Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Tác động của hoạt động KCN, KCX đối với sự phát triển kinh tế, xã hội, môi trường Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.62 KB, 21 trang )

Tác động của hoạt động KCN, KCX đối với sự phát triển kinh tế,
xã hội, môi trường Việt Nam.
1. Tác động về mặt kinh tế.
Sau 15 năm thành lập và phát triển, hoạt động của các KCN,
KCX đã có những tác động rõ nét đến tình hình phát triển kinh tế. Ta
đã xây dựng được 131 KCN, KCX và 450 cụm cơng nghiệp, hình
thành cơ chế quản lý KCN, KCX khá đầy đủ từ Trung ương đến địa
phương. Cơ chế quản lý hành chính "một cửa tại chỗ" tại các KCN,
KCX đang phát huy tác dụng làm tăng tính hấp dẫn của mơi trường
đầu tư. Mơ hình các khu cơng nghiệp đặc biệt ra đời: khu công nghệ
cao, khu kinh tế mở… Nhiều thành phần kinh tế tham gia xây dựng
KCN, KCX, thu hút nhiều loại hình vốn đầu tư. Phần lớn các KCN,
KCX hoạt động có hiệu quả địng góp vai trị quan trọng đối với sự
CNH- HĐH ở nước ta. Mặt khác chúng ta đã hình thành được đội ngũ
cán bộ quản lý và làm việc trong các KCN, KCX có trình độ cao,
năng động, tạo đượ một đội ngũ đông đảo công nhân chất lượng cao.
1.1 Các KCN, KCX đã góp phần trong sự phát triển cơng nghiệp
đất nước.
Cac KCN, KCX có đóng góp quan trọng vào chuyển dich cơ cấu
kinh của các địa phương tế theo hướng CNH –HĐH, đa dạng hố các
ngành nghề…góp phần chuyển dịch cơ cấu và tăng trưởng kinh tế của
cả nước, mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế.
Cụ thể tổng giá trị sản xuất công nghiệp của các KCN, KCX giai đoạn
1996-2000 đạt khoảng 9.5 tỷ USD tănng bình quân khoảng 20% năm,
cao gấp 1,67 lần nhịp độ phát triển cơng nghiệp chung của cả nước,
cịn bộ 3 con số này trong giai đoạn 2001-2005 là 22,4 tỷ USD; 32%
năm và 2 lần. Riêng năm 2005 thì giá trị sản xuất công nghiệp của các


KCN, KCX đạt 14 tỷ USD. Với nhịp độ tăng vượt trội như vậy, nếu tỷ
trọng giá trị sản xuất công nghiệp của các KCN, KCX trong tổng giá


trị sản xuất công nghiệp của cả nước năm 1996 mới là 8%, thì năm
2000 đã tăng lên 14%, năm 2001 là 17% năm 2005 đã tăng vọt lên
28%. Trong 8 tháng đầu năm 2006 các chỉ tiêu hiệu quả sản xuất kinh
doanh trong khu công nghiệp tăng trưởng khá so với năm trước.
Trong 8 tháng đầu năm 2006 giá trị sản xuất công nghiệp trong các
KCN, KCX đạt 9 tỷ USD tăng 20% so với cùng kỳ năm ngoái.
1.2 Tác động của KCN, KCX đến kim ngạch xuất khẩu và ngân
sách nhà nước.
Tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp KCN, KCX
thời kỳ kế hoạch 5 năm 1996-2000 đạt 6.2 tỷ USD tăng bình quân
khoảng 18% năm ( từ năm 1991-1996, giá trị xuất khẩu của các doanh
nghiệp trong khu vực này không đáng kể); kế hoạch 5 năm 2001-2005
đạt trên 22,3 tỷ USD tăng bình quân 24% năm, cao hơn giá trị xuất
khẩu bình quân của cả nước (đạt khoảng 17% năm). Tỷ trọng giá trị
xuất khẩu của các doanh nghiệp KCN, KCX trong tổng kim ngạch
xuất khẩu của cả nước đã tăng lên từ mức 15% năm 2000 lên khoảng
20% năm 2005. Đặc biệt giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp khu
công nghiệp,khu chế xuất chiếm khoảng 19% tồng kim ngạch xuất
khẩu của cả nước và đạt 6 tỷ USD trong năm 2005.Trong 8 tháng đầu
năm 2006 các khu công nghiệp , khu chế xuất đã tạo ra giá trị kim
ngạch xuất khẩu đạt 4 tỷ USD tăng 22% so với cùng kỳ năm
ngoái.Khu chế xuất Tân Thuận được coi là khu đạt giá trị cao nhất
trong các KCN, KCX của nước ta hiện nay về giá trị đầu tư, doanh
thu và giá trị xuất khẩu. Tính ra mỗi ha ở đây thu hút khoảng 5 triệu
USD vốn đầu tư, xuất khẩu đạt trung bình 4 triệu USD một năm.


Trong giai đoạn 2001-2005 các doanh nghịêp trong KCN, KCX đã
nộp tổng giá trị ngân sách nhà nước khoảng 2 tỷ USD tăng 45% một
năm và gấp 6 lần thời kỳ 1996-2000. Trong tháng đầu năm 2006 giá

trị này lên tới 400 triệu USD.
1.3 Tác động của KCN, KCX tới công ăn việc làm.
Phát triển các KCN, KCX mở ra một không gian kinh tế rộng lớn,
một kênh mới rất có tìêm năng thu hút lao động giải quyết việc làm
cho lao động xã hội. Lực lượng lao động của các KCN, KCX gia tăng
cùng với sự gia tăng của việc thành lập mới mở rộng và các dự án mới
trong các KCN, KCX. Trong thời kỳ năm 2001-2005 các KCN, KCX
đã thu hút được 650.000 lao động trực tiếp gấp 4 lần so với thời kỳ
1991-2000, hiện nay tính đến tháng 6 năm 2006 các KCN, KCX đã
thu hút được 865.000 lao động trực tiếp và 1,5 triệu lao động gián
tíêp.Ngồi việc tạo cơng ăn việc làm cho người lao động các khu này
còn là nơi sử dụng lao động có trình độ chun mơn kỹ thuật phù hợp
với cơng nghệ mới áp dụng vào sản xuất đạt trình độ khu vực và quốc
tế.
2.Tác động của KCN, KCX đến xã hội.
Ngồi các tác động tích cực đến việc tăng trưởng kinh tế, cải thiện cơ
sở hạ tầng, giải quyết công ăn việc làm, hoạt động của các KCN,
KCX cũng có một số tác động xấu đến mặt xã hội.
- Trong thời gian qua đã xảy ra các cuộc đình cơng do mâu thuẫn giữa
lợi ích của chủ đầu tư và người lao động có xu hướng tăng lên cả về
mật độ và quy mô.Trong 10 năm qua cả nước đã xảy ra 1000 cuộc
đình cơng, riêng 2 tháng đầu năm 2006 cả nước đã có 150 cuộc đình
cơng lớn nhỏ, số người tham gia lên tới hàng trăm ngàn người. Mâu


thuẫn chủ yếu là do chế độ thù lao tiền lương và xảy ra tại các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi.
-Việc hình thành các khu đơ thị mới trong và ngồi hàng rào các
KCN, KCX chỉ có thể trở thành hiện thực và có hiệu quả khi có sự
đầu tư, phát triển đồng bộ giữa các cơng trình hạ tầng kinh tế kỹ thuật,

hạ tầng văn hoá xã hội. Các nghiên cứu thống kê gần đây cho thấy,
thực tế phát triển các cơng trình xã hội khác ở các KCN, KCX chưa
tương xứng với quy mô, tốc độ phát triển các sở sản xuất, các cơng
trình hạ tầng kỹ thuật. Giải quyết được vấn đề này là giải quyết mâu
thuẫn giữa phát triển kinh tế với văn hoá và các vấn đề xã hội khác.
- Ở nhiều KCN, KCX, lượng công nhân tại địa bàn và các tỉnh lân cận
tập trung về rất lớn do yêu cầu tuyển dụng ngành nghề. Từ đó hình
thành một cách tự phát " những hộ cơng nhân mới trong và ngồi khu
cơng nghiệp,khu chế xuất". Cuộc sống của những cư dân công nghiệp
này cũng diễn ra với tất cả các nhu cầu của cuộc sống: đi, ở, ăn mặc,
sinh hoạt vật chất văn hố, hơn nhân gia đình. Nhưng những nhu cầu
thiết yếu đó trên thực tế đã khơng đáp ứng được một cách đồng bộ,
thậm chí ở mức tối thiểu, ngay từ khi quy hoạch và xây dựng KCN,
KCX tại các địa phương.
- Trong quá trình phát triển các KCN, KCX tất yếu có sự giao thoa
giữa thói quen, nếp sống cũ mà cư dân mang từ quê hương bản địa
đến các KCN, KCX với những thói quen, nếp sống văn minh mới
hình thành ở đây. Vấn đề là làm sao định hướng để những thói quen,
nếp sống mới ấy khơng làm mất đi những giá trị tốt, bản sắc truyền
thống tốt đẹp có từ nhiều vùng quê, thành phố, tạo thành nét văn hoá
chung tiêu biểu mang bản sắc riêng cho sự cộng đồng dân cư khu
công nghiệp,khu chế xuất.


- Việc quy hoạch các thiết chế văn hóa, câu lạc bộ, thư viện, các dịch
vụ văn hoá…cần được đặt ra ngay từ đầu trong dự án xây dựng và
phát triển các KCN, KCX ở địa phương. Nhu cầu về sự thụ hưởng về
vật chất đến một lúc nào đó sẽ được đáp ứng và thỏa mãn; nhưng nhu
cầu và địi hỏi hưởng thụ đời sống văn hóa tinh thần sẽ khơng bao giờ
ngừng lại, chỉ có ngày càng phong phú hơn, hồn thiện hơn. Đây

chính là các tác động khách quan trong quá trình phát triển CNHHĐH đất nước, địi hỏi phải xây dựng đựơc mơ hình văn hố trong
cộng đồng dân cư các KCN, KCX. Đây không phải là vấn đề của
riêng các KCN, KCX mà còn lợi ích cho sự phát triển kinh tế của các
địa phương trong tổng thể phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Khi
chưa có thiết chế văn hố chung cho các KCN, KCX, tất yếu các dịch
vụ văn hoá "tự phát" sẽ mọc lên, đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của cư dân.
Nếu không đựơc định hướng đúng, quản lý tốt, các hoạt động này sẽ
biến tướng trong quá trình phát triển, làm nảy sinh tiêu cực, là mảnh
đất tốt cho tệ nạn xã hội như mại dâm, ma tuý, nghiện hút, cờ bạc, lối
sống lai căng xa lạ bám rễ với tốc độ không lường trước được.
- Việc đầu tư xây dựng các kết cấu hạ tầng ở các KCN, KCX chưa
được quan tâm đúng mức. Do tốc độ thị hoá nhanh, cộng với việc lo
phát triển kinh tế tài chính, nên việc quy hoạch xây dựng các cơ sở hạ
tầng xã hội phục vụ sinh hoạt ăn ở đi lại học hành khám chữa bệnh ở
các KCN, KCX hầu như chưa được quan tâm.
+ Do áp lực của việc làm, của thu nhập, của số lượng lớn lao động
dồn về các KCN, KCX trong khi các cơ sở chưa phát triển đồng bộ,
phần lớn công nhân trong các KCN, KCX phải chấp nhận sống và
sinh hoạt trong những điều kiện tạm bợ về nhà ở điện nước, sinh hoạt;
đa phần các cư dân KCN, KCX phải thuê những căn hộ tối thiểu của
người dân hàng rào KCN, KCX để sinh sống. Điều này đã gây khó


khăn, bức xúc trực tiếp cản trở đến đời sống hàng ngày của người dân
lao động, tạo tâm lý không an tâm cho người lao động. Với lực lượng
công nhân trẻ chưa có gia đình và những người dân mới lập gia đình,
đây là vấn đề lo ngại về lâu dài và ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng
cuộc sống, chất lượng ngành nghề, chất lượng sản xuất kinh doanh…
của cá nhân, gia đình, cộng đồng và doanh nghiệp, đồng thời gây khó
khăn trong quản lý, các doanh nghiệp trong KCN, KCX và cho điạ

phương có KCN, KCX.
+ Mặt khác việc hưởng thụ bình đẳng các chế độ bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm y tế, chế độ giáo dục, chăm sóc khi ốm đau, bệnh tật, vấn đề
tăng chất lượng dân số… chưa được đáp ứng đã làm nảy sinh nhiều
khó khăn, phức tạp về xã hội. Đây cũng là áp lực đối với điạ phương
khi giải quyết những phát sinh ngoài ý muốn, ngoài khả năng của họ
như gánh nặng về đầu tư khám chữa bệnh, việc giải quyết học hành
cho con em dân cư KCN, KCX, các tệ nạn xã hội.
- Một vấn đề không kém phần quan trọng là cần nhanh chóng thành
lập các tổ chức chính trị xã hội như tổ chức Đảng, Cơng Đồn, Đồn
thanh niên… trong các KCN, KCX nhằm đảm bảo quyền lợi chính trị
xã hội cho cư dân cơng nghiệp, kể cả doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngồi, các liên doanh, doanh nghiệp tư nhân.
3.Tác động của KCN, KCX đến môi trường.
3.1 Tác động
- Không dễ quản lý như chất thải, vịêc xử lý các chất thải của các nhà
máy trước khi thải ra môi trường cũng đang làm đau các nhà quản lý.
Theo ước tính mỗi khu cơng nghiệp thải khoảng 3000- 4000 m3 nước


thải / ngày đêm. Như vậy tồng lượng công nghiệp của các KCN, KCX
trên cả nước lên khoảng 500000-700000m3/ngày đêm.
- Theo số liệu thống kê, trong số 131 khu công nghiệp đã xây dựng
xong và đưa vào vận hành hệ thống xử lý nước thải tập trung, 10 khu
công nghiệp đang xây dựng, các khu cơng nghiệp cịn lại thì chưa xây
dựng. Ngay cả các khu cơng nghiệp đã có trạm xử lý chất thải tập
trung, thì chất lượng thực tế của các cơng trình này vẫn cịn hạn chế,
chưa đạt được những tiêu chuẩn quy định, gây ô nhiễm môi trường,
đặc biệt là một số khu công nghiệp tập trung các ngành công nghiệp
nhẹ như dệt may, thuộc da, ngành hố chất… độc hại cao.

Ngồi ra tại các khu cơng nghiệp,khu chế xuất ơ nhiễm khí bụi và
tiếng ồn là loại hình khó kiểm sốt và khơng được quan tâm. Khí thải
của các cơ sở sản xuất chứa nhiều chất độc hại được xả trực tiếp vào
môi trường, ảnh hưởng đến sức khoẻ của nhân dân quanh vùng.
- Theo kết quả quan trắc, nồng độ chất SO2, CO, NO2 gần các khu
công nghiệp hoặc trong các khu công nghiệp đang gia tăng. Nồng độ
bụi tại ven các trục giao thơng chính đều đã vượt q chỉ tiêu cho
phép từ 2-6 lần. Tại nhiều nhà máy cơ khí, luyện kim, cơng nghiệp
hố chất, cơng nghiệp vật liệu xây dựng, cơng nghiệp chế biến thuỷ
sản… trong khu công nghiệp, nồng độ bụi và khí độc hại trong khơng
khí, vượt tiêu chuẩn cho phép từ 2-5 lần.
- Cùng với đó, người dân đang phải gánh chịu những ảnh hưởng tiêu
cực từ việc phát triển các khu công nghiệp ở địa phương, sự ô nhiễm
nước sinh hoạt, sự thoái hoá đất đai do những chất thải độc hại từ khu
công nghiệp gây ra…


3.2 Nguyên nhân dẫn đến những tác động trên.
- Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự gia tăng ô nhiễm mơi trường
trong các khu cơng nghiệp, trong đó phải nói đến cơng tác quy hoạch
các khu cơng nghiệp cịn nhiều điềm khơng hợp lý, như việc bố trí các
khu cơng nghiệp gần đường giao thông, khoảng cách quá gần khu dân
cư, do đó ơ nhiễm trong khu cơng nghiệp dễ dàng gây ảnh hưởng đến
môi trường xung quanh. Thêm vào đó là việc nhận thức về việc bảo
vệ mơi trường trong các khu cơng nghiệp của chính quyền địa phương
chưa cao, chưa đánh giá đúng mức về vấn đề môi trường với phát
triển bền vững. Các cơ quan Nhà nước ở địa phương và chíng quyền
địa phương và trung ương chưa có chế tài giám sát chặt chẽ việc xây
dựng các khu công nghiệp theo quy hoạch và theo đúng dự án đã
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Do đó, trong báo

cáo khả thi các hạng mục xử lý chất thải nước thải và bảo vệ mơi
trường, trên thực tế khơng được triển khai. Ơng Trần Ngun Hiền,
Trưởng phịng Quản lý mơi trường, Sở tài ngun và môi trường
thành phố HCM cho biết: "Trong 9 KCN, KCX của thành phố HCM
chưa có hệ thống xử lý chất thải tập trung thì chưa có hệ thống xử lý
nước thẳ tập trung, cịn lại các khu cơng nghiệp khác mới đang lên kế
hoạch".
Mặt khác chi phí xây dựng chất thải cùng với việc chưa có cơ chế hỗ
trợ thoả đáng từ phía nhà nước, là một trong những nguyên nhân
khiến các nhà đầu tư chậm triển khai các hệ thống này.
- Ngoài ra, hệ thống pháp luật về bảo vệ mơi trường trong các KCN,
KCX cịn chưa hồn chỉnh. Chưa hình thành hệ thống các quy định
thống nhất về công tác quản lý quản lý môi trường theo các loại hình
ơ nhiễm rắn,lỏng, khí và chưa thích hợp với đặc điểm của các khu


cơng nghiệp – địi hỏi quản lý ơ nhiễm theo từng ngành và theo cả hệ
thống trogn khu công nghiệp là chưa phù hợp. Quy định về thẩm định
môi trường đối với các dự án trong khu cơng nghiệp cịn chậm đổi
mới và khơng có chế tài mang tính bắt buộc. Ngoài cơ chế hỗ trợ theo
quyết định 183 năm 2003 của Thủ tướng chình phủ, thì cơ chế hỗ trợ
xây dựng hệ thống xử lý chất thải ở các khu cơng nghiệp vẫn chưa
được hình thành. Hơn nữa việc có nhiều đầu mối quản lý các KCN,
KCX cũng dẫn đến hiệu quả phối hợp giữa các đơn vị trong quản lý
môi trường trong KCN, KCX chưa được tốt.
III. Kết quả và những tồn tại trong hoạt động của các khu
công nghiệp và khu chế xuất .
A. Những kết quả đã đạt được.
Việc xây dựng và phát triển KCN, KCX thực hiện chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của đất nước nói chung

và của ngành, địa phương, vùng lãnh thổ nói riêng trong q trình
triển khai nghị quyết của Đảng giai đoạn vừa qua(1991-2006) đã đạt
được những kết quả sau:
1. Hình thành hệ thống các KCN, KCX trên cơ sở chiến lược, quy
hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội trên cả nước.
Đến cuối tháng 12/2005 đã có 131 KCN, KCX đựơc thủ tướng
chính phủ quyết định thành lập, phân bố trên 47 tỉnh thành với tổng
diện tích đất tự nhiên 26.986 ha, trong đó diện tích đất cơng nghiệp có
thể cho th đạt18.044 ha.
Trừ vùng Tây Bắc có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn,
tất cả các vùng cịn lại đều thành lập KCN, KCX. Riêng 3 vùng kinh
tế trọng điểm đã chiếm tới 73% số lượng KCN, KCX của cả nước (96
khu).


Quy mơ trung bình của các KCN, KCX là 206 ha. Các vùng có
điều kiện tương đối khó khăn, ít có lợi thế phát triển cơng nghiệp
đựơc bố trí các KCN, KCX có quy mơ trung bình thấp hơn, như vùng
Tây Nguyên( 115,75 ha), vùng Đông Bắc Bắc Bộ(144,5ha); các vùng
có điều kiện phát triển cơng nghiệp được bố trí cao hơn, như Đông
Nam Bộ (253,3 ha), Đồng bằng sông Hồng(173,7 ha).
Các KCN, KCX được thành lập và phát triển phù hợp với mục
tiêu của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm. Kế hoạch 5 năm
1991-1995 là giai đoạn đầu thí điểm phát triển KCN, KCX số lượng
các KCN, KCX trong giai đoạn này là 12 với tổng diện tích đất tự
nhiên là 2360 ha. Sau giai đoạn này, việc thành lập các KCN, KCX
được đẩy nhanh, cụ thể trong kế hoạch 5 năm 1996-2000 thành lập 53
KCN, KCX với tổng diện tích đất tự nhiên 9706,12 ha, tăng 4,4 lần về
số lượng và 4,1 lần về diện tích so với giai đoạn 1991-1995; kế hoạch
5 năm 2001- 2005 thành lập 66 KCN, KCX vói tổng diện tích

13.140,4 ha, tăng 24,5% về số lượng và 354% về diện tích so với kế
hoạch 5 năm 1996-2000.
Các khu cơng nghiệp,khu chế xuất được hình thành lập và phát
triển phù hợp với quy hoạch xây dựng và phát triển khu công nghiệp
khu chế xuất cả nước và định hướng phát triển phân bố công nghiệp
của địa phương. Phần lớn các KCN, KCX ưu tiên thành lập đến năm
2000 được thủ tướng chính phủ phê duyệt tại các Quyết định số 519
ngày 6/8/1996 số 713 ngày 30/8/1997và số 194/1998 ngày
01/10/1998( với tổng số 56 KCN, KCX được dự kiến thành lập) đã
được thành lập và đi vào họat động. Các quy hoạch KCN, KCX đã
được quy hoạch và triển khai là một bước cụ thể hóa nghị quyết đại
hội VII về quy hoạch vùng, địa bàn trọng điểm về KCN, KCX phù


hợp với tình hình phát triển và nhu cầu sử dụng đất của các địa
phương.
2. KCN, KCX đã huy động được lượng vốn đầu tư lớn của các
thành phần kinh tế trong và ngoài nước, phục vụ cho CNH- HĐH
đất nước.
KCN, KCX ra đời và hoạt động trước hết vì mục tiêu huy động
vốn đầu tư nước ngoài và thực hiện chính sách đầu tư nước ngồi theo
quy định tại Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987, được sửa
đổi, bổ sung năm 1990 và 1992 và Luật đầu tư nước ngoài được sửa
đổi, bổ sung năm 2000. Đặc biệt từ luật đầu tư nước ngoài sửa đổi
năm 1992, KCN, KCX đã được đề cập đến như một hình thức thu hút
đầu tư nước ngồi, với các đặc điểm riêng biệt.
Các KCN, KCX với những chính sách ưu đãi và những điều kiện
thuận lợi về cơ sở hạ tầng kỹ thuật ngày càng là địa bàn hấp dẫn các
nhà đầu tư nước ngoài. Số dự án đầu tư nước ngoài và tổng vốn đăng
ký vào KCN, KCX dần được mở rộng trong giai đoạn đầu 1991-1995

và đặc biệt tăng trưởng cao trong 5 năm 2000 và giai đoạn 20012005. Nếu trong kế hoạch 5 năm 1991-1995, khi các KCN, KCX đang
trong quá trình triển khai xây dựng, số vốn đầu tư nước ngoài thu hút
mới đạt được 155 dự án với tổng số vốn 1550 triệu USD, thì trong kế
hoạch 5 năm 1996-2000, số dự án tăng thêm đạt 7.213 triệu USD tăng
3,8 lần về số dự án và 4,65 lần về tổng vốn đầu tư đăng ký so với kế
hoạch 5 năm 1991-1995. Số dự án tăng thêm giai đoạn kế hoạch 5
năm 2001-2005 là 1377 dự án với tổng vốn đầu tư tăng thêm đạt 8080
triệu USD, tăng gấp 2,34 lần số dự án và 12% tổng vốn đầu tư so với
kế hoạch 5 năm 1996-2000. Tốc độ tăng bình quân về số dự án và
tổng vốn đầu tư lũy kế giai đoạn 1996-2000 tương ứng là 37% và
46% ,kế hoạch hoạch 5 năm 2001-2005 là 23% và 14%.


Nhìn lại chặng đường 15 năm xây dựng và phát triển cho thấy
KCN, KCX địng góp ngày càng quan trọng trong việc thu hút vốn
đầu tư nước ngồi. Tính đến cuối tháng 12/2005, các KCN, KCX đã
thu hút được 2120 dự án có vốn đầu tư nước ngồi cịn hiệu lực với
tổng vốn đăng ký đạt 16.843 triệu USD. Tỷ trọng vốn đầu tư đăng ký
của các dự án có vốn đầu tư nước ngoài trong KCN, KCX trong tổng
vốn đầu tư nước ngoài trong cả nước tăng dần qua các năm và đạt
45% năm 2005. Các dự án có vốn đầu tư nước ngoài chủ yếu là các
doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư nước ngồi( khoảng 1820 dự án
với tổng vốn đăng ký đạt13.600 triệu USD, chiếm 85% về số dự án và
hơn 80% về tổng vốn đã đăng ký), hình thức liên doanh có khoảng
200 dự án( gần 3000 triệu USD), cịn lại hình thức liên doanh cổ
phần( 6 dự án) và hợp đồng hợp tác kinh doanh (12 dự án).
Ngồi ra các KCN, KCX cịn là một trong những giải pháp để
thực hiện chủ trương phát huy nội lực của các thành phần kinh tế
trong nước. Đến cuối tháng 12/2005, tổng số có 2367 dự án trong
nước có hiệu lực trong KCN, KCX với tổng vốn đầu tư trên 113

nghìn tỷ đồng.
3. KCN, KCX có đóng góp khơng nhỏ vào chuyển dịch cơ cấu
kinh tế của địa phương theo hướng CNH-HĐH.
Thực tế, trong 15 năm xây dựng và phát triển, cho thấy các KCN,
KCX đóng góp ngày càng lớn trong việc nâng cao tỷ trọng giá trị sản
xuất công nghiệp trong GDP của cả nước. Tổng giá trị sản suất của
các khu công nghiệp,khu chế xuất thời kỳ 1996-2000 đạt 9.5 tỷ USD,
tăng bình quân khoảng 20% năm; thời kỳ 2001-2005 đạt khoảng 44,4
tỷ, gấp 5 lần so với kế hoạch 5 năm trước và tăng bình qn 32%
năm. Tỷ trọng sản suất cơng nghiệp của các doanh nghiệp khu công
nghiệp,khu chế xuất trong tổng giá trị sản suất của cả nước tăng lên


mức đáng kể từ mức 8% năm 1996 lên 14% năm 2000 và tù 17% năm
2001lên khoảng 28% năm 2005.
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp KCN,
KCX thời kỳ kế hoạch 5 năm 1996-2000 đạt 6,2 tỷ USD, tăng bình
quân khoảng 18% năm (từ năm1991-1996 giá trị xuất khẩu của các
doanh nghiệp khu công nghiệp,khu chế xuất khơng đáng kể); kế
hoạch 5 năm 2001-2005 tăng bình qn 24%/năm cao hơn tốc độ bình
quân giá trị xuất khẩu cơng nghiệp cuả cả nước(đạt bình qn khoảng
17%). Tỷ trọng xuất khẩu của các doanh nghiệp KCN, KCX trong
tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước đã tăng lên từ 15% năm 2000
đến 20% năm 2005. Đặc biệt giá trị xuất khẩu của các khu chế xuất và
doanh nghiệp chế xuất chiếm khoảng 10% tổng kim ngạch xuất khẩu
của cả nước và đạt khoảng 2,9 tỷ USD trong năm 2005. Khu chế xuất
Tân Thuận được đánh giá giá trị cao nhất trong các khu chế xuất, khu
công nghiệp ở nước ta hiện nay về giá trị đầu tư, doanh thu và giá trị
xuất khẩu. Tính ra mỗi ha đất ở đây thu hút khoảng 5 triệu USD vốn
đầu tư,xuất khẩu đạt trung bình khoảng 4 triệu USD một năm.

Tổng giá trị nhập khẩu của các doanh nghiệp khu chế xuất, khu
công nghiệp thời kỳ 2001-2005 đạt khoảng 27,3 tỷ USD, tăng bình
quân khoảng 32%/năm và tăng gấp 3,4 lấn so với tổng giá trị nhập
khẩu trong kế hoạch 5 năm 1996-2000.
Các doanh nghiệp KCN, KCX bước đầu đóng góp tích cực vào
ngân sách nhà nước, trong thời kỳ 2001-2005 tổng giá trị nộp ngân
sách của các KCN, KCX tăng mạnh và đạt 2 tỷ USD tăng bình quân
khoảng 45% năm và gấp 6 lần so với kế hoạch 5 năm 1996-2000.
4. KCN, KCX đã tạo ra một kết cấu hạ tầng mới, hiện đại có giá
trị lâu dài.


Xây dựng kết cấu hạ tầng là điều kiện hết sức quan trọng của nền kinh
tế quốc dân. Để thu hút đầu tư váo KCN, KCX tạo điều kiện thuận lợi
cho nhà đầu tư trong việc triển khai dự án nhanh, ngồi các chính
sách ưu đãi về tài chính và cơ chế quản lý thuận lợi, cơ sở hạ tầng các
KCN, KCX. Tại các KCN, KCX cơ sở hạ tầng kinh tế -kỹ thuật nói
chung khá hồn chỉnh, một số đạt tiêu chuẩn quốc tế nhất là đường sá,
kho bãi, điện, nước, giao thông, thông tin liên lạc và các dịch vụ tài
chính, ngân hàng, bảo hiểm.
Đến cuối tháng 12/2005, 131 dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh cơ
sở hạ tầng trên cả nước gồm 19 dự án có vốn đầu tư nước ngồi và
112 dự án trong nước với tổng vốn đầu tư đạt hơn 1tỷ USD và 33
nghìn tỷ đồng. Hình thức đầu tư cơ sở hạ tầng đa dạng và phong phú
phù hợp với yêu cầu của từng địa phương. Các KCN, KCX do các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh làm chủ đầu tư chiếm số lượng lớn
nhất: 45 khu công nghiệp,khu chế xuất với tổng vốn đầu tư 15.673 tỷ
đồng; 33 KCN, KCX được đầu tư theo cơ chế đơn vị sự nghiệp có thu
hồi với tổng vốn đầu tư đạt trên 7.424 tỷ đồng, các KCN, KCX còn lại
do doanh nghiệp nhà nước làm chủ đầu tư với tổng vốn đầu tư đạt hơn

9.835 tỷ đồng( 34 khu công nghiệp ).
Trên phạm vi cả nước đến cuối năm 2005, đã có 79 KCN, KCX đã
hoàn thành xây dựng cơ bản và đi vào vận hành với tổng số vốn đầu
tư cơ sở hạ tầng hơn 760 triệu USD và 20.000 tỷ đồng, vốn thực hiện
đạt hơn 500 triệu USD và 8000 tỷ đồng, 51 khu cơng nghiệp khu chế
xuất, cịn lại đang trong giai đoạn đền bù giải phóng mặt bằng và xây
dựng cơ bản.
Tại các địa phương đã hoàn thành việc xây dựng KCN, KCX, kết cấu
hạ tầng được đầu tư đồng bộ và hồn thiện thực sự góp phần thay đổi


diện mạo của địa phương, đặc biệt là tại các địa phương có tiềm năng
phát triển các KCN, KCX, hệ thống KCN, KCX với hạ tầng trong và
ngoài đã được đầu tư đồng bộ và hiện đại đã góp phần chủ yếu hệ
thống cơ sở hạ tầng xã hội, tạo điều kiện cho việc đẩy mạnh đầu tư
vào KCN, KCX cũng như thúc đẩy mối liên kết kinh tế ngành, vùng,
đặc biệt là một số tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam như
Đồng Nai, Bình Dương.
5. Các KCN, KCX sử dụng ngày càng hiệu quả cơ sở hạ tầng và
đẩy mạnh hợp tác sản suất, tăng cường mối liên kết ngành trong
trong phát triển kinh tế.
Hiệu quả sử dụng cơ sở hạ tầng gắn liền với đất của các KCN, KCX
đang hoạt động ngày càng được nâng cao, thể hiện ở các chỉ tiêu:
- Trong thời kỳ 2001-2005, các KCN, KCX đã cho thuê thêm được
khoảng hơn 7000 ha đất công nghiệp, tỷ lệ lấp đầy đất khu công
nghiệp,khu chế xuất đã vận hành tăng đều hàng năm từ 40% năm
1996 lên 50% naưm 2000 và từ 55% năm 2001 lên 72% năm 2005.
- Tính đến cuối tháng 12/2005 bình quân 1 ha đất của các KCN, KCX
đã vận hành thu hút được 1,93 USD tăng 60% so với năm 2001 (1,2
triệu USD/ha).

- Giá trị sản suất công nghiệp do 1 ha đất công nghiệp tạo ra tăng đều
qua các năm từ 0.54 triệu USD/ha đến 0.76 triệu USD/ha; giá trị xuất
khẩu bình quân hàng năm trong kế hoạch 2001-2005 đạt 0.33USD/ha.
Hiệu quả sử dụng đất cho các KCN, KCX là rất rõ ràng. Cho đến thời
điểm 12/2005, theo số liệu điều tra 1 ha đất nông nghiệp chỉ sử dụng
4-5 lao động, trong đó tại các khu cơng nghiệp,khu chế xuất số lượng
lao động thu hút bình quân là 30-100 người. Về giá trị sản xuất, 1 ha


đất trồng trọt trung bình tạo ra khoảng 10 triệu đồng giá trị sản xuất
trong khi 1 ha đất KCN, KCX đã cho thuê tạo ra khoảng 30 tỷ đồng.
6.Các KCN, KCX đã góp phần quan trọng trong việc giải quyết
việc làm, nâng cao dân trí và thực hiện các chính sách xã hội.
Phát triển KCN, KCX mở ra một khơng gian kinh tế rộng lớn, một
kênh mới rất có tiềm năng để thu hút lao động, giải quyết việc làm
cho lao động xã hội. Lực lượng lao động trong KCN, KCX gia tăng
cùng với sự gia tăng các KCN, KCX thành lập mới và mở rộng, các
dự án hoạt động trong KCN, KCX, Trong thời kỳ 2001 – 2005, các
KCN, KCX đã thu hút thêm được 656.000 lao động trực tiếp, gấp 4
lần so với thời kỳ trước (1991 – 2000), hiện nay (6/2006), các KCN,
KCX đã thu hút được khoảng 865.000 lao động trực tiếp, nếu tính cả
số lao động gián tiếp thì số lao động thu hút được cịn lớn hơn nhiều
(ước tính lượng lao động gián tiếp khoảng 1.5 triệu người).
KCN, KCX là nơi sử dụng lao động có chun mơn kỹ thuật phù hợp
với cơng nghiệ mới áp dụng vào sản xuất đạt trình độ khu vực và
quốc tế. Đến nay, nhiều khu công nghiệp đã xây dựng các cơ sở dạy
nghề (Trung tâm dạy nghề Việt Nam Singapore, Trường Kỹ nghệ
Thừa Thiên Huế, Trường cao đẳng kỹ thuật cơng nghệ Biên Hịa…).
Đặc biệt đã hình thành mơ hình liên kết đào tạo và sử dụng nhân lực
giữa các khu công nghiệp và nhà trường (Đồng Nai)…KCN, KCX tự

đào tạo nghề là hướng rất quan trọng để giải quyết tình trạng thiếu
nghiêm trọng lao động kỹ thuật hiện nay.
7. KCN, KCX đã góp phần nhất định vào việc bảo vệ môi trường
sinh thái.
KCN, KCX là nơi tập trung các doanh nghiệp, do đó có điều kiện tập
trung các chất thải do các doanh nghiệp thải ra để xử lý. KCN, KCX


góp phần thực hiện mục tiêu di dời các cơ sở sản xuất từ nội đơ vào,
do đó góp phần giải quyết ô nhiễm đô thị, xử lý tập trung ô nhiễm.
Thực tế cho thấy, một số KCN, KCX thực hiện rất tốt và hài hòa mục
tiêu thu hút đầu tư với giải quyết vấn đề môi trường, thực sự là những
“cơng viên cơng nghiệp”, là mẫu hình để các KCN, KCX khác tiếp
tục triển khai áp dụng, điển hình là khu cơng nghiệp Biên Hịa II, khu
cơng nghiệp Thăng Long.
8. Các KCN, KCX có tác dụng lan tỏa tích cực tới trình độ phát
triển của các vùng, các ngành, các lĩnh vực.
KCN, KCX góp phần mở rộng thị trường các yếu tố đầu vào, đầu ra
tại các vùng lân cận, đặc biệt là những địa phương trình độ cơng
nghiệp phát triển, thấy rõ nhất điều này là sức lan tỏa lớn của KCN,
KCX tại thành phố Hồ Chí Minh tới các tỉnh lân cận (Đồng Nai, Bình
Dương), chuyển các địa phương này từ cơ cấu kinh tế thuần nông
sang cơ cấu kinh tế công nghiệp hiện đại. Trong thời gian tới, xư
hướng lan tỏa từ các KCN, KCX ở các địa phương này sẽ còn mở
rộng hơn nữa sang các địa phương khác như Long An, Bình Phước…
Cùng với q trình phát triển các khu cơng nghiệp, nhu cầu về nhân
lực (cả công nhân và cán bộ quản lý) ngày càng lớn. Để đáp ứng nhu
cầu này, trong quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội và quy
hoạch phát triển công nghiệp trên địa bàn, các địa phương đều phải đề
ra các chương trình, kế hoạch và giải pháp cụ thể về đào tạo nguồn

nhân lực, các cơ sở đào tạo trong vùng và lân cận đều phải xây dựng
hoặc điều chỉnh kế hoạch đào tạo theo định hướng phù hợp với nhu
cầu của thị trường lao động. Mặt khác, khi nhận thức được cơ hội có
việc làm, tự người dân đến tuổi lao động tại các địa phương, các vùng
co khu công nghiệp cũng chủ động định hướng cho mình trong việc
học nghề. Như vậy, việc phát tiển các KCN, KCX có tác động rất rõ


rệt đến quá trình quy hoạch, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cũng
như qúa trình chuyển dịch cơ cấu lao động của địa phương nơi khu
cơng nghiệp đóng và các địa phương lân cận. Ngoài ra, thực tế cho
thấy, một số tỉnh có nhiều KCN, KCX mới thành lập do thiếu lao
động tại chỗ nên đã thu hút một lực lượng công nhân đông đảo từ các
tỉnh khác đến; sau một thời gian rất nhiều người trong số này đã trở về
quê hương và trở thành lực lượng nòng cốt của các khu công nghiệp
mới thành lập tại quê mình. Đối với đội ngũ cán bộ quản lý, tác động
lan tỏa của các KCN, KCX cũng rất rõ nét. Các khu công nghiệp khu
chế xuất là nơi thu hút một tỉ lệ khá lớn các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngồi. Nhìn chung các doanh nghiệp này, ngồi vốn đầu tư,
công nghệ tiến bộ, các mối quan hệ thị trường sẵn có, cịn mang đến
Việt Nam những mơ hình quản lý tiên tiến và phong cách làm ăn theo
kiểu cơng nghiệp. Vì vậy, có thể nói các KCN, KCX là những trường
học thực tiễn góp phần khơng nhỏ vào việc đào tạo và nhân rộng mơ
hình, cung cách, tác phong quản lý cơng nghiệp hóa cho các doanh
nghiệp ở địa phương nơi KCN, KCX đóng; là nơi mà các doanh
nghiệp khác của địa phương có thể học tập, tham khảo kinh nghiệm
về quản lý, thơng qua đó nâng cao hiệu quả quản lý với đích cuối
cùng là nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp mình.
Trong nền kinh tế định hướng thị trường hiện nay, một trong những
yếu tố quan trọng hàng đầu giúp doanh nghiệp nâng cao năng lực

cạnh tranh chính là chất lượng sản phẩm. Trong lĩnh vực này, các
KCN, KCX cũng có tác động lan tỏa rất lớn đến công nghiệp địa
phương. Các dự án đầu tư trong KCN, KCX đều là những dự án đầu
tư mới, phần lớn được trang bị máy móc, thiết bị thế hệ mới, đồng bộ;
rất nhiều dự án trong số đó có cơng nghệ hiện đại, mức độ tự động
hóa cao. Với thế mạnh về cơng nghệ, thiết bị như vậy, cộng với


phương pháp quản lý tiến bộ, các doanh nghiệp này sản xuất ra sản
phẩm có chất lượng tốt và ổn định. Vì vậy, để cạnh tranh có hiệu quả
và tồn tại được trên thị trường, các doanh nghiệp khác sản xuất sản
phẩm cùng loại – không chỉ ở địa phương có khu cơng nghiệp mà ở
mọi nơi khơng cịn cách nào khác là phải áp dụng mọi biện pháp để
không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm làm ra. Nói cách khác,
với những ưu thế nhất định của mình, các doanh nghiệp trong KCN,
KCX đã và đang tác động tích cực tới yếu tố chất lượng sản phẩm của
công nghiệp địa phương, góp phần giúp cơng nghiệp địa phương từ
chỗ xhỉ phục vụ nhu cầu tại chỗ là chính đã vươn ra thị trường cả
nước và xuất khẩu.
Đánh giá một cách chung nhất, có thể nói các KCN, KCX khơng chỉ
trực tiếp thúc đẩy công nghiệp của địa phương và của vùng có KCN,
KCX phát triển mạnh mẽ trong 15 năm qua, mà cịn có tác động lan
tỏa rọng rãi tới nhiều ngành, nhiều lĩnh vực của đời ssống kinh tế từng
địa phương và cả nước. Đó chính là hạt nhân của công cuộc CNH –
HĐH nền kinh tế. Một dẫn chứng rất sinh động là giá trị sản xuất
công nghiệp năm 2005 của 8 tỉnh, thành phố vùng Đông Nam Bộ khu vực có các KCN, KCX phát triển nhất trong cả nước hiện nay –
đã chiếm tới 50% tổng giá trị sản xuất cơng nghiệp tồn quốc, trong
đó riêng 4 tỉnh, tành Hồ Chí Minh, Bà Rịa – Vũng Tàu, Đơng Nai,
Bình Dương, mới chỉ 10 năm trước đây vẫn cịn là một tỉnh thuần
nơng nghèo, hầu như khơng có cơng nghịêp, nhờ có các khu cơng

nghiệp mà hiện nay đã chiếm trên 10% giá trị sản xuất cơng nghiệp cả
nước.
9. Mơ hình quản lý, áp dụng cơ chế “một cửa, tại chỗ” đối với
KCN, KCX.


Những năm qua mơ hình KCN, KCX thực sự là nơi thí nghiệm mơ
hình một cửa tại chỗ và đạt được những chuyển biến tích cực. Hiện
nay 46 ban KCN, KCX đã được thành lập ở tất cả các địa phương có
KCN, KCX trong đó 45 Ban quản lý KCN, KCX trực tiếp thuộc Ủy
ban nhân dân tỉnh, 1 ban khu công nghiệp Việt Nam –Singapore trực
thuộc chỉnh phủ. Thông qua ban quản lý các khu chế xuất, khu công
nghiệp nhà đầu tư có thể dễ dàng thơng tin về KCN, KCX giải quyết
các thủ tục đầu tư vào KCN, KCX tại địa phương. Hầu hết các ban
quản lý các khu công nghiệp,khu chế xuất đều được Bộ kế hoạch đầu
tư ủy quyền nhà nước về hoạt động đầu tư ( gồm tiếp nhận đầu tư và
cấp giấy phép và giải quyết các vấn đề phát sinh trong trong hoạt
động đầu tư của doanh nghiệp) đối với nhà đầu tư nước ngoài. Ngoài
việc ủy quyền quản lý hoạt động đầu tư, các bộ ngành cũng ủy quyền
cho ban quản lý trong việc xét duyệt kế hoạch nhập khẩu, cấp giấy
chứng nhận xuất xứ hàng hóa C/O from D, giấy phép lao động… thực
hiện mục tiêu một cửa, một đầu mối trong quản lý khu công
nghiệp,khu chế xuất. Trong thời gian tới việc áp dụng luật đầu tư
chung, xu hướng phân cấp tiếp tục sẽ được mở rộng.
10. Chính sách về KCN, KCX trong thời gian qua đã đạt được
những chuyển biến tích cực.
Chính sách về KCN, KCX trong đó phần lớn là các chính sách ưu đãi
KCN, KCX tuy cịn nhiều điểm cần điều chỉnh song đã được hình
thành với tư cách là một hệ thống.
Nhìn chung các chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng KCN,

KCX hỗ trợ các doanh nghiệp được ra đời kịp thời và giải quyết được
những khó khăn chủ yếu phát sinh trong quá trình xây dựng và phát
triển các khu công nghiệp,khu chế xuất ở địa phương.



×