Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

hình ảnh người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.51 KB, 8 trang )

Trường THPT Đức Thọ Giáo án dạy khối Ngữ văn 11
Ngày soạn: 05/10/2013
Bài: 2
HÌNH ẢNH NGƯỜI PHỤ NỮ
TRONG THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG
I. Khái quát về cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Xuân Hương
1. Cuộc đời
Hồ Xuân Hương là một nhà thơ nữ nổi tiếng trong lịch sử văn học dân tộc. Đối với người
Việt Nam, tên tuổi của Hồ Xuân Hương quen thuộc không kém bất cứ một nhà thơ nào. Đáng
tiếc là về cuộc đời của nữ sĩ, chúng ta được biết quá ít. Tiểu sử của Hồ Xuân Hương đến nay vẫn
còn nhiều điểm gây tranh cãi. Thậm chí có một vài ý kiến còn cho rằng những bài thơ được xem
là của Hồ Xuân Hương hiện nay do nhiều người sáng tác, nghĩa là không có ai thực sự là Hồ
Xuân Hương.
"Bà Chúa thơ Nôm" là “con của Hồ Phi Diễn (1706-1783), quê ở làng Quỳnh Đôi, huyện
Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An và một người thiếp quê ở Hải Dương”
Năm sinh, năm mất, thân thế, cuộc đời, và thơ văn của bà đến nay vẫn còn vướng mắc nhiều
nghi vấn. Ta chỉ biết bà sống vào thời Lê mạt Nguyễn sơ, người cùng thời với Nguyễn Du
(1765-1820), Phạm Đình Hổ (tức Chiêu Hổ, 1768-1839). ( theo thống kê của nhiều tài liệu)
Bà xuất thân trong một gia đình phong kiến suy tàn, song hoàn cảnh cuộc sống đã giúp nữ
sĩ có điều kiện sống gần gũi với quần chúng lao động nghèo, lăn lộn và tiếp xúc nhiều với những
người phụ nữ bị áp bức trong xã hội.
Bà là một phụ nữ thông minh, có học nhưng học hành cũng không được nhiều lắm, bà giao du
rộng rãi với bạn bè nhất là đối với những bạn bè ở làng thơ văn, các nhà nho. Nữ sĩ còn là người
từng đi du lãm nhiều danh lam thắng cảnh của đất nước.
Là một phụ nữ tài hoa có cá tính mạnh mẽ nhưng đời tư lại có nhiều bất hạnh. Hồ Xuân
Hương lấy chồng muộn mà đến hai lần đi lấy chồng, hai lần đều làm lẽ, cả hai đều ngắn ngủi và
không có hạnh phúc. (Nhưng theo tài liệu của GS Hoàng Xuân Hãn và ông Lê Xuân Giáo thì nữ
sĩ có tới 3 đời chồng chứ không phải hai: Tổng Cóc, Ông Phủ Vĩnh Tường, và cuối cùng là
quan Tham hiệp trấn Yên Quảng Trần Phúc Hiến).
Có thể thấy Hồ Xuân Hương không phải là một phụ nữ bình thường của thời phong kiến mà
bà đã có một cuộc sống đầy sóng gió.


2. Sự nghiệp sáng tác
Hồ Xuân Hương là nhà thơ Nôm nổi tiếng. Bà đã để lại nhiều bài thơ độc đáo với phong cách
thơ vừa thanh vừa tục và được mệnh danh là Bà chúa thơ Nôm. Hồ Xuân Hương được coi là một
trong những nhà thơ tiêu biểu của văn học Việt Nam, “là nhà thơ độc đáo có một không hai
trong lịch sử văn học dân tộc”
Các tác phẩm của bà đã bị mất nhiều, đến nay còn lưu truyền chủ yếu là những bài thơ chữ
Nôm truyền miệng.
Lưu Hương Kí là tập thơ có nội dung tình yêu gia đình, đất nước, nó không thể hiện rõ cá
tính mạnh mẽ của Hồ Xuân Hương, cho nên, việc nghiên cứu giá trị thơ Hồ Xuân Hương chủ
yếu được thực hiện trên những bài thơ Nôm truyền tụng của bà.
Cách tả cảnh, tả tình, cách dùng từ trong thơ Nôm của bà có một không hai, vô cùng
sống động và đặc sắc. X.Diệu đánh giá thơ Hồ X.Hương là "tót vời của nguồn thơ nôm na bình
dân".
Xuân Hương là một nữ sĩ có thiên tài và giàu tình cảm, nhưng “vì số phận hẩm hiu, thân thế
long đong, nên trong thơ của bà hoặc có ý lẳng lơ, hoặc có giọng mỉa mai, nhưng bài nào cũng
chứa chan tình tự”
Thơ Xuân Hương cũng rắc rối, phức tạp như chính cuộc đời bà. Số bài thơ còn lại cho đến
nay chủ yếu nhờ vào sự lưu truyền, bảo vệ của nhân dân nên có nhiều dị bản.
Giáo viên: Trần Nam Phong
8
Trường THPT Đức Thọ Giáo án dạy khối Ngữ văn 11
Số thơ Nôm lâu nay được coi là của nữ sĩ khoảng năm mươi bài. Ðây là tập thơ Nôm luật
Ðường xuất sắc của nền văn học dân tộc (Tập thơ Xuân Hương thi tập) Ngoài tập thơ này còn có
tập thơ Lưu Hương ký mang bút danh của nữ sĩ do ông Trần Thanh Mại phát hiện vào năm
1964 gồm 24 bài thơ chữ Hán và 28 bài thơ Nôm. Với một nghệ thuật điêu luyện, nhà thơ viết về
tâm sự và những mối tình của mình với những người bạn trai.
Có thế nói “Sự nghiệp của Hồ Xuân Hương là ngọn hải đăng” như lời đề tựa thứ hai của
tuyển tập Hồ Xuân Hương bằng tiếng Pháp.
II. Hình tượng người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
1. Người phụ nữ với số phận nhỏ bé, bất hạnh

Thân phận của những người phụ nữ này lại vô cùng nhỏ bé, cuộc đời của họ long đong lận
đận. Họ phải sống trong một chế độ xã hội phong kiến lạc hậu, trọng nam khinh nữ, người phụ
nữ không có chỗ đứng và địa vị trong xã hội. Vì vậy, những người phụ nữ có tài như Hồ Xuân
Hương thường không được coi trọng đồng thời việc làm của một người vợ thường ít được người
chồng cảm thông, dù cho quanh năm lam lũ vất vả nuôi chồng nuôi con chăm sóc cho gia đình
luôn được yên ấm dù mình có phải chịu thiệt thòi.
Họ là những người phụ nữ có tài có sắc nhưng cuộc đời lận đận, số phận bi đát, bé nhỏ trong XH
Thân em vừa trắng lại vừa tròn,
Bảy nổi, ba chìm với nước non
(Bánh trôi nước)
Canh khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non
(Tự tình III)
Trong giai đoạn này, ta cũng bắt gặp những bài thơ nói về số phận hẩm hiu của người phụ nữ.
Họ là những người có phẩm chất cao đẹp như bà Tú trong Thương vợ của Tú Xương
Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Và của những số kiếp nổi nênh:
Chiếc bách buồn vì phận nổi nênh
Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh
(Chiếc bách)
Trong chế độ phong kiến suy tàn ở Á Đông hang mấy nghìn năm con người rất đau khổ, nhưng
khổ nhất là người đàn bà. Không phải vô cớ mà Nguyễn Du đã nấc lên thay cho người phụ nữ
trong văn chiêu hồn:
Đau đớn thay phận đàn bà!
Kiếp sinh ra thế, biết là tại đâu?
Trong truyện kiều Nguyễn Du một lẫn nữa lại kêu lên như thế
Đau đớn thay phận đàn bà!
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điểm cũng có nói đến cái khổ của người chinh phụ. Còn với Xuân

Hương không chỉ than cho người đàn bà dưới chế độ phong kiến mà bản thân mình là bị cái lễ
giáo khắc nghiệt ấy cuốn chặt lấy mình. Xuân Hương đã nói một cách trần trụi nhất, với cái
mạnh mẽ của sự phản kháng và gắn chặt đời mình cùng với số phận của những người phụ nữ nói
chung trong xã hội cũ:
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng
Giáo viên: Trần Nam Phong
9
Trường THPT Đức Thọ Giáo án dạy khối Ngữ văn 11
Ở xã hội xưa, trai năm thê bảy thiếp là thường, còn người phụ nữ không cho phép được như vậy.
Họ đau có quyền làm chủ đời mình, trong ca dao ta cũng bắt gặp rất nhiều câu ca nói về số phận
hẩm hiu của người phụ nữa:
Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai
Hay:
Thân em như hạt mưa sa
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày.
Người phụ nữ trong thơ Xuân Hương nói riêng và trong xã hội phong kiến nói chung đều là
những con người với số phận bi đát. Càng đọc, ta càng trân trọng và hiểu thêm cái bối cảnh xã
hội nước ta lúc bấy giờ. Riêng bản thân tôi, được sinh ra trong một xã hội văn minh, bình đẳng
và không tận mắt chứng kiến những điều đó nhưng qua thơ văn đã giúp tôi hiểu hơn rất nhiều về
người phụ nữ xưa và càng trân trọng họ hơn. Họ là những đóa hoa sen thơm mát, tỏa hương cho
đời, gần bùn mà chẳng hôi tân mùi bùn
Từ đây ta càng cảm thông sâu sắc cho số phận người phụ nữ Việt Nam xưa, phải chịu nhiều
khổ cực, tủi nhục, hiu quạnh, tình duyên hẩm hiu, trắc trở.
2. Người phụ nữ với nổi đau trong đường tình duyên
Do sống trong xã hội phong kiến-một xã hội coi thường phụ nữ và luôn bị lễ giáo trói buộc,
không được hoạt động xã hội, không được học hành thi cử, chịu nhiều thiệt thòi cả ngoài xã hội
cũng như trong gia đình. Chính vì vậy, người phụ nữ không chỉ chịu thiệt thòi, bất hạnh trong
cuộc sống mà còn đau khổ trong đường tình duyên.

Có lẽ phải chịu nhiều lận đận trong đường tình duyên, 2 lần làm lẽ nhưng cả 2 lần đều ngắn
ngủi nên bà rất hiểu và đồng cảm với phận của những người phụ nữ không may mắn trong
đường tình duyên. Đó là nổi khổ của người phụ nữ làm lẽ, người phụ nữ không chồng mà chửa,
người phụ nữ chết chồng…Điều đáng nói ở đây là bà dám lên tiếng tố cáo gay gắt, quyết liệt xã
hội phong kiến thối nát, mục ruỗng mà không ai dám lên tiếng. Hồ Xuân Hương vạch cho con
người thấy thân phận khổ nhục của người làm lẽ, năm thì mười họa mới được gần chồng. Họ là
thứ làm mướn không công và để thỏa ham muốn nhục dục của bọn nhà giàu. Nhà thơ vạch trần
bản chất xấu xa của chế độ đa thê phong kiến.
Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung.
Năm thì mười họa hay chăng chớ,
Một tháng đôi lần có cũng không,
Cố đấm ăn xôi, xôi lại hầm
Cầm bằng làm mướn, mướn không công.
(Làm lẽ)
Nhà thơ nói về thân phận của người phụ nữ làm lẽ nhưng đồng thời đó cũng là cảnh ngộ của
bản thân bà.
Ai cũng biết, cuộc đời cũ, đau khổ chẳng phải là phần riêng dành cho ai, nhưng những người
chịu đựng nhiều hơn cả vẫn là phụ nữ và nỗi đau của họ bao giờ cũng có khía cạnh chua xót, tái
tê riêng. Hồ Xuân Hương là nhà thơ của phụ nữ, bà thấu hiểu tất cả những nỗi đau đó bằng kinh
nghiệm của cuộc đời chung và cuộc đời riêng chẳng ra gì của mình; và bằng tiếng thơ, muốn nói
lên những tiếng nói chia sẻ với họ. Vì vậy, thơ Xuân Hương luôn là tiếng kêu xé lòng của những
người con gái nhẹ dạ.
Trong bài Không chồng mà chửa, nhà thơ lại viết về một cảnh ngộ của một người phụ nữ,
cảnh ngộ những cô gái không may có may có mang với người yêu của mình nhưng không được
xã hội chấp nhận.
Cả nể cho nên hóa dở dang,
Giáo viên: Trần Nam Phong
10
Trường THPT Đức Thọ Giáo án dạy khối Ngữ văn 11

Nỗi niếm chàng có biết chăng chàng
……
Không có, nhưng mà có mới ngoan
Trong bài thơ này Hồ Xuân Hương đã nhấn mạnh cái nghĩa, cái trách nhiệm mà người đàn
ông nào đó vô tâm trước hậu quả để lại cho người phụ nữ và tác giả đã đứng về phía cô gái mà
dùng một ý của câu ca dao:
Không chồng mà chửa mới ngoan
Có chồng mà chửa thế gian sự thường
Không chỉ cảm thông với thân phận của người làm lẽ, người phụ nữ không chồng mà chửa
mà Hồ Xuân Hương còn muốn dỗ họ, muốn an ủi họ, muốn dịu dàng đùa với họ, để cho họ
khuây khỏa nỗi đau và dìu họ trở lại với cuộc sống bình thường:
Văng vẳng tai nghe tiếng khóc chồng
Nín đi kẻo thẹn với non sông
(Dỗ người đàn bà khóc chồng)
Lúc thì đùa nghịch nhưng rất thân tình:
Văng vẳng tai nghe tiếng khóc gì
Thương chồng nên mới khóc tì ti…
(Bỡn bà lang khóc chồng)
Trong văn học phong kiến của ta hiếm có nhà thơ nào độc đáo mà nhân tình đến thế. Có thể
nói từ một chỗ ý thức sâu sắc về giá trị của người phụ nữ và cảnh ngộ ngang trái của họ trong xã
hội phong kiến, Hồ Xuân Hương đã trở thành một nhà thơ chống đối phong kiến quyết liệt, một
con người đả kích gay gắt những kẻ đại diện cho giai cấp phong kiến thống trị cùng những gì
chà đạp con người.
Ở bài tự tình số III, tác giả lại viết:
Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con
Sự sống của đất trời cứ vận hành như muôn thưở vậy, còn riêng mình thì vẫn cứ bất hạnh, hẩm
hiu trong số phận, trong tình duyên, tình duyên đã ít lại còn phải chia ba sẻ bảy nữa.
Ðọc thơ bà, người đọc có cảm giác người phụ nữ trong thơ Xuân Hương gần như chưa một lần
nhận diện được hạnh phúc.

3. Tiếng nói phê phán, đã kích giai cấp phong kiến thống trị
Trong văn học Việt Nam nữa cuối thế kỉ XVIII – nữa đầu thế kỉ XIX, Hồ Xuân Hương là
một nhà thơ nhân đạo chủ nghĩa, bởi vì thơ bà trước hết là tiếng nói tâm tình của phụ nữ. Không
phải người phụ nữ lầu son gác tía, chinh phụ hay cung tần, mà là người phụ nữ bình thường,
người phụ nữ lao động có nhiều bất hạnh trong cuộc sống. “Có thể nói, ngoài văn học dân gian,
Hồ Xuân Hương là nhà thơ đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc đã đem đến cho thơ văn tiếng
nói của những người phụ nữ ấy: những tiếng than và những tiếng thét, những tiếng căm hờn và
những tiếng châm biếm sâu cay”. Bởi trong xã hội lúc bấy giờ, phụ nữ là người chịu nhiều thiệt
thòi nhất. Họ không chỉ bị áp bức về mặt giai cấp mà trong tư cách là người phụ nữ nói chung,
họ còn bị áp bức về mặt giới tính với đạo “tam tòng”. Tất nhiên, họ cũng không lặng câm mà
chịu đau khổ, họ vẫn nói, vẫn kêu, vẫn đòi hỏi. Nhưng nhìn chung, tiếng nói ấy chỉ là nững tiếng
kêu thương thất vọng. “Đại diện cho giới phụ nữ, Hồ Xuân Hương đã nói bằng thứ ngôn ngữ
riêng của mình, kết hợp nhuần nhuyễn với tiếng nói của nhân dân lao động. Tiếng nói đã kích,
tố cáo được nữ sĩ sử dụng thông qua công cụ cố hữu của truyền thống văn học dân tộc, cũng
như phổ biến trên thế giới: tiếng cười châm biếm
Mặc dù bị trói buộc trong những quan niệm, phong tục cổ hủ và lạc hậu nhưng trong
sâu thẳm tâm hồn họ vẫn đẹp, vẫn sáng, vẫn luôn vùng lên để đòi bình quyền. Để muốn rằng:
Họ là nữ nhi nhưng vai trò của họ trong xã hội là rất lớn.
Giáo viên: Trần Nam Phong
11
Trường THPT Đức Thọ Giáo án dạy khối Ngữ văn 11
Đến giai đoạn này, có người đã chống lại vua khi vua không ra vua nữa. Riêng Hồ Xuân
Hương với thân phận nữ nhi, chắc bà không có ý định chống vua, mà chỉ mắng nhẹ mà đau vô
kể:
Hồng hồng má phấn duyên vì cậy
Chúa dấu yêu vua một cái này
Nếu đối với chúa, Hồ Xuân Hương châm chích thói mê hoa, hiếu sắc thì với bọn quan thị, nữ sĩ
đã giơ cao đánh thẳng vào cuộc sống trái lẽ tự nhiên của chúng. Đứng trước cái dị hợm, quái gở
ấy, bà văng tục, bà chửi đổng, cười mỉa:
Đố ai biết đó vông hay chóc

Còn kẻ nào hay cuống với đầu
Hồ Xuân Hương châm biếm, đã kích từ vua đến quan, nhưng có lẽ chịu nhiều nhất là bọn
“hiền nhân quân tử”, bọn mô phạm phong kiến. Đối với “quân tử”, Xuân hương không chỉ chọn
chân chúng trước bức tranh thiếu nữ ngủ ngày, mà còn bắt chúng “mỏi gối chồn chân vẫn muốn
trèo” lên đèo Ba uân Dội.
Bên cạnh những hiền nhân quân tử là đám nho sĩ dót nát, còn huênh hoang. Xuân Hương
gọi chúng là “phường lòi tói”, “ngẩn ngơ”, xưng chị và đòi dạy chúng làm thơ.
Khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ?
Lại đây cho chị dạy làm thơ
Sự dâm đảng không chỉ lén lút phía hậu hiên, mà còn công khai trước bàn thờ phật:
Oản dâng trước mặt dăm ba phẩm
Vải nấp sau lưng cháy bảy bà.
Khi cảnh, khi tỉuu, khi chũm chọe
Giọng hì, giọng hỉ, giọng hi ha.
Không những thế, hàng ngũ đại diện cho Nho giáo bà cũng không bỏ qua.
Khen thay con tạo khéo khôn phàm
(Hang Thánh Hóa)
Khen ai đẽo đá tài xuyên tạc
(hang Cắc Cớ)
Qua thơ Xuân Hương ta thấy cả một xã hội phong kiến thời bà bị chế diễu, đả kích. Bà dùng
tiếng cười, thông qua yếu tố tục, xoáy vào đời sống bản năng của giai cấp thống trị để từ đó đả
kích, tố cáo thói đạo đức giả của chúng. Nhưng thơ Xuân Hương đâu chỉ biết cười, mà đọc thơ
bà ta nghe như có tiếng nấc bên trong. Tôi muốn lấy ý kiến của nhà thơ X.Diệu thay cho lời kết
của mình: “những nhà trào phúng vĩ đại không nhe răng ra mà cười, không chửi bằng cả lời
nói, họ ném trái tim của họ, ném cả cuộc đời của họ vào cuộc đời, cũng như những nhà trữ tình
vĩ đại. Trong xã hội cũ, thơ của họ thực chất là máu và nước mắt mặc cái áo trào phúng đó
thôi”
4. Vẽ đẹp của hình tượng người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
Viết về người phụ nữ, Hồ Xuân Hương còn có những bài thơ bày tỏ niềm kiêu hãnh của mình
về vẻ đẹp hình thức, vẽ đẹp tâm hồn và vẻ đẹp của tài năng, trí tuệ của người phụ nữ.

a. Vẽ đẹp hình thức
Người phụ nữ trong văn học giai đoạn này xuất hiện không còn cái khép nép trong cái mô thức
“tại gia tòng phụ, phu tử tòng phu” hay “công, dung, ngôn, hạnh”.
Trong cuộc tao ngộ các giai nhân của văn học giai đoạn này, người ta thấy thường là những
cô gái trẻ đẹp, thanh lịch, với nụ cười trên môi và chan chúa tình yêu đời, yêu người trong lòng.
Hồ Xuân Hương sáng tác trong bối cảnh ấy, với tính cách và cảnh ngộ riêng của mình, nhà thơ
viết rất nhiều về phụ nữ, nữ thi sĩ xứng đáng là nhà thơ của phụ nữ. Điều này càng được làm rõ
hơn qua bài thơ “Đề tranh tố nữ”
Hỏi bao nhiêu tuổi hỡi cô mình
Giáo viên: Trần Nam Phong
12
Trường THPT Đức Thọ Giáo án dạy khối Ngữ văn 11
……
Trách người thợ vẽ khéo vô tình
Với Hồ Xuân Hương thì công khai ca ngợi và khẳng định vẻ đẹp thân thể của người phụ
nữ. Cách miêu tả của Xuân Hương thuộc vào loại độc đáo nhất của thời đại. Bà chú ý đến những
bộ phận thân thể thường được dấu kín của con người. Những bộ phận đó văn học thời đại
thường né tránh. Riêng Hồ Xuân Hương lại nhìn thấy đó chính là một trong những biểu hiện của
vẻ đẹp thân thể của người phụ nữ. Cách miêu tả của bà cụ thể, không chung chung, mờ nhạt:
Lược trúc chải dài trên mái tóc,
….
Một lạch Ðào nguyên suối chửa thông
(Thiếu nữ ngủ ngày)
Đây là sự trinh trắng ngây thơ, là sự hồn nhiên trọn vẹn. Cách miêu tả của nhà thơ không có
một chút bỡn cợt, trái lại thể hiện một thái độ hết sức nâng niu, trân trọng. Trong thời buổi suy
tàn của xã hội phong kiến, con người bị chà đạp, bị giày xéo. Nhiều giá trị bị đảo lộn, bị nghi
ngờ. Nhà thơ giữ cho mình nguyên vẹn cặp mắt trong veo để nhìn người, nhìn đời, để thấy hết
mọi giá trị đẹp của con người. Cũng vì thế mà thơ Xuân Hương có giá trị nhân đạo sâu sắc.
2.Vẽ đẹp tâm hồn
Trong xã hội cũ, có ai dám như Xuân Hương đứng ra bênh vực cho những người con gái dở

dang ấy, có ai dám ngang nhiên thừa nhận những quy tắc đi ngược lại khuôn mẫu của lễ giáo
phong kiến như bà. Những điều đó chỉ có ở bản lĩnh, một trái tim tha thiết, nồng ấm sự cảm
thông của một tâm hồn nghệ sĩ.
Từ những tiếng nói cảm thông ấy, Xuân Hương còn lên tiếng đề cao ca ngợi họ, tìm thấy vẻ đẹp
thực sự chân chính ở họ. Trong một loạt hình tượng nói về số phận bấp bênh, hẩm hiu của người
phụ nữ như “chiếc bánh trôi” “bảy nổi ba chìm”; hay quả mít “vỏ nó xù xì”; con ốc nhồi “đêm
ngày lăn lóc đám cỏ hôi” nhà thơ luôn chú trọng nêu bật cái đẹp bên trong, cái đẹp tâm hồn
của họ. Quả mít tuy “vỏ nó xù xì” nhưng “múi nó dày”.
Trong bài Bánh trôi nước, nhà thơ đã ca ngợi, đề cao, trân trọng phẩm chất kiên trinh của người
phụ nữ. Dù sống trong hoàn cảnh nào họ cũng giữ được tấm lòng son.
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà en vẫn giữ tấm lòng son
( Bánh trôi nước)
Mặc dù, số phận người phụ nữ không được định đoạt, lênh đênh giữa cuộc đời nhưng họ đành
cam chịu. Cái duy nhất họ làm chủ được là tấm lòng mình. Người phụ nữ vẫn giữ sự thủy chung,
son sắt, bất biến với mối tình. Một lời nói thể hiện niềm tự hào về phẩm chất, thủy chung của
người phụ nữ.
Trong bài thơ Ðề tranh tố nữ, tác giả đã ca ngợi vẻ đẹp bất diệt của tuổi xuân, sự trinh trắng,
ngồn ngộn sức sống của những cô gái đang xoan:
Ðôi lứa như in tờ giấy trắng
Nghìn năm còn mãi cái xuân xanh
Bài Mời trầu lại là cái nhìn về vẻ đẹp của khát vọng sống.
Quả cau nho nhỏ, miếng trầu hôi
……
Ðừng xanh như lá, bạc như vôi.
(Mời trầu)
Giống như bao cô gái khác, Xuân Hương cũng khao khát có một tình yêu bền chặt, nồng
cháy. Nàng cũng muốn mở lòng mình ra để đón lấy tình yêu nồng thắm từ người bạn đời tri âm
tri kỉ, đón những hương sắc của cuộc đời. Xuân Hương hồi hộp chờ đợi. Nhưng rồi năm tháng
trôi qua, những mùa xuân đi không trở lại, nhà thơ dần dần nhận ra cái bạc bẽo của con người và

Giáo viên: Trần Nam Phong
13
Trường THPT Đức Thọ Giáo án dạy khối Ngữ văn 11
cuộc đời, cái hẩm hiu của số phận. “Câu thơ nhân hậu của hờn dỗi, duyên dáng mà có cái gì
như đanh đá, thách thức”
3. Vẽ đẹp của tài năng, trí tuệ
Trong các nhà thơ phụ nữ ở nước ta, Hồ Xuân Hương và thơ ca của bà là một hiện tượng
khá đặc biệt được rất nhiều người đàm luận từ xưa đến nay.
Tục truyền hồi Xuân Hương còn đi học; một hôm gặp phải trời mưa, đến sân nhà trường, đất
trơn, cô nữ sinh trượt chân ngã oạch một ái, các bạn học thấy thế đều cười ầm lên. Nhưng Xuân
Hương đã đứng ngay dậy, ung dung đọc hai câu thơ rằng:
Giơ tay với thử trờ cao thấp
Xoạc cẳng đo xem đất vắn dài
Rồi bình thản đi vào. Còn mấy chàng trai thấy thế cũng phục tài.
Lại có chuyện, một hôm Xuân Hương đi thăm chùa Trấn Quốc Về, nàng đang lững
thững trên bờ Hồ Tây, bổng thấy có mấy thầy khóa bước rảo lên theo sát ở đằng sau. Rồi trêu
ghẹo nàng có người lại mang cả văn chương chữ nghĩa ra nữa, nàng đọc cho một bài thơ rằng:
Khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ?
Lại đây cho chị dạy làm thơ
Có thể nói rằng, trong cái xã hội phong kiến “trọng nam khinh nữ”như vậy mà Xuân
Hương vẫn dám khẳng định tài năng, trí tuệ hơn người của mình.
Hay trong bài Ðề đền Sầm Nghi Ðống, tác giả đã thể hiện được sự tự ý thức về mình, thể hiện
được tài năng của người phụ nữ.
Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo
….
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu.
Ði qua ngôi đền thờ tên tướng bại trận, nhà thơ phụ nữ này đã không chịu cất nón, cúi đầu chào
kính cẩn, trái lại còn buông lời chê cười, mỉa mai: ghé mắt tức là nhìn liếc, nhìn bằng nửa con
mắt. Kìa là chỉ, trỏ, không đáng chú ý. Ðứng cheo leo: Thế đứng buồn tẻ, không có gì là vững
chãi. Ðặc biệt ở hai câu kết nhà thơ đã dám nói một điều táo bạo: Nếu được làm trai thì sự

nghiệp anh hùng của ta sẽ không xoàng, không tồi tệ như sự anh hùng của nhà ngươi đâu.
Qua đây, ta cũng hiểu thêm ít nhiều về người phụ nữ xưa, không chỉ đẹp về hình thể mà họ còn
là những con người mang đầy tài năng.

Có thể nói, ngoài văn học dân gian, Hồ Xuân Hương là nhà thơ đầu tiên trong lịch sử văn học
dân tộc đã đem đến cho thơ văn tiếng nói của những người phụ nữ ấy, những tiếng than và
những tiếng thét, những tiếng căm hờn và những tiếng châm biếm sâu cay.
Đặc điểm của thơ Xuân Hương là không bao giở dửng dưng, lạnh nhạt. Nhà thơ luôn luôn có
một trái tim cháy bỏng, nói đến cái gì là nói đến với tất cả sự xúc động chân thành của mình, Khi
giận dữ thì thét lên, mắng chửi; khi yêu thương thì đằm thắm, ngọt ngào. Nếu bài Cảnh chồng
chung là tiếng nói phẫn uất chua xót đối với chế độ đa thê bất công mà người phụ nữ phải chịu
đựng, thì bài Không chồng mà chửa lại là một bời nói rất mực khoan dung, độ lượng đối với
cảnh ngộ không may của họ.
Trong xã hội phong kiến, người phụ nữ chửa hoang là một tai họa tầy đình, Thời Hổ Xuân
Hương sống và sáng tác, bộ luật Gia Long ghi rõ: ”Nam nữ đã đính hôn với nhau, nhưng chưa
cưới mà dã thông gian thì phải phạt một trăm trượng”. Và chú thêm: ”người đàn bà phạm tội
gian dâm thì hết cả liêm sỉ, nên bắt cởi áo cánh, cho để mặc váy mà gia hình; còn tội khác, khi
phạt cũng được mặc cả áo”.
Giáo viên: Trần Nam Phong
14
Trường THPT Đức Thọ Giáo án dạy khối Ngữ văn 11
Giáo viên: Trần Nam Phong
15

×