và là rừng đặc dụng không được khai thác. Đây là diện tích
rừng của công ty nằm trên diện tích quy hoạch vào vùng lõi của vườn quốc
gia Xuân Sơn.
Diện tích rừng trồng là 1.971,5 ha chiếm 32,4%, cho thấy công ty chủ yếu quản
lý là rừng trồng, trong đó diện tích rừng trồng có thể đưa vào khai thác là 1.618,4 ha
và diện tích chưa có trữ lượng sản xuất là 353,1 ha. Diện tích này đã được xác định
mục tiêu kinh doanh ổn định, lâu dài trồng rừng nguyên liệu giấy khai thác rồi trồng
lại. Việc này giúp cho công ty có thể thực hiện tốt kế hoạch đề ra.
Đối với đất nông nghiệp, công ty chủ yếu sử dụng cho việc trồng chè lấy
búp tươi để bán cho một số công ty chè lân cận, với diện tích chiếm 0,4%
diện tích đất công ty đang sử dụng.
Diện tích đất để trồng rừng sản xuất là 2.667,720ha, cơ bản được sử dụng
để trồng rừng nguyên liệu giấy, trong đó có đất tranh chấp, đất xâm lấn chiếm
2.233,8 ha phân bố tại các đội sản xuất, còn lại 433,92. Đối với đất tranh chấp
xâm lấn tồn tại từ năm 2000 đến này do việc cấp bìa chồng chéo chưa được
giải quyết. Vì vậy công ty thuê lại quyền sử dụng đất của một số hộ dân có
diện tích đất đang có tranh chấp để trồng rừng.
23
Biểu 01 :Cơ cấu đất đai và tài nguyên của công ty lâm nghiệp Xuân Đài
TT Hạng mục
Diện tích (ha)
Ha %
Diện tích công ty quản lý 6.093,1 100
I Đât nông lâm nghiệp 3.740,39 61,42

1 Rừng tự nhiên 1.310 21,5
Rừng tự nhiên sản xuất
Rừng tự nhiên phòng hộ 350
Rừng tự nhiên đặc dụng 960
2 Rừng trồng 1.971,5 32,4
Rừng trổng nguyên liệu giấy 1.618,4
Rừng không có trữ lượng 353,1
3 Đất không có rừng 433,92 7,12
Có khả năng trồng rừng 397,3
Không có khả năng trồng rừng 36,62
4 Đất nông nghiệp 24,97 0,4
II Đất khác 118,910 1,95
Đất chuyên dùng 0,7
Đường giao thông 30,10
Đất sông suối 73,30
Đất vườn ươm 2,5
Đất ao hồ 3,2
Đất đường điện 4,58
Đất trụ sở công ty 4,53
III Đất tranh chấp, xâm lấn 2.233,8 36,63
Đất tranh chấp 2.215,6
Đất xâm lấn 18,2
(Nguồn: Phòng kế hoạch - kỹ thuật)
Công ty dành một phần diện tích để làm ao hồ cung cấp nước tưới cho
vườn ươm, phục vụ công tác phòng chống cháy rừng kết hợp với nuôi cá.
Diện tích này phân bổ tại đội 8, đội 11.
Diện tích 2,5 ha là đất để làm vườn gieo ươm cây con phục vụ cho công
tác trồng mới rừng sản xuất. Đất chuyên dùng là 0,7 ha để dành cho làm nghĩa
địa. Diện tích đất để làm đường giao thông nhằm phục vụ cho công tác vận
xuất, vận chuyển là 30,1 ha.

24
Bên cạnh đó, công ty còn gặp một số khó khăn như điều kiện địa hình phức
tạp, trình độ dân trí còn hạn chế nên trong công tác quản lý và sử dụng đất đai và
tài nguyên chưa thực sự hiệu quả. Cụ thể là công ty có 36,62 ha diện tích đất
không có khả năng trồng rừng trong tổng số 433,92 ha diện tích đất không có
rừng. đó là do diện tích là núi đá, khe ướt lầy thụt tự nhiên. Thấy lợi nhuận do việc
trồng rừng tạo ra nên một số cá nhân đã lấn chiếm đất để lấy làm đất trồng riêng
của cá nhân.
Do diện tích quản lý khá lớn mà số người quản lý ít nên thỉnh thoảng có hiện
tượng cháy rừng xảy ra. Bên cạnh đó có hiện tượng khai thác trộm gỗ. Điều này
cho thấy công tác quản lý bảo vệ và phòng chống cháy rừng còn gặp nhiều khó
khăn.
Công ty không chỉ thực hiện sản xuất trồng rừng trên đất đai do công ty
quản lý mà công ty còn sử dụng đất mượn để phục vụ sản xuất. Cụ thể, công
ty thuê hơn 300 ha tại đội 7- Thang Ngàu để sản xuất với giá tính theo chu kỳ
sản xuất, tính theo giá thuê đất năm 2001 là 200.000 đ/ha. Diện tích đất này là
toàn bộ diện tích của đội 7 sử dụng để sản xuất.
Có thể thấy hiện trạng quản lý và cách thức sử dụng diện tích như sau:
Thuận lợi: Công ty đã cơ bản đã sử dụng đúng mục đích diện tích đất giao
có hiệu quả, trong đó mục đích sử dụng đất lớn nhất theo nhiệm vụ của công
ty là thực hiện trồng, chăm sóc, quản lý bảo vệ rừng và khai thác rừng trồng
theo kế hoạch sản xuất hàng năm của TCT Giấy Việt Nam giao cho.
Một số tồn tại: Điều kiện địa hình phức tạp, công tác quản lý, sử dụng đất
đai tàin nguyên chưa thực sự hiệu quả, công tác quản lý bảo vệ và phòng chống
cháy rừng còn gặp nhiều khó khăn. Do tình hình đất quản lý bị chồng chéo nhau
nên thực tế công ty chỉ thực sự sản xuất trên diện tích là 3.469,58 ha.
3.3.3 Tình hình tổ chức sản xuất của Công ty
- Hoạt động sản xuất lâm nghiệp
25

×