Tải bản đầy đủ (.docx) (45 trang)

ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CÁ TRA, CÁ BASA ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (385.27 KB, 45 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KINH TẾ QUẢN TRỊ KINH DOANH
ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CÁ TRA,
CÁ BASA ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở
ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
GVHD: Mai Văn Nam
Nhóm thực hiện:
Trương Minh Chiến B1309249
Dương Thanh Nhi B1309301
Võ Minh Nhựt B1309305
Mai Thị Thu B1309333
Nguyễn Thị Minh Thùy B1309334
Lai Nguyễn Phương Toàn B1309342
Nguyễn Thị Thanh Trúc B1309349
1
CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU
1.1 LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong hơn 10 năm trở lại đây, ngành thủy sản ở nước ta đã có những bước phát
triển nhanh và ổn định, góp phần quan trọng vào sự tăng trưởng của nền kinh tế quốc
dân. Tỷ trọng của thủy sản trong khối nông, lâm và ngư nghiệp và trong nền kinh tế quốc
dân tăng dần qua các năm. Ngành thủy sản đã trở thành ngành kinh tế quan trọng, giúp
chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp nông thôn và góp phần rất lớn trong việc xoá đói giảm
nghèo, cải thiện cuộc sống của cộng đồng cư dân không chỉ đồng bằng, nông thôn ven
biển, mà cả ở các vùng núi, trung du và Tây nguyên.
Ngày nay, Việt Nam đang trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy việc mở rộng quan hệ hợp tác, đẩy mạnh hoạt động ngoại
thương đóng vai trò hết sức quan trọng nhằm tận dụng và phát triển tối đa mọi nguồn lực
sẵn có, từ đó nâng cao tính cạnh tranh và hiệu quả của sự phát triển đất nước. Trong khi
đó, thuỷ sản là mét trong những ngành kinh tế mũi nhọn và là thế mạnh của Việt nam.
Trong những năm gần đây kim ngạch xuất khẩu của Việt nam không ngừng tăng nhanh,


đặc biệt là kim nghạch xuất khẩu thuỷ sản chiếm một tỷ trọng lớn. Mặt hàng cá tra và cá
basa ngày càng được người tiêu dùng trong nước và trên toàn thế giới ưa chuộng. Việc đó
đã góp phần quan trọng trong sự phát triển thuỷ sản nói riêng và kinh tế nói chung của
Việt nam.
Tính đến hết tháng 10/2011, kim ngạch xuất khẩu thủy sản Việt Nam đạt gần 5 tỷ
USD, năm 2011, chế biến thủy sản Việt Nam là ngành công nghiệp có tốc độ phát triển
mạnh và ổn định, góp phần quan trọng vào sự tăng trưởng của nền kinh tế nước ta. Doanh
số xuất khẩu thủy sản tăng liên tục qua các năm với mức tăng khoảng 15 - 20%/năm. Chỉ
trong 10 năm, thủy sản Việt Nam liên tục tăng trưởng với doanh số xuất khẩu tăng gấp 3
lần, từ 2 tỷ USD năm 2002 đến 6 tỷ USD năm 2011.
( />Theo khảo sát, mặt hàng cá tra, cá basa Việt Nam được đánh giá là nhóm thủy sản
có tốc độ tăng nhanh nhất thế giới (2008), xuất khẩu đến 127 quốc gia và vùng lãnh thổ
với tổng sản lượng trên 640.000 tấn sản phẩm, đạt giá trị hơn 1.4 tỷ USD tăng trưởng
45% so với 2007, góp phần đưa toàn bộ ngành lần đầu tiên vượt qua ngưỡng 4 tỷ USD.
Cá tra, cá basa là một trong những sản phẩm đại diện cho ngành thủy sản. Vì vậy
cùng với ngành thủy sản, xuất khẩu cá tra cá basa là một trong những vấn đề rất đáng
được quan tâm và được xác định là giữ vai trò đáng kể trong sự phát triển kinh tế- xã hội
của đất nước. Hiểu được sự quan trọng của mặt hàng này; nhóm tôi chọn đề tài “Đánh
2
giá hoạt động xuất khẩu cá tra, cá basa đến sự phát triển kinh tế ở Đồng Bằng Sông
Cửu Long” vì chúng tôi muốn tìm hiểu và phân tích những điểm ưu, nhược điểm của
việc xuất khẩu mặt hàng này trong các năm gần đây từ đó đưa ra những đề xuất nhằm
giảm thiểu những rủi ro trong việc đưa sản phẩm ra thị trường nước ngoài; qua việc cải
thiện, nâng cao chất lượng thịt cá để đảm bảo chất lượng cuộc sống, sức khỏe của người
tiêu dùng trong và ngoài nước.
1.2 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1.2.1 Mục tiêu chung:
Đánh giá sự ảnh hưởng của xuất khẩu cá tra, cá basa đến sự phát triển kinh tế ở
Đồng Bằng Sông Cửu Long.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể:

- Tìm hiểu thực trạng xuất khẩu cá tra, cá basa ở ĐBSCL trong những năm gần
đây.
- Phân tích những thuận lợi và khó khăn của việc xuất khẩu cá tra, cá basa đến thị
trường nước ngoài.
- Chỉ rõ những ảnh hưởng của hoạt động xuất khẩu cá tra, cá basa đến sự phát
triển kinh tế.
- Đề xuất những giải pháp nhằm khắc phục những tác động tiêu cực đến sự phát
triển kinh tế.
1.3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1.3.1 Không gian: Đồng bằng sông Cửu Long
1.3.2 Thời gian: Tháng 1 đến tháng 5 năm 2015
1.3.3 Đối tượng nghiên cứu: Tình trạng xuất khẩu cá tra, cá basa
1.4 LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
Phạm Huy, 2010. Thực trạng và giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu thủy sản ở
ĐBSCL. Đề tài chủ yếu sử dụng các số liệu thứ cấp, phương pháp thống kê mô tả như lập
bảng phân phối tần số, trình bày dữ liệu bảng và biểu đồ để cho chúng ta hiểu rõ hơn về
tình hình xuất khẩu, sản lượng khai thác và nuôi trồng thủy sản ở các tỉnh ĐBSCL qua
các năm hay kim ngạch xuất khẩu của toàn vùng. Phương pháp so sánh các chỉ tiêu cùng
loại hay khác nhau có liên hệ nhau để đánh giá mức độ hoàn thành kế hoạch của một
doanh nghiệp ở các thị trường khác nhau. Phân tích SWOT những điểm mạnh, điểm yếu,
cơ hội hay thách thức đối với các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản ở ĐBSCL, từ đó đưa
ra các giải pháp thích hợp và đẩy mạnh xuất khẩu thủy sản.
3
Võ Thúy Ngân, 2010. Phân tích tình hình xuất khẩu cá tra, cá basa tại vùng
ĐBSCL từ năm 2009 – 2010. Tác giả chủ yếu thu thập số liệu từ báo cáo của niên giám
thống kê, từ sách, báo, tạp chí chuyên ngành (kinh tế nông nghiệp), Internet và các
phương tiện truyền thông để phân tích tình hình xuất khẩu cá tra, cá basa ở ĐBSCL. Đề
tài sử dụng phương pháp thống kê mô tả để phân tích thực trạng nuôi trồng và xuất khẩu
cá tra, cá basa ở ĐBSCL. Sau đó nêu lên những thuận lợi và khó khăn của hoạt động xuất
khẩu cá tra, cá basa ở đây tới các thị trường khác trên thế giới. Từ đó đề xuất một số giải

pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu cá tra, cá ba sa ở ĐBSCL đến những anh chị, bạn bè,
đối tác trên thế giới.
Agromonitor, 2014. Toàn cảnh thị trường cá tra tháng 12/ 2014. Ngày
26/12/2014. />[Ngày truy cập: 02/02/2015]. Bài báo thống kê số liệu về toàn cảnh thị trường cá tra cuối
năm 2014 về tình hình sản xuất, giá cá tra, xu hướng giá cá tra nguyên liệu và đưa ra
bảng thống kê top 10 thị trường xuất khẩu cá tra lớn nhất trong tháng 11/2014 theo lượng
và tỷ trọng cũng như theo kim ngạch và tỷ trọng. Từ đó nhóm có số liệu chính xác và
hiểu rõ tình hình xuất khẩu cá tra, cá basa trong thời gian gần nhất.
Nguyễn Thị Thu Hương, 2007. Phân tích tình hình xuất khẩu cá tra, cá basa sang
thị trường EU tại công ty cổ phần thủy sản Cafatex. Đề tài phân tích và đánh giá tình
hình xuất khẩu cá tra, cá basa của công ty cổ phần thủy sản Cafatex sang thị trường EU
qua ba năm 2005 – 2007. Phân tích thực trạng xuất khẩu qua các chỉ tiêu về sản lượng,
giá trị xuất khẩu cá sang thị trường EU so với các thị trường khác, kim ngạch xuất khẩu
cá tra, cá basa của công ty tại các nước thành viên. Phân tích SWOT những thuận lợi và
khó khăn, đe dọa và cơ hội tại thị trường EU cũng như xem xét những điểm mạnh, điểm
yếu của Cafatex. Từ đó đề ra những giải pháp và kiến nghị nhằm ổn định và gia tăng giá
trị kim ngạch xuất khẩu của công ty Cafatex nói chung và ngành xuất khẩu thủy sản của
Việt Nam nói riêng cũng như phát triển thêm nhiều thị trường mới trên thế giới.
4
CHƯƠNG 2
PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 PHƯƠNG PHÁP LUẬN
2.1.1 Các khái niệm cơ bản
2.1.1.1 Khái niệm xuất khẩu
Xuất khẩu trong lý luận thương mại là việc bán hàng hóa, dịch vụ cho nước ngoài.
- Tất cả các nước trên thế giới đều có hoạt động xuất khẩu vì công việc kinh doanh
quốc tế chiếm một phần đáng kể trong tất cả khối lượng thương vụ và lợi nhuận. Nhờ có
hoạt động xuất khẩu (bán hàng ra thị trường quốc tế), các quốc gia có thể cải tiến hiệu
năng nhờ quy mô lớn trong sản xuất, trong tiếp thị và trong phân phối, đem lại nguồn thu
ngoại tệ cho đất nước. Mặt khác, xuất khẩu còn giải quyết việc làm cho người lao động.

- Nhờ có hoạt động xuất khẩu mà các doanh nghiệp xuất khẩu có thể phân bổ chi
phí cố định cho nhiều sản phẩm hơn, bớt được giá thành sản xuất và tăng thêm lợi nhuận.
Giá thành thấp hơn cũng có nghĩa là giá bán thấp hơn tạo điều kiện cho hàng hóa xuất
khẩu có thể cạnh tranh trên thị trường thế giới. Việc khối lượng hàng hóa xuất khẩu tăng
giúp cho sản xuất trong nước tăng trưởng cũng có nghĩa là sử dụng thêm được năng lực
còn bỏ trống chưa dùng.
Tóm lại, xuất khẩu hàng hoá là hoạt động kinh doanh buôn bán ở phạm vi quốc tế.
Nó không phải là hành vi buôn bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ mua bán
trong một nền thương mại có tổ chức cả bên trong và bên ngoài nhằm bán sản phẩm,
hàng hoá sản xuất trong nước ra nước ngoài thu ngoại tệ, qua đẩy mạnh sản xuất hàng
hoá phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế ổn định từng bước nâng cao mức sống nhân
dân.
Kinh doanh xuất nhập khẩu cũng chính là hoạt động kinh doanh quốc tế đầu tiên
của một doanh nghiệp. Hoạt động này được tiếp tục ngay cả khi doanh nghiệp đã đa dạng
hoá hoạt động kinh doanh của mình.
Xuất khẩu hàng hoá nằm trong lĩnh vực phân phối và lưu thông hàng hoá của một
quá trình tái sản xuất mở rộng, nhằm mục đích liên kết sản xuất với tiêu dùng của nước
này với nước khác. Nền sản xuất xã hội phát triển như thế nào phụ thuộc rất nhiều vào
hoạt động kinh doanh này.
2.1.1.2 Vai trò của xuất khẩu
- Xuất khẩu tạo ra nguồn vốn quan trọng trong giao thương quốc tế, thông qua
nguồn thu ngoại tệ, đồng thời đáp ứng nhu cầu nhập khẩu cho nước khác.
5
- Phát triển hoạt động xuất khẩu giúp tăng trưởng kinh tế thông qua hoạt động xuất
khẩu, thúc đẩy mở rộng quy mô và phát triển sản xuất, sử dụng năng lực thừa, tạo việc
làm cho người lao động.
- Xuất khẩu còn thúc đẩy việc phát minh sáng tạo, phát triển và ứng dụng khoa
học – công nghệ để nâng cao hiệu quả sản xuất.
- Xuất khẩu góp phần vào sự phân công lao động giữa các nước trên thế giới, đồng
thời giúp tăng cường hợp tác quốc tế.

2.1.2 Giới thiệu đôi nét về cá tra, cá basa
Cá basa, tên khoa học Pangasius bocourti, còn có tên gọi là cá giáo, cá sát bụng, là
loại cá da trơn trong họ Pangasiidae có giá trị kinh tế cao, được nuôi tập trung tại nhiều
nước trên thế giới. Loài này là loài bản địa ở Đồng bằng song Cửu Long tại Việt Nam và
lưu vực song chao Phraya ở Thái Lan. Loài cá này là thực phẩm quan trọng ở thị trường
quốc tế. Chúng thường được gắn nhãn ở Bắc Mỹ và Úc với tên là "cá basa" hay
"bocourti".
Cá tra, cá basa là một trong những đối tượng nuôi trồng thủy sản đang được phát
triển với tốc độ nhanh tại các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long (tập trung chủ yếu ở hai
tỉnh An Giang và Đồng Tháp) là một trong những loài cá có giá trị xuất khẩu cao. Cá
basa Việt Nam được nhiều thị trường ưu chuộng vì màu sắc cơ thịt trắng, thịt cá thơm
ngon hơn so với các loài cá khác. Nghê nuôi cá basa đã được khởi đầu từ những năm 60.
Năm 1998, Việt Nam đã thành công trong sinh sản nhân tạo và đáp ứng được nhu cầu về
giống cho nghề nuôi thương phẩm.
Bảng 2.1 Thành phần dinh dưỡng của cá tra
Thành phần dinh dưỡng trên 100g sản phẩm ăn được
Calo
Calo từ
chất béo
Tổng
lượng chất
béo
Chất béo
bão hòa
Cholesteol Natri Protein
124,52 cal 30,84 cal 3,24 g 1,64 g 25,2 mg 70,6 mg 23,42 g
Nguồn: Nguyễn Hoàng Trung, 2009
Bảng 2.2 Thành phần dinh dưỡng của cá basa
Thành phần dinh dưỡng trên 100g sản phẩm ăn được
Calo

Calo từ
chất béo
Tổng
lượng chất
béo
Chất béo
bão hòa
Cholesteol Natri Protein
170 cal 60 cal 7 g 2 g 22 mg 70,6 mg 28 g
Nguồn: Nguyễn Hoàng Trung, 2009
2.1.3 Sản phẩm cá tra, cá basa phile đông lạnh xuất khẩu chủ yếu
6
Hầu hết cá tra và basa sau khi nuôi được chế biến dưới dạng đông lạnh trước khi
đến tay người tiêu dùng cuối cùng. Các tỉnh nuôi cá tra và basa ở Đồng bằng sông Cửu
Long đều có doanh nghiệp chế biến thủy sản gắn với các làng bè nuôi cá. Đứng trước sự
cạnh tranh trên thị trường, hầu hết các doanh nghiệp chế biến thủy sản đều nhập dây
chuyền thiết bị đông lạnh từ nước ngoài và áp dụng các quy định về vệ sinh an toàn thực
phẩm theo tiêu chuẩn của HACCP.
Một phần lớn sản lượng cá tra và basa philê đông lạnh được xuất khẩu. An Giang,
tỉnh chủ lực xuất khẩu cá tra, cá basa là nơi tập trung những doanh nghiệp xuất khẩu thủy
sản lớn như Công ty cổ phần xuất nhập khẩu thủy sản An Giang (Agifish), Công ty xuất
nhập khẩu thực phẩm An Giang (Afiex) và Công ty TNHH Nam Việt. Các doanh nghiệp
lớn ở các địa phương khác gồm Công ty Vĩnh Hoàn (Đồng Tháp), Công ty Cataco (Cần
Thơ) và Công ty Cafatex (Cần Thơ). Các doanh nghiệp này chiếm tới 95% kim ngạch
xuất khẩu cá philê đông lạnh của Việt Nam.
Kể từ khi Việt nam bắt đầu hội nhập kinh tế thế giới và chấp nhận những nguyên
tắc của thương mại quốc tế, đặc biệt là sau khi gia nhập Khối Hợp Tác Kinh tế Châu Á
Thái Bình Dương (APEC), ngành công nghiệp sản xuất cátra, cá basa của đất nước đã
phát tri ển nhanh chóng (Cohen and Hiebert, 2001), tạo công ăn việc làm cho hơn
500.000 lao động (Narog, 2003). Trong sự hợp tác gần gũi với các nhà nghiên cứu thủy

sản của Pháp, các giảng viên của ĐH Nông Lâm TPHCM và ĐH Cần Thơ đã nghiên cứu
và chuyển giao thành công qui trình sản xuất giống nhân tạo cá tra và cá basa từ năm
1998, gầy dựng nên một lực lượng sản xuất giống cá tra, cá basa nhân tạo với hơn 15.000
nông hộ liên quan (Cohen and Hiebert, 2001). Hi ện nay, hầu hết cáctrang trại nuôi cá tra,
cá basa mua các lo ại thức ăn viên từ các công ty nước ngoài như Cargill - Hoa Kỳ,
Proconco - Pháp, CP Groups - Thái lan, Uni-President - Đài Loan (Cohen and Hiebert,
2001; Sengupta, 2003, Duc and Kinnucan, 2008). Nông dân nuôi cá cũng đã ti ếp nhận
các kỹ thuật tiên tiến trong việc cho cá ăn và quản lý chất lượng nước để cải thiện chất
lượng thịt cá, đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao của khách hàng Hoa Kỳ và châu Âu
trong khi các doanh nghiệp chế biến cũng đã ứng dụng các kỹ thuật phi lê cá từ một nhà
nhập khấu Úc và sử dụng các trang thiết bị sản xuất được mua từ Hoa Kỳ (Cohen and
Hiebert, 2001), với mong muốn đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng HACCP và GAP được
đề nghị bởi Tổ chức Lương nông Thế giới (FAO) và CụcThực phẩm và Dược phẩm của
Hoa Kỳ.
7
2.1.4 Quy trình chế biến cá tra, cá basa phile đông lạnh
Trong hoạt động chế biến cá tra, cá basa philê đông lạnh, cá tra và cá basa tươi là
nguyên liệu quan trọng nhất. Tính trung bình, phần thịt nạc được lọc ra thành philê chiếm
30-40% trọng lượng cá nguyên liệu. Cụ thể; 3,2 kg cá tra hay 3,9 kg cá basa nguyên liệu
sau khi chế biến sẽ cho 1 kg cá philê. Phụ phẩm cá thừa ra sau khi cắt philê (như đầu,
đuôi, da, ruột) được sử dụng để chế biến bột và mỡ cá giúp doanh nghiệp thu hồi lại một
phần chi phí.
Ngoài cá nguyên liệu (chiếm 82% giá ròng sản phẩm bán ra), các chi phí lớn khác
trong chế biến đông lạnh là cắt philê, điện làm đá, chạy máy và kho lạnh, nước rửa đá,
hóa chất và bao bì.
Cụ thể các công đoạn trong quy trình chế biến cá tra, cá basa đông lạnh như sau:
Bảng 2.3 Quy trình chế biến cá tra, cá basa phile đông lạnh
CÔNG ĐOẠN
THÔNG SỐ KỸ THUẬT
CHÍNH

MÔ TẢ
Tiếp nhận nguyên liệu Cá nguyên con còn sống,
chất lượng tươi tốt. - - Cá
- Cá sống được vận chuyển
từ khu vực khai thác đến
8
không bệnh, không khuyết
tật. Trọng lượng³ 500g/
con.
Công ty bằng ghe đục để
cho cá còn sống. Từ bến cá
được cho vào thùng nhựa
chuyên dùng rồi chuyển
nhanh đến khu tiếp nhận
bằng xe tải nhỏ. Tại khu
tiếp nhận QC kiểm tra chất
lượng cảm quan (cá còn
sống, không có dấu hiệu bị
bệnh).
Cắt tiết- rửa 1
- Cá được giết chết bằng
cách cắt hầu. Cá sau khi
giết chết cho vào bồn nước
rửa sạch.
Fillet
- Miếng fillet phải nhẳn,
phẳng.
- Không sót xương, phạm
thịt.
- Sử dụng dao chuyên dùng

để fillet cá : Tách thịt 2 bên
thân cá, bỏ đầu, bỏ nội
tạng, dưới vòi nước chảy
liên tục, thao tác phải đúng
kỹ thuật và tránh vỡ nội
tạng, không để sót thịt
trong xương.
Rửa 2
- Rửa bằng nước sạch,
nhiệt độ thường.
- Rửa phải sạch máu.
- Nước rửa chỉ sử dụng
một lần. Mỗi lần rửa không
quá 50 kg.
- Miếng fillet được rửa qua
2 bồn nước sạch. Trong quá
trình rửa miếng fillet phải
đảo trộn mạnh để loại bỏ
máu, nhớt & tạp chất.
Lạng da
- Không sót da trên miếng
fillet.
- Không phạm thịt hoặc
rách thịt.
- Dùng dao hoặc máy lạng
da để lạng bỏ da. Thao tác
nhẹ nhàng đúng kỹ thuật để
miếng fillet sau khi lạng da
không được phạm vào thịt
miếng cá, không làm rách

thịt miếng cá.
Chỉnh hình - Không còn thịt đỏ, mỡ,
xương.
- Nhiệt độ BTP £ 15
0
C
- Chỉnh hình nhằm loại bỏ
thịt đỏ, mỡ trên miếng
fillet. Miếng fillet sau khi
chỉnh hình phải sạch phần
thịt đỏ, mỡ, không rách
9
thịt, không sót xương, bề
mặt miếng fillet phải láng.
Soi ký sinh trùng
Không có ký sinh trùng
trong mỗi miếng fillet.
- Kiểm tra theo tần suất 30
phút/ lần.
- Kiểm tra ký sinh trùng
trên từng miếng fillet bằng
mắt trên bàn soi.
- Miếng fillet sau khi kiểm
tra ký sinh trùng phải đảm
bảo không có ký sinh
trùng. Những miếng fillet
có ký sinh trùng phải được
loại bỏ. QC kiểm tra lại với
tần suất 30 phút/ lần.
Rửa 3

- Nhiệt độ nước rửa ≤ 8
0
C.
- Tần suất thay nước : 200
kg thay nước một lần.
- Sản phẩm được rửa qua 2
bồn nước sạch có nhiệt độ
T
0
£ 8
0
C. Khi rửa dùng tay
đảo nhẹ miếng fillet. Rửa
không quá 200 kg thay nước
một lần.
Quay thuốc
- Nhiệt độ dịch thuốc 3-
7
0
C
- Thời gian quay ít nhất là
8 phút
- Nồng độ thuốc và muối
tuỳ theo loại hoá chất tại
thời điểm đang sử dụng
- Nhiệt độ cá sau khi quay
<15
0
C
- Sau khi rửa cân cá cho

vào máy quay, số lượng cá
100 ¸ 400 kg/ mẽ tuỳ theo
máy quay lớn hay nhỏ. Sau
đó cho dung dịch thuốc (đá
vẫy, muối + thuốc, nước
lạnh nhiệt độ 3 ¸ 7
0
C) vào
theo tỷ lệ cá: dịch thuốc là
3 : 1.
Phân cỡ, loại
- Phân cỡ miếng cá theo
gram / miếng, Oz/ miếng
hoặc theo yêu cầu khách
hàng. Cho phép sai số≤ 2%
- Cá được phân thành các
size như : 60 -120; 120
-170; 170 - 220; 220 - Up
(gram/ miếng) hoặc 3 – 5, 5
– 7, 7 – 9, 4 – 6, 6 – 8, 8 –
10, 10 – 12 (Oz/ miếng),
hoặc theo yêu cầu của
khách hàng
Cân 1
- Cân : trọng lượng theo
yêu cầu khách hàng. Đúng
theo từng cỡ, loại
- Cá được cân theo từng cỡ,
loại trọng lượng theo yêu
cầu khách hàng

Rửa 4 - Nhiệt độ nước rửa ≤ 8
0
C.
- Tần suất thay nước :
100kg thay nước một lần.
- Sản phẩm được rửa qua 1
bồn nước sạch có nhiệt độ
T
0
£ 8
0
C. Khi rửa dùng tay
10
đảo nhẹ miếng fillet. Rửa
không quá 100kg thay nước
một lần.
Xếp khuôn
- Xếp khuôn theo từng cỡ,
loại riêng biệt hoặc theo
yêu cầu của khách hàng
Sản phẩm rửa xong để ráo
mới tiến hành xếp khuôn.
Từng miếng cá được xếp
vào khuôn sao cho thể hiện
tính thẩm mỹ dạng khối sản
phẩm.
Chờ đông
- Nhiệt độ kho chờ đông :
-1
0

C ¸ 4
0
C
- Thời gian chờ đông ≤ 4
giờ.
- Nếu miếng fillet sau khi
xếp khuôn chưa được cấp
đông ngay thì phải chờ đông
ở nhiệt độ và thời gian qui
định. Hàng vào kho chờ
đông trước phải được cấp
đông trước, nhiệt độ kho
chờ đông duy trì ở
-1
o
C ¸ 4
o
C, thời gian chờ
đông không quá 4 giờ.
Cấp đông
- Thời gian cấp đông ≤ 3 giờ.
- Nhiệt độ trung tâm sản
phẩm: ≤-18
0
C.
- Nhiệt độ tủ cấp đông:
- 35 ¸ - 40
o
C.
- Đối với tủ đông tiếp xúc

phải chạy khởi động tủ đến
khi có một lớp băng mỏng
phủ trên các tấm Plate mới
cho hàng vào cấp đông;
thời gian cấp đông không
quá 3 giờ. Nhiệt độ trung
tâm sản phẩm đạt £ - 18
0
C.
Tách khuôn
- Thao tác nhẹ nhàng tránh
gãy sản phẩm
- Sản phẩm sau khi cấp
đông xong được tiến hành
tách khuôn bằng cách dùng
nước mạ phía dưới đáy
khuôn để tách lấy sản phẩm
ra đóng gói.
Bao gói - Bao gói đúng cỡ, loại.
- Đúng quy cách theo từng
khách hàng.
- Thông tin trên bao bì phải
theo quy định hiện hành của
Nhà nước Việt Nam hoặc
Cho hai block cùng cỡ loại
cho vào một thùng hoặc tuỳ
theo yêu cầu khách hàng.
- Đai nẹp 2 ngang 2 dọc.
Ký mã hiệu bên ngoài
thùng phù hợp với nội

dung bên trong sản phẩm.
11
theo quy định khách hàng.
- Thời gian bao gói không
quá 30 phút/ tủ đông
Bảo quản
- Nhiệt độ kho lạnh :
T
0
= -20
0
C ± 2
0
C
Sau khi bao gói, sản phẩm
cuối cùng sẽ được chuyển
đến kho lạnh và sắp xếp
theo thứ tự, bảo quản ở
nhiệt độ -20
0
C ± 2
0
C.
2.1.5 Quy trình xuất khẩu cá tra, cá basa
Đáp ứng đủ các điều kiện quy định xuất khẩu do Bộ thủy sản ban hành. Trực tiếp
làm thủ tục xuất khẩu với Hải quan.
2.1.5.1 Yêu cầu về nguyên liệu
- Có xuất xứ từ các cơ sở nuôi nằm trong vùng nuôi được phép thu hoạch theo qui
định của Quy chế ban hành kèm theo Quyết định số 130/2008/QĐ-BNN ngày 31/12/2008
của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về kiểm soát dư lượng các chất độc hại

trong động vật và sản phẩm động vật thủy sản nuôi.
- Được cơ sở chế biến lấy mẫu kiểm nghiệm có kết đạt yêu cầu về chi tiêu an toàn
thực phẩm theo kế hoạch được quy định trong Chương trình quản lý chất lượng theo
nguyên tắc phân tích mối nguy và kiểm soát điểm tới hạn (HACCP) của cơ sở.
- Được cơ sở chế kiểm tra chất lượng cảm quan đạt yêu cầu tại khâu tiếp nhận
nguyên liệu (cá còn sống, khỏe mạnh, không có các dấu hiệu bệnh lý, ký sinh trùng).
2.1.5.2 Yêu cầu về kĩ thuật
Chỉ tiêu cảm quan của sản phẩm phải đúng theo các yêu cầu quy định trong bảng
dưới đây:
Bảng 2.4 Chỉ tiêu cảm quan
Tên chỉ tiêu Yêu cầu
Màu sắc
Đặc trưng của cá tra, cá basa, không có màu lạ. Sản phẩm có màu
sắc trắng hơn so với sản phẩm của cá tra hoặc cá bông lau.
Mùi Đặc trưng của sản phẩm cá tra, cá basa, không có mùi lạ
Vị Đặc trưng của sản phẩm cá tra, cá basa, không có vị lạ.
Trạng thái
- Cơ thịt mịn và săn chắc, có tính đàn hồi, vết cắt nhẵn, không sót
xương; da, mỡ, phần thịt bụng được xử lý sạch, cho phép tối đa 2
điểm máu hoặc đường gân máu trên thịt.
- Băng được mạ đều trên bề mặt sản phẩm
Tạp chất Không cho phép
Khối lượng
Khối lượng tịnh của mỗi đơn vị sản phẩm trên mẫu kiểm sau khi
rã đông nhanh để ráo nước, cho phép sai khác 2,5%; song giá trị
trung bình của tổng số mẫu kiểm phải đạt giá trị ghi trên bao bì.
12
Nguồn: Nguyễn Hoàng Trung, 2009
Chỉ tiêu hóa học của sản phẩm phải đúng theo mức quy định trong bảng dưới đây:
Bảng 2.5 Chỉ tiêu hóa học

Tên chỉ tiêu Mức
1.Hàm lượng tổng số Nitơ bazơ bay hơi
tính bằng số mg trong 100g sản phẩm
không lớn hơn mức cho phép.
25
2. Hàm lượng Borat tình bằng số mg trong
1 kg sản phẩm
Không cho phép
3. Dư lượng kháng sinh tính bằng số mg
trong 1 kg sản phẩm
Không cho phép
4. Dư lượng thuốc bảo vệ thực vật tính
bằng số mg trong 1 kg sản phẩm
Không cho phép
Nguồn: Nguyễn Hoàng Trung, 2009
Chỉ tiêu vi sinh của sản phẩm phải đúng theo mức quy định trong bảng dưới đây:
Bảng 2.6 Chỉ tiêu vi sinh
Tên chỉ tiêu Mức
1. Tổng số vi sinh hiếu khí tính bằng số
khuẩn lạc trong 1g sản phẩm không lớn
hơn mức cho phép
1.000.000
2. Tổng số Coliforms tính bằng số khuẩn
lạc trong 1 g sản phẩm không lớn hơn mức
cho phép
200
3. Staphylococcus aureus tính bằng số
khuẩn lạc trong 1 g sản phẩm không lớn
hơn mức cho phép
100

4. E. coli tính bằng số khuẩn lạc trong 1 g
sản phẩm
Không cho phép
5. Salmonella tính bằng số khuẩn lạc trong
25 g sản phẩm
Không cho phép
6. Vibrio cholere tính bằng số khuẩn lạc
trong 25 g sản phẩm
Không cho phép
Nguồn: Nguyễn Hoàng Trung, 2009
Ký sinh trùng phát hiện bằng mắt: Không cho phép.
2.1.5.3 Bao gói, nhãn hiệu, vận chuyển và bảo quản
- Bao gói và ghi nhãn theo TCVN 2643-88; TCVN 5512-1991; TCVN 5652-1992
và quyết định số 23 TCĐ/QĐ ngày 20 tháng 2 năm 1995 của Tổng cục Tiêu chuẩn – Đo
lường – Chất lượng quy định về bao gói, ghi nhãn sản phẩm hàng hóa.
- Vận chuyển và bảo quản theo TCVN 4378:1996.
2.2 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
13
2.2.1 Phương pháp điều tra thu thập số liệu
Phần lớn dữ liệu mà nhóm sử dụng là dữ liệu thứ cấp. Dữ liệu được sử dụng có
nguồn từ những bài báo, tạp chí, bài nghiên cứu, luận án, luận văn của các nhà nghiên
cứu có liên quan đến tình hình xuất khẩu cá tra, cá basa được đăng tải trên Internet.
Chính vì thế, để đảm bảo tính chính xác của số liệu, nhóm tôi sử dụng phương pháp tổng
hợp, phân tích, so sánh, đối chiếu, sử dụng những website đáng tin cậy để lựa chọn và lọc
ra những dữ liệu có tính chính xác cao nhất.
2.2.2 Phương pháp phân tích số liệu
- Phương pháp thống kê mô tả: Thống kê mô tả là tập hợp tất cả các phương pháp
đo lường, mô tả và trình bày số liệu. Lập bảng phân phối tần số, trình bày dữ liệu dạng
bảng và biểu đồ.
- Phương pháp so sánh: So sánh các chỉ tiêu cùng loại hay khác loại nhưng có mối

liên hệ với nhau để đánh giá sự tăng lên hau giảm xuống của một chỉ tiêu nào đó qua thời
gian, hoặc đánh giá mức độ hoàn thành kế hoạch của một doanh nghiệp hay một nhà
quản trị muốn đánh giá một vấn đề nào đó ở hai thị trường khác nhau.
- Phân tích SWOT: Phân tích điểm mạnh/ thuận lợi (Strengths), điểm yếu/ khó
khăn (Weakness), cơ hội (Opportunities) và nguy cơ (Threats) của một vấn đề, một hiện
tượng, một tác nhân, một tổ chức, một sản phẩm hay một ngành hàng để có những chiến
lược nhằm giúp cho sự phát triển và hạn chế rủi ro.
Nội dung phân tích SWOT gồm:
S (Điểm mạnh): Điều kiện thuận lợi, nguồn lực thúc đẩy, góp phần phát triển tốt
hơn.
W (Điểm yếu): Các yếu tố bất lợi, những điều kiện không thích hợp, hạn chế…
O (Cơ hội): Những phương hướng cần được thực hiện nhằm tối ưu hóa sự phát
triển, các kết quả dự kiến sẽ đạt được, cơ hội hợp tác, chính sách hỗ trợ…
T (Nguy cơ/ Thách thức): Những yếu tố có khả năng tạo ra những kết quả xấu,
những kết quả không mong đợi, hạn chế hoặc triệt tiêu sự phát triển.
Kết hợp các S, W, O, T hình thành các chiến lược SO, ST, WO, WT.
14
CHƯƠNG 3
PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU CÁ TRA, CÁ BASA VÀ
NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG
3.1 TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN NGÀNH CÁ TRA, CÁ BASA XUẤT KHẨU Ở
ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
ĐBSCL là một bộ phận của châu thổ sông Mê Kông có diện tích 39 734 km2. Có
vị trí nằm liền kề với vùng Đông Nam Bộ, phía Bắc giáp Campuchia, phía Tây Nam là
vịnh Thái Lan, phía Đông Nam là Biển Đông. ĐBSCL có 12 tỉnh và 1 thành phố: An
Giang, Bến Tre, Bạc Liêu, Cà Mau, Đồng Tháp, Hậu Giang, Kiên Giang, Long An, Sóc
Trăng, Tiền Giang, Trà Vinh, Vĩnh Long, TP. Cần Thơ.
3.1.1 Tiềm năng phát triển cá tra, cá basa ở Đồng bằng sông Cửu Long
Tiềm năng tự nhiên: Nằm ở hạ lưu sông Mêkông với điều kiện thủy văn và chất
lượng nguồn nước thuận lợi cho việc nuôi trồng cá tra quanh năm. Theo số liệu của cục

thủy sản Nam Bộ.
Lưu lượng: Vào mùa mưa lũ, lưu lượng nước sông Cửu Long dao động từ 18.800
m3/ giây đến 48.700 m3/ giây (số liệu đó tại Phnôm Pênh – Campuchia), cao gấp 9 – 23
lần so với lưu lượng vào mùa khô.
Vận tốc dòng chảy: vào mùa lũ 0,5 – 0,6m/ giây, ở mùa khô 0,1 – 0,2m/ giây.
Nhiệt độ: nước biến thiên không nhiều, cao nhất là 31C vào tháng 5 và tháng 10;
thấp nhất là 26C vào tháng giêng. Biên độ chênh lệch trong ngày khoảng 1,5C, nhiệt độ
trên tầng mặt cao hơn dưới đáy 2 - 3C.
Độ trong và pH trong mùa khô: độ trong của nước từ 40 – 60 cm và pH khoảng
7,5. Mùa mưa, độ trong chỉ 8 – 10 cm và pH nước sông khá ổn định là đặc điểm rất có lợi
cho đời sống của thủy sinh vật và cá.
Độ cứng: dao động từ 2 – 5 độ (độ Đức), chủ yếu được hình thành trên cơ sở muối
cacbonat canxi và thuộc dạng nước ít muối khoáng.
Các chất khí hòa tan: ở sông Tiền và sông Hậu nước tương đối thoáng sạch,
dưỡng khí đầy đủ (4,3 – 9,7 mg/ lít), hàm lượng khí cacbonic thấp (1,7 – 5,2 mg/ lít)
nghĩa là nằm dưới giới hạn có hại đối với cá và sinh vật dưới nước. Ngoài ra không có
các khí độc trong nước sông.
Tiềm năng nuôi trồng:
Diện tích nuôi trồng: theo số liệu thống kê của tổng cục địa chính, tổng số diện
tích có khả năng nuôi cá tra ao hầm, cồn, đăng quầng là 32.595 ha. Thêm vào đó với hệ
thống kênh ngòi chằng chịt cộng thêm có 3 con sông lớn Vàm Cỏ Đông, Vàm Cỏ Tây và
15
sông Mêkông đã đem lại tiềm năng mặt nước to lớn để phát triển nuôi trồng cá tra xuất
khẩu.
Nguồn thức ăn: Nuôi cá tra là hình thức nuôi công nghiệp, chủ động và có tính tập
trung. Tại các khu vực nuôi cá tập trung hiện nay (chủ yếu ở An Giang và Đồng Tháp)
nguồn nguyên liệu làm thức ăn cho cá rất phong phú. Khu vực tứ giác Long Xuyên, Đồng
Tháp Mười đất đai màu mỡ, thích hợp cho canh tác các loại nông sản và là nguồn cung
cấp chủ yếu nguyên liệu nông sản để chế biến thức ăn cho cá nuôi (cám, tấm, đậu,
bắp…).

Một thuận lợi nữa là vào cuối mùa gió Tây Nam hàng năm (sau đỉnh lũ) nước
sông từ thượng nguồn đổ xiết về hạ lưu và mang về nguồn lợi cá tự nhiên rất dồi dào cả
về số lượng lẫn chủng loại. Nhiều nhất là cá linh (Labeobarb siamensis) và nhiều loài cá
tự nhiên khác. Ngoài nguồn cá tự nhiên nước ngọt, các loại cá tạp đánh bắt từ biển Rạch
Giá được chuyển đến khu vực nuôi với đoạn đường ngắn, giá cả phù hợp và thường
xuyên.
Ngoài ra, điều kiện giao thông thủy và bộ thuận tiện cũng giúp cho việc vận
chuyển nguyên vật liệu chế biến thức ăn cho cá được dễ dàng và kịp thời.
Cá giống phục vụ cho nghề nuôi: Nhiều năm trước đây và cả đến khi nuôi cá bè
thịnh hành và phát triển, con giống cung cấp cho hộ nuôi chủ yếu được vớt từ thiên
nhiên, trên sông Cửu Long. Hằng năm vào mùa mưa, các bột các loài được vớt trên sông
và ương nuôi trong ao, hầm thành cá giống và cung cấp cho các hộ nuôi. Cá tra cũng
được vớt trên song như các loài cá khác.
Hằng năm có khoảng 200 – 500 triệu bột cá tra được vớt và ương nuôi; sau đó cá
giống được chuyển đi bán cho người nuôi khắp các tỉnh Nam bộ và cho hộ nuôi tại chỗ.
Hiện nay đã chủ động cho sinh sản nhân tạo 2 loài cá trên. Trong năm 1999 các địa
phương đã cho đẻ nhân tạo được 500 triệu bột cá tra, do đó giảm hẳn nghề vớt cá trên
sông và trong tương lai một vài năm tới có thể hoàn toàn bãi bỏ việc vớt cá tự nhiên.
Tiền năng công nghệ: Do đổi mới công nghệ, kỹ thuật, và có sự hướng dẫn kỹ
thuật nuôi nên đại đa số người nuôi được tăng năng suất cũng như chất lượng thịt của đàn
cá trong thời gian qua.
Tiềm năng cơ sở chế biến: Tính đến năm 2008 đã có hơn 100 doanh nghiệp chế
biến cá tra xuất khẩu với công suất 5.000 tấn nguyên liệu/ ngày, Hơn 52% doanh nghiệp
chế biến là mới xây dựng, các cơ sở còn lại đều được nâng cấp nhà xưởng, lắp đặt thiết bị
cấp đông, kho sạch và hầu hết các doanh nghiệp chế biến phần lớn đạt tiêu chuẩn an toàn
vệ sinh thực phẩm.
16
Tiềm năng về con người: Nguồn lao động trong vùng dồi dào, người dân đã nuôi
cá lâu đời nên có nhiều kinh nghiệm trong nuôi cá cũng như sản xuất giống nhất là ươm
cá tra giống.

Tiềm năng về thị trường: Thị trường tiêu thụ cá tra ĐBSCL ngày càng nhiều. Hiện
nay Việt Nam xuất khẩu sang hơn 60 nước trên thế giới. Bên cạnh đó nhu cầu tiêu thụ
thủy sản thế giới ngày càng cao. Do đó cá tra, cá basa ĐBSCL còn có nhiều tiềm năng để
mở rộng thâm nhập thị trường cá thịt trắng trên thế giới.
Như vậy ĐBSCL là nơi có những điều kiện thuận lợi thích hợp nhất cho nuôi
trồng cá tra, cá basa, là nơi thích hợp nhất để tập trung nguồn lực để phát triển cá tra
thành ngành hàng trọng điểm của quốc gia. Miền Trung và miền Bắc cũng có thể nuôi cá
tra nhưng thật sự không mang lại hiệu quả kinh tế như ở ĐBSCL. Ví dụ miền Trung lưu
lượng nước chênh lệch quá lớn giữa mùa mưa và mùa nắng, lòng đáy của sông cạn,
thường xuyên bị lũ nên để cá tra phát triển tốt và hiệu quả là rất khó khăn. Miền Bắc thì
nhiệt độ chêch lệch giữa mùa đông và mùa hạ rất lớn nên không thể nuôi cá tra quanh
năm dẫn đến năng suất đạt konog cao. Từ đó có thể thấy điều kiện tự nhiên rất ưu đãi cho
vùng ĐBSCL phát triển con cá tra này.
3.1.2 Thực trạng năng lực chế biến của các doanh nghiệp chế biến cá tra xuất
khẩu
Các doanh nghiệp đã đầu tư xây mới, nâng cấp mở rộng, đổi mới trang thiết bị
theo hướng tăng cường chất lượng và đa dạng hóa các sản phẩm chế biến. Hiện nay theo
hiệp hội Vasep là có 168 doanh nghiệp tham gia vào chế biến cá tra xuất khẩu. Nét mới
năm 2008 là có thêm nhiều doanh nghiệp chế biến đã đầu tư phát triển vùng nguyên liệu,
trực tiếp đầu tư cá và có thêm nhiều doanh nghiệp chế biến cá tra xuất khẩu. Toàn vùng
ĐBSCL hiện nay có hơn 100 nhà máy chế biến cá tra với công suất chế biến khoảng 1.5
triệu tấn/ năm.
3.2 TÌNH TRẠNG XUẤT KHẨU CÁ TRA, CÁ BASA CỦA VIỆT NAM TRÊN
THẾ GIỚI
3.2.1 Thực trạng sản xuất cá tra, cá basa của Việt Nam
Theo báo cáo tháng 12/2014 của Bộ NN&PTNT, sản lượng nuôi trồng thủy sản
vào thời điểm này đạt 348 ngàn tấn, tăng 14,5% so với cùng kì năm trước, đưa tổng sản
lượng nuôi trồng thủy sản cả năm 2014 đạt 3.393 ngàn tấn, tăng 5,5% so với năm 2013.
Diện tích nuôi cá tra của các tỉnh ĐBSCL cả năm 2014 ước đạt hơn 5.500 ha với
sản lượng giảm nhẹ so với cùng kì năm trước, Đồng Tháp (-2%), An Giang (-8%). Chỉ

riêng Hậu Giang diện tích giảm 12% so với cùng kỳ nhưng sản lượng lại tăng đáng kể,
đạt 70.905 tấn, tăng 102% so với cùng kỳ năm ngoái. Nguyên nhân là do năm ngoái cá
17
tra, cá basa không được giá nên các hộ dân không thu hoạch, năm nay giá cả cá tra tăng
nên các hộ thu hoạch nhiều.
Bảng 3.1 Diện tích và sản lượng sản xuất cá tra, cá basa của một số tỉnh tháng 12
năm 2014
Đơn vị
Tháng 12 năm 2013 Tháng 12 năm 2014
So sánh năm 2014
với năm 2013 (%)
DT nuôi
cá tra, cá
basa (ha)
Sản lượng
cá tra, cá
basa (tấn)
DT nuôi
cá tra, cá
basa (ha)
Sản lượng
cá tra, cá
basa (tấn)
DT nuôi
cá tra, cá
basa (ha)
Sản lượng
cá tra, cá
basa (tấn)
An Giang 1.374 258.406 1.217 237.668 88,6 92,0

Cần Thơ 809 151.972 831 150.634 102,7 99,1
Đồng Tháp 1.875 341.705 1.942 335.530 103,6 98,2
Bến Tre 700 153.887 711 159.270 101,6 103,5
Hậu Giang 167 35.186 147 70.905 88,1 201,5
Vĩnh Long 423 101.332 430 90.000 101,7 88,8
ĐBSCL 5.668 1.124.912 5.584 1.116.031 98,5 99,2
Nguồn: Bộ NN&PTNT
Nhận định về tình hình xuất khẩu thủy sản trong năm 2015, ông Nguyễn Hữu
Dũng cho rằng, các doanh nghiệp xuất khẩu sẽ còn tiếp tục gặp khó khăn, thách thức.
Nhiều doanh nghiệp đã có phần “đuối sức,” nhất là ngành cá tra.
Nguồn:
3.2.2 Xu hướng giá cá tra, cá basa tại ĐBSCL
Tại các tỉnh ĐBSCL, giá cá tra trong tuần đầu tiên của tháng 12/2014 giữ ở mức
ổn định hơn so với tháng 11/2014 ở mức 23.800 – 24.000 đồng/ kg (tùy điều kiện giao
hàng). Từ giữa tháng 12/2014, giá cá tra có xu hướng tăng nhẹ lên mức 24.200 – 24.600
đồng/ kg. Và trong tuần cuối cùng của tháng 12 thì mức giá đang dao động ở mức 24.000
– 24.400 đồng/ kg. Như vậy, trung bình tháng 12, giá cá tra nguyên liệu tại các tỉnh
ĐBSCL tăng nhẹ từ 150 đồng/kg so với trung bình tháng 11/2014, lên mức 24.250
đồng/kg.
Theo báo cáo của Sở NN&PTNT Vĩnh Long, giá thành sản xuất cá tra dao động từ
22.000 - 23.000 đồng/kg. Trừ chi phí, người nuôi có lãi từ 1.000-2.000 đồng/kg. (Cập
nhật 2015)
Nguồn:
18
Bảng 3.2 Xu hướng giá cá tra nguyên liệu tại ĐBSCL (đồng/kg)
Nguồn: CSDL AgroMonitor
3.2.3 Thương mại
Bảng 3.3 Thị trường nhập khẩu cá tra của Việt Nam năm 2012
Năm 2012, Việt Nam xuất khẩu cá tra sang 142 thị trường với tổng giá trị đạt 1,74
tỷ USD. Trong đó, 3 thị trường chính là EU, Mỹ và Asean đã chiếm hơn 50% kim ngạch

xuất khẩu.
19
EU là thị trường truyền thống xuất khẩu cá tra của Việt Nam. Trong năm 2012, do
khó khăn về kinh tế, nhập khẩu cá tra của EU đã giảm mạnh 19,1%. Nhập khẩu thủy sản
của EU chủ yếu từ các nước như Tây Ban Nha, Hà Lan, Đức, Ba Lan… Giá xuất khẩu cá
tra sang EU thấp hơn Mỹ (bình quân từ 2,1 -2,7 USD/kg so với mức trên 3 USD/kg của
thị trường Mỹ). Hiện tại, người tiêu dùng EU đang có xu hướng chuyển sang tiêu thụ các
sản phẩm có chứng nhận ASC (với giá cao hơn khoảng 10-15% so với sản phẩm thông
thường). Do đó, đây sẽ là yếu tố sàng lọc mạnh các doanh nghiệp xuất khẩu sang EU, cơ
hội sẽ chủ yếu tập trung vào những doanh nghiệp lớn đầu tư bài bản các vùng nuôi theo
chuẩn ASC (như Vĩnh Hoàn, Hùng Vương, Nam Việt, Việt An…).
Thị trường Mỹ là thị trường lớn thứ hai của “cá tra” Việt Nam sau EU với kim
ngạch xuất khẩu năm 2012 đạt 359 triệu USD. Đây là thị trường có ưu thế thanh toán tốt,
giá bán cao (bình quân từ 3,1 – 3,8 USD/kg). Tuy nhiên, xuất khẩu cá tra Việt Nam sang
Mỹ luôn phải đối mặt với rủi ro từ vụ kiện chống bán phá giá. Ngày 14/03/2013, Mỹ đã
ra phán quyết chính thức về mức thuế chống bán phá cá tra Việt Nam cho kỳ POR 8
(01/08/2010 – 31/07/2011) với nhiều bất lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam. Cụ thể,
mức thuế sau khi đã được DOC điều chỉnh tăng ngày 17/05/2013 sau quyết định ban đầu
ngày 14/03/2013 như sau: Vĩnh Hoàn (VHC): 0,19 USD/kg, Việt An (AVF): 2,39
USD/kg, các doanh nghiệp khác có sản phẩm tương tự (Hùng Vương - HVG, Navico -
ANV, Nha Trang Seafood, Bình An…): 1,29 USD/kg, An Phú: 1,37 USD/kg, Gò Đàng
(AGD): 1,81 USD/kg, Docifish (công ty con của FDG): 3,87 USD/kg.
Theo số liệu chi tiết của TCHQ, xuất khẩu cá tra của Việt Nam tháng 11/2014 đạt
65,29 nghìn tấn, trị giá 146,39 triệu USD; giảm so với mức 85 nghìn tấn và 182,49 triệu
USD trong tháng 10/2014.
Bảng 3.4 Top 10 thị trường xuất khẩu cá tra lớn nhất trong tháng 11/2014 theo lượng và
tỷ trọng
Thị trường Lượng (nghìn tấn) Tỷ trọng (%)
USA 8.983 13,76
Mexico 7.320 11,21

Brazil 4.617 7,07
China 3.187 4,88
Colombia 2.943 4,51
Saudi Arabia 2.701 4,14
Philipines 1.893 2,90
HongKong 1.874 2,87
Pakistan 1,868 2,86
Netherlands 1.699 2,60
20
Tổng 65.292 100,00
Nguồn: AgroMonitor Tổng hợp số liệu từ Tổng cục Hải quan
Bảng 3.5 Top 10 thị trường xuất khẩu cá tra lớn nhất trong tháng 11/2014 theo kim ngạch
và tỷ trọng
Thị trường Kim ngạch (USD) Tỷ trọng (%)
USA 29.133.136 19,90
Mexico 13.831.626 9,45
Brazil 8.998.321 6,15
China 7.623.019 5,12
Colombia 5.606.299 3,83
Netherlands 4.730.522 3,23
Saudi Arabia 4.635.918 3,17
Australia 4.033.652 2,76
HongKong 3.627.231 2,48
Thailand 3.512.262 2,40
Tổng 146.394.306 100,00
Nguồn: AgroMonitor Tổng hợp số liệu từ Tổng cục Hải quan
3.2.4 Sản lượng thu hoạch cá tra năm 2014
Sản lượng thu hoạch cá tra năm 2014: giảm 7,34% so với năm 2013 (cập nhật
ngày 26/03/2015)
Theo Tổng cục thủy sản và chi cục thủy sản các tỉnh ĐBSCL, năm 2014, lũy kế

diện tích thu hoạch là 3.779 ha, sản lượng đạt 1.047.035 tấn (giảm 7,34% so với cùng kỳ
năm 2013).
Theo Tổng cục thủy sản và chi cục thủy sản các tỉnh ĐBSCL, năm 2014, lũy kế
diện tích nuôi thả mới cá tra là 3.516 ha và diện tích thu hoạch là 3.779 ha, sản lượng
đạt 1.047.035 tấn (giảm 7,34% so với cùng kỳ năm 2013), với năng suất đạt trung bình
khoảng 277 tấn/ha (so với năm 2013 là 279 tấn/ha). Các tỉnh có diện tích nuôi và sản
lượng cao như: Đồng Tháp, An Giang, Bến Tre, Cần Thơ (chiếm khoảng 85% tổng diện
tích và sản lượng của ĐBSCL).
Diện tích nuôi và diện tích thu hoạch: diện tích nuôi tăng lên theo lũy kế là dấu
hiệu tốt, diện tích nuôi mới và thu hoạch cao vào tháng 5, vào tháng 6, 7 và tháng 8 tăng
đều nhưng đến tháng 9, 10, 11 và 12 thì diện tích nuôi và diện tích thu hoạch tăng chậm,
xu hướng cũng tương tự trong năm 2013. Trung bình diện tích nuôi mới trong tháng 9,
10, 11 có cao hơn khoảng từ 29 – 45,7% so với cùng kỳ năm 2013, riêng tháng 7 và 8 có
giảm hơn khoảng 14 - 41%. Về diện tích thu hoạch, trung bình các tháng đều giảm từ 14-
38% so với cùng kỳ năm 2013; riêng trung bình tháng 9 và 11 có cao hơn từ 4-5% so với
năm 2013.
21
Số lượng giống thả nuôi các tỉnh năm 2014 là 1.779 triệu con và có xu hướng
tăng lên từ đầu năm (22 triệu con/tuần) đến tháng 5 (53 triệu con/tuần), có xu hướng
giảm dần từ tháng 6 (50 triệu con/tuần) đến tháng 12 (23 triệu con/tuần). Các tỉnh có số
lượng giống thả cao như Đồng Tháp, An Giang, Bến Tre và trung bình thả các tháng có
xu hướng cao hơn so với cùng kỳ năm 2013; riêng trung bình tháng 8 giảm khoảng 43%
so với cùng kỳ 2013.
Nhìn chung, diện tích nuôi cá tra thương phẩm tập trung ở các doanh nghiệp
(chiếm khoảng 70%), nhưng trong năm 2014, tình hình thả nuôi mới chủ yếu ở các doanh
nghiệp có hoạt động chế biến - xuất khẩu tốt, để chủ động được nguồn nguyên liệu trong
chế biến xuất khẩu nên hầu hết các cơ sở nuôi khi thu hoạch xong, tiếp tục cải tạo ao và
thả giống mới; đối với các doanh nghiệp hoạt động chế biến – xuất khẩu không tốt thì
giảm diện tích thả nuôi mới, nuôi cầm chừng (gia công). Đối với các hộ nuôi nhỏ lẻ, đa
phần đều treo ao, một số chuyển sang nuôi gia công cho nhà máy chế biến.

Nguồn: Tổng hợp của HHCTVN
3.3 PHÂN TÍCH NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN CỦA NGÀNH XUẤT
KHẨU CÁ TRA, CÁ BASA SANG CÁC THỊ TRƯỜNG NƯỚC NGOÀI
3.3.1 Những thuận lợi của việc xuất khẩu cá tra, cá basa
3.3.1.1 Môi trường vi mô
- Điều kiện thiên nhiên sông ngòi dày đặc thích hợp cho việc nuôi trồng thủy hải
sản nên ngành thủy sản đặc biệt phát triển. Vì thế, nguồn cung ứng nguyên liệu cho việc
xuất khẩu cá tra, cá basa dồi giàu.
- Cá basa là mặt hàng thực phẩm ngon, có giá trị dinh dưỡng cao, rất dễ dàng tăng
lượng tiêu thụ.
- Chi phí sản xuất ra cá basa rẻ nên giá thành sản phẩm trên thị trường nhập khẩu
có sức cạnh tranh khá lớn đối với các sản phẩm từ nước khác và nước sở tại.
- Trong những năm tới, có thể chúng ta sẽ bắt đầu chứng kiến xu hướng mua bán –
sáp nhập diễn ra nhiều hơn trong ngành. Với số lượng khá nhiều, phần lớn các doanh
nghiệp trong ngành thủy sản có quy mô vừa và nhỏ, hoạt động sản xuất dàn trải… Trong
khi áp lực cạnh tranh ngày càng cao, việc sáp nhập, liên kết sẽ giảm thiểu những tác động
của việc cạnh tranh không lành mạnh về thị trường, nguyên liệu, giá cả Viếc sáp nhập
cũng sẽ giúp nang cao khả năng tiết kiệm theo quy mô, cải thiện hiệu quả hoạt động.
- Hiện nay thị trường xuất khẩu cá tra, cá basa có rất nhiều đối thủ cạnh tranh lớn
đối với thị trường xuất khẩu cá tra, cá basa Việt Nam. Với tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực
phẩm ngày càng được nâng cao, ngành xuất khẩu cá tra, cá basa Việt Nam sẽ dễ dàng
tăng cao lượng tiêu thụ ở các thị trường Mỹ, Nhật, EU, Nga
3.3.1.2 Môi trường vĩ mô
22
Trong nhiều năm qua, thuỷ sản là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực
của Việt Nam. Kim ngạch xuất khẩu của mặt hàng này liên tục năm sau cao hơn năm
trước. Việt Nam đang phấn đấu đến năm 2020, kim ngạch xuất khẩu đạt 10 tỷ USD và trở
thành một trong bốn quốc gia hàng đầu về xuất khẩu thuỷ sản trên thế giới.
Thị trường xuất khẩu cá tra, cá basa là một trong những thị trường trọng điểm của
ngành kinh tế Việt Nam.

Ngoài thị trường ở châu Mỹ, EU, châu Á và châu Úc, ngành xuất khẩu cá tra, cá
basa Việt Nam hiện đang mở rộng ra nhiều thị trường khác.
Tại hầu hết các quốc gia khu vực châu Phi, Tây Á, Nam Á, ngành nuôi trồng thủy
sản, nhất là cá nước ngọt không phát triển do đó phải nhập khẩu để đáp ứng nhu cầu
trong nước. Mặt khác, cá da trơn ngày càng được ưa chuộng do được đánh giá có chứa ít
cholesteron. Hiện nay, xu hướng dùng hàng thủy sản thay thế cho thịt trong bữa ăn của
người dân châu Phi, Trung Đông đang mở ra cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam đẩy
mạnh xuất khẩu mặt hàng này, thậm chí có thể nghiên cứu phương án nuôi trồng thủy sản
tại nước ở tại phục vụ nhu cầu địa phương và xuất khẩu sang các nước lân cận. Trong khi
đó nguồn cung cá tra trong nước dồi dào với mức giá ổn định sẽ là điều kiện thuận lợi để
các doanh nghiệp nước ta đẩy mạnh xuất khẩu sang khu vực này. Thực tế cho thấy kim
ngạch xuất khẩu các mặt hàng như cá basa, tra, tôm sang thị trường khu vực đã không
ngừng tăng trong những năm qua.
- Được hưởng nhiều chính sách ưu đãi. Các doanh nghiệp thủy sản trong năm
2010 tiếp tục nhận được nhiều ưu đãi về vốn vay, thuế thu nhập doanh nghiệp Ngoài ra,
VND đang có xu hướng giảm giá so với USD là lợi thế lớn cho các doanh nghiệp xuất
khẩu thủy sản của Việt Nam.
- Chính phủ Việt Nam đầu tư 1,340 tỷ đồng đưa cá tra thành mũi nhọn xuất khẩu
thủy sản. Chính phủ đã phê duyệt đề án phát triển sản xuất cá tra vùng Đồng bằng sông
Cửu Long đến năm 2020. Trong đó có nhiều nội dung như quy hoạch lại vùng sản xuất
và tiêu thụ sản phẩm, cách thức xây dựng và hoàn thiện cơ sở hạ tầng sản xuất, xây dựng
hệ thống thống kê phục vụ cho công việc dự báo tình hình sản xuất, tiêu thụ, Mức vốn
đầu tư cho đề án này vào khoảng 1,340 tỷ đồng. Trong đó, giai đoạn 2009 – 2015 cần đầu
tư 800 tỷ đồng, giai đoạn 2016 – 2020 sẽ cần 540 tỷ đồng.
- Còn nói về những lợi thế xuất khẩu mới về chính sách, thị trường cho hàng thủy
sản Việt Nam, dễ thấy nhất là hiệp định Đối tác kinh tế Việt Nam – Nhật Bản (VJEPA)
đã chính thức có hiệu lực. Theo đó, từ 01/10/2009, trên 86% hàng nông sản, thủy sản của
Việt Nam được hưởng ưu đãi rất lớn về thuế, trong đó các mặt hàng tôm đã được giảm
thuế xuất nhập khẩu xuống 1 – 2%. Cho nên, từ vị trí là thị trường nhập khẩu thủy sản
lớn thứ hai của Việt Nam (sau EU), Nhật có khả năng trở thành thị trường số một của

23
Việt Nam ngay trong năm tới. Với thị trường Mỹ, đứng thứ ba về nhập khẩu thủy sản
Việt Nam, theo bộ Công thương.
- Kinh tế thế giới, nhất là các nước: Mỹ, EU, Nhật Bản, v.v là những thị trường
xuất khẩu thủy sản chính của Việt Nam đang trên đà phục hồi. Bên cạnh đó, nhu cầu tại
những thị trường khác cũng tăng mạnh như Đông Âu có sức mua tăng gấp 4 lần. Thị
trường như Chile, Peru cũng đang tăng mạnh, Mexico tăng sản lượng mua vào gấp đôi
(2010). Một số châu Phi tăng lượng mua vào rất nhiều lần, mở ra một cơ hội lớn cho cá
tra, cá basa xuất khẩu.
- Một thuận lợi khác là thủy sản Việt Nam vừa qua đã được một số nước công
nhận, đánh giá cao về chất lượng. Năm 2009, bộ Y tế và tiêu dùng Tây Ban Nha đã ra
thông báo công nhận cá tra, cá basa xuất khẩu xủa Việt Nam đáp ứng các quy định về an
toàn thực phẩm của Liên minh châu Âu. Tây Ban Nha hiện là một trong những nước tiêu
thụ cá tra và cá basa của Việt Nam nhiều nhất trong số các nước EU với lượng nhập khẩu
mỗi năm theo ước tính khoảng 40.000 tấn (2010). Bên cạnh đó, từ sau ngày 01/04/2009
khi các quan chức hàng đầu Ai Cập đã chính thức khẳng định: Cá basa Việt Nam an toàn
100%; cá tra, cá basa cũng như hàng thủy sản Việt Nam sẽ tiếp tục được xuất khẩu bình
thường vào thị trường Ai Cập và Trung Đông.
- Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (Vasep) cho biết hiện có 6
doanh nghiệp thủy sản Việt Nam được Bộ Thương mại Mỹ công bố không áp thuế chống
bán phá giá hoặc có mức thuế rất thấp, gần như bằng 0% nên việc xuất khẩu cá tra, cá
basa có điều kiện thuận lợi để quay trở lại thị trường Mỹ.
3.3.2 Những khó khăn của việc xuất khẩu cá tra, cá basa
3.3.2.1 Môi trường vi mô
- Cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp trong nước. Sự liên kết giữa
các doanh nghiệp trong nước còn khá lỏng lẻo. Trong giai đoạn nhu cầu trên thị trường
giảm sút, xuất khẩu thủy sản Việt Nam chứng kiến nhiều hoạt động cạnh tranh không
lành mạnh như hạ giá bằng cách giảm chất lượng sản phẩm, tranh giành thị trường xuất
khẩu… gây ảnh hưởng đến thương hiệu và uy tín của ngành thủy sản Việt Nam.
- Ngành thủy sản nước ta đã phải đối mặt với vô vàn khó khăn thách thức. Do sự

phát triển tự phát, thiếu quy hoạch nên mặt hàng này luôn ở tình trạng mất cân đối cung –
cầu, với những biến động khó lường. Vòng luẩn quẩn khủng hoảng thừa – thiếu như đã
và đang diễn ra là do chưa có một quy hoạch rõ ràng về nuôi cá để cân đối cho phù hợp
cung – cầu.
- Tỷ lệ sản phẩm có giá trị gia tăng còn thấp, chủ yếu mới chỉ xuất khẩu ở dạng
fillet cấp đông đơn thuần nên giá xuất khẩu không cao (bình quân 3 USD/ kg).
24
- Thiếu kho chứa hàng, thiếu các chợ đầu mối thủy sản tập trung để làm cầu nối ổn
định giá cho cả người sản xuất và các nhà máy chế biến.
- Hệ thống xử lý nước thải và các công trình bảo vệ môi trường tuy đã được đầu tư
nhưng chưa thường xuyên được nâng cấp nên vẫn còn tình trạng nước thải từ nhà máy đổ
trực tiếp ra sông mà chưa qua xử lý; chưa phổ biến rộng khắp quy trình sản xuất sạch
theo tiêu chuẩn HACCP; vẫn còn việc mua bán và sử dụng hóa chất, kháng sinh.
3.3.2.2 Môi trường vĩ mô
Khoảng cách địa lý xa xôi với các châu lục khác, nhất là với châu Phi, lại thiếu các
đường bay trực tiếp nên việc xuất khẩu hàng thủy sản tươi sống gặp nhiều khó khăn.
Trong khi đó, hàng đông lạnh và đồ hộp vận chuyển bằng máy bay đòi hỏi chi phí khá
cao, dẫn đến giảm lợi nhuận.
Nhiều quốc gia châu Phi, Trung Đông có bờ biển dài, nguồn lợi hải sản rất lớn nên
nhu cầu tiêu thụ thủy sản đóng hộp không cao. Hơn nữa, người dân nhiều nước, nhất là
đạo Hồi như Maroc, Angieri, Iran… có truyền thống ăn thịt và ít có thói quen tiêu thụ
thủy sản, nhất là cá da trơn. Vì vậy, mặc dù có tiềm năng phát triển nhưng dung lượng thị
trường thủy sản tại khu vực này nhìn chung không lớn và việc đẩy mạnh xuất khẩu đòi
hỏi phải có thời gian.
Khả năng thanh toán của phần lớn các doanh nghiệp nhập khẩu châu phi thấp và
đôi khi vẫn xảy ra tình trạng lừa đảo thường mại qua mạng Internet ở một số quốc gia
Tây Phi dẫn đến tâm lý lo ngại khi doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận thị trường này….
3.4 PHÂN TÍCH MA TRẬN SWOT
Phân tích các điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức đối với xuất khẩu thủy
sản ĐBSCL:

STRENGTHS: ĐIỂM MẠNH
- Điều kiện tự nhiên thuận lợi
- Nguồn nguyên liệu lớn
- Nguồn lao động dồi dào, giá rẻ
- Chi phí sản xuất thấp
- Giá thành sản phẩm thấp so với thế
giới
- Có nhiều doanh nghiệp thủy sản
WEAKNESS: ĐIỂM YẾU
- Sản phẩm chủ yếu là sơ chế
- Quy mô doanh nghiệp nhỏ
- Chưa chủ động được nguồn nguyên
liệu
- Sự liên kết giữa người nuôi và doanh
nghiệp chưa tốt
- Chất lượng sản phẩm chưa đồng nhất
- Thiếu kinh nghiệm về thương mại quốc
tế
OPPORTUNITIES: CƠ HỘI
- Nhu cầu thủy sản thế giới ổn định
- Gia nhập WTO, ASEAN, APEC
- Thị trường ngày càng mở rộng
- Hỗ trợ của chính phủ
THREATS: THÁCH THỨC
- Yêu cầu của thị trường về chất lượng sản
phẩm ngày càng cao
- Cạnh tranh không lành mạnh
- Cạnh tranh với các doanh nghiệp nước
25

×