Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ ĐÁNH GIÁ ẢNH HƯỞNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU VÀ NƯỚC BIỂN DÂNG ĐẾN KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI TỈNH HÀ TĨNH GIAI ĐOẠN 2011 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.88 MB, 37 trang )

VIỆN KHOA HỌC KHÍ TƯỢNG THỦY VĂN VÀ MÔI TRƯỜNG
TRUNG TÂM TƯ VẤN KHÍ TƯỢNG THỦY VĂN VÀ MÔI TRƯỜNG

NHIỆM VỤ “ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HÀNH ĐỘNG ỨNG PHÓ BIẾN
ĐỔI KHÍ HẬU TỈNH HÀ TĨNH”
BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ
TÊN CHUYÊN ĐỀ
ĐÁNH GIÁ ẢNH HƯỞNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
VÀ NƯỚC BIỂN DÂNG ĐẾN KẾ HOẠCH PHÁT
TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI TỈNH HÀ TĨNH GIAI
ĐOẠN 2011 - 2015
(CHUYÊN ĐỀ SỐ 9 – HĐ SỐ ?)
HÀ NỘI, THÁNG 12/2010
MỤC LỤC
MỤC LỤC i
DANH SÁCH CÁC BẢNG iii
DANH SÁCH CÁC HÌNH iv
MỞ ĐẦU v
CHƯƠNG 1. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN, KINH TẾ XÃ HỘI TỈNH HÀ TĨNH 6
1.1.ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN 6
1.1.1.Vị trí địa lý 6
1.1.2.Địa hình, địa chất 7
1.1.1.Khí hậu 8
1.1.2.Thủy văn, tài nguyên nước 8
1.2.ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ - XÃ HỘI 9
1.1.3.Dân số và lao động 9
1.1.4.Kinh tế - xã hội 9
1.1.5.Điều kiện xã hội 15
CHƯƠNG 2. KỊCH BẢN BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU VÀ NƯỚC BIỂN DÂNG CHO KHU
VỰC HÀ TĨNH VÀ KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI CỦA TỈNH HÀ
TĨNH GIAI ĐOẠN 2011 - 2015 18


1.3.KỊCH BẢN BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU VÀ NƯỚC BIỂN DÂNG CHO KHU VỰC
HÀ TĨNH 18
1.3.1.Tình hình biến đổi khí hậu và nước biển dâng trên Thế giới và ở Việt Nam 18
2.1.1.Tác động của biến đổi khí hậu đến khu vực tỉnh Hà Tĩnh 22
2.1.2.Kịch bản biến đổi khí hậu cho khu vực thuộc tỉnh Hà Tĩnh 23
1.4.NHỮNG CHỈ TIÊU CƠ BẢN TRONG KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ
XÃ HỘI TỈNH HÀ TĨNH GIAI ĐOẠN 2011 - 2015 28
2.1.3.Định hướng chung giai đoạn 2011 – 2015 28
2.1.4.Những chỉ tiêu cơ bản 28
CHƯƠNG 3.ĐÁNH GIÁ ẢNH HƯỞNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU VÀ NƯỚC
BIỂN DÂNG ĐẾN KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI TỈNH HÀ TĨNH
GIAI ĐOẠN 2011 – 2015 30
1.5.ẢNH HƯỞNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU VÀ NƯỚC BIỂN DÂNG ĐẾN KẾ
HOẠCH PHÁT TRIỂN NÔNG, LÂM, NGƯ NGHIỆP 30
3.1.1.Ảnh hưởng đến cây trồng và sản xuất nông nghiệp 30
3.1.2.Ảnh hưởng đến hệ sinh thái rừng 30
3.1.3.Ảnh hưởng đến nguồn lợi hải sản và cá 31
1.6.ẢNH HƯỞNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU VÀ NƯỚC BIỂN DÂNG ĐẾN KẾ
HOẠCH PHÁT TRIỂN CÁC HỆ SINH THÁI TỰ NHIÊN, ĐA SINH HỌC VÀ
TÀI NGUYÊN NƯỚC 31
3.1.4.Ảnh hưởng đến tài nguyên nước 31
i
3.1.5.Ảnh hưởng đến các hệ sinh thái tự nhiên và đa dạng sinh học 32
1.7.ẢNH HƯỞNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU VÀ NƯỚC BIỂN DÂNG ĐẾN KẾ
HOẠCH PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP, NĂNG LƯỢNG, GIAO THÔNG VẬN
TẢI 32
3.1.6.Ảnh hưởng đến các đô thị và công trình 33
3.1.7.Ảnh hưởng đến ngành năng lượng và giao thông vận tải 33
1.8.ẢNH HƯỞNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU VÀ NƯỚC BIỂN DÂNG ĐẾN KẾ
HOẠCH PHÁT TRIỂN CÁC NGÀNH DU LỊCH, VĂN HÓA XÃ HỘI, SỨC

KHỎE CON NGƯỜI 34
3.1.8.Ảnh hưởng đến văn hóa, thể thao, du lịch, thương mại và dịch vụ 34
3.1.9.Ảnh hưởng đến y tế và sức khỏe con người 34
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 35
ii
DANH SÁCH CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Mức tăng nhiệt độ trung bình năm (0C) so với thời kỳ 1980-1999 23
Bảng 2.2. Mức tăng nhiệt độ trung bình (oC) so với thời kỳ 1980 – 1999 khu vực Bắc
Trung Bộ theo kịch bản phát thải thấp (B1) 24
Bảng 2.3. Mức tăng nhiệt độ trung bình năm (oC) so với thời kỳ 1980-1999 theo kịch
bản phát thải trung bình (B2) 24
Bảng 2.4. Mức tăng nhiệt độ trung bình năm (oC) so với thời kỳ 1980-1999 khu vực
Bắc Trung Bộ theo kịch bản phát thải trung bình (B2) 24
Bảng 2.5. Mức tăng nhiệt độ trung bình năm (oC) so với thời kỳ 1980-1999 theo kịch
bản phát thải cao (A2) 24
Bảng 2.6. Mức tăng nhiệt độ trung bình năm (oC) so với thời kỳ 1980-1999 theo kịch
bản phát thải cao (A2) 25
Bảng 2.7. Mức thay đổi lượng mưa năm (%) so với thời kỳ 1980-1999 theo kịch bản
phát thải thấp (B1) 25
Bảng 2.8. Mức thay đổi lượng mưa năm (%) so với thời kỳ 1980-1999 khu vực Bắc
Trung Bộ theo kịch bản phát thải thấp (B1) 25
Bảng 2.9. Mức thay đổi lượng mưa (%) so với thời kỳ 1980-1999 khu vực Bắc Trung
Bộ theo kịch bản phát thải trung bình (B2) 26
Bảng 2.10. Mức thay đổi lượng mưa (%) so với thời kỳ 1980-1999 khu vực Bắc Trung
Bộ theo kịch bản phát thải trung bình (B2) 26
Bảng 2.11. Mức thay đổi lượng mưa năm (%) so với thời kỳ 1980-1999 khu vực Bắc
Trung Bộ theo kịch bản phát thải cao (A2) 26
Bảng 2.12. Mức thay đổi lượng mưa năm (%) so với thời kỳ 1980-1999 khu vực Bắc
Trung Bộ theo kịch bản phát thải cao (A2) 27
Bảng 2.13. Mực nước biển dâng (cm) so với thời kỳ 1980-1999 27

iii
DANH SÁCH CÁC HÌNH
Hình 1.1. Bản đồ hành chính tỉnh Hà Tĩnh 6
Hình 2.2. Diễn biến chuẩn sai nhiệt độ trung bình toàn cầu 18
Hình 2.3. Diễn biến lượng mưa năm ở các vùng khác nhau trên thế giới 19
Hình 2.4. Diễn biến của mực nước biển trung bình toàn cầu 19
Hình 2.5. Diễn biến của nhiệt độ (a) và lượng mưa (b) ở Việt Nam trong 50 năm qua20
Hình 2.6. Quỹ đạo của bão ở Tây Bắc Thái Bình Dương và Biển Đông 21
Hình 2.7. Diễn biến của mực nước biển tại trạm hải văn Hòn Dấu 22
iv
MỞ ĐẦU
Biến đổi khí hậu là một trong những thách thức lớn nhất đối với nhân loại trong
thế kỷ 21. Biến đổi khí hậu sẽ tác động nghiêm trọng đến sản xuất, đời sống và môi
trường trên phạm vi toàn thế giới. Nhiệt độ tăng, mực nước biển dâng gây ngập lụt,
gây nhiễm mặn nguồn nước, ảnh hưởng đến nông nghiệp, gây rủi ro lớn đối với công
nghiệp và các hệ thống kinh tế - xã hội trong tương lai.
Ở Việt Nam trong khoảng 50 năm qua, nhiệt độ trung bình năm đã tăng khoảng
0,5 - 0,7
o
C, mực nước biển đã dâng khoảng 20cm. Biến đổi khí hậu đã làm cho các
thiên tai, đặc biệt là bão, lũ, hạn hán ngày càng ác liệt.
Hậu quả của biến đổi khí hậu đối với Việt Nam là nghiêm trọng và là một nguy
cơ hiện hữu cho mục tiêu xoá đói giảm nghèo, cho việc thực hiện các mục tiêu thiên
niên kỷ và sự phát triển bền vững của đất nước.
Hà Tĩnh là một vùng đất nằm trên dải đất miền Trung thiên nhiên không mấy
ưu đãi, nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa và chịu ảnh hưởng của khí hậu chuyển
tiếp của miền Bắc và miền Nam nên có khí hậu khắc nghiệt, cùng với đó là sự biến đổi
khí hậu có tác động không nhỏ tới các hoạt động của con người đặc biệt là tác động tới
các quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của tỉnh.
Nhận thức rõ ảnh hưởng đó và nhằm đưa ra những nhận định, cảnh báo thiết

thực nhất cho tỉnh Hà Tĩnh nói riêng, chuyên đề “đánh giá ảnh hưởng của biến đổi khí
hậu và nước biển dâng tới quy hoạch phát triển kinh tế tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn 2011 –
2020” được trình bày những nét chung nhất về tình hình biến đổi khí hậu và nước biển
dâng ảnh hưởng tới quy hoạch phát triển kinh tế xã hội tỉnh Hà Tĩnh. Nội dung chính
của chuyên đề bao gồm:
Chương 1: đặc điểm địa lý tự nhiên, kinh tế xã hội tỉnh Hà Tĩnh
Chương 2: kịch bản biến đổi khí hậu và nước biển dâng cho khu vực Hà Tĩnh
và quy hoạch phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2011 – 2020
Chương 3: đánh giá ảnh hưởng của biến đổi khí hậu và nước biển dâng đến quy
hoạch phát triển kinh tế xã hội tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn 2011 - 2020
v
CHƯƠNG 1.
ĐẶC ĐIỂM ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN, KINH TẾ XÃ HỘI TỈNH HÀ TĨNH
1.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN
1.1.1. Vị trí địa lý
Hà tĩnh thuộc vùng Bắc Trung Bộ, diện tích tự nhiên 602649,96 ha, tọa độ địa
lý 17
0
54

– 18
0
38

vĩ độ Bắc, 105
0
11

– 106
0

36

kinh độ Đông. Ranh giới phía Bắc giáp
với tỉnh Nghệ An, phía Nam giáp với tỉnh Quảng Bình, phía Tây giáp với tỉnh
Boolikhamxay và KhămMuộn của Lào (với 170km biên giới Quốc gia) và phía Đông
giáp với biển Đông với chiều dài bờ biển hơn 137km.
Hà Tĩnh có vị trí đặc biệt quan trọng không chỉ với cả nước, mà còn với nước
bạn Lào và vùng Đông Bắc của Thái Lan. Trong tương lai, Hà Tĩnh có điều kiện trở
thành cầu nối của hai miền Nam, Bắc và là nút giao thông quan trọng trên trục hành
lang Đông, Tây của khu vực, với các tuyến giao thông huyết mạch đi qua: Quốc lộ 1A,
đường sắt, đường Hồ Chí Minh, đường biển (trục giao thông Bắc, Nam); Quốc lộ 8 với
cửa khẩu Quốc tế Cầu Treo và Quốc lộ 12 với cửa khẩu Cha Lo Quảng Bình (trục
hành lang Đông - Tây), nối với hệ thống cảng biển nước sâu Vũng Áng đã và đang đầu
tư xây dựng.
Hình 1.1. Bản đồ hành chính tỉnh Hà Tĩnh
Hà Tĩnh có 12 đơn vị hành chính cấp huyện với 262 phường xã, thị trấn, gồm
10 đơn vị huyện, 2 thị xã. Thị xã Hà Tĩnh là trung tâm kinh tế, chính trị và văn hoá
của tỉnh nằm cách Hà Nội 341 km và cách thành phố Vinh 50 km về phía Nam theo
Quốc lộ 1A.
6
Xét về vị trí địa lý cho thấy tỉnh Hà Tĩnh có điều kiện thuận lợi để phát triển
kinh tế, giao lưu vận chuyển hàng hoá, vì có lợi thế nằm tiếp giáp với các đô thị lớn và
cửa khẩu Quốc tế quan trọng, có nhiều thế mạnh cả về giao thông đường thuỷ và
đường bộ.
1.1.2. Địa hình, địa chất
1.1.1.1. Vùng núi cao
Địa hình vựng núi cao thuộc phía Đông của dãy Trường Sơn bao gồm các xã
phía Tây của các huyện Hương Sơn, Hương Khờ, Kỳ Anh. Địa hình dốc bị chia cắt
mạnh, hình thành các thung lũng nhỏ hẹp chạy dọc theo các triền sông lớn của hệ
thống sông Ngàn Phố, Ngàn Sừu, Rào Trổ. Các thung lũng này cũng là vùng sinh sống

của cư dân các dân tộc. Sản xuất của dân cư trong vùng là hỗn hợp nông lâm nghiệp
theo phương thức khai thác tận dụng tự nhiên do vậy năng suất cây trồng và năng suất
lao động thấp. Mức thu nhập của dân thấp do chưa được đầu tư thích đáng, cơ sở vật
chất nghèo nàn, hạ tầng cơ sở yếu kém. Vùng này có tiềm năng phát triển cây công
nghiệp ngắn, dài ngày, cây ăn quả, nghề rừng và chăn nuôi gia súc.
1.1.1.2. Vùng trung du và bán sơn địa
Đây là vùng chuyển tiếp từ vùng núi cao xuống vùng đồng bằng. Vùng này
chạy dọc phía Tây Nam đường Hồ Chí Minh bao gồm các xã vùng thấp của huyện
Hương Sơn, các xã thượng Đức Thọ, thượng Can Lộc ven Trà Sơn, của các huyện
Thạch Hà, Cẩm Xuyên, Kỳ Anh. Địa hình có dạng xen lẫn giữa các đồi trung bình và
thấp với đất ruộng. Đất đai không bằng phẳng, hệ thực vật chủ yếu là cây lùm bụi, cây
công nghiệp, rừng trồng và trảng cỏ. Sản xuất nông nghiệp chính là cây lúa nước, cây
màu, cây công nghiệp ngắn, dài ngày và chăn nuôi gia súc, trồng cây lâm nghiệp.
Trong vùng bước đầu đã có sự đầu tư trong sản xuất các loại cây như lạc, đỗ, chố, cây
ăn quả. Các sản phẩm chăn nuôi như trâu, bò, lợn, dê, hươu. Đây là vùng có tiềm năng
đất đai cho phép sản xuất nhiều sản phẩm nông sản hàng hóa tập trung có thể đầu tư
xây dựng các trang trại thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh.
1.1.1.3. Vùng đồng bằng
Là vùng chạy dọc giữa đường Hồ Chí Minh và Quốc lộ 1A theo chân núi Trà
Sơn và vùng ven biển bao gồm các xã vùng giữa của huyện Đức Thọ, Can Lộc, thị xã
Hồng Lĩnh, Thạch Hà, TP. Hà Tĩnh, Cẩm Xuyên và Kỳ Anh. Địa hình toàn vùng
tương đối bằng phẳng do quá trình bồi tụ phù sa của các sông phù sa biển trên các vỏ
phong hoá Feranit hay trầm tích biển. Đây là vùng dân cư đông đúc, sản xuất chủ yếu
là cây lúa nước, lạc, đậu, đỗ, khoai lang, chăn nuôi gia súc, gia cầm. Ngoài ra còn có
các nghề phụ như dệt chiếu, dệt vải, đan lát, làm mộc.
1.1.1.4. Vùng ven biển
Nằm ở phía Đông đường QL1A chạy dọc theo bờ biển gồm các xã của huyện
Nghi Xuân, Can Lộc, Thạch Hà, Cẩm Xuyên, Kỳ Anh. Địa hình được tạo bởi những
đụn cát, các vùng trũng được lấp đầy trầm tích đầm phá hay phù sa được hình thành do
các dãy đụn cát chạy dài ngăn cách bãi biển. Ngoài ra trong vùng còn xuất hiện các

dãy đồi núi sót chạy dọc ven biển do kiến tạo của dãy Trường Sơn Bắc. Do nhiều cửa
7
sông, lạch tạo nên nhiều bãi ngập mặn. Dân cư trong vùng có mật độ lớn sản xuất bằng
nghề nông, đánh bắt nuôi trồng thuỷ sản, làm muối. Đây là vùng có tiềm năng phát
triển nghề biển mạnh, sản xuất lúa vùng này cho năng suất thấp do thiếu nguồn nước
ngọt, đất đai bị nhiễm mặn, chua nhiều, mùa mưa thường bị ngập lụt. Hướng chuyển
đổi về cơ cấu canh tác có thể chuyển dần vùng đất lúa đang canh tác có sản lượng thấp
sang nuôi trồng thuỷ sản.
1.1.1. Khí hậu
1.1.1.5. Chế độ nhiệt
Nhiệt độ trung bình năm đạt 23,8
0
C. Nhiệt độ trung bình tháng nhỏ nhất đạt
17
0
C. Các tháng chịu ảnh hưởng của gió Tây khô nóng, nhiệt độ trung bình tháng đạt
28,7 ÷ 29,8
0
C vào tháng VII.
1.1.1.6. Độ ẩm tương đối
Độ ẩm tương đối trung bình năm đạt 85%. Độ ẩm thấp nhất xảy ra vào các
tháng có gió Tây khô nóng - tháng VII và đạt 70%. Độ ẩm cao nhất xảy ra vào các
tháng cuối mùa đông, khi có mưa phùn hoặc các tháng mùa mưa và đạt 90 ÷ 92%.
1.1.1.7. Bốc hơi
Bốc hơi Piche trung bình năm đạt 800mm. Lượng bốc hơi lớn xảy ra vào tháng
VII với lượng bốc hơi trung bình tháng đạt từ 180 ÷ 200mm. Tháng II có lượng bốc
hơi nhỏ nhất đạt từ 27 ÷ 34mm.
1.1.1.8. Số giờ nắng
Số giờ nắng đạt từ 1.400 ÷ 1.600 giờ.
1.1.1.9. Tốc độ gió

Tốc độ gió trung bình năm 1,7 m/s- 2,3 m/s . Tốc độ gió lớn nhất khi có bão đạt
>40 m/s. Hướng gió mùa đông là hướng Đông Bắc, mùa khô thịnh hành gió Tây Nam
hoặc gió Đông Nam.
1.1.1.10. Chế độ mưa
Hà Tĩnh có lượng mưa năm khá phong phú, trung bình năm đạt từ 2.300 ÷
3.000mm. Những vùng mưa lớn như Kỳ Lạc (Kỳ Anh) lượng mưa đạt 3.220mm.
Những tâm mưa lớn thượng nguồn sông Ngàn Phố, Ngàn Sâu, Rào Trổ, Hoành Sơn có
năm lượng mưa năm đạt 4.586 mm năm 1978 ở Bàu Nước, 4.386mm tại Kỳ Anh năm
1990, 4.450 mm năm 1990 tại Kỳ Lạc.
Mùa mưa bắt đầu từ thỏng VIII tới tháng XI. Tuy nhiên tháng V, VI có mưa
Tiểu món gõy ra lũ Tiểu món. Lượng mưa mùa mưa đạt 65 - 70% lượng mưa năm, còn
lại là mùa khô.
1.1.2. Thủy văn, tài nguyên nước
Hà Tĩnh có hệ thống sông ngòi khá dày đặc, nhưng có đặc điểm chung là chiều
dài ngắn, lưu vực nhỏ, dốc nên tốc độ dòng chảy lớn, nhất là về mùa mưa lũ.
Sự phân bố dòng chảy đối với các sông suối ở Hà Tĩnh theo mùa rõ rệt, hầu hết
các con sông chịu ảnh hưởng của mưa lũ ở thượng nguồn, những vùng thấp trũng ở hạ
8
lưu đất thường bị nhiễm mặn do chế độ thuỷ triều ảnh hưởng xấu đến sản xuất, tuy
nhiên có thể tận dụng đặc điểm này để quy hoạch phát triển vùng nuôi trồng thuỷ sản
nước lợ.
Hà Tĩnh có nguồn nước mặt phong phú nhờ hệ thống sông suối hồ đập khá dày
đặc. Theo số liệu của chi cục Quản lý nước và Công trình thuỷ lợi: Hà Tĩnh có 266 hồ
chứa có dung tích trữ trên 600.10
6
m
3
, 282 trạm bơm có tổng lưu lượng 338.000m
3
/s,

15 đập dâng tổng lưu lượng cơ bản 6,9m
3
/s với trữ lượng này hiện tại Hà Tĩnh đã phục
vụ tưới được 47.737 ha/vụ. Tuy nhiên việc sử dụng nước phục vụ cho sản xuất nông
nghiệp và sinh hoạt còn bị hạn chế do bị nhiễm mặn ở hạ lưu vào mùa khô và lũ lụt
mùa mưa.
Nước ngầm ở Hà Tĩnh tuy chưa có số liệu điều tra toàn diện nhưng qua các số
liệu đã thu thập được cho thấy mức độ nông sâu thay đổi phụ thuộc địa hình và lượng
mưa trong mùa. Thông thường vùng đồng bằng ven biển có mực nước ngầm nông,
miền trung du và miền núi nước ngầm thường sâu và dễ bị cạn kiệt vào mùa khô, ảnh
hưởng không nhỏ đến sinh hoạt của nhân dân trong vùng. Về chất lượng nước ở Hà
Tĩnh nhìn chung khá tốt, thích hợp với sinh trưởng và phát triển của cây trồng cũng
như sinh hoạt. Riêng đối với vùng đồng bằng ven biển thường bị nhiễm mặn do thuỷ
triều, gây khó khăn cho sản xuất và đời sống nhân dân, vì vậy cần kiểm tra độ mặn
nước sông trước khi bơm tưới cho cây trồng. Đặc biệt, Hà Tĩnh có mỏ nước khoáng ở
Sơn Kim huyện Hương Sơn, vị trí thuận lợi cạnh đường Quốc lộ 8 và gần cửa khẩu
Quốc tế Cầu Treo rất có điều kiện để phát triển thành một khu du lịch dưỡng bệnh.
1.2. ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ - XÃ HỘI
1.1.3. Dân số và lao động
Dân số tỉnh Hà Tĩnh tính đến 31/12/2005 có 1.289.058 người, chiếm 1,7% dân
số cả nước, trong đó dân số nông thôn chiếm 89,03%, (cả nước là 74%). Mật độ dân
số trung bình là 214 người/km
2
, cao hơn trung bình toàn vùng Bắc Trung bộ (203
người/km
2
), nhưng thấp hơn trung bình cả nước (246 người / km
2
).
Dân số gia tăng đã làm cho nhu cầu về đất ở, đất xây dựng, đất canh tác cây

lương thực, thực phẩm tăng theo tạo nên sức ép rất mạnh đến tài nguyên đất vốn đã
hạn hẹp của tỉnh. Dân cư phân bố không đồng đều: tập trung cao ở khu vực đồng bằng
phía Đông Bắc tỉnh, còn dọc đường Hồ Chí Minh dân cư thưa thớt. TP. Hà Tĩnh có
mật độ dân số 1389 người/ km
2
, trong khi huyện Hương Khê mật độ dân số chỉ có 83
người trên km
2
, Vũ Quang 52 người trên km
2
Lao động trong độ tuổi khoảng 702 nghìn người, chiếm 51,0% dân số. Lao
động đang làm việc trong các ngành kinh tế là 511,5 ngàn người, trong đó nông - lâm
nghiệp chiếm gần 83%; công nghiệp - xây dựng 7%, còn lại khoảng 10,0% làm việc
trong khu vực dịch vụ. Năm 2005 tỷ lệ lao động thành thị không có việc làm 3,74%.
Lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật thấp. Năm 2004 tỷ lệ lao
động qua đào tạo dưới mọi hình thức chỉ khoảng 20%, thấp hơn so trong bình cả nước
(25%).
1.1.4. Kinh tế - xã hội
9
1.1.1.1. Tăng trưởng kinh tế
Trong giai đoạn 2000-2005, Hà Tĩnh đã hoàn thành và hoàn thành vượt mức
nhiều chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội mà nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh đã đề ra.
Tốc độ tăng GDP khá cao, nông nghiệp phát triển vững chắc. Cơ cấu kinh tế dịch
chuyển theo hướng công nghiệp hóa, tăng dần tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch
vụ. Văn hóa xã hội phát triển mạnh, an ninh trật tự được giữ vững. Đời sống nhân dân
được nâng cao cả về vật chất lẫn tinh thần.
Năm 2005, GDP tính theo giá hiện hành đạt 5.990,7 tỷ đồng, bằng 0,72% GDP
cả nước. (Tính theo giá 94, GDP năm 2005 đạt 4.063,5 tỷ đồng). Tăng trưởng kinh tế
ổn định, giai đoạn sau cao hơn giai đoạn trước, cao hơn trung bình cả nước, nhưng
còn thấp hơn so với các tỉnh lân cận và vùng Bắc Trung bộ.

Nhịp độ tăng GDP nông nghiệp khá cao và ổn định ở mức 4-5%. Trong thời kỳ
2000-2005, tổng sản phẩm ngành nông lâm nghiệp thuỷ sản tăng, bình quân 4,70%/
năm, cao hơn so với trung bình cả nước (4,0%).
Công nghiệp và xây dựng có nhịp độ tăng khá cao, đạt 14,74%/năm, nhưng do
quy mô của khu vực này còn nhỏ bé, nên đóng góp vào tăng GDP còn bị hạn chế.
Khu vực dịch vụ tăng khá ổn định, cao hơn trung bình vùng Bắc Trung bộ và
cả nước. Trong giai đoạn 2000-2005, nhịp độ tăng dịch vụ đạt 9,32%/năm.
1.1.1.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Trong suốt thời kỳ 2001 - 2005, cơ cấu kinh tế của tỉnh theo GDP có sự chuyển
dịch đúng hướng, phù hợp với xu thế chuyển đổi cơ cấu kinh tế chung của cả nước,
theo xu thế tăng dần tỷ trọng khu vực công nghiệp xây dựng và dịch vụ, giảm dần tỷ
trọng khu vực nông lâm thủy sản, được thể hiện như sau (bảng 2):
Bảng 2: Cơ cấu các ngành kinh tế qua một số năm
Chỉ tiêu
Đơn
vị tính
Năm
2000
Năm
2001
Năm
2002
Năm
2003
Năm
2004
Năm
2005
Cơ cấu GDP % 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00
1. Nông lâm thủy sản %

51,31 49,89 49,1 48,02 47,02 43,13
2. Công nghiệp xây dựng %
13,45 14,05 15,46 18,05 19,84 22,45
3. Dịch vụ %
35,24 36,06 35,44 33,93 33,14 34,42
Khu vực thủy sản nông lâm có tỷ trọng giảm đều trong cơ cấu GDP của tỉnh từ
51,31% năm 2000 xuống còn 43,13% năm 2005. Ngược lại tỷ trọng của khu vực công
nghiệp - xây dựng và khu vực dịch vụ trong GDP tăng dần, tương ứng tăng từ 13,45%
và 35,24% năm 2000 lên 22,45% và 34,42% năm 2005.
Nhìn chung, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại
hóa và thay đổi đều ở cả ba khu vực theo hướng dần từng bước hình thành nên cơ cấu
Dịch vụ - Công nghiệp - Nông lâm thủy sản. Tuy nhiên mức độ chuyển dịch kinh tế
hiện nay diễn ra còn chậm, chưa có bước đột phá.
1.1.1.3. Thực trạng phát triển các ngành kinh tế
a. Nông – lâm – ngư – diêm nghiệp
10
• Nông nghiệp
Trong những năm qua nông nghiệp là ngành sản xuất chính, góp phần ổn định
đời sống nhân dân trong tỉnh. Năm 2005, GDP nông nghiệp là 2032 tỷ đồng, chiếm
45,9% tổng GDP cả tỉnh, gấp 2,32 lần năm 1995, nhưng còn thấp hơn so với chỉ tiêu
này của cả nước (3,11 lần)
Tăng sản lượng một số cây trồng vật nuôi chính:
Trong giai đoạn 2001-2005, sản lượng lương thực tăng trên 10%, do tăng diện
tích gieo trồng (tăng vụ) và tăng năng suất cây trồng. Trong đó tăng sản lượng xấp xỉ
5%. Trong cùng thời kỳ, sản lượng cây công nghiệp tăng khá cao, nhưng chủ yếu do
tăng diện tích gieo trồng.
Để đảm bảo tăng giá trị sản xuất ổn định như thời gian qua, cần xây dựng một
số hồ chứa nước đa tác dụng, đồng thời cần áp dụng tiến bộ khoa học và kỹ thuật sinh
học vào trồng trọt và chăn nuôi trên diện rộng.
Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp:

Năm 2005, nông nghiệp (trồng trọt và chăn nuôi) chiếm 81,98%, lâm nghiệp:
7,14% và thuỷ sản chiếm 10,88% tổng giá trị sản xuất.
- Trồng trọt
Trong những năm qua ngành trồng trọt đã có những thành công căn bản, năng
suất cây trồng tăng cao, nhất là lúa. Cơ cấu cây trồng được bố trí hợp lý hơn, tỷ trọng
cây lâu năm tăng dần. Tỷ lệ các loại giống mới có năng suất cao, chất lượng tốt được
sử dụng tăng dần. Tuy vậy, ứng dụng các loại giống cây mới vào sản xuất còn hạn chế,
nhân ra diện rộng còn chậm.
- Chăn nuôi
Quy mô và chất lượng đàn gia súc, gia cầm tăng dần, nhưng đóng góp của chăn
nuôi vào thu nhập của người dân tăng chậm.
Giá trị sản xuất chăn nuôi trong tổng giá trị sản xuất khu vực nông nghiệp có xu
hướng tăng, năm 2001 chiếm 29,73% tăng lên 31,38% năm 2005.
Tuy vậy, trong suốt thời kỳ 1996-2005, số trâu bò bình quân trên hộ nông
nghiệp hầu như không tăng, bình quân 1,1 con / hộ.
Tổng đàn lợn năm 2005 có 453 nghìn con, tốc độ tăng bình quân 1996-2005 là
3,73%. Hình thức chăn nuôi hộ gia đình có quy mô ngày càng lớn. Đàn lợn tăng khá
nhanh trong giai đoạn 2001-2005, do lương thực bình quân đầu người tăng, từ 264kg
năm 1995 lên 378kg/ người năm 2005, và thị trường thức ăn gia súc khá phát triển,
nhưng hiện nay, thị trường tiêu thụ thịt lợn còn nhỏ, do quy mô dân số nhỏ và thu nhập
bình quân đầu người còn thấp, nhất là khu vực nông thôn.
- Thuỷ sản
Hà Tĩnh là tỉnh có ngư trường rộng với 137 km bờ biển, có điều kiện khá thuận
lợi cho phát triển thuỷ sản trong những năm gần đây. Nhưng có những hạn chế như
bão, lũ, nguồn lợi hải sản ven bờ cạn kiệt, suất đầu tư cho nuôi trồng và đánh bắt xa bờ
lớn.
11
Nuôi trồng thủy sản Hà Tĩnh phát triển khá cân đối từ nâng cấp cơ sở hạ tầng
nuôi trồng như hồ ao, đến phát triển các cơ sở cung cấp con giống.
Diện tích nuôi trồng năm 2004 là 5.400 ha, trong đó nước ngọt 2630 ha; nước

lợ 2.770 ha.
Hiện có 3 trại giống cá cấp 1 và nhiều trại giống cấp 2, 5 trại giống tôm. Năm
2005 chế biến xuất khẩu thuỷ sản đạt 3.600 tấn. Ngoài ra còn có các cơ sở chế biến
nước mắm phục vụ tiêu dùng nội địa.
• Lâm nghiệp
Hà Tĩnh là tỉnh có tiềm năng phát triển lâm nghiệp, trên cơ sở tái trồng rừng ở
những nơi đã khai thác gỗ chỉ còn trảng cỏ và cây bụi. Trong những năm qua, các dự
án trồng rừng nguyên liệu cho công nghiệp chế biến được thực hiện tốt, góp phần đưa
độ che phủ của rừng tăng nhanh từ 38% năm 2001 lên 43,5% năm 2005, nhưng đóng
góp của ngành vào tăng trưởng kinh tế còn thấp. Giá trị sản xuất lâm nghiệp năm 2005
đạt 183,4 tỷ đồng, trong đó dịch vụ lâm nghiệp là 37,6 tỷ đồng, trồng và nuôi rừng:
29,7 tỷ đồng, khai thác gỗ và lâm sản đạt gần 15 tỷ đồng.
- Kinh tế trang trại nông lâm kết hợp: Hiện nay đã có hơn 1.300 trang trại với
tổng diện tích 12.000 ha chủ yếu là trồng, khoanh nuôi rừng, trồng cây ăn quả và chăn
nuôi. Doanh thu từ trang trại chưa nhiều, đạt khoảng 9-10 tỷ đồng, thu hút được 8.700
lao động nhưng còn thấp so với tiềm năng. Số trang trại hoạt động có hiệu quả còn ít.
Hiện chỉ có 23 trang trại đạt tiêu chuẩn theo quy định của bộ Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn.
- Chế biến lâm sản: Bao gồm khai thác chế biến nhựa thông và các cơ sở chế
biến lâm sản. Rừng thông cấp tuổi V và IV vào khoảng hơn 9.000 ha, hàng năm cho
hơn 4.000 tấn nhựa. Có khoảng 200 cơ sở chế biến lâm sản, chủ yếu là xẻ gỗ xây dựng
và đóng đồ mộc dân dụng. Các ngành này tăng trưởng chậm do thiếu nguyên liệu
(nguồn nguyên liệu chủ yếu là gỗ lậu).
• Diêm nghiệp
Diêm nghiệp là ngành truyền thống của tỉnh, nhưng hiệu quả sản xuất kinh
doanh thấp. Diêm nghiệp được tập trung sản xuất ở 4 huyện: Thạch Hà, Cẩm Xuyên,
Kỳ Anh và Nghi Xuân với sản lượng muối hàng năm đạt 26.000 tấn, trong đó muối i
ốt 13.000 tấn. Có 4.000 hộ với hơn 8.000 lao động làm diêm nghiệp. Do làm muối thủ
công năng suất thấp, đời sống của người làm muối còn gặp nhiều khó khăn. Tỷ lệ đói
nghèo của vùng làm muối chiếm 17% (theo tiêu chuẩn cũ), cao hơn mức trung bình

của tỉnh.
b. Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
Phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp của tỉnh có hai đặc điểm nổi bật:
(1) Công nghiệp và TTCN của tỉnh còn nhỏ bé đang trong giai đoạn bắt đầu
phát triển. Năm 2005, trên địa bàn của tỉnh có 12.122 cơ sở sản công nghiệp, giải
quyết việc làm thường xuyên cho 28,5 nghìn lao động, bằng 3,9% tổng số lao động
đang làm việc trong các ngành kinh tế cả tỉnh.
12
(2) Trong thời kỳ 1996-2005, giá trị sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công
nghiệp tăng khá cao, đạt 14,7%/năm theo xu hướng tăng dần.
Nhờ sự nỗ lực của ngành, trong những năm qua công nghiệp đã có nhiều khởi
sắc, là do:
Công nghiệp và TTCN của tỉnh phát triển đúng hướng, dựa trên các thế mạnh
về tài nguyên và lao động. Tỉnh đã khai thác quặng Titan, khai thác vàng, chế biến
dăm gỗ, sản xuất vật liệu xây dựng cho xuất khẩu và để sử dụng trong nước.
So với 10 năm trước, thiết bị và công nghệ được nâng cấp, trong đó thiết bị khai
thác quặng Titan được đánh giá vào loại hiện đại.
Một số cơ sở công nghiệp chế biến nông lâm sản có quy mô khá đã đi vào hoạt
động. Từ năm 1997 đến nay, trên địa bàn Hà Tĩnh đã có ba doanh nghiệp có quy mô
khá đi vào hoạt động là: nhà máy thủy sản đông lạnh, chế biến dăm gỗ xuất khẩu và
chế biến hoa quả,
Cơ cấu theo ngành: Công nghiệp chế biến chiếm tỷ trọng lớn trong giá trị sản
xuất CN-TTCN trên địa bàn Hà Tĩnh, nhưng có xu hướng giảm. Công nghiệp khai
thác mới được phát triển, có tỷ trọng ngày càng tăng. Công nghiệp sản xuất và phân
phối điện nước chưa phát triển, chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng giá trị sản xuất công
nghiệp tiểu thủ công nghiệp toàn tỉnh.
Năm 2005 giá trị sản xuất ngành công nghiệp chế biến đạt 1081 tỷ đồng, trong
đó sản xuất thực phẩm và đồ uống chiếm 34,3%, sản xuất sản phẩm gỗ và lâm sản
chiếm 16,9%, sản xuất sản phẩm khoáng phi kim loại chiếm 16,4%, sản xuất đồ gia
dụng và bàn ghế chiếm 10,9%, các sản phẩm khác chiếm tỷ trọng nhỏ.

Về mạng lưới công nghiệp tiểu thủ công nghiệp của tỉnh bố trí khá hợp lý, đảm
bảo chi phí quy đổi thấp, trên cơ sở khai thác lợi thế về tài nguyên, gần nguồn nguyên
liệu, gần nơi tiêu thụ, và ở những nơi có cơ sở hạ tầng phát triển, như nhà máy gạch
Tuynen đã bố trí ở khu mỏ đất sét. Tuy vậy bố trí không gian còn bộc lộ một số hạn
chế: Sản xuất tiểu thủ công nghiệp xen kẽ trong dân vừa gây ô nhiễm môi trường vừa
khó quản lý về chất lượng và tài chính. Vì vậy trong các năm tới, cần xem xét bố trí
nhà máy trong các khu công nghiệp đã được hình thành.
c. Thương mại và du lịch
• Thương mại
Thương mại đã đóng góp đáng kể vào tăng trưởng kinh tế của tỉnh, mặc dù sản
xuất hàng hoá chậm phát triển và sức mua của dân cư còn thấp, số cơ sở và lao động
tham gia làm dịch vụ ngày một tăng, nhưng chủ yếu ở thị xã, thị trấn và một số xã
vùng ven đô thị.
Các trung tâm thương mại của tỉnh đang trong quá trình hình thành, mạng lưới
chợ nông thôn khá phát triển, đảm bảo được nhu cầu trao đổi hàng hóa của người dân.
Năm 2000 có 16.548 lao động làm thương mại dịch vụ, bằng 2,86% tổng số lao động
toàn tỉnh. Năm 2005 có khoảng 31.542 lao động, bằng 5,56% tổng số lao động đang
làm việc trong các ngành kinh tế.
13
Năm 2005, trong tổng mức bán lẻ hàng hoá của các cơ sở nhà nước chiếm
11,8%, còn lại 88,2% là do thành phần kinh tế tập thể, tư nhân và cá thể thực hiện.
Bên cạnh những kết quả nêu trên, lĩnh vực thương nghiệp còn bộc lộ một số
hạn chế chủ yếu như:
Thiếu chiến lược thị trường, đồng thời còn thiếu các sản phẩm dịch vụ mang
bản sắc riêng, khả năng cạnh tranh còn yếu, chất lượng dịch vụ chưa tương xứng với
giá cả;
Số lượng doanh nghiệp làm thương nghiệp tuy nhiều nhưng chủ yếu là các
doanh nghiệp vừa và nhỏ, vòng quay vốn còn thấp, hiệu quả kinh tế chưa cao.
• Du lịch
Trên địa bàn Hà Tĩnh đã hình thành một số điểm du lịch có ý nghĩa Quốc gia và

Quốc tế như khu lưu niệm Nguyễn Du, khu bảo tồn thiên nhiên Vũ Quang và nhiều
điểm du lịch khác có ý nghĩa vùng và địa phương.
Cơ sở hạ tầng du lịch ngày càng được hoàn thiện, số nhà nghỉ, khách sạn, nhà
hàng ở các khu du lịch tăng về số lượng và chất lượng. Tuy vậy, công tác đảm bảo vệ
sinh môi trường, trật tự an toàn tại các khu du lịch còn nhiền bất cập. Đặc biệt là hệ
thống thu gom, chứa và xử lý sơ bộ chất thải tại các điểm du lịch còn chưa đảm bảo
yêu cầu vệ sinh sạch sẽ, nhiều nơi còn thiếu.
Hiện tại, chưa có những sản phẩm du lịch đặc trưng, hấp dẫn đối với khách du
lịch nên ngày lưu trú của khách còn thấp. Du lịch mang tính mùa vụ, khách du lịch đến
Hà Tĩnh chủ yếu vào các dịp lễ hội, kỳ nghỉ hè. Doanh thu du lịch từ khách Quốc tế
chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số doanh thu. Trong hoạt động lữ hành, việc nối các
tour du lịch với các tỉnh và cả nước còn nhiều hạn chế. Hệ thống khách sạn có quy mô
vừa và nhỏ, trang thiết bị thiếu đồng bộ. Sử dụng nhà nghỉ, khách sạn tại các khu du
lịch biển còn thấp, mới đạt 25-30% tổng số buồng phòng. Tỷ lệ lao động và cán bộ có
trình độ nghiệp vụ du lịch còn thấp.
1.1.1.4. Thực trạng phát triển đô thị và các khu dân cư nông thôn
Thực trạng phát triển đô thị:
Hiện nay toàn tỉnh có 14 đô thị, trong đó 1 thị xã loại IV, TP. Hà Tĩnh đã được
công nhận là đô thị loại III, còn 12 thị trấn đô thị loại V. Hầu hết các đô thị là trung
tâm hành chính, y tế, giáo dục, quản lý nhà nước và thương mại. Dân số đô thị năm
2005 chiếm 10% tổng số dân. Dự báo đến 2020, dân đô thị chiếm 30% tổng số dân,
gấp 3 lần hiện nay. Điều kiện sống của người dân đô thị khá tốt. Bình quân đất ở đô thị
từ 150-250 m
2
/hộ. Tầng cao bình quân của các công trình kiến trúc là 2,2 tầng.
Về cơ sở hạ tầng: có 8/14 đô thị có công trình cấp nước công nghiệp, tổng công
suất 32.000 m
3
/ ngày - đêm. Hệ thống giao thông chính có khoảng 36 km, trong đó
80% đã được nhựa hóa. Tất cả các đô thị đều được cấp điện cho sinh hoạt và sản xuất

tốt. Dịch vụ bưu chính viễn thông ở các đô thị thuận lợi.
Thực trạng phát triển khu dân cư nông thôn:
Cũng như các vùng nông thôn khác ở miền Bắc Việt Nam, dân cư nông thôn
tỉnh Hà Tĩnh đã được hình thành từ rất lâu đời, đến nay đã định hình thành khu quần
14
cư là các làng, bản, thôn xóm. Đơn vị quản lý của các thôn bản là các hộ gia định, mỗi
hộ đều có diện tích nhà ở, sân, công trình phụ, chuồng trại gia súc, giếng nước, vườn
cây, ao cá.
Bình quân đất ở nông thôn toàn tỉnh là 53,52 m
2
/người, 231,6 m
2
/hộ.
Đặc điểm phân bố của các khu dân cư nông thôn như sau :
- Ở vùng đồi núi khu dân cư thường phân bố ở địa hình ven chân đồi hoặc các
đồi thấp thoải có độ dốc dưới 15
o
.
- Ở vùng đồng bằng ven biển, dân cư được phân bố trên các dải cồn cát cao
nằm song song với bờ biển xen kẽ các khu vực sản xuất nông nghiệp, hoặc phân bố
dọc theo các trục đường giao thông chính và ven các con sông lớn của tỉnh.
Do đặc điểm sản xuất của vùng nông thôn nên việc phát triển mở rộng khu dân
cư nông thôn thường gắn chặt với đặc điểm điều kiện tự nhiên của từng địa phương,
thông thường là mở rộng vào đất nông nghiệp xung quanh làng bản.
Trong những năm gần đây cùng với việc phát triển của cơ chế thị trường,
hướng mở rộng khu dân cư có nhiều thay đổi. Đất ở nông thôn được mở rộng theo các
trục giao thông thôn, xã. Vừa giải quyết đất ở gắn với hệ thống dịch vụ.
1.1.5. Điều kiện xã hội
1.1.1.5. Giao thông
Đường bộ:

Hà Tĩnh có 4 đường Quốc lộ chạy qua và 27 tuyến đường tỉnh lộ với tổng chiều
dài 387 km. Nếu tính cả giao thông nông thôn, tổng chiều dài đường bộ trên địa bàn
tỉnh là 2.917 km.
Tuy đạt được những thành tựu nêu trên, nhưng hiện nay 80% đường bộ được
đánh giá vào loại xấu và rất xấu, nhiều đoạn đường bị ngập trong mùa mưa. Hệ thống
cầu, ngầm còn thiếu về số lượng và kém về chất lượng.
Đường sắt:
Đường sắt đi qua địa phận Hà Tĩnh dài 70 km (qua Đức Thọ, Vũ Quang,
Hương Khê). Trên tuyến đường sắt có 11 ga, trong đó cá hai ga hàng hóa là Hương
Phố và Phúc Trạch, góp phần trao đổi hàng hóa thuận lợi cho các điểm dân cư lân cận.
1.1.1.6. Thủy lợi
Các công trình thuỷ lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp đã được chú trọng đầu tư
xây dựng, đang bước vào thời kỳ phát huy tác dụng. Tuy vậy, do điều kiện địa hình
chia cắt, đất dốc, thuỷ lợi chưa đáp ứng được nhu cầu sử dụng nước trong nông
nghiệp, thiếu nước khá trầm trọng vào các tháng gió Tây nam hoạt động mạnh ảnh
hưởng đến năng suất cây trồng.
1.1.1.7. Giáo dục và đào tạo
Hà Tĩnh là một trong các tỉnh có hệ thống giáo dục phổ thông phát triển nếu so
với cùng mặt bằng mức sống. Hệ thống giáo dục đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu
học tập trong tỉnh. Đến năm 2005 tỉnh có 1 trường cao đẳng sư phạm, 4 trường trung
học chuyên nghiệp, 1 trường dân tộc nội trú.
15
Số học sinh trên 1 vạn dân tăng liên tiếp, năm sau cao hơn năm trước. Năm học
1994-1995, bình quân toàn tỉnh có 2.434 học sinh / vạn dân tăng lên 2.706 học sinh /
vạn dân năm học 2004-2005.
Ngành giáo dục đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ. Hà Tĩnh là tỉnh sớm
đạt tiêu chuẩn Quốc gia về phổ cập giáo dục tiểu học và xóa mù chữ so với cả nước,
ngay từ năm 1999, hoàn thành phổ cập trung học cơ sở năm 2003.
Về chất lượng giáo dục: Tỷ lệ học sinh đi học ở các cấp học đều cao hơn trung
bình cả nước. Tỷ lệ giáo viên trên lớp tính chung cho cả tỉnh năm học 2004-2005, ở

tiểu học là 1,28 (quy định là 1,15); ở trung học cơ sở là 1,94 (quy định là 1,85); ở
trung học phổ thông là 1,83 (quy định là 2,1). Học sinh tốt nghiệp phổ thông trung học
đạt tỷ lệ cao.
Tuy vậy, bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được, giáo dục đào tạo vẫn
còn một số khó khăn như:
Chương trình và trang thiết bị đào tạo còn lạc hậu, chưa đáp ứng được nhu cầu
phát triển kinh tế về lao động kỹ thuật có tay nghề cao.
Mạng lưới trường cần mở rộng để đáp ứng cho nhu cầu học tập ngày càng tăng.
Đối với địa hình các xã vùng núi, khoảng cách đến trường của học sinh còn xa,
cần xem xét lại quy mô, địa điểm trường lớp cho phù hợp.
1.1.1.8. Y tế
Mạng lưới y tế chăm sóc sức khỏe phát triển khá hoàn chỉnh, từ tỉnh xuống xã,
đáp ứng được nhu cầu chữa trị bệnh cho nhân dân trong tỉnh. Đội ngũ cán bộ y tế được
tăng cường, năm 2005 bình quân 4,29 bác sỹ/1 vạn dân. Hiện nay, 34,8% số xã có bác
sỹ, với trên 700 cán bộ y tế đang công tác tại các thôn bản.
Cơ sở vật chất ngành y tế được củng cố. Toàn tỉnh có 3.521 giường bệnh, trong
đó số giường bệnh viện là 1890 giường, bằng 53,6% tổng số giường. Bệnh viện đa
khoa tỉnh được xây dựng mới với 450 giường bệnh, có đầy đủ các khoa từ lâm sàng
đến cận lâm sàng, trang thiết bị ngày một đầy đủ và hiện đại hơn.
Công tác KHHGĐ được triển khai, thực hiện tốt. Bằng nhiều hình thức, biện
pháp giáo dục, tăng cường truyền thông, và dịch vụ phù hợp đã tạo nhiều chuyển biến
về nhận thức trong mọi tầng lớp nhân dân, góp phần hạn chế các cặp vợ chồng sinh
con thứ 3 trở lên.
Từ năm 1995 đến nay công tác chăm sóc sức khỏe cộng đồng được chú ý mở
rộng về quy mô và nâng cao chất lượng dịch vụ, đảm bảo chữa các bệnh thông thường,
chủ động phòng chống và kịp thời dập tắt các dịch bệnh xã hội có khả năng lây lan cho
nhân dân. Nhiều chương trình Quốc gia về y tế được quan tâm sát sao, thực hiện có
hiệu quả.
Tuy vậy, ngành y tế tỉnh cần phải nâng cấp các cơ sở vật chất phục vụ nhu cầu
khám chữa bệnh đang xuống cấp, đầu tư máy móc, thuốc men, đào tạo dược sỹ, bác sỹ

(cấp một) giỏi của một số chuyên khoa thiếu như sản, chụp cắt lớp.
1.1.1.9. Văn hóa xã hội, thể dục thể thao
16
Công tác văn hóa, thông tin, thể dục thể thao, xây dựng làng văn hóa được triển
khai trên diện rộng và đạt kết quả tốt. Phục vụ tốt, kịp thời các ngày lễ lớn của dân tộc
và lễ hội truyền thống ở các địa phương. Đến năm 2005 đã có 78% gia đình văn hóa,
tăng 30% so với năm 2000.
Công tác tôn tạo, bảo quản và giữ gìn các di tích lịch sử, văn hoá được chú
trọng, các thiết chế văn hoá từ huyện đến cơ sở được tăng cường.
Lĩnh vực thông tin, phát thanh và truyền hình đã thực hiện tốt vai trò làm công
cụ tuyên truyền đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Đến nay
100% số xã thị trấn được nghe phát thanh và xem truyền hình.
Tuy nhiên, cơ sở vật chất của ngành văn hóa còn thiếu về số lượng và kém về
chất lượng chưa tương xứng với tên gọi của nó. Hiện nay cả tỉnh có 1 trung tâm văn
hóa cấp tỉnh và 11 trung tâm văn hóa huyện, thị nhưng đã xuống cấp, một số trung tâm
còn ở nhà tạm. Vùng sâu, vùng xa đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân còn kém,
thiếu thông tin, hiểu biết về pháp luật còn hạn chế. Vì vậy để đem tri thức đến với dân,
công tác văn hoá, thông tin và thể dục thể thao cần được tiếp tục đẩy mạnh trong các
năm tới.
1.1.1.10. Bưu chính viễn thông
Bưu chính viễn thông trong thời kỳ 1996-2005 đã có bước phát triển tích cực,
tăng cả về số lượng và chất lượng dịch vụ. Năm 2004 số máy điện thoại là 3,2
máy/100 dân, cao hơn 10 lần so với năm 1995. Số bưu cục bình quân km2 là 1,1 cao
hơn trung bình toàn vùng. Đây là sự phát triển tích cực, tuy nhiên, mật độ sử dụng điện
thoại trên toàn tỉnh vẫn ở mức thấp so với trung bình toàn vùng Bắc Trung bộ và phân
bố không đồng đều.
Xây dựng cơ sở hạ tầng đã đạt được nhiều thành tựu, song còn bộc lộ một số
hạn chế chủ yếu như: Đầu tư xây dựng còn dàn trải. Huy động nội lực trong dân còn
hạn chế do thu nhập của nhân dân còn thấp. Với cơ chế đầu tư như hiện nay, tỉnh thiếu
chủ động. Vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước còn thấp. Các dự án đầu tư nhỏ, thiếu

các dự án đầu tư lớn có đủ khả năng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
17
CHƯƠNG 2.
KỊCH BẢN BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU VÀ NƯỚC BIỂN DÂNG CHO KHU
VỰC HÀ TĨNH VÀ KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI
CỦA TỈNH HÀ TĨNH GIAI ĐOẠN 2011 - 2015
1.3. KỊCH BẢN BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU VÀ NƯỚC BIỂN DÂNG CHO KHU VỰC
HÀ TĨNH
1.3.1. Tình hình biến đổi khí hậu và nước biển dâng trên Thế giới và ở Việt Nam
Biến đổi khí hậu, với các biểu hiện chính là sự nóng lên toàn cầu và mực nước
biển dâng, chủ yếu là do các hoạt động kinh tế - xã hội của con người gây phát thải
quá mức vào khí quyển các khí gây hiệu ứng nhà kính.
Theo báo cáo đánh giá lần thứ tư của IPCC năm 2007, nhiệt độ trung bình toàn
cầu đã tăng khoảng 0,74
o
C trong thời kỳ 1906 - 2005 và tốc độ tăng của nhiệt độ trong
50 năm gần đây gần gấp đôi so với 50 năm trước đó (Hình 2.1). Nhiệt độ trên lục địa
tăng nhanh hơn so với trên đại dương (IPCC, 2007).
Hình 2.2. Diễn biến chuẩn sai nhiệt độ trung bình toàn cầu
Nguồn:[IPCC/2007]
18
Trong 100 năm qua, lượng mưa có xu hướng tăng ở khu vực vĩ độ cao hơn 30
o
.
Tuy nhiên, lượng mưa lại có xu hướng giảm ở khu vực nhiệt đới từ giữa những năm
1970 (Hình 2.2). Hiện tượng mưa lớn có dấu hiệu tăng ở nhiều khu vực trên thế giới
(IPCC, 2007).
Hình 2.3. Diễn biến lượng mưa năm ở các vùng khác nhau trên thế giới
Nguồn:[IPCC/2007]
Mực nước biển toàn cầu đã tăng trong thế kỷ 20 với tốc độ ngày càng cao (Hình

2.3). Hai nguyên nhân chính làm tăng mực nước biển là sự giãn nở nhiệt của đại
dương và sự tan băng.
Hình 2.4. Diễn biến của mực nước biển trung bình toàn cầu
Nguồn:[IPCC/2007]
19


Số liệu quan trắc mực nước biển trong thời kỳ 1961- 2003 cho thấy tốc độ tăng
của mực nước biển trung bình toàn cầu khoảng 1,8 ± 0,5mm/năm, trong đó đóng góp
do giãn nở nhiệt khoảng 0,42 ± 0,12mm/năm và tan băng khoảng 0,70 ± 0,50mm/năm
(IPCC, 2007).
Số liệu đo đạc từ vệ tinh TOPEX/POSEIDON trong giai đoạn 1993 - 2003 cho
thấy tốc độ tăng của mực nước biển trung bình toàn cầu là 3,1 ± 0,7mm/năm, nhanh
hơn đáng kể so với thời kỳ 1961 - 2003 (IPCC, 2007).
Ở Việt Nam, kết quả phân tích các số liệu khí hậu cho thấy biến đổi của các
yếu tố khí hậu và mực nước biển có những điểm đáng lưu ý sau:
- Nhiệt độ: Trong 50 năm qua (1958 - 2007), nhiệt độ trung bình năm ở Việt
Nam tăng lên khoảng từ 0,5
o
C đến 0,7
o
C. Nhiệt độ mùa đông tăng nhanh hơn nhiệt độ
mùa hè và nhiệt độ ở các vùng khí hậu phía Bắc tăng nhanh hơn ở các vùng khí hậu
phía Nam (Hình 4a). Nhiệt độ trung bình năm của 4 thập kỷ gần đây (1961 - 2000) cao
hơn trung bình năm của 3 thập kỷ trước đó (1931- 1960). Nhiệt độ trung bình năm của
thập kỷ 1991 - 2000 ở Hà Nội, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh đều cao hơn trung
bình của thập kỷ 1931 - 1940 lần lượt là 0,8; 0,4 và 0,6
o
C. Năm 2007, nhiệt độ trung
bình năm ở cả 3 nơi trên đều cao hơn trung bình của thập kỷ 1931 - 1940 là 0,8 - 1,3

o
C
và cao hơn thập kỷ 1991 - 2000 là 0,4 - 0,5
o
C (Chương trình mục tiêu quốc gia ứng
phó với biến đổi khí hậu, Bộ TNMT, 2008).
Hình 2.5. Diễn biến của nhiệt độ (a) và lượng mưa (b) ở Việt Nam trong 50 năm qua
Lượng mưa: Trên từng địa điểm, xu thế biến đổi của lượng mưa trung bình năm
trong 9 thập kỷ vừa qua (1911- 2000) không rõ rệt theo các thời kỳ và trên các vùng
khác nhau: có giai đoạn tăng lên và có giai đoạn giảm xuống. Lượng mưa năm giảm ở
các vùng khí hậu phía Bắc và tăng ở các vùng khí hậu phía Nam (Hình 2.4b). Tính
trung bình trong cả nước, lượng mưa năm trong 50 năm qua (1958-2007) đã giảm
20



khoảng 2% (Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu, Bộ TNMT,
2008).
Không khí lạnh: Số đợt không khí lạnh ảnh hưởng tới Việt Nam giảm đi rõ rệt
trong hai thập kỷ qua. Tuy nhiên, các biểu hiện dị thường lại thường xuất hiện mà gần
đây nhất là đợt không khí lạnh gây rét đậm, rét hại kéo dài 38 ngày trong tháng 1 và
tháng 2 năm 2008 ở Bắc Bộ (Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí
hậu, Bộ TNMT, 2008).
Bão: Những năm gần đây, bão có cường độ mạnh xuất hiện nhiều hơn. Quỹ đạo
bão có dấu hiệu dịch chuyển dần về phía nam và mùa bão kết thúc muộn hơn, nhiều
cơn bão có đường đi (Hình 2.5) dị thường hơn (Thông báo đầu tiên của Việt Nam cho
Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu, Bộ TNMT, 2003).
Hình 2.6. Quỹ đạo của bão ở Tây Bắc Thái Bình Dương và Biển Đông
Mưa phùn: Số ngày mưa phùn trung bình năm ở Hà Nội giảm dần từ thập kỷ
1981 - 1990 và chỉ còn gần một nửa (15 ngày/năm) trong 10 năm gần đây (Nguyễn

Đức Ngữ, Nguyễn Trọng Hiệu, 2003).
Mực nước biển: Số liệu quan trắc tại các trạm hải văn dọc ven biển Việt Nam
cho thấy tốc độ dâng lên của mực nước biển trung bình ở Việt Nam hiện nay là khoảng
3mm/năm (giai đoạn 1993-2008), tương đương với tốc độ tăng trung bình trên thế
giới. Trong khoảng 50 năm qua, mực nước biển (Hình 2.6) tại Trạm hải văn Hòn
Dáu dâng lên khoảng 20cm (Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí
hậu, Bộ TNMT, 2008).
21
Hình 2.7. Diễn biến của mực nước biển tại trạm hải văn Hòn Dấu
2.1.1. Tác động của biến đổi khí hậu đến khu vực tỉnh Hà Tĩnh
BĐKH chắc chắn kéo theo nhiều biến đổi về thời tiết cũng như chế độ khí hậu,
rõ rết nhất về các yếu tố sau đây:
XTNĐ hoạt động trên Biển Đông và cả XTNĐ ảnh hưởng hoặc đổ bộ vào đoạn
bờ biển Trung Bộ trong thập kỷ sắp tới có thể tăng lên về số lượng và mạnh lên cường
độ so với các thập kỷ vừa qua. Mùa bão hoạt động trên khu vực Trung Bộ có thể thay
đổi so với hiện nay.
Tần suất hoạt động của không khí lạnh tại khu vực Trung Bộ có thể ít đi, cường
độ yếu hơn nên sẽ ít ảnh hưởng đến Nam Trung Bộ. Mùa có không khí lạnh sẽ ngắn
hơn và số tháng gián đoạn không khí lạnh có thể nhiều lên.
Nhiệt độ trong các thập kỷ tới sẽ cao hơn các thập kỷ vừa qua. Mùa gió tây khô
nóng có thể đến sớm hơn và kết thúc muộn hơn. Kỷ lục của nhiệt độ cao và thời gian
nắng nóng kéo dài có thể được nâng lên, trong khi kỷ lục nhiệt độ thấp vẫn sẽ được
duy trì lâu dài. Mùa lạnh ở các tỉnh Bắc Trung Bộ sẽ ngắn đi và giới hạn phía nam của
khu vực hoạt động của không khí lạnh sẽ rút ngắn dần lên phía Bắc. Các hiện tượng
lạnh giá, sương muối vốn đã hiếm khi gặp ở khu vực này sẽ không thể xẩy ra được
nữa.
Lượng mưa trong các năm sắp tới có thể thay đổi: tăng ở nơi này nhưng lại
giảm ở nơi kia. Khả năng là lượng mưa trong mùa mưa sẽ tăng lên nhưng lại giảm
lượng mưa trong mùa ít mưa so với trước đây. Không loại trừ khả năng các trung tâm
mưa lớn như Kỳ Anh, Trà My, Ba Tơ và các trung tâm ít mưa như Tương Dương

Ninh Thuận lại trở nên rõ rệt hơn.
Mùa mưa vốn đã dồn vào các tháng thu đông có thể còn dồn dập hơn trong các
thập kỷ tới. Ở Nam Trung Bộ mùa khô vẫn tiếp tục tồn tại từ tháng XII, tháng I cho
đến tháng VIII, tháng IX và ở Bắc Trung Bộ, tháng V, tháng VI có thể trở thành các
tháng nóng thường xuyên như ở Nam Trung Bộ. Ở các tỉnh phía bắc Bắc Trung Bộ
mưa phùn có thể trở nên hiếm hoi hơn.
22
Trên dải đòng bằng duyên hải Trung Bộ, các kỷ lục về lượng mưa ngày, lượng
mưa tháng và lượng mưa năm chắc chắn được nâng cao. Ngược lại tình trạng hạn hán
sẽ trở nên thường xuyên và khốc liệt hơn.
Lượng bốc hơi trong các thập kỷ sắp tới có thể cao hơn nền chung của các thập
kỷ vừa qua, góp phần gia tăng chỉ số khô hạn và cường độ hạn hán.
Nước biển tiếp tục dâng lên với tốc độ 0,5-0,6 cm/năm trong các thập kỷ sắp
tới. Sự biến đổi nói trên về các yếu tố khí hậu tất yếu dẫn đến các tác động sau đây đối
với một số lĩnh vực kinh tế - xã hội:
Dòng chảy năm trên hầu hết các con sông đều giảm đi, trong đó dòng chảy lũ
có thể ít thay đổi hoặc lớn hơn chút ít song dòng chảy kiệt sẽ giảm đi đáng kể. Nguồn
nước, nhất là nước trong nhiều tháng mùa khô sẽ trở nên khan hiếm, nhất là ở các tỉnh
cực nam Trung Bộ.
Trong tương lai không xa, cơ cấu cây trồng và cả cơ cấu thời vụ cần phải được
điều chỉnh theo hướng phù hợp với nền nhiệt độ cao hơn. Chi phí sản xuất cho một
đơn vị sản phẩm nông nghiệp tăng lên do nhu cầu tưới cao hơn và thời gian chống hạn
dài hơn.
Nước biển dâng vừa thu hẹp diện tích khu dân cư sống ven biển vừa tăng khả
năng xói lở bờ biển, trực tiếp đe dọa các công trình giao thông, xây dựng, công nghiệp
và một số đô thị trên tuyến bờ biển kéo dài từ Bắc đến Nam.
Nhiệt độ tăng, nguồn nước suy giảm cũng là nguyên nhân tạo nên nhiều khó
khăn cho cuộc sống bình thường, thậm chí góp phần gia tăng dịch bệnh, nhất là dịch
bệnh mùa nóng.
2.1.2. Kịch bản biến đổi khí hậu cho khu vực thuộc tỉnh Hà Tĩnh

1.1.1.11. Kịch bản biến đổi khí hậu
Các kịch bản phát thải khí nhà kính được chọn để tính toán xây dựng kịch bản
biến đổi khí hậu cho Việt Nam là kịch bản phát thải thấp (kịch bản B1), kịch bản phát
thải trung bình của nhóm các kịch bản phát thải trung bình (kịch bản B2) và kịch bản
phát thải trung bình của nhóm các kịch bản phát thải cao (kịch bản A2).
Các kịch bản biến đổi khí hậu đối với nhiệt độ và lượng mưa được xây dựng
cho Bắc Trung Bộ. Thời kỳ dùng làm cơ sở để so sánh là 1980-1999 (cũng là thời kỳ
được chọn trong Báo cáo đánh giá lần thứ 4 của IPCC).
a. Về nhiệt độ
Nhiệt độ mùa đông có thể tăng nhanh hơn so với nhiệt độ mùa hè ở tất cả các
vùng khí hậu của nước ta. Nhiệt độ ở các vùng khí hậu phía Bắc có thể tăng nhanh hơn
so với các vùng khí hậu phía Nam.
- Theo kịch bản phát thải thấp (B1): Vào cuối thế kỷ 21, nhiệt độ trung bình
năm ở các vùng khí hậu phía Bắc có thể tăng so với trung bình thời kỳ 1980-1999
khoảng từ 1,6 đến 1,9
o
C. Vào năm 2020 nhiệt độ tăng lên 0,6
0
C.
Bảng 2.1. Mức tăng nhiệt độ trung bình năm (
0
C) so với thời kỳ 1980-1999
theo kịch bản phát thải thấp (B1)
23
Vùng
Các mốc thời gian của thế kỷ 21
2020 2030 2040 2050 2060 2070 2080 2090 2100
Bắc Trung Bộ 0,6 0,8 1,1 1,4 1,6 1,7 1,8 1,9 1,9
Bảng 2.2. Mức tăng nhiệt độ trung bình (
o

C) so với thời kỳ 1980 – 1999 khu vực Bắc
Trung Bộ theo kịch bản phát thải thấp (B1)
Vùng
Thời kỳ
trong năm
Các mốc thời gian của thế kỷ 21
2020 2030 2040 2050 2060 2070 2080 2090 2100
Bắc
Trung Bộ
XII-II 0,6 0,8 1,1 1,4 1,6 1,8 1,8 1,9 1,9
III-V 0,7 0,9 1,2 1,6 1,9 2,0 2,1 2,1 2,1
VI-VIII 0,5 0,7 1,0 1,3 1,5 1,6 1,7 1,7 1,7
IX-XI 0,5 0,8 1,0 1,3 1,5 1,6 1,7 1,7 1,8
- Theo kịch bản phát thải trung bình (B2): Vào cuối thế kỷ 21, nhiệt độ trung
bình năm có thể tăng lên 2,8
o
C ở Bắc Trung Bộ (Bảng 2.2). Năm 2020 nhiệt độ trung
bình năm có thể tăng 0,5
0
C.
Bảng 2.3. Mức tăng nhiệt độ trung bình năm (
o
C) so với thời kỳ 1980-1999 theo kịch bản
phát thải trung bình (B2)
Vùng
Các mốc thời gian của thế kỷ 21
2020 2030 2040 2050 2060 2070 2080 2090 2100
Bắc Trung Bộ 0,5 0,8 1,1 1,5 1,8 2,1 2,4 2,6 2,8
Bảng 2.4. Mức tăng nhiệt độ trung bình năm (
o

C) so với thời kỳ 1980-1999 khu vực Bắc
Trung Bộ theo kịch bản phát thải trung bình (B2)
Vùng
Thời kỳ
trong năm
Các mốc thời gian của thế kỷ 21
2020 2030 2040 2050 2060 2070 2080 2090 2100
Bắc
Trung Bộ
XII-II 0,6 0,8 1,1 1,4 1,8 2,1 2,4 2,7 2,9
III-V 0,7 0,9 1,2 1,8 2,0 2,4 2,8 3,0 3,2
VI-VIII 0,5 0,7 1,0 1,3 1,6 1,9 2,2 2,4 2,6
IX-XI 0,5 0,8 1,0 1,4 1,7 2,0 2,2 2,5 2,7
- Theo kịch bản phát thải cao (A2): Vào cuối thế kỷ 21, nhiệt độ trung bình năm
ở các vùng khí hậu phía Bắc có thể tăng so với trung bình thời kỳ 1980 - 1999 khoảng
3,6
o
C ở Bắc Trung Bộ (Bảng 2.3). Năm 2020 nhiệt độ trung bình năm tăng 0,6
0
C.
Bảng 2.5. Mức tăng nhiệt độ trung bình năm (
o
C) so với thời kỳ 1980-1999 theo kịch bản
phát thải cao (A2)
Vùng Các mốc thời gian của thế kỷ 21
24

×