Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ ĐÁNH GIÁ RỦI RO KHÍ HẬU VÀ TÁC ĐỘNG TIỂM NĂNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU ĐẾN HỆ THỐNG SINH KẾ CHO NGƯỜI NGHÈO TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ TĨNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (519.78 KB, 30 trang )

VIỆN KHOA HỌC KHÍ TƯỢNG THỦY VĂN VÀ MÔI TRƯỜNG
TRUNG TÂM TƯ VẤN KHÍ TƯỢNG THỦY VĂN VÀ MÔI TRƯỜNG

NHIỆM VỤ “ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU ĐẾN TỈNH
HÀ TĨNH”
BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ
ĐÁNH GIÁ RỦI RO KHÍ HẬU VÀ TÁC ĐỘNG TIỂM NĂNG
CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU ĐẾN HỆ THỐNG SINH KẾ CHO
NGƯỜI NGHÈO TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ TĨNH
(CHUYÊN ĐỀ SỐ 22)
HÀ NỘI, THÁNG 12/2010
MỤC LỤC
2
DANH SÁCH CÁC BẢNG
3
DANH SÁCH CÁC HÌNH
4
MỞ ĐẦU
Hà Tĩnh có tổng diện tích đất tự nhiên 601.896 ha, dân số 1.228.079 người với mật
độ 204 người/km
2
, dân số ở nông thôn chiếm 84,79%. Tỷ trọng giá trị sản xuất nông, lâm
nghiệp, thuỷ sản chiếm 33,73% tổng giá trị sản phẩm quốc dân (GDP); trong giá trị sản
xuất nông nghiệp thì trồng trọt chiếm 61,67%, chăn nuôi chiếm 36,19%. Tổng quỹ đất
nông nghiệp hiện nay là 461.883 ha, trong đó đất sản xuất nông nghiệp 117.490 ha (Cây
hàng năm 85.909 ha, Đất trồng cây lâu năm 31.581 ha); Đất lâm nghiệp 339.765 ha; Đất
nuôi trồng thuỷ sản 4.022 ha, đồng muối 428 ha; Đất nông nghiệp khác 178 ha (nguồn
Niên giám thống kê 2009).
Đói nghèo là vấn đề ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững, đồng thời là vấn đề xã
hội nhạy cảm nhất. Xoá đói giảm nghèo, khuyến khích làm giàu một cách chính đáng là
một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, đó là một trong những vấn đề cơ bản của


chính sách xã hội hướng vào phát triển con người nói chung và người nghèo nói riêng,
tạo cơ hội cho họ hoà nhập vào quá trình phát triển kinh tế- xã hội.
5
CHƯƠNG 1.
ĐẶC ĐIỂM ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI
1.1. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN
1.1.1. Vị trí địa lý
Hà Tĩnh thuộc vùng Bắc Trung bộ, diện tích tự nhiên 6.02649,96 ha, tọa độ địa lý:
17
0
54’ – 18
0
38’ vĩ độ Bắc, 105
0
11’- 106
0
36’ kinh độ Đông. Ranh giới phía Bắc giáp tỉnh
Nghệ An, phía Nam giáp tỉnh Quảng Bình, phía Tây giáp tỉnh Bôlikhămxay và
KhămMuộn của Lào (với 170 km biên giới Quốc gia) và phía Đông giáp Biển Đông với
chiều dài bờ biển hơn 137 km.
Hình 1 Sơ đồ vị trí tỉnh Hà Tĩnh
Hà Tĩnh có vị trí đặc biệt quan trọng không chỉ với cả nước, mà còn với nước bạn
Lào và vùng Đông Bắc của Thái Lan. Trong tương lai, Hà Tĩnh có điều kiện trở thành cầu
nối của hai miền Nam, Bắc và là nút giao thông quan trọng trên trục hành lang Đông, Tây
của khu vực, với các tuyến giao thông huyết mạch đi qua: Quốc lộ 1A, đường sắt, đường
Hồ Chí Minh, đường biển (trục giao thông Bắc, Nam); Quốc lộ 8 với cửa khẩu Quốc tế
Cầu Treo và Quốc lộ 12 với cửa khẩu Cha Lo Quảng Bình (trục hành lang Đông - Tây),
nối với hệ thống cảng biển nước sâu Vũng Áng đã và đang đầu tư xây dựng.
6
Hà Tĩnh có 12 đơn vị hành chính cấp huyện với 262 phường xã, thị trấn, gồm 10

đơn vị huyện, 2 thị xã. Thị xã Hà Tĩnh là trung tâm kinh tế, chính trị và văn hoá của tỉnh
nằm cách Hà Nội 341 km và cách thành phố Vinh 50 km về phía Nam theo Quốc lộ 1A.
Xét về vị trí địa lý cho thấy tỉnh Hà Tĩnh có điều kiện thuận lợi để phát triển kinh
tế, giao lưu vận chuyển hàng hoá, vì có lợi thế nằm tiếp giáp với các đô thị lớn và cửa
khẩu Quốc tế quan trọng, có nhiều thế mạnh cả về giao thông đường thuỷ và đường bộ.
1.1.2. Đặc điểm địa hình, địa chất
- Vùng núi cao: Địa hình vùng núi cao thuộc phía Đông của dãy Trường Sơn bao
gồm các xã phía Tây của các huyện Hương Sơn, Hương Khê, Kỳ Anh. Địa hình dốc bị
chia cắt mạnh, hình thành các thung lũng nhỏ hẹp chạy dọc theo các triền sông lớn của hệ
thống sông Ngàn Phố, Ngàn Sâu, Rào Trổ. Các thung lũng này cũng là vùng sinh sống
của cư dân các dân tộc. Sản xuất của dân cư trong vùng là hỗn hợp nông lâm nghiệp theo
phương thức khai thác tận dụng tự nhiên do vậy năng suất cây trồng và năng suất lao
động thấp. Mức thu nhập của dân thấp do chưa được đầu tư thích đáng, cơ sở vật chất
nghèo nàn, hạ tầng cơ sở yếu kém. Vùng này có tiềm năng phát triển cây công nghiệp
ngắn, dài ngày, cây ăn quả, nghề rừng và chăn nuôi gia súc.
- Vùng trung du và bán sơn địa: Đây là vùng chuyển tiÕp từ vùng núi cao xuống
vùng đồng bằng. Vùng này chạy dọc phía Tây Nam đường Hå ChÝ Minh bao gồm các xã
vùng thấp của huyện Hương Sơn, các xã thượng Đức Thọ, thượng Can Lộc ven Trà Sơn,
của các huyện Thạch Hà, Cẩm Xuyên, Kỳ Anh. Địa hình có dạng xen lẫn giữa các đồi
trung bình và thấp với đất ruộng. Đất đai không bằng phẳng, hệ thực vật chủ yếu là cây
lùm bụi, cây công nghiệp, rừng trồng và trảng cỏ. Sản xuất nông nghiệp chính là cây lúa
nước, cây màu, cây công nghiệp ngắn, dài ngày và chăn nuôi gia súc, trồng cây lâm
nghiệp. Trong vùng bước đầu đã có sự đầu tư trong sản xuất các loại cây như lạc, đỗ, chè,
cây ăn quả. Các sản phẩm chăn nuôi như trâu, bò, lợn, dê, hươu. Đây là vùng có tiềm
năng đất đai cho phép sản xuất nhiều sản phẩm nông sản hàng hoá tập trung có thể đầu tư
x©y dùng c¸c trang tr¹i thóc ®Èy kinh tÕ phát triển nhanh.
- Vùng đồng bằng: là vùng chạy dọc giữa đường Hå ChÝ Minh và Quốc lộ 1A theo
chân núi Trà Sơn và vùng ven biển bao gồm các xã vùng giữa của huyện Đức Thọ, Can
Lộc, thị xã Hồng Lĩnh, Thạch Hà, TP. Hà Tĩnh, Cẩm Xuyên và Kỳ Anh. Địa hình toµn
vùng tương đối bằng phẳng do quá trình bồi tụ phù sa của các sông phù sa biển trên các

vỏ phong hoá Feranit hay trầm tích biển. Đây là vùng dân cư đông đúc, sản xuất chủ yếu
là cây lúa nước, lạc, đậu, đỗ, khoai lang, chăn nuôi gia súc, gia cầm. Ngoài ra còn có các
nghề phụ như dệt chiếu, dệt vải, đan lát, làm mộc.
- Vùng ven biển nằm ở phía ®«ng đường QL1A chạy dọc theo bờ biển gồm các xã
của huyện Nghi Xuân, Can Lộc, Thạch Hà, Cẩm Xuyên, Kỳ Anh. Địa hình được tạo bởi
những ®ụn cát, các vùng trũng được lấp đầy trầm tích đầm phá hay phù sa được hình
thành do các dãy ®ụn cát chạy dài ngăn cách bãi biển. Ngoài ra trong vùng còn xuất hiện
7
các dãy đồi núi sót chạy dọc ven biển do kiến tạo của dãy Trường Sơn Bắc. Do nhiều cửa
sông, lạch tạo nên nhiều bãi ngập mặn. Dân cư trong vùng có mật độ lớn sản xuất bằng
nghề nông, đánh bắt nuôi trồng thuỷ sản, làm muối. Đây là vùng có tiềm năng phát triển
nghề biển mạnh, sản xuất lúa vùng này cho năng suất thấp do thiếu nguồn nước ngọt, đất
đai bị nhiễm mặn, chua nhiều, mùa mưa thường bị ngËp lụt. Hướng chuyển đổi về cơ cấu
canh tác có thể chuyển dần vùng đất lúa đang canh tác có sản lượng thấp sang nuôi trồng
thuỷ sản.
1.2. ĐẶC ĐIỂM KHÍ HẬU, THỦY VĂN
1.2.1. Điều kiện khí hậu
1.2.1.1. Chế độ nhiệt
Nhiệt độ trung bình năm đạt 23,80C. Nhiệt độ trung bình tháng nhỏ nhất đạt
170C. Các tháng chịu ảnh hưởng của gió Tây khô nóng, nhiệt độ trung bình tháng đạt
28,7 ~ 29,80C vào tháng VII.
Số giờ nắng đạt từ 1.400 ~ 1.600 giờ.
1.2.1.2. Độ ẩm tương đối
Độ ẩm tương đối trung bình năm đạt 85%. Độ ẩm thấp nhất xảy ra vào các tháng
có gió Tây khô nóng - tháng VII và đạt 70%. Độ ẩm cao nhất xảy ra vào các tháng cuối
mùa đông, khi có mưa phùn hoặc các tháng mùa mưa và đạt 90 ~ 92%.
1.2.1.3. Bốc hơi
Bốc hơi Piche trung bình năm đạt 800mm. Lượng bốc hơi lớn xảy ra vào tháng
VII với lượng bốc hơi trung bình tháng đạt từ 180 ~ 200mm. Tháng II có lượng bốc hơi
nhỏ nhất đạt từ 27 ~ 34mm.

1.2.1.4. Tốc độ gió
Tốc độ gió trung bình năm 1,7 m/s- 2,3 m/s . Tốc độ gió lớn nhất khi có bão đạt
>40 m/s. Hướng gió mùa đông là hướng Đông Bắc, mùa hè thịnh hành gió Tây Nam hoặc
gió Đông Nam.
1.2.1.5. Chế độ mưa
Hà Tĩnh có lượng mưa năm khá phong phú, trung bình năm đạt từ 2.300
~3.000mm. Những vùng mưa lớn như Kỳ Lạc (Kỳ Anh) lượng mưa đạt 3.220mm. Những
tâm mưa lớn thượng nguồn sông Ngàn Phố, Ngàn Sâu, Rào Trổ, Hoành Sơn có năm
lượng mưa năm đạt 4.586 mm năm 1978 ở Bàu Nước, 4.386mm tại Kỳ Anh năm 1990,
4.450 mm năm 1990 tại Kỳ Lạc.
Mùa mưa bắt đầu từ tháng VIII tới tháng XI. Tuy nhiên tháng V, VI có mưa Tiểu
mãn gây ra lũ Tiểu mãn. Lượng mưa mùa mưa đạt 65 - 70% lượng mưa năm, còn lại là
mùa khô.
8
1.2.2. Điều kiện thủy văn
Hà Tĩnh có hệ thống sông ngòi khá dày đặc, nhưng có đặc điểm chung là chiều dài
ngắn, lưu vực nhỏ, dốc nên tốc độ dòng chảy lớn, nhất là về mùa mưa lũ.
Sự phân bố dòng chảy đối với các sông suối ở Hà Tĩnh theo mùa rõ rệt, hầu hết
các con sông chịu ảnh hưởng của mưa lũ ở thượng nguồn, những vùng thấp trũng ở hạ
lưu đất thường bị nhiễm mặn do chế độ thuỷ triều ảnh hưởng xấu đến sản xuất, tuy nhiên
có thể tận dụng đặc điểm này để quy hoạch phát triển vùng nuôi trồng thuỷ sản nước lợ.
Hà Tĩnh có nguồn nước mặt phong phú nhờ hệ thống sông suối hồ đập khá dày
đặc. Theo số liệu của chi cục Quản lý nước và Công trình thuỷ lợi: Hà Tĩnh có 266 hồ
chứa có dung tích trữ trên 600.10
6
m
3
, 282 trạm bơm có tổng lưu lượng 338.000m
3
/s, 15

đập dâng tổng lưu lượng cơ bản 6,9m
3
/s với trữ lượng này hiện tại Hà Tĩnh đã phục vụ
tưới được 47.737 ha/vụ. Tuy nhiên việc sử dụng nước phục vụ cho sản xuất nông nghiệp
và sinh hoạt còn bị hạn chế do bị nhiễm mặn ở hạ lưu vào mùa khô và lũ lụt mùa mưa.
Nước ngầm ở Hà Tĩnh tuy chưa có số liệu điều tra toàn diện nhưng qua các số liệu
đã thu thập được cho thấy mức độ nông sâu thay đổi phụ thuộc địa hình và lượng mưa
trong mùa. Thông thường vùng đồng bằng ven biển có mực nước ngầm nông, miền trung
du và miền núi nước ngầm thường sâu và dễ bị cạn kiệt vào mùa khô, ảnh hưởng không
nhỏ đến sinh hoạt của nhân dân trong vùng. Về chất lượng nước ở Hà Tĩnh nhìn chung
khá tốt, thích hợp với sinh trưởng và phát triển của cây trồng cũng như sinh hoạt. Riêng
đối với vùng đồng bằng ven biển thường bị nhiễm mặn do thuỷ triều, gây khó khăn cho
sản xuất và đời sống nhân dân, vì vậy cần kiểm tra độ mặn nước sông trước khi bơm tưới
cho cây trồng. Đặc biệt, Hà Tĩnh có mỏ nước khoáng ở Sơn Kim huyện Hương Sơn, vị trí
thuận lợi cạnh đường Quốc lộ 8 và gần cửa khẩu Quốc tế Cầu Treo rất có điều kiện để
phát triển thành một khu du lịch dưỡng bệnh.
1.3. ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ - XÃ HỘI
1.3.1. Dân số và lao động
Dân số tỉnh Hà Tĩnh tính đến có 1.228.097 người, chiếm 1,7% dân số cả nước,
trong đó dân số nông thôn chiếm 84,79%, (cả nước là 74%). Mật độ dân số trung bình là
204 người/km
2
, cao hơn trung bình toàn vùng Bắc Trung bộ (197 người/km
2
), nhưng
thấp hơn trung bình cả nước (260 người / km
2
).
Dân số gia tăng đã làm cho nhu cầu về đất ở, đất xây dựng, đất canh tác cây lương
thực, thực phẩm tăng theo tạo nên sức ép rất mạnh đến tài nguyên đất vốn đã hạn hẹp của

tỉnh. Dân cư phân bố không đồng đều: tập trung cao ở khu vực đồng bằng phía Đông Bắc
tỉnh, còn dọc đường Hồ Chí Minh dân cư thưa thớt. TP. Hà Tĩnh có mật độ dân số 1612
người/ km
2
, trong khi huyện Hương Khê mật độ dân số chỉ có 79 người trên km
2
, Vũ
Quang 49 người trên km
2
9
Lao động trong độ tuổi khoảng 702 nghìn người, chiếm 51,0% dân số. Lao động
đang làm việc trong các ngành kinh tế là 511,5 ngàn người, trong đó nông - lâm nghiệp
chiếm gần 83%; công nghiệp - xây dựng 7%, còn lại khoảng 10,0% làm việc trong khu
vực dịch vụ. Năm 2005 tỷ lệ lao động thành thị không có việc làm 3,74%.
Lực lượng lao động có tŕnh độ chuyên môn kỹ thuật thấp. Năm 2004 tỷ lệ lao
động qua đào tạo dưới mọi hình thức chỉ khoảng 20%, thấp hơn so trong bình cả nước
(25%).
1.3.2. Kinh tế - xã hội
1.3.2.1. Tăng trưởng kinh tế
Trong giai đoạn 2000-2005, Hà Tĩnh đã hoàn thành và hoàn thành vượt mức nhiều
chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội mà nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh đã đề ra. Tốc độ
tăng GDP khá cao, nông nghiệp phát triển vững chắc. Cơ cấu kinh tế dịch chuyển theo
hướng công nghiệp hóa, tăng dần tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ. Văn hóa xã
hội phát triển mạnh, an ninh trật tự được giữ vững. Đời sống nhân dân được nâng cao cả
về vật chất lẫn tinh thần.
Năm 2005, GDP tính theo giá hiện hành đạt 5.990,7 tỷ đồng, bằng 0,72% GDP cả
nước. (Tính theo giá 94, GDP năm 2005 đạt 4.063,5 tỷ đồng). Tăng trưởng kinh tế ổn
định, giai đoạn sau cao hơn giai đoạn trước, cao hơn trung bình cả nước, nhưng còn thấp
hơn so với các tỉnh lân cận và vùng Bắc Trung bộ.
Nhịp độ tăng GDP nông nghiệp khá cao và ổn định ở mức 4-5%. Trong thời kỳ

2000-2005, tổng sản phẩm ngành nông lâm nghiệp thuỷ sản tăng, bình quân 4,70%/ năm,
cao hơn so với trung bình cả nước (4,0%).
Công nghiệp và xây dựng có nhịp độ tăng khá cao, đạt 14,74%/năm, nhưng do quy
mô của khu vực này còn nhỏ bé, nên đóng góp vào tăng GDP còn bị hạn chế.
Khu vực dịch vụ tăng khá ổn định, cao hơn trung bình vùng Bắc Trung bộ và cả
nước. Trong giai đoạn 2000-2005, nhịp độ tăng dịch vụ đạt 9,32%/năm.
1.3.2.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Trong suốt thời kỳ 2001 - 2005, cơ cấu kinh tế của tỉnh theo GDP có sự chuyển
dịch đúng hướng, phù hợp với xu thế chuyển đổi cơ cấu kinh tế chung của cả nước, theo
xu thế tăng dần tỷ trọng khu vực công nghiệp xây dựng và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng khu
vực nông lâm thủy sản, được thể hiện như sau (bảng 2):
Bảng 1 Cơ cấu các ngành kinh tế qua một số năm
Chỉ tiêu
Đơn
vị tính
Năm
2000
Năm
2001
Năm
2002
Năm
2003
Năm
2004
Năm
2005
Cơ cấu GDP % 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00
1. Nông lâm thủy sản %
51,31 49,89 49,1 48,02 47,02 43,13

10
2. Công nghiệp xây dựng %
13,45 14,05 15,46 18,05 19,84 22,45
3. Dịch vụ %
35,24 36,06 35,44 33,93 33,14 34,42
Khu vực thủy sản nông lâm có tỷ trọng giảm đều trong cơ cấu GDP của tỉnh từ
51,31% năm 2000 xuống còn 43,13% năm 2005. Ngược lại tỷ trọng của khu vực công
nghiệp - xây dựng và khu vực dịch vụ trong GDP tăng dần, tương ứng tăng từ 13,45% và
35,24% năm 2000 lên 22,45% và 34,42% năm 2005.
Nhìn chung, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại
hóa và thay đổi đều ở cả ba khu vực theo hướng dần từng bước hình thành nên cơ cấu
Dịch vụ - Công nghiệp - Nông lâm thủy sản. Tuy nhiên mức độ chuyển dịch kinh tế hiện
nay diễn ra còn chậm, chưa có bước đột phá.
1.3.2.3. Thực trạng phát triển các ngành kinh tế
a. Nông – lâm – ngư – diêm nghiệp
Nông nghiệp
Trong những năm qua nông nghiệp là ngành sản xuất chính, góp phần ổn định đời
sống nhân dân trong tỉnh. Năm 2005, GDP nông nghiệp là 2032 tỷ đồng, chiếm 45,9%
tổng GDP cả tỉnh, gấp 2,32 lần năm 1995, nhưng còn thấp hơn so với chỉ tiêu này của cả
nước (3,11 lần)
Tăng sản lượng một số cây trồng vật nuôi chính:
Trong giai đoạn 2001-2005, sản lượng lương thực tăng trên 10%, do tăng diện tích
gieo trồng (tăng vụ) và tăng năng suất cây trồng. Trong đó tăng sản lượng xấp xỉ 5%.
Trong cùng thời kỳ, sản lượng cây công nghiệp tăng khá cao, nhưng chủ yếu do tăng diện
tích gieo trồng.
Để đảm bảo tăng giá trị sản xuất ổn định như thời gian qua, cần xây dựng một số
hồ chứa nước đa tác dụng, đồng thời cần áp dụng tiến bộ khoa học và kỹ thuật sinh học
vào trồng trọt và chăn nuôi trên diện rộng.
Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp:
Năm 2005, nông nghiệp (trồng trọt và chăn nuôi) chiếm 81,98%, lâm nghiệp:

7,14% và thuỷ sản chiếm 10,88% tổng giá trị sản xuất.
- Trồng trọt
Trong những năm qua ngành trồng trọt đã có những thành công căn bản, năng suất
cây trồng tăng cao, nhất là lúa. Cơ cấu cây trồng được bố trí hợp lý hơn, tỷ trọng cây lâu
năm tăng dần. Tỷ lệ các loại giống mới có năng suất cao, chất lượng tốt được sử dụng
tăng dần. Tuy vậy, ứng dụng các loại giống cây mới vào sản xuất còn hạn chế, nhân ra
diện rộng còn chậm.
- Chăn nuôi
11
Quy mô và chất lượng đàn gia súc, gia cầm tăng dần, nhưng đóng góp của chăn
nuôi vào thu nhập của người dân tăng chậm.
Giá trị sản xuất chăn nuôi trong tổng giá trị sản xuất khu vực nông nghiệp có xu
hướng tăng, năm 2001 chiếm 29,73% tăng lên 31,38% năm 2005.
Tuy vậy, trong suốt thời kỳ 1996-2005, số trâu bò bình quân trên hộ nông nghiệp
hầu như không tăng, bình quân 1,1 con / hộ.
Tổng đàn lợn năm 2005 có 453 nghìn con, tốc độ tăng bình quân 1996-2005 là
3,73%. Hình thức chăn nuôi hộ gia đình có quy mô ngày càng lớn. Đàn lợn tăng khá
nhanh trong giai đoạn 2001-2005, do lương thực bình quân đầu người tăng, từ 264kg năm
1995 lên 378kg/ người năm 2005, và thị trường thức ăn gia súc khá phát triển, nhưng
hiện nay, thị trường tiêu thụ thịt lợn còn nhỏ, do quy mô dân số nhỏ và thu nhập bình
quân đầu người còn thấp, nhất là khu vực nông thôn.
- Thuỷ sản
Hà Tĩnh là tỉnh có ngư trường rộng với 137 km bờ biển, có điều kiện khá thuận lợi
cho phát triển thuỷ sản trong những năm gần đây. Nhưng có những hạn chế như bão, lũ,
nguồn lợi hải sản ven bờ cạn kiệt, suất đầu tư cho nuôi trồng và đánh bắt xa bờ lớn.
Nuôi trồng thủy sản Hà Tĩnh phát triển khá cân đối từ nâng cấp cơ sở hạ tầng nuôi
trồng như hồ ao, đến phát triển các cơ sở cung cấp con giống.
Diện tích nuôi trồng năm 2004 là 5.400 ha, trong đó nước ngọt 2630 ha; nước lợ
2.770 ha.
Hiện có 3 trại giống cá cấp 1 và nhiều trại giống cấp 2, 5 trại giống tôm. Năm

2005 chế biến xuất khẩu thuỷ sản đạt 3.600 tấn. Ngoài ra còn có các cơ sở chế biến nước
mắm phục vụ tiêu dùng nội địa.
-Lâm nghiệp
Hà Tĩnh là tỉnh có tiềm năng phát triển lâm nghiệp, trên cơ sở tái trồng rừng ở
những nơi đã khai thác gỗ chỉ còn trảng cỏ và cây bụi. Trong những năm qua, các dự án
trồng rừng nguyên liệu cho công nghiệp chế biến được thực hiện tốt, góp phần đưa độ
che phủ của rừng tăng nhanh từ 38% năm 2001 lên 43,5% năm 2005, nhưng đóng góp
của ngành vào tăng trưởng kinh tế còn thấp. Giá trị sản xuất lâm nghiệp năm 2005 đạt
183,4 tỷ đồng, trong đó dịch vụ lâm nghiệp là 37,6 tỷ đồng, trồng và nuôi rừng: 29,7 tỷ
đồng, khai thác gỗ và lâm sản đạt gần 15 tỷ đồng.
Kinh tế trang trại nông lâm kết hợp: Hiện nay đã có hơn 1.300 trang trại với tổng
diện tích 12.000 ha chủ yếu là trồng, khoanh nuôi rừng, trồng cây ăn quả và chăn nuôi.
Doanh thu từ trang trại chưa nhiều, đạt khoảng 9-10 tỷ đồng, thu hút được 8.700 lao động
nhưng còn thấp so với tiềm năng. Số trang trại hoạt động có hiệu quả còn ít. Hiện chỉ có
23 trang trại đạt tiêu chuẩn theo quy định của bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn.
12
Chế biến lâm sản: Bao gồm khai thác chế biến nhựa thông và các cơ sở chế biến
lâm sản. Rừng thông cấp tuổi V và IV vào khoảng hơn 9.000 ha, hàng năm cho hơn 4.000
tấn nhựa. Có khoảng 200 cơ sở chế biến lâm sản, chủ yếu là xẻ gỗ xây dựng và đóng đồ
mộc dân dụng. Các ngành này tăng trưởng chậm do thiếu nguyên liệu (nguồn nguyên liệu
chủ yếu là gỗ lậu).
- Diêm nghiệp
Diêm nghiệp là ngành truyền thống của tỉnh, nhưng hiệu quả sản xuất kinh doanh
thấp. Diêm nghiệp được tập trung sản xuất ở 4 huyện: Thạch Hà, Cẩm Xuyên, Kỳ Anh
và Nghi Xuân với sản lượng muối hàng năm đạt 26.000 tấn, trong đó muối i ốt 13.000
tấn. Có 4.000 hộ với hơn 8.000 lao động làm diêm nghiệp. Do làm muối thủ công năng
suất thấp, đời sống của người làm muối còn gặp nhiều khó khăn. Tỷ lệ đói nghèo của
vùng làm muối chiếm 17% (theo tiêu chuẩn cũ), cao hơn mức trung bình của tỉnh.
b. Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
Phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp của tỉnh có hai đặc điểm nổi bật:

(1) Công nghiệp và TTCN của tỉnh còn nhỏ bé đang trong giai đoạn bắt đầu phát
triển. Năm 2005, trên địa bàn của tỉnh có 12.122 cơ sở sản công nghiệp, giải quyết việc
làm thường xuyên cho 28,5 nghìn lao động, bằng 3,9% tổng số lao động đang làm việc
trong các ngành kinh tế cả tỉnh.
(2) Trong thời kỳ 1996-2005, giá trị sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp
tăng khá cao, đạt 14,7%/năm theo xu hướng tăng dần.
Nhờ sự nỗ lực của ngành, trong những năm qua công nghiệp đã có nhiều khởi sắc,
là do:
Công nghiệp và TTCN của tỉnh phát triển đúng hướng, dựa trên các thế mạnh về
tài nguyên và lao động. Tỉnh đã khai thác quặng Titan, khai thác vàng, chế biến dăm gỗ,
sản xuất vật liệu xây dựng cho xuất khẩu và để sử dụng trong nước.
So với 10 năm trước, thiết bị và công nghệ được nâng cấp, trong đó thiết bị khai
thác quặng Titan được đánh giá vào loại hiện đại.
Một số cơ sở công nghiệp chế biến nông lâm sản có quy mô khá đã đi vào hoạt
động. Từ năm 1997 đến nay, trên địa bàn Hà Tĩnh đã có ba doanh nghiệp có quy mô khá
đi vào hoạt động là: nhà máy thủy sản đông lạnh, chế biến dăm gỗ xuất khẩu và chế biến
hoa quả,
Cơ cấu theo ngành: Công nghiệp chế biến chiếm tỷ trọng lớn trong giá trị sản xuất
CN-TTCN trên địa bàn Hà Tĩnh, nhưng có xu hướng giảm. Công nghiệp khai thác mới
được phát triển, có tỷ trọng ngày càng tăng. Công nghiệp sản xuất và phân phối điện
nước chưa phát triển, chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp tiểu thủ
công nghiệp toàn tỉnh.
13
Năm 2005 giá trị sản xuất ngành công nghiệp chế biến đạt 1081 tỷ đồng, trong đó
sản xuất thực phẩm và đồ uống chiếm 34,3%, sản xuất sản phẩm gỗ và lâm sản chiếm
16,9%, sản xuất sản phẩm khoáng phi kim loại chiếm 16,4%, sản xuất đồ gia dụng và bàn
ghế chiếm 10,9%, các sản phẩm khác chiếm tỷ trọng nhỏ.
Về mạng lưới công nghiệp tiểu thủ công nghiệp của tỉnh bố trí khá hợp lý, đảm
bảo chi phí quy đổi thấp, trên cơ sở khai thác lợi thế về tài nguyên, gần nguồn nguyên
liệu, gần nơi tiêu thụ, và ở những nơi có cơ sở hạ tầng phát triển, như nhà máy gạch

Tuynen đã bố trí ở khu mỏ đất sét. Tuy vậy bố trí không gian còn bộc lộ một số hạn chế:
Sản xuất tiểu thủ công nghiệp xen kẽ trong dân vừa gây ô nhiễm môi trường vừa khó
quản lý về chất lượng và tài chính. Vì vậy trong các năm tới, cần xem xét bố trí nhà máy
trong các khu công nghiệp đã được hình thành.
c. Thương mại và du lịch
- Thương mại
Thương mại đã đóng góp đáng kể vào tăng trưởng kinh tế của tỉnh, mặc dù sản
xuất hàng hoá chậm phát triển và sức mua của dân cư còn thấp, số cơ sở và lao động
tham gia làm dịch vụ ngày một tăng, nhưng chủ yếu ở thị xã, thị trấn và một số xã vùng
ven đô thị.
Các trung tâm thương mại của tỉnh đang trong quá trình hình thành, mạng lưới chợ
nông thôn khá phát triển, đảm bảo được nhu cầu trao đổi hàng hóa của người dân. Năm
2000 có 16.548 lao động làm thương mại dịch vụ, bằng 2,86% tổng số lao động toàn tỉnh.
Năm 2005 có khoảng 31.542 lao động, bằng 5,56% tổng số lao động đang làm việc trong
các ngành kinh tế.
Năm 2005, trong tổng mức bán lẻ hàng hoá của các cơ sở nhà nước chiếm 11,8%,
còn lại 88,2% là do thành phần kinh tế tập thể, tư nhân và cá thể thực hiện.
Bên cạnh những kết quả nêu trên, lĩnh vực thương nghiệp còn bộc lộ một số hạn
chế chủ yếu như:
Thiếu chiến lược thị trường, đồng thời còn thiếu các sản phẩm dịch vụ mang bản
sắc riêng, khả năng cạnh tranh còn yếu, chất lượng dịch vụ chưa tương xứng với giá cả;
Số lượng doanh nghiệp làm thương nghiệp tuy nhiều nhưng chủ yếu là các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, vòng quay vốn còn thấp, hiệu quả kinh tế chưa cao.
- Du lịch
Trên địa bàn Hà Tĩnh đã hình thành một số điểm du lịch có ý nghĩa Quốc gia và
Quốc tế như khu lưu niệm Nguyễn Du, khu bảo tồn thiên nhiên Vũ Quang và nhiều điểm
du lịch khác có ý nghĩa vùng và địa phương.
Cơ sở hạ tầng du lịch ngày càng được hoàn thiện, số nhà nghỉ, khách sạn, nhà
hàng ở các khu du lịch tăng về số lượng và chất lượng. Tuy vậy, công tác đảm bảo vệ sinh
môi trường, trật tự an toàn tại các khu du lịch còn nhiền bất cập. Đặc biệt là hệ thống thu

14
gom, chứa và xử lý sơ bộ chất thải tại các điểm du lịch còn chưa đảm bảo yêu cầu vệ sinh
sạch sẽ, nhiều nơi còn thiếu.
Hiện tại, chưa có những sản phẩm du lịch đặc trưng, hấp dẫn đối với khách du lịch
nên ngày lưu trú của khách còn thấp. Du lịch mang tính mùa vụ, khách du lịch đến Hà
Tĩnh chủ yếu vào các dịp lễ hội, kỳ nghỉ hè. Doanh thu du lịch từ khách Quốc tế chiếm tỷ
trọng nhỏ trong tổng số doanh thu. Trong hoạt động lữ hành, việc nối các tour du lịch với
các tỉnh và cả nước còn nhiều hạn chế. Hệ thống khách sạn có quy mô vừa và nhỏ, trang
thiết bị thiếu đồng bộ. Sử dụng nhà nghỉ, khách sạn tại các khu du lịch biển còn thấp, mới
đạt 25-30% tổng số buồng phòng. Tỷ lệ lao động và cán bộ có trình độ nghiệp vụ du lịch
còn thấp.
1.3.2.4. Thực trạng phát triển đô thị và các khu dân cư nông thôn
Thực trạng phát triển đô thị:
Hiện nay toàn tỉnh có 14 đô thị, trong đó 1 thị xã loại IV, TP. Hà Tĩnh đã được
công nhận là đô thị loại III, còn 12 thị trấn đô thị loại V. Hầu hết các đô thị là trung tâm
hành chính, y tế, giáo dục, quản lý nhà nước và thương mại. Dân số đô thị năm 2005
chiếm 10% tổng số dân. Dự báo đến 2020, dân đô thị chiếm 30% tổng số dân, gấp 3 lần
hiện nay. Điều kiện sống của người dân đô thị khá tốt. Bình quân đất ở đô thị từ 150-250
m
2
/hộ. Tầng cao bình quân của các công trình kiến trúc là 2,2 tầng.
Về cơ sở hạ tầng: có 8/14 đô thị có công trình cấp nước công nghiệp, tổng công
suất 32.000 m
3
/ ngày - đêm. Hệ thống giao thông chính có khoảng 36 km, trong đó 80%
đã được nhựa hóa. Tất cả các đô thị đều được cấp điện cho sinh hoạt và sản xuất tốt. Dịch
vụ bưu chính viễn thông ở các đô thị thuận lợi.
Thực trạng phát triển khu dân cư nông thôn:
Cũng như các vùng nông thôn khác ở miền Bắc Việt Nam, dân cư nông thôn tỉnh
Hà Tĩnh đã được hình thành từ rất lâu đời, đến nay đã định hình thành khu quần cư là các

làng, bản, thôn xóm. Đơn vị quản lý của các thôn bản là các hộ gia định, mỗi hộ đều có
diện tích nhà ở, sân, công trình phụ, chuồng trại gia súc, giếng nước, vườn cây, ao cá.
Bình quân đất ở nông thôn toàn tỉnh là 53,52 m
2
/người, 231,6 m
2
/hộ.
Đặc điểm phân bố của các khu dân cư nông thôn như sau :
- Ở vùng đồi núi khu dân cư thường phân bố ở địa hình ven chân đồi hoặc các đồi
thấp thoải có độ dốc dưới 15
o
.
- Ở vùng đồng bằng ven biển, dân cư được phân bố trên các dải cồn cát cao nằm
song song với bờ biển xen kẽ các khu vực sản xuất nông nghiệp, hoặc phân bố dọc theo
các trục đường giao thông chính và ven các con sông lớn của tỉnh.
Do đặc điểm sản xuất của vùng nông thôn nên việc phát triển mở rộng khu dân cư
nông thôn thường gắn chặt với đặc điểm điều kiện tự nhiên của từng địa phương, thông
thường là mở rộng vào đất nông nghiệp xung quanh làng bản.
15
Trong những năm gần đây cùng với việc phát triển của cơ chế thị trường, hướng
mở rộng khu dân cư có nhiều thay đổi. Đất ở nông thôn được mở rộng theo các trục giao
thông thôn, xã. Vừa giải quyết đất ở gắn với hệ thống dịch vụ.
1.3.3. Điều kiện xã hội
1.3.3.1. Giao thông
- Đường bộ:
Hà Tĩnh có 4 đường Quốc lộ chạy qua và 27 tuyến đường tỉnh lộ với tổng chiều
dài 387 km. Nếu tính cả giao thông nông thôn, tổng chiều dài đường bộ trên địa bàn tỉnh
là 2.917 km.
Tuy đạt được những thành tựu nêu trên, nhưng hiện nay 80% đường bộ được đánh
giá vào loại xấu và rất xấu, nhiều đoạn đường bị ngập trong mùa mưa. Hệ thống cầu,

ngầm còn thiếu về số lượng và kém về chất lượng.
- Đường sắt:
Đường sắt đi qua địa phận Hà Tĩnh dài 70 km (qua Đức Thọ, Vũ Quang, Hương
Khê). Trên tuyến đường sắt có 11 ga, trong đó cá hai ga hàng hóa là Hương Phố và Phúc
Trạch, góp phần trao đổi hàng hóa thuận lợi cho các điểm dân cư lân cận.
1.3.3.2. Thủy lợi
Các công trình thuỷ lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp đã được chú trọng đầu tư
xây dựng, đang bước vào thời kỳ phát huy tác dụng. Tuy vậy, do điều kiện địa hình chia
cắt, đất dốc, thuỷ lợi chưa đáp ứng được nhu cầu sử dụng nước trong nông nghiệp, thiếu
nước khá trầm trọng vào các tháng gió Tây nam hoạt động mạnh ảnh hưởng đến năng
suất cây trồng.
1.3.3.3. Giáo dục và đào tạo
Hà Tĩnh là một trong các tỉnh có hệ thống giáo dục phổ thông phát triển nếu so với
cùng mặt bằng mức sống. Hệ thống giáo dục đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu học tập
trong tỉnh. Đến năm 2005 tỉnh có 1 trường cao đẳng sư phạm, 4 trường trung học chuyên
nghiệp, 1 trường dân tộc nội trú.
Số học sinh trên 1 vạn dân tăng liên tiếp, năm sau cao hơn năm trước. Năm học
1994-1995, bình quân toàn tỉnh có 2.434 học sinh / vạn dân tăng lên 2.706 học sinh / vạn
dân năm học 2004-2005.
Ngành giáo dục đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ. Hà Tĩnh là tỉnh sớm đạt
tiêu chuẩn Quốc gia về phổ cập giáo dục tiểu học và xóa mù chữ so với cả nước, ngay từ
năm 1999, hoàn thành phổ cập trung học cơ sở năm 2003.
Về chất lượng giáo dục: Tỷ lệ học sinh đi học ở các cấp học đều cao hơn trung
bình cả nước. Tỷ lệ giáo viên trên lớp tính chung cho cả tỉnh năm học 2004-2005, ở tiểu
16
học là 1,28 (quy định là 1,15); ở trung học cơ sở là 1,94 (quy định là 1,85); ở trung học
phổ thông là 1,83 (quy định là 2,1). Học sinh tốt nghiệp phổ thông trung học đạt tỷ lệ cao.
Tuy vậy, bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được, giáo dục đào tạo vẫn còn
một số khó khăn như:
Chương trình và trang thiết bị đào tạo còn lạc hậu, chưa đáp ứng được nhu cầu

phát triển kinh tế về lao động kỹ thuật có tay nghề cao.
Mạng lưới trường cần mở rộng để đáp ứng cho nhu cầu học tập ngày càng tăng.
Đối với địa hình các xã vùng núi, khoảng cách đến trường của học sinh còn xa,
cần xem xét lại quy mô, địa điểm trường lớp cho phù hợp.
1.3.3.4. Y tế
Mạng lưới y tế chăm sóc sức khỏe phát triển khá hoàn chỉnh, từ tỉnh xuống xã, đáp
ứng được nhu cầu chữa trị bệnh cho nhân dân trong tỉnh. Đội ngũ cán bộ y tế được tăng
cường, năm 2005 bình quân 4,29 bác sỹ/1 vạn dân. Hiện nay, 34,8% số xã có bác sỹ, với
trên 700 cán bộ y tế đang công tác tại các thôn bản.
Cơ sở vật chất ngành y tế được củng cố. Toàn tỉnh có 3.521 giường bệnh, trong đó
số giường bệnh viện là 1890 giường, bằng 53,6% tổng số giường. Bệnh viện đa khoa tỉnh
được xây dựng mới với 450 giường bệnh, có đầy đủ các khoa từ lâm sàng đến cận lâm
sàng, trang thiết bị ngày một đầy đủ và hiện đại hơn.
Công tác KHHGĐ được triển khai, thực hiện tốt. Bằng nhiều hình thức, biện pháp
giáo dục, tăng cường truyền thông, và dịch vụ phù hợp đã tạo nhiều chuyển biến về nhận
thức trong mọi tầng lớp nhân dân, góp phần hạn chế các cặp vợ chồng sinh con thứ 3 trở
lên.
Từ năm 1995 đến nay công tác chăm sóc sức khỏe cộng đồng được chú ý mở rộng
về quy mô và nâng cao chất lượng dịch vụ, đảm bảo chữa các bệnh thông thường, chủ
động phòng chống và kịp thời dập tắt các dịch bệnh xã hội có khả năng lây lan cho nhân
dân. Nhiều chương trình Quốc gia về y tế được quan tâm sát sao, thực hiện có hiệu quả.
Tuy vậy, ngành y tế tỉnh cần phải nâng cấp các cơ sở vật chất phục vụ nhu cầu
khám chữa bệnh đang xuống cấp, đầu tư máy móc, thuốc men, đào tạo dược sỹ, bác sỹ
(cấp một) giỏi của một số chuyên khoa thiếu như sản, chụp cắt lớp.
1.3.3.5. Văn hóa xã hội, thể dục thể thao
Công tác văn hóa, thông tin, thể dục thể thao, xây dựng làng văn hóa được triển
khai trên diện rộng và đạt kết quả tốt. Phục vụ tốt, kịp thời các ngày lễ lớn của dân tộc và
lễ hội truyền thống ở các địa phương. Đến năm 2005 đã có 78% gia đình văn hóa, tăng
30% so với năm 2000.
Công tác tôn tạo, bảo quản và giữ gìn các di tích lịch sử, văn hoá được chú trọng,

các thiết chế văn hoá từ huyện đến cơ sở được tăng cường.
17
Lĩnh vực thông tin, phát thanh và truyền hình đã thực hiện tốt vai trò làm công cụ
tuyên truyền đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Đến nay 100% số
xã thị trấn được nghe phát thanh và xem truyền hình.
Tuy nhiên, cơ sở vật chất của ngành văn hóa còn thiếu về số lượng và kém về chất
lượng chưa tương xứng với tên gọi của nó. Hiện nay cả tỉnh có 1 trung tâm văn hóa cấp
tỉnh và 11 trung tâm văn hóa huyện, thị nhưng đã xuống cấp, một số trung tâm còn ở nhà
tạm. Vùng sâu, vùng xa đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân còn kém, thiếu thông
tin, hiểu biết về pháp luật còn hạn chế. Vì vậy để đem tri thức đến với dân, công tác văn
hoá, thông tin và thể dục thể thao cần được tiếp tục đẩy mạnh trong các năm tới.
1.3.3.6. Bưu chính viễn thông
Bưu chính viễn thông trong thời kỳ 1996-2005 đã có bước phát triển tích cực, tăng
cả về số lượng và chất lượng dịch vụ. Năm 2004 số máy điện thoại là 3,2 máy/100 dân,
cao hơn 10 lần so với năm 1995. Số bưu cục bình quân km2 là 1,1 cao hơn trung bình
toàn vùng. Đây là sự phát triển tích cực, tuy nhiên, mật độ sử dụng điện thoại trên toàn
tỉnh vẫn ở mức thấp so với trung bình toàn vùng Bắc Trung bộ và phân bố không đồng
đều.
Xây dựng cơ sở hạ tầng đã đạt được nhiều thành tựu, song còn bộc lộ một số hạn
chế chủ yếu như: Đầu tư xây dựng còn dàn trải. Huy động nội lực trong dân còn hạn chế
do thu nhập của nhân dân còn thấp. Với cơ chế đầu tư như hiện nay, tỉnh thiếu chủ động.
Vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước còn thấp. Các dự án đầu tư nhỏ, thiếu các dự án đầu
tư lớn có đủ khả năng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
1.4. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI
1.4.1. Thuận lợi
Nhìn chung vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, các nguồn tài nguyên và cảnh quan
môi trường của tỉnh có nhiều thuận lợi cho phát triển nền kinh tế - xã hội:
Hà tĩnh có vị trí địa lý tương đối thuận lợi so với các tỉnh miền Trung. Đường
quốc lộ 1A đã và đang được nâng cấp sẽ hoàn thành trong năm 2003, cùng với các tuyến
đường giao thông nội tỉnh đang được xây dựng và hoàn thành sẽ tạo thành 1 hệ thống

giao thông thuận lợi. Hệ thống cảng biển nước sâu Vũng áng đang được quan tâm xây
dựng, tương lai sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc hợp tác với Lào, Thái Lan và các nước
khác trong khu vực. Mạng lưới điện quốc gia chạy qua tỉnh, đặc biệt có 1 trong 4 trạm bù
của đường siêu cao áp 500 KW là ưu thế cho phép Hà tĩnh có đủ điều kiện cung cấp năng
lượng phát triển các khu công nghiệp lớn, chủ động tưới tiêu trong công nghiệp và sinh
hoạt.
Nguồn tài nguyên thiên nhiên phục vụ cho sản xuất nông, lâm nghiệp, thuỷ sản và
xây dựng khá đa dạng và phong phú. Trên cơ sở đó có thể bố trí 1 cơ cấu kinh tế theo
ngành và lãnh thổ toàn diện và hợp lý, đặc biệt với chiều dài bờ biển là 137km, tạo điều
18
kiện tự nhiên thuận lợi không chỉ cho nuôi trồng và đánh bặt thuỷ sản mà có thể phát
triển thành làng kinh tế ven biển tổng hợp từ dịch vụ khai thác, cơ khí sữa chữa đến chế
biến và các ngành nghề đi kèm khác như ở Xuân Hội, Xuân Hải, Thạch Kim, Cẩm
Nhượng, Kỳ Hà, tạo điều kiện chuyển dịch cơ cáu kinh tế trong thời gian tới.
- Du lịch sinh thái, nhân văn và lịch sử là một lợi thế khác của Hà Tĩnh các tuyến
du lịch dọc bờ biển đang được hình thành như bãi tắm Xuân Thành, Thạch Hải, Thiên
Cầm, Đèo Con, Hà Tĩnh vẫn có nhiều di tích lịch sử đã được xếp hạng (Đền bà chúa
Liễu, Đền Lê Khôi, nguyễn Biểu, Phan Đình Phùng, Đại thi hào Nguyễn Du, Danh y Hải
Thượng Lãn Ông và các khu du lịch sinh thái như Bến Tam Soa, rừng bảo tồn thiên nhiên
Kẽ gỗ, rừng nguyên sinh Vũ Quang ) thu hút du khách thập phương cùng các ngành
nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước.
- Nguồn nhân lực của Hà Tĩnh là một lợi thế lớn: Người Hà Tĩnh cần cù, thông
minh sáng tạo mạnh dạn đi vào hoạt động trong các lĩnh vực mới. Nhân dân Hà Tĩnh có
tinh thần cách mạng, Đảng bộ Hà tĩnh có nhiều kinh nghiệm trong quản lý kinh tế - xã
hội, đây là một tiềm lực to lớn cho phát triển .
1.4.2. Khó khăn và hạn chế
- Địa hình phức tạp, chia cắt nhiều, độ dốc lớn, đồi núi trọc nhiều, đất canh tác
thường bị xói mòn, rửa trôi, khí hậu thời tiết khắc nghiệt, mưa bão lũ lụt thường xuyên,
gió tây nóng, gây nhiều bất lợi cho sản xuất nông nghiệp. Tài nguyên rừng suy giảm, hệ
thống thủy văn dốc, hạn chế đến khả năng điều tiết nguồn nước (đặc biệt trong mùa khô)

và bảo vệ môi trường.
- Từ khi tách tỉnh, tuy đã có nhiều cố gắng, nhưng nhìn chung tổng thể thì hạ tầng
vẫn còn thiếu thốn, chất lượng thấp, không đồng bộ, kém phát triển là hạn chế đầu tiên
của Hà Tĩnh. Nó ảnh hưởng khá nặng nề đối với quá trình phát triển kinh tế và gọi vốn
đầu tư từ bên ngoài.
- Dân số nông thôn còn chiếm tỷ trọng cao gần 96 %, sức ép giải quyết việc làm lớn.
Khả năng tạo việc làm cho người lao động và khả năng tích luỹ tái đầu tư cũng bị hạn
chế, cho dù tốc độ tăng dân số của tỉnh có được giảm.
- Lực lượng lao động tuy dồi dào nhưng chất lượng chưa đáp ứng yêu cầu, thiếu thợ
tay nghề giỏi, thiếu người có kinh nghiệm sản xuất, trình độ công nghệ lạc hậu chủ yếu là
thủ công. Do đó, việc đào tạo và đào tạo lại đội ngũ lao động nhằm thích nghi với nhu
cầu phát triển và quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế của tỉnh là một nhu cầu bức xúc
trước mắt cũng như lâu dài.
- Thị trường chưa phát triển, vốn thiếu, năng lực tiếp cận, khai thác và tạo thị
trường mới của cán bộ và nhân dân Hà tĩnh còn yếu.
- Chênh lệch về khoảng cách thu nhập và đời sống so với các tỉnh lân cận cũng
như với cả nước làm cho Hà Tĩnh khó phát huy nội lực để vực lên đạt mức bình quân của
cả nước trong giai đoạn tới.
19
CHƯƠNG 2. ĐÁNH GIÁ RỦI RO KHÍ HẬU VÀ TÁC ĐỘNG TIỀM NĂNG
CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU ĐẾN HỆ THỐNG SINH KẾ CHO NGƯỜI
NGHÈO TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ TĨNH
2.1. ẢNH HƯỞNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TỚI VIỆT NAM
2.1.1. Ảnh hưởng của BĐKH tới Việt Nam trong những năm qua
Theo số liệu quan trắc, biến đổi của các yếu tố khí hậu ở Việt Nam có
những
điểm đáng lưu ý
sau:
- Nhiệt độ. Trong khoảng 50 năm qua (1951 - 2000), nhiệt độ trung bình
năm

ở Việt Nam đã tăng lên 0,7
o
C. Nhiệt độ trung bình năm của 4 thập kỷ gần đây (1961
-
2000) cao hơn trung bình năm của 3 thập kỷ trước đó (1931- 1960). Nhiệt độ
trung
bình năm của thập kỷ 1991 - 2000 ở Hà Nội, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh
đều
cao hơn trung bình của thập kỷ 1931 - 1940 lần lượt là 0,8; 0,4 và 0,6
o
C. Năm
2007,
nhiệt độ trung bình năm ở cả 3 nơi trên đều cao hơn trung bình của thập kỷ 1931
-
1940 là 0,8 - 1,3
o
C và cao hơn thập kỷ 1991 - 2000: 0,4 -
0,5
o
C.
- Lượng mưa. Trên từng địa điểm, xu thế biến đổi của lượng mưa trung
bình
năm trong 9 thập kỷ vừa qua (1911- 2000) không rõ rệt theo các thời kỳ và trên
các
vùng khác nhau: có giai đoạn tăng lên và có giai đoạn giảm
xuống.
- Mực nước biển. Theo số liệu quan trắc trong khoảng 50 năm qua ở các
trạm
Cửa Ông và Hòn Dấu, mực nước biển trung bình đã tăng lên khoảng 20 cm, phù
hợp

với xu thế chung của toàn
cầu.
- Số đợt không khí lạnh ảnh hưởng tới Việt Nam giảm đi rõ rệt trong hai
thập
kỷ gần đây (cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI). Năm 1994 và năm 2007 chỉ có 15-16
đợt
không khí lạnh bằng 56% trung bình nhiều năm. 6/7 trường hợp có số đợt không
khí
lạnh trong mỗi tháng mùa đông (XI - III) thấp dị thường (0-1 đợt) cũng rơi vào 2
thập
kỷ gần đây (3/1990, 1/1993, 2/1994, 12/1994, 2/1997, 11/1997). Một biểu hiện
dị
thường gần đây nhất về khí hậu trong bối cảnh BĐKH toàn cầu là đợt không khí
lạnh
gây rét đậm, rét hại kéo dài 38 ngày trong tháng 1 và tháng 2 năm 2008 gây thiệt
hại
lớn cho sản xuất nông
nghiệp.
- Bão. Vào những năm gần đây, số cơn bão có cường độ mạnh nhiều hơn,
quỹ
đạo bão dịch chuyển dần về các vĩ độ phía nam và mùa bão kết thúc muộn hơn,
nhiều
cơn bão có quỹ đạo di chuyển dị thường
hơn.
- Số ngày mưa phùn trung bình năm ở Hà Nội giảm dần trong thập kỷ 1981
-
1990 và chỉ còn gần một nửa (15 ngày/năm) trong 10 năm gần
đây.
2.1.2. Ảnh hưởng của BĐKH tới Việt Nam trong tương lai
20

Nhiệt độ trung bình ở Việt Nam có thể tăng lên 3
0
C vào năm
2100.
Lượng mưa có xu thế biến đổi không đồng đều giữa các vùng, có thể tăng
(từ
0% đến 10%) vào mùa mưa và giảm (từ 0% đến 5%) vào mùa khô. Tính biến động
của
mưa tăng
lên.
Mực nước biển trung bình trên toàn dải bờ biển Việt Nam có thể dâng lên 1
m
vào năm
2100.
Việt Nam sẽ là một trong 5 nước bị ảnh hưởng nhiều nhất của biến đổi khí hậu.
Tác động lớn nhất là do nước biển dâng và các hiện tượng thời tiết cực đoan. Biến đổi khí
hậu sẽ làm: thiên tai và các hiện tượng thời tiết cực đoan gia tăng, tăng dòng chảy mùa lũ,
giảm dòng chảy mùa kiệt… Những thay đổi của môi trường tự nhiên sẽ ảnh hưởng đến
toàn bộ các lĩnh vực, ngành nghề của kinh tế - xã hội.
2.2. RỦI RO KHÍ HẬU VÀ TÁC ĐỘNG TIỀM NĂNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ
HẬU ĐẾN HỆ THỐNG SINH KẾ CHO NGƯỜI NGHÈO
2.2.1. Thực trạng đói nghèo trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh
Hà Tĩnh là tỉnh ven biển luôn phải đối mặt với thiên tai xảy ra liên tiếp như hạn
hán, lũ lụt, rét hại. Những người nghèo nhất, thường tập trung ở các vùng nông thôn, đặc
biệt ở vùng ven biển và các khu vực miền núi. Điều đó tạo ra những khó khăn to lớn đối
với sản xuất cũng như đời sống kinh tế xã hội của người dân.
Giai đoạn 2001-2005:
Tỷ lệ hộ nghèo (theo tiêu chí cũ) trên tổng số hộ dân qua các năm như sau:
- Năm 2001 tổng số hộ nghèo toàn tỉnh 6.659 hộ, chiếm 28,86%
- Năm 2002 tổng số hộ nghèo toàn tỉnh 74.745 hộ, chiếm 24,71%

- Năm 2003 tổng số hộ nghèo toàn tỉnh 63.255 hộ, chiếm 20,20%
- Năm 2004 tổng số hộ nghèo toàn tỉnh 53.932 hộ, chiếm 16,25%
- Năm 2005 tổng số hộ nghèo toàn tỉnh 41.058 hộ, chiếm 12,50%
Giai đoạn 2006-2010: (theo tiêu chí mới) số hộ nghèo toàn tỉnh đầu năm 2006 là
120.480 hộ, chiếm 3,62%
- Cuối năm 2006 tổng số hộ nghèo toàn tỉnh 105.843 hộ, chiếm 33,41%;
- Cuối năm 2007 tổng số hộ nghèo toàn tỉnh 102.775 hộ, chiếm 31,86%;
- Cuối năm 2008 tổng số hộ nghèo toàn tỉnh 86.496 hộ, chiếm 26,63% (rà soát
theo Chỉ thị 03 của Uỷ ban nhân dân tỉnh) tổng số hộ nghèo đến tháng 7 năm 2008 toàn
tỉnh có 43.772 hộ, chiếm 13,10%; hộ cận nghèo 58.230 hộ chiếm 17,42%;
- Cuối năm 2009 tổng số hộ nghèo toàn tỉnh 42.672 hộ chiếm 12,69%; Hộ cận
nghèo 56.436 hộ chiếm 16,78%;
- Dự kiến đến cuối năm 2010 tổng số hộ nghèo toàn tỉnh khoảng 33 ngàn hộ,
chiếm xấp xỉ 10% và hộ cận nghèo còn khoảng 10%; hiện nay hộ nghèo còn 12,1%
nhưng vì ảnh hưởng nặng nề bởi 2 cơn lũ cho nên hộ nghèo không không giảm được như
dự kiến ban đầu.
21
Bảng 2 Hộ nghèo trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn 2006-2009
TT
Huyện, thành
phố, TX
2006 2007 2008 2009
Tổng số
hộ
Hộ
nghèo Tỷ lệ
Tổng số
hộ
Hộ
nghèo Tỷ lệ

Tổng số
hộ
Hộ
nghèo Tỷ lệ
Tổng số
hộ
Hộ
nghèo Tỷ lệ
1 Kỳ Anh
41,1
01
15,2
11
37.0
1
44,0
25
16,1
74
36.7
4
43,8
52
14,3
13
32.6
4
47,1
19
8,1

41 17.28
2 Cẩm Xuyên
38,3
67
14,3
90
37.5
1
38,9
99
13,0
51
33.4
6
39,1
10
11,2
30
28.7
1
40,5
59
5,5
77 13.75
3 Thạch Hà
33,8
08
11,6
84
34.5

6
34,1
92
10,2
94
30.1
1
34,6
52
8,9
93
25.9
5
35,3
26
4,0
87 11.57
4 Can Lộc
31,9
20
10,2
91
32.2
4
32,2
89
9,5
22
29.4
9

32,2
95
7,7
80
24.0
9
33,9
87
3,8
76 11.40
5 Lộc Hà
20,1
27
6,5
53
32.5
6
20,5
51
6,1
92
30.1
3
20,8
03
5,3
72
25.8
2
21,3

80
3,4
32 16.05
6 Nghi Xuân
24,6
10
6,4
20
26.0
9
24,9
55
5,1
66
20.7
0
25,1
65
4,1
95
16.6
7
25,3
80
3,4
45 13.57
7 Đức Thọ
29,7
10
8,8

29
29.7
2
29,7
53
6,9
54
23.3
7
29,7
10
5,6
62
19.0
6
30,9
11
2,2
40 7.25
8 Hương Sơn
31,5
62
12,5
99
39.9
2
32,0
33
13,0
03

40.5
9
32,0
73
12,2
71
38.2
6
33,1
88
4,2
04 12.67
9 Hương Khê
27,0
52
12,6
19
46.6
5
27,0
15
15,0
41
55.6
8
27,8
74
10,7
89
38.7

1
27,9
26
4,0
68 14.57
10 Vũ Quang
8,0
91
3,9
50
48.8
2
8,3
26
3,9
56
47.5
1
8,4
75
4,0
28
47.5
3
8,6
68
2,1
85 25.21
11 TX: Hồng Lĩnh
9,4

60
1,2
76
13.4
9
9,6
02
1,1
29
11.7
6
9,6
07
9
91
10.3
2
9,7
72
6
50 6.65
12 TP: Hà Tĩnh
20,9
94
2,0
21 9.63
20,8
37
2,2
93

11.0
0
21,1
48
8
45 4.00
22,0
42
7
67 3.48
Tổng cộng
316,8
02
105,8
43
33.4
1
322,5
77
102,7
75
31.8
6
324,7
64
86,4
69
26.6
3
336,2

58
42,6
72 12.69
22
Nguồn:[Báo cáo Công tác xoá đói giảm nghèo giai 2001-2010 Tỉnh Hà Tĩnh]
23
2.2.2. Những tác động nghiêm trọng của biến đổi khí
hậu
a) Tác động của nước biển
dâng
Hà Tĩnh là tỉnh ven biển vùng Bắc Trung Bộ, Hà Tĩnh có 137 km bờ biển có nhiều
cảng và cửa sông lớn nhiều vùng đất thấp ven biển. Những vùng
này
hàng năm phải
chịu ngập lụt nặng nề trong mùa mưa và hạn hán, xâm nhập mặn
trong
mùa khô. BĐKH
và nước biển dâng sẽ làm trầm trọng thêm tình trạng nói trên,
làm
tăng diện tích
ngập lụt, gây khó khăn cho thoát nước, tăng xói lở bờ biển và
nhiễm
mặn nguồn
nước ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp và nước sinh hoạt, gây rủi
ro
lớn đối với
các công trình xây dựng ven biển như đê biển, đường giao thông, bến
cảng,
các nhà máy,
các đô thị và khu dân cư ven biển. Mực nước biển dâng và nhiệt độ

nước
biển tăng ảnh
hưởng đến các hệ sinh thái biển và ven biển, gây nguy cơ đối với các
rạn
san hô và rừng
ngập mặn, ảnh hưởng xấu đến nền tảng sinh học cho các hoạt
động
khai thác và
nuôi trồng thủy sản ven biển. Đòi hỏi phải

đầu tư rất lớn để xây dựng và củng cố hệ
thống đê biển, nhằm ứng phó với mực
nước
biển dâng, phát triển hạ tầng kỹ thuật, di
dời và xây dựng các khu dân cư và đô thị

khả năng thích ứng cao với nước biển
dâng.
b) Tác động của sự nóng lên toàn
cầu
Nhiệt độ tăng lên ảnh hưởng đến các hệ sinh thái tự nhiên, làm dịch chuyển
các
ranh giới nhiệt của các hệ sinh thái lục địa và hệ sinh thái nước ngọt, làm thay đổi

cấu các loài thực vật và động vật ở một số vùng, một số loài có nguồn gốc ôn đới và
á
nhiệt đới có thể bị mất đi dẫn đến suy giảm tính đa dạng sinh
học.
Đối với sản xuất nông nghiệp, cơ cấu cây trồng, vật nuôi và mùa vụ có thể
bị

thay đổi ở một số vùng. Nhiệt độ tăng và tính biến động của nhiệt độ lớn hơn, kể cả
các nhiệt độ
cực
đại và cực tiểu, cùng với biến động của các yếu tố thời tiết khác và
thiên tai làm
tăng
khả năng phát triển sâu bệnh, dịch bệnh dẫn đến giảm năng suất
và sản lượng,
tăng
nguy cơ và rủi ro đối với nông nghiệp và an ninh lương
thực.
Nhiệt độ tăng, độ ẩm cao làm gia tăng sức ép về nhiệt đối với cơ thể con
người,
nhất là người già và trẻ em, làm tăng bệnh tật, đặc biệt là các bệnh nhiệt đới,
bệnh
truyền nhiễm thông qua sự phát triển của các loài vi khuẩn, các côn trùng và vật
chủ
mang bệnh, chế độ dinh dưỡng và vệ sinh môi trường suy
giảm.
Sự gia tăng của nhiệt độ còn ảnh hưởng đến các lĩnh vực khác như năng
lượng,
giao thông vận tải, công nghiệp, xây dựng, du lịch, thương mại,… liên quan đến
chi
phí gia tăng cho việc làm mát, thông gió, bảo quản và vận hành thiết bị, phương
tiện,
sức bền vật
liệu.
c) Tác động của các hiện tượng khí hậu cực đoan và thiên
tai
Sự gia tăng của các hiện tượng khí hậu cực đoan và thiên tai, cả về tần số


cường độ do BĐKH là mối đe dọa thường xuyên, trước mắt và lâu dài đối với tất
cả
24
các lĩnh vực, các vùng và các cộng đồng. Bão, lũ lụt, hạn hán, mưa lớn, nắng nóng,
tố
lốc là thiên tai xảy ra hàng năm gây thiệt hại cho sản
xuất
và đời
sống của nhân dân
trong tỉnh.
BĐKH sẽ làm cho các thiên tai nói trên trở nên ác liệt hơn và có thể trở
thành
thảm họa, gây rủi ro lớn cho phát triển kinh tế, xã hội đặc biệt ảnh hưởng tới những
người nghèo vùng ven biển, xoá đi những thành
quả
nhiều năm của sự phát triển.
2.2.3. Tác động tiềm tàng của biến đổi khí hậu đối với hệ thống sinh kế
Các phân tích cho thấy BĐKH có những tác động tiềm tàng đến mọi lĩnh vực kinh
tế xã hội của Hà Tĩnh. BĐKH làm tăng khả năng bị tổn thương và tạo nguy cơ làm chậm
hoặc đảo ngược quá trình phát triển.
Những người nghèo nhất, thường tập trung ở các vùng nông thôn, đặc biệt ở vùng
ven biển và các khu vực miền núi là đối tượng chịu nguy cơ tổn thương lớn nhất do
BĐKH.
Khả năng tổn thương cần được đánh giá đối với từng lĩnh vực, khu vực và cộng
đồng, cả hiện tại và tương lai. Khả năng tổn thương do BĐKH (bao gồm cả những biến
động khí hậu và các hiện tượng khí hậu cực đoan) đối với một hệ thống phụ thuộc vào
tính chất, độ lớn, mức độ biến động khí hậu và những áp lực do BĐKH mà hệ thống đó
phải hứng chịu, tính nhạy cảm cũng như năng lực thích ứng của hệ thống đó.
Các khu vực dễ bị tổn thương bao gồm dải ven biển (kể cả những đồng bằng, đặc

biệt là những vùng hàng năm thường chịu ảnh hưởng của bão, nước dâng do bão, lũ lụt),
vùng núi (nhất là những nơi thường xảy ra lũ quét, sạt lở đất)
a. Tác động của biến đổi khí hậu đối với tài nguyên
nước
Tài nguyên nước đang chịu thêm nguy cơ suy giảm do hạn hán ngày một tăng

một số vùng, mùa. Khó khăn này sẽ ảnh hưởng đến nông nghiệp, cung cấp nước

nông thôn, thành thị và sản xuất
điện.
Chế độ mưa thay đổi có thể gây lũ lụt nghiêm trọng vào mùa mưa, và hạn
hán
vào mùa khô, gây khó khăn cho việc cấp nước và tăng mâu thuẫn trong sử dụng
nước.
b. Tác động của biến đổi khí hậu đối với nông nghiệp
BĐKH có tác động lớn đến sinh trưởng, năng suất cây trồng, thời vụ gieo
trồng,
làm tăng nguy cơ lây lan sâu bệnh hại cây trồng. BĐKH ảnh hưởng đến sinh sản,
sinh
trưởng của gia súc, gia cầm, làm tăng khả năng sinh bệnh, truyền dịch của gia súc,
gia
cầm.
BĐKH có khả năng làm tăng tần số, cường độ, tính biến động và tính cực
đoan
của các hiện tượng thời tiết nguy hiểm như bão, tố, lốc, các thiên tai liên quan
đến
nhiệt độ và mưa như thời tiết khô nóng, lũ lụt, ngập úng hay hạn hán, rét hại,
xâm
nhập mặn, sâu bệnh, làm giảm năng suất và sản lượng của cây trồng và vật
nuôi.

25

×