Thông tin chung về sáng kiến
1.Tên sáng kiến:
Một số kinh nghiệm nâng cao chất lợng dạy chính tả ở Tiểu học.
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giáo dục Tiểu học.
3. Thời gian áp dụng sáng kiến: Từ ngày 15 tháng 8 năm 2009
4. Tác giả: Nguyễn Thị Kiều Vân
Năm sinh: 25 tháng 5 năm 1974
Nơi thờng trú: Tân Khánh, Vụ Bản, Nam Định.
Trình độ chuyên môn: Cao đẳng S phạm Tiểu học.
Chức vụ công tác: Giáo viên.
Nơi làm việc: Trờng Tiểu học B Minh Thuận.
Địa chỉ liên hệ: Trờng Tiểu học B Minh Thuận , Vụ Bản, Nam Định.
Điện thoại: 012 949 88267.
5. Đồng tác giả: Không.
6. Đơn vị áp dụng sáng kiến:
Tên đơn vị: Trờng Tiểu học B Minh Thuận.
Địa chỉ: Minh Thuận, Vụ Bản, Nam Định.
Điện thoại: 03503980570
1
I. Điều kiện hoàn cảnh tạo ra sáng kiến:
Chúng ta đều biết rằng: Nhân cách của con ngời chỉ có thể đợc hình thành
thông qua hoạt động giao tiếp. Để xã hội tồn tại và phát triển, để giao tiếp đợc
thuận lợi, mỗi dân tộc, mỗi quốc gia đều có một ngôn ngữ riêng. Tiếng Việt là
một ngôn ngữ thống nhất trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam. Trong cuộc sống hàng
ngày của chúng ta không chỉ lúc nào cũng giao tiếp bằng ngôn ngữ nói mà ngôn
ngữ viết đóng vai trò quan trọng của Tiếng Việt nói riêng và trong tiếng nói của
các quốc gia nói chung. Yêu cầu đầu tiên và tối quan trọng của ngôn ngữ viết là
phải viết đúng chính tả. Có nghĩa là khi thể hiện ngôn ngữ viết cần phải tuân theo
hệ thống các quy tắc về cách viết thống nhất cho các từ của một ngôn ngữ . Hay
nói cách khác, chính tả là những chuẩn mực của ngôn ngữ viết đợc thừa nhận
trong văn bản bộc lộ nền tảng văn hoá dân tộc. Mục tiêu cần đạt của chữ viết là
phơng tiện thuận tiện cho việc giao tiếp bằng chữ đảm bảo cho ngời viết và ngời
đọc đều hiểu thống nhất những điều đã xuất hiện trong văn bản. Việc viết chính tả
có chính xác và thống nhất thì việc giao tiếp bằng ngôn ngữ mới thực sự có hiệu
quả và không bị hàng rào cách trở về địa lý giữa các địa phơng, các khu vực trong
nớc, giữa các thế hệ đời trớc và đời sau, cũng nh trên trờng quốc tế. Muốn giữ gìn
sự trong sáng của tiếng Việt thì việc đòi hỏi mọi ngời viết tiếng Việt phải chính
xác và mang tính cấp thiết đối với mọi thành phần trong xã hội . Nhng công tác
dạy chữ với tất cả các thành phần trong xã hội là một tham vọng quá lớn và khó
khăn.Trong phạm vi nhỏ hẹp của đề tài ngày hôm nay tôi muốn đề cập tới vấn đề
dạy chữ - dạy chính tả trong nhà trờng Tiểu học.
Việc dạy chính tả đúng phải đợc đặc biệt coi trọng. Các em nh tờ giấy trắng
mà giáo viên Tiểu học là những tác giả đầu tiên đặt nền móng, là ngời chắp cánh
cho các em có những tài sản đầu tiên về ngôn ngữ, về cách trình bày chính tả, luật
chính tả. Do vậy việc dạy chính tả phải đợc coi trọng
đối với học sinh nói chung và đặc biệt là với các em học sinh Tiểu học nói riêng.
Việc dạy chính tả đợc hiểu nh rèn luyện việc thực hiện những chuẩn mực của
2
ngôn ngữ viết. ở các lớp Tiểu học, chính tả sẽ tạo điều kiện ban đầu trong hành
trang ngôn ngữ cả một đời ngời trong các em.
Qua việc đợc học chính tả, các em nắm bắt đợc các quy tắc chính tả và hình
thành kỹ năng, kỹ xảo chính tả. Từ đó có thói quen viết đúng chính tả, giúp cho sự
hoàn thiện nhân cách của học sinh. Nó bắt đầu từ việc thuận tiện trong tiếp thu tri
thức qua các môn học ở Tiểu học đến việc xây dựng các văn bản trong học tập và
giao tiếp hàng ngày.
Chơng trình Tiếng Việt ở bậc Tiểu học bao gồm nhiều phân môn. Phân môn
chính tả có nhiệm vụ chủ yếu rèn cho học sinh nắm các quy tắc và các thói quen
viết đúng với chuẩn chính tả Tiếng Việt. Cùng với các phân môn khác chính tả
giúp cho học sinh chiếm lĩnh văn hoá, là công cụ để giao tiếp, t duy, để học tập,
trau dồi kiến thức và nhân cách làm ngời . Ngay từ đầu ở bậc Tiểu học trẻ phải đ-
ợc học môn chính tả một cách khoa học, cẩn thận để có thể sử dụng công cụ này
suốt những năm tháng trong thời kỳ học tập ở nhà trờng cũng nh suốt cả cuộc đời.
Chính tả có tầm quan trọng nh vậy nên môn học này cần phải đợc coi trọng
ở các trờng Tiểu học. Nhng trên thực tế ở một số vùng miền núi, vùng nông thôn
(các em ít đợc giao lu, va chạm với thế giới bên ngoài) hiện tợng học sinh viết sai
chính tả là khá phổ biến. Cụ thể trên địa bàn trờng tôi đang giảng dạy, hiện tợng
học sinh viết sai chính tả nhất là những âm dễ lẫn lộn nh : l - n, s x, tr ch, r
d gi, dấu sắc và dấu ngã. Vấn đề này có thể do học sinh phát âm sai (tiếng
địa phơng) dẫn đến hiểu sai và viết sai chính tả. Bên cạnh đó hệ thống sách giáo
khoa, bài tập chính tả cha xây dựng theo vùng, miền. nên việc dạy và học chính tả
còn gặp nhiều khó khăn.
Trớc tình hình nh vậy, việc nhìn nhận lại thực trạng về việc dạy chính tả để từ
đó tìm ra một số giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao chất lợng học chính tả cho
hoc sinh vung phng ng la hờt sc cõn thiờt v mang tớnh cp bỏch. Mun lm
c iu ny viờc nm luõt chinh ta, phụ biờn luõt chinh ta cho hoc sinh la iờu
cõn thiờt. Muụn võy mụi giao viờn cõn nm vng luõt chinh ta va c biờt la cai
tiờn cach day chinh ta sao cho khoa hoc, hiờu qua hn. Coi trong phng phap
3
dạy chính tả có ý thức để việc viết đúng chính tả trở thành kỹ năng, kỹ xảo cho
học sinh ngay từ lớp đầu cấp.
Xuất phát từ những quan điểm trên, bản thân lại là một giáo viên dạy học ở
vùng có nhiều đối tượng học sinh có vấn đề về chính tả, tôi mạnh dạn tiến hành
nghiên cứu đề tài: “Một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng dạy Chính tả ở
Tiểu học” để góp phần nâng cao chất lượng dạy – học phân môn chính tả ở nhà
trường Tiểu học. Rất mong quý vị đọc, cảm nhận và có ý kiến đóng góp để đề tài
thêm phong phú, mang tính thực thi hơn.
II. THỰC TRẠNG
1. Cơ sở về ngữ âm học
1.1. Mối quan hệ giữa âm chữ và nghĩa
- Chữ viết của Tiếng Việt là chữ viết ghi âm nên nguyên tắc chính tả chủ
yếu của Tiếng Việt là nguyên tắc ngữ âm học, nghĩa là mỗi âm vị được thể hiện
bằng một tổ hợp chữ cái, mỗi âm tiết, mỗi từ có một cách viết nhất định. Do đó
việc viết đúng phải dựa trên đọc đúng, đọc đúng là cơ sở viết đúng. Để phát huy
một cách có ý thức, đặc biệt là những vùng phương ngữ, việc dạy chính tả phải
theo sát nguyên tắc này. Nghĩa là phải tôn trọng việc phát âm, lấy phát âm để điều
chỉnh chữ viết.
1.2. Những bất hợp lý của chữ quốc ngữ
Ở Tiếng Việt, nguyên tắc cơ bản là nguyên tắc ngữ âm học, ngoài ra chính
tả Tiếng Việt còn được xây dựng trên một số nguyên tắc như: Nguyên tắc truyền
thống lịch sử, nguyên tắc khu biệt… Những nguyên tắc này không đồng nhất với
ngữ âm học, do vậy chính tả Tiếng Việt vẫn còn những bất hợp lý. Chính tả chữ
viết (quốc ngữ) vừa đơn giản lại vừa phức tạp. Đơn giản vì chữ quốc ngữ là chữ
viết ghi âm ở dạng ổn định văn bản hợp lý, phát âm thế nào thì viết thế ấy. Nhưng
phức tạp ở chỗ: trong Tiếng Việt có hiện tượng cách phát âm ở những vùng miền
khác nhau (phương ngữ), trong khi đó hệ thống ghi âm tiêu chuẩn của Tiếng Việt
4
lại chưa được xác định một cách chính thức. Do đó khó có thể phổ biến rộng rãi
hệ thống ấy được. Hơn nữa trong Tiếng Việt hiện đại, bên cạnh việc phát âm
không phù hợp với tiêu chuẩn lại có trường hợp trong đó một từ đồng thời mang
hai biến thể phát âm, khó có thể nói biến âm nào là chuẩn.
Ví dụ: Tròng trành - chòng chành
nhún nhẩy - dún dẩy
trời - giời
Hoặc có khi cùng một cách phát âm nhưng lại có hai cách viết
d: dải lụa
Ví dụ: /z/
gi: giải thích
i: lí luận
/i/
y: Lý Thường Kiệt
Bản thân hệ thống âm vị Tiếng Việt còn một số vị âm không ghi thống
nhất, một âm có thể ghi bằng nhiều con chữ.
c (con cuốc)
/k/ k (kim chỉ)
q (tổ quốc)
Hoặc trong bộ chữ cái Tiếng Việt còn chữ “h” là một hiện tượng đặc biệt.
Nó vừa sử dụng độc lập làm đại diện cho phụ âm /h/ thể hiện bằng con chữ
“h”, vừa được sử dụng theo cách ghép với các con chữ khác làm đại diện cho 7
5
âm nữa đó là: ch, gh, kh, nh, ngh, ph ,th. Do vậy khi sử dụng cần chú ý không nên
lầm tưởng là trong Tiếng Việt có phụ âm kép. Dù “h” đứng một mình hay “h”
đứng sau các chữ khác (c, g, k, n, ng, p, t) thì ch, gh, kh, nh, ngh, ph, th đều có giá
trị như nhau. Mỗi hình thức trong 7 hình thức đó đều chỉ thay thế cho 1 âm mà
thôi. Do vậy có quan niệm “gờ đơn”, “gờ kép”, “ngờ đơn”, “ngờ kép” là bất hợp
lý. Cách nhận biết tốt nhất về “ng” và “ngh” là dựa vào khả năng kết hợp chung
với nguyên âm.
Trước những bất hợp lý trên, việc xác định những trọng điểm chính tả cần
dạy cho học sinh vùng phương ngữ, một mặt phải coi trọng những biến thể phát
âm địa phương, đồng thời phải nghĩa để sử dụng vào các văn cảnh cụ thể để ghi
nhớ cho học sinh cách phân biệt chính tả.
Do vậy hai nhiệm vụ chủ yếu của việc đề cao nguyên tắc dạy học chính tả
có ý thức là: giải quyết những vấn đề tồn tại của chữ quốc ngữ. Tôn trọng nguyên
tắc dạy chính tả theo khu vực, phải chú ý cách phát âm của địa phương.
2. Cơ sở thực tế
Trẻ em ở lứa tuổi Tiểu học nhận thức hiện thức khách quan mang đậm màu
sắc cảm tính. Cảm giác quan như tai, mắt được sử dụng nhiều trong nhận thức sự
vật, cho nên trực quan cụ thể là những yếu tố đặc biệt quan trọng góp phần tạo
nên nhận thức và tư duy của học sinh Tiểu học. “Từ trực quan sinh động đến tư
duy trừu tượng” câu nói nổi tiếng của Lê-nin khi người giải thích quy luật nhận
thức hiện đại, đặc biệt được thể hiện ở học sinh tiểu học. Khi dạy chính tả cho học
sinh tiểu học cần vận dụng triệt để đặc điểm, nhận thức của trẻ em ở lứa tuổi này.
VD: Nghe và quan sát cách phát âm đúng để phát âm đúng. Quan sát cách
viết đúng để viết đúng, dần dần học sinh sẽ tích lũy được những kinh nghiệm, làm
giàu thêm tri thức chính tả cho bản thân. Kết quả là các em nhận thức được những
vốn kinh nghiệm một cách có ý thức, tạo nên kĩ xảo cho các em. Từ đó giúp các
6
em dễ dàng trong việc tiếp thu các tri thức của các môn học, nhất là trong phân
môn Tập làm văn.
1. Thực tế trình độ chính tả của học sinh Tiểu học:
Qua thực tế giảng dạy và nghiên cứu khảo sát sách vở chính tả, vở tập làm
văn của học sinh của lớp. bản thân tôi nhận thấy: Vở chính tả, tập làm văn của các
em và các vở khác mắc khá nhiều lỗi chính tả. Thống kê số lỗi chính tả, vở tập
làm văn của học sinh của lớp, bản thân tôi nhận thấy: Vở chính tả, tập làm văn
của các em và các vở khác mắc khá nhiều lỗi chính tả. Thống kê số lỗi chính tả
của các em tôi thấy có 3 lỗi cơ bản sau:
- Lỗi chính tả do không nắm vững chính tả: lỗi này thường gặp khi viết các
phụ âm đầu: d/r/gi, ng/ngh
- Lỗi do không nắm vững cấu trúc âm tiết của Tiếng Việt và không hiểu cấu
trúc tiếng có âm đệm của âm tiết Tiếng Việt nên học sinh viết sai.
VD: Quanh co, khúc khuỷu, ngoằn nghèo
- Lỗi chính tả do viết theo lối phát âm địa phương hoặc do không nắm vững
âm chính. Đây là lỗi cơ bản nhất mà qua khảo sát tôi nhận thấy ở học sinh. Cụ thể
là âm: l – n, dấu ngã và dấu sắc. Học sinh thường nhầm lẫn và viết sai chính tả
trong các bài viết của mình.
Tìm hiểu nguyên nhân của hiện tượng sai trên tôi thấy chủ yếu là do học
sinh phát âm sai. Thường các em còn phát âm lẫn lộn giữ âm l – n nên không
phân biệt được khi viết. Để sửa lỗi này tôi dạy cho học sinh nắm vững âm chính
trong Tiếng Việt. Muốn viết đúng chính tả thì phải phát âm đúng vì chính âm đi
trước chính tả. Do vậy ta phải chú trọng việc phát âm chuẩn cho học sinh trong
các giờ tập đọc. Mặt khác mỗi giáo viên phải là một chuẩn mực sống động để học
sinh bắt trước và noi theo. Ngoài ra việc đổi mới các phương pháp dạy học và áp
dụng qui trình soạn giáo án theo hướng đổi mới, giúp học sinh nắm bắt các mẹo
luật chính tả cũng hết sức cần thiết để giúp học sinh viết đúng chính tả. Trong
7
phạm vi nghiên cứu đề tài, tôi xin được thống kê số liệu học sinh mắc lỗi chính tả
ở khối 5 thu được đầu năm như sau.
Lớp Tổng số học sinh
Các lỗi chính tả thường mắc
l – n; ~/. d/gi/r;tr/ch;s/x;g/gh Vần và dấu thanh
5B 24 10 em 7 em 7 em
Thực tế về chất lượng giảng dạy chính tả của giáo viên Tiểu học trước hết
phải nói đến trình độ đã được đào tạo của giáo viên không đồng đều và việc tổ
chức dạy và học môn chính tả Tiếng Việt chưa được khoa học. Hai là trong các
nhà trường sư phạm việc dạy phương pháp môn Tiếng Việt nói chung, phương
pháp dạy chính tả nói riêng còn coi nhẹ.
Do đó nhiều giáo viên ra trường còn gặp nhiều lúng túng về nội dung và
phương pháp và cách rèn kỹ năng cho học sinh. Những tồn tại trên dẫn đến chất
lượng học chính tả của học sinh còn nhiều hạn chế. Đặc biệt với những vùng
phương ngữ thì đây là một thiệt thòi rất lớn vì các em không có điều kiện để đạt
tới một chuẩn mực chính tả như mong muốn. Để khắc phục tình trạng này thì
trước hết cần phải chuẩn hóa giáo viên để giáo viên có đủ kinh nghiệm, trình độ
giúp học sinh nắm được quy tắc chính tả, hình thành kỹ năng, kỹ xảo chính tả, bỏ
được thói quen phát âm sai, viết sai.
2. Về chương trình sách giáo khoa (SGK)
Trước hết phải khẳng định rằng môn Tiếng Việt ở Tiểu học SGK đã xác
định được những trọng điểm chính tả cơ bản cần dạy cho học sinh. Các bài tập
trong SGK cũng khá đa dạng, phù hợp với từng khối lớp và cấu trúc đi từ dễ đến
khó.
Tuy nhiên về hạn chế SGK còn đánh đồng nội dung dạy học trong cả nước
cho nên có thể nói nội dung dạy chính tả trong SGK Tiếng Việt vừa thừa lại vừa
thiếu do chưa sử lý được việc dạy chính tả theo khu vực. Thừa ở các em vừa phải
luyện tập ở cả những nội dung mà các em đã biết, không mấy khi sai sót. Thiếu ở
8
chỗ không đủ thời gian để đi sâu hơn, luyện tập nhiều hơn để tránh những lỗi mà
các em thường mắc phải. Nội dung chính tả được trình bày trong SGK Tiểu học
còn mang tính ngẫu nhiên, chủ quan, áp đặt, không được xây dựng dựa trên sự
điều tra khảo sát tình hình chính tả của từng vùng, từng khu vực. Chính tả trong
SGK chưa thống nhất, điều này cũng gây không ít khó khăn cho việc dạy học
chính tả ở Tiểu học, đặc biệt ở những vùng phương ngữ.
III. MỘT sè GIẢI PHÁP CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Qua kết quả điều tra, khảo sát thực tiễn tôi nhận thấy rằng trọng điểm chính
tả mà học sinh mắc phải chính là do lỗi phát âm địa phương không phân biệt được
giữa l và n, dấu thanh ngã và sắc. Trước thực tế như vậy, bản thân người giáo viên
phải hết sức cố gắng nỗ lực nhiều mặt như: tâm lý học lý luận dạy học, các kiến
thức về ngữ âm, về văn học, làm sao phải để học sinh “tâm phục khẩu phục”.
Có như vậy chất lượng giáo dục chính tả vùng phương ngữ mới thu được kết quả
như mong muốn.
Muốn làm được điều đó, trước hết người giáo viên phải đặt phân môn
chính tả nằm trong mối quan hệ giữa các phân môn khác của Tiếng Việt, đặc biệt
là phân môn tập đọc và từ ngữ. Học sinh muốn viết đúng được thì phải hiểu được
nghĩa và phát âm đúng từ đó. Nếu học sinh phát âm sai, tùy tiện sẽ dẫn đến hiểu
sai và viết sai hoặc do thói quen lâu ngày không được sửa chữa. Trong các giờ tập
đọc, chúng ta dành nhiều thời gian hơn cho việc sửa lỗi phát âm cho học sinh, đặc
biệt là hai âm l và n, dấu ~/./. Giáo viên phát âm mẫu cho học sinh học tập và
hướng dẫn cách phát âm tỉ mỉ. Đặc biệt giáo viên không bao giờ được phạm sai
lầm về lỗi phát âm này. Nếu không việc sửa lỗi của giáo viên sẽ mất tác dụng.
Ngoài ra giáo viên hướng dẫn học sinh viết đúng chính tả trên cơ sở hiểu
đúng nghĩa của từ. Muốn viết đúng một từ, học sinh phải biết đặt từ đó trong mối
quan hệ với cụm từ và các văn bản. Nếu ta tách từ đó ra khỏi văn bản có thể học
sinh sẽ không hiểu được nghĩa và do đó dẫn đến việc viết sai chính tả.
9
VD: Khi oc tiờng cuục nờu khụng t no trong mụi quan hờ, cum t, cõu
thi rõt kho xac inh nghia ờ viờt ung. Nhng nờu t no trong cõu: Me em vac
cuục ra ụng hoc trong t Tụ quục thi hoc sinh dờ dang viờt ung.
Bờn canh o muụn hoc sinh viờt ung giao viờn phai nm c mụt sụ
cac quy luõt sau:
1. Quy luõt phõn bụ õm õu trong cac kiờu õm tiờt Tiờng Viờt- trong chữ viết
- Cac õm õu c phõn bụ rụng rai trong cac kiờu õm tiờt tiờng Viờt ngoai
tr cac trng hp c biờt sau:
+ Cac phu õm mụi (m, b, v, p) khụng xuõt hiờn trong õm tiờt co õm ờm
(uõ, u, oa, o, uờ, uy).
+ Ph õm n, r ớt xut hin trong õm tit cú õm m .Do ú da v o quy luật này
ta có thể phân biệt đợc l/ n ;r/d/gi vì:
.Đi với âm đầu l/d là các bộ phận: uâ, uơ, oa, oă, oe, uy.
.Nh vậy các âm n, r, gi sẽ không xuất hiện trong các tiếng có các bộ phận nói trên.
+ | v | chỉ kết hợp với các âm không tròn môi, không kết hợp với các nguyên âm
tròn môi.
2. Sự thể hiện của âm chính trong âm tiết tiếng Việt trong chữ viết:
Cơ bản các âm chính khi đọc và viết có sự thống nhất, song một số trờng hợp
sau ta cần lu ý.
a.Với nguyên âm đơn:
/i/ Đợc viết là y khi đứng trớc sau âm đệm hoặc khi đứng một mình trong âm
tiết.
Ví dụ : quý , ý ,
| i | Đợc viết là i trong các trơng hợp còn lại
| ă | Đợc viết là a trong các vần có ay, au.
/ ă / Đợc viết là ă trong các trờng hợp còn lại
b.Với nguyên âm đôi:
- / iê / khi viết có các trờng hợp sau:
10
+ Viết là iê trong âm tiết có âm đầu, không có âm điệm, có âm cuối.
Ví dụ :Viết bài, lo liệu
+ Viết là yê trong âm tiết không có âm đầu, không có âm đệm, có âm cuối .
Ví dụ : yêu, uyển, quyết .
+Viết là ia trong âm tiết không âm cuối .
Ví dụ : tỉa
+ Viết là ya trong âm tiếtcó âm đầu, có âm đệm, không có âm cuối.
Ví dụ : khuya
- / ơ / Viết là a trong âm tiết không có âm cuối.
- / uo / Viết là uô trong âm tiết có âm cuối.
- / uo /Viết là ua trong âm tiết không có âm cuối.
3.Quy luật phân bố âm cuối trong các kiểu âm tiết tiếng Việt trong chữ viết:
- / i / có xuất hiện trong âm tiết có âm chính là nguyên âm hàng sau: i, ơi, ay, ây,
ai, ui, ôi, ơi, uôi.
- / i / không xuất hiện trong âm tiết có âm chính là nguyên âm hàng trớc: iu,
yêu, iêu, êu, eo.
- / u / có xuất hiện trong âm tiết có âm chính là nguyên âm hàng trớc : iu, yêu,
iêu, êu, eo.
- / u / có xuất hiện trong âm tiết có âm chính là nguyên âm hàng sau không tròn
môi: u, ơu, âu, ao, au.
- / m /, / p / , / ng /, / k / không xuất hiện sau ui, yê, iê.
- /- k-/ đợc viết là ch trong các vần có ich , êch, ach.
- /-k-/ đợc viết là c trong các trờng hợp còn lại.
4. Quy luật phân bố âm đệm trong các kiểu âm tiết tiếng Việt, trong chữ viết :
Có 2 trờng hợp o v u
+ Xuất hiện trớc các nguyên âm hàng trớc: uy, uyê, uê, oe
Ví dụ: khuya, khuyên, hoe, que
11
+ Xuất hiện trớc các nguyên âm hàng sau không tròn môi( trừ 2 nguyên âm
vă ơ) nh a, ă, â.
Ví dụ: chuẩn, hoa, quả, loăng, quăng.
+ Âm đệm không xuất hiện trớc các nguyên âm hàng sau tròn môi.
5. Quy luật phân bố thanh điệu trong các kiểu âm tiết Tiếng Việt trong chữ viết.
+ Những âm tiết có âm cuối là phụ âm tắc( p, t, c, ch) thì chỉ xuất hiện hai
thanh điệu sắc và nặng.
+ Những kiểu âm tiết khác xuất hiện trong cả 6 thanh.
+ Trong các từ láy đôi tiếng Việt thanh điệu của hai âm tiết đợc phân theo
quy tắc cùng âm vực (cùng trầm hoặc cùng bổng)
Ví dụ: đo đỏ, nhỏ nhắn, bẽ bàng, sừng sững, nằng nặng
Chú ý: Có khoảng 20 trờng hợp ngoại lệ (không nhiều) dấu thanh không theo quy
tắc trên, rất mong các giáo viên hớng dẫn đúng để học sinh không mắc phải lỗi
này.
Ví dụ: khè khẽ
6. Các mẹo chính tả cần thiết:
Một điều rất quan trọng trong dạy chính tả cho học sinh vùng phơng ngữ là dạy
cho các em biết đợc một số luật chính tả. Mẹo đợc hiểu nh cách làm độc đáo
giúp học sinh phân biệt, ghi nhớ đợc cách viết đúng những từ ngữ hay nhầm lẫn
trong khi viết chính tả. Sự tìm ra các mẹo chính tả dựa vào các cơ sở sau:
+ Sự kết hợp trong cấu trúc âm tiết.
+ Sự láy âm, điệp âm.
+ Mẹo từ Hán Việt.
+ Mẹo nghĩa của từ.
+ Mẹo phân biệt l / n.
Cụ thể nh :
+ Các con chữ phụ âm kết hợp với các con chữ nguyên âm để tạo nên phụ
âm đơn nh gi, qu. Con chữ phụ âm đi trớc, con chữ nguyên âm đi sau. trong
12
thực tế chính tả, khi xuất hiện q thì nhất thiết có u đi kề liền. Đây là luật
chính tả mà học sinh cần nắm vững.
+ Các con chữ kết hợp vớp nhau để tạo nên phụ âm đơn.
Ví dụ: ngh, ng, gh, tr Trong tiếng Việt dùng 9 kí hiệu phụ âm
đơn: ph, ch, nh, kh, ng, gh, ngh, tr, th. với hình thức chuỗi nh vậy không bao giờ
đợc phép kết chuỗi đảo ngợc các thứ tự xắp xếp nh rt, hn, gn
+ Các con chữ nguyên âm kết hợp với nhau để tạo nên một ký tự nguyên âm
đôi.
Ví dụ: iê, ia, ơ, uô, ua, uâ
Mẹo phân biệt l/n:
- Mẹo 1: Một chữ ta không biết là l hay n, nhng nó đứng đầu một từ láy âm,
không phải là điệp âm thì dứt khoát là l chứ không phải n.
Ví dụ:
l láy với c : lò cò, la cà, lục cục
l láy với b: lệt bệt, lùng bùng, lõm bõm
l láy với d: lí díu, lò dò
l láy với h : loay hoay, lúi húi, lụi hụi
l láy với m: lơ mơ, liên miên,
- Mẹo 2: Khả năng kết hợp âm: Âm /l/ đứng trớc âm đệm nhng /n/ không đứng
trớc âm đệm. Do đó /n/ không bao giờ đứng trớc một vần bắt đầu bằng: oa, uê,
uy trái lại / l/ lại đứng trớc các vần đó nh loa, luân .
- Mẹo 3: Mẹo luật láy âm, điệp âm
/l/ láy âm rất rộng rãi, trái lại /n/ không láy âm với một âm nào mà chỉ điệp âm với
chính nó. Đồng thời lại không có hiện tợng /l/ láy âm với /n/. Từ đó suy ra quy
tắc: Nếu gặp một từ láy mà hai âm đầu đọc giống nhau thì nhất định là một điệp
âm đầu và cả hai chữ phải cùng có âm đầu là /l/ hoặc /n/. Vì vậy ta chỉ cần biết
một chữ là đủ .
Ví dụ: Lấp lánh, long lanh, lanh lảnh, loang loáng
No nê, ninh ních, nõn nà, nôn nao,
13
- Mẹo 4: Đối với trờng hợp l và n đứng ở tiếng thứ hai. Trong từ láy thì n
khi láy âm chỉ láy với gi mà không láy với âm nào khác. trái lại l không láy
với gi mà láy với các âm khác (ngoại lệ có: khúm nún, khệ nệ)
Ví dụ: kh láy với l: khéo léo, khoác lác,
ch láy với l: cheo leo,
- Mẹo 5: Những chữ không biết đợc l hay n nhng đồng nghĩa với một từ
khác viết với nh thì chữ ấy là l.
Ví dụ: lăm le (nhăm nhe)
lỡ làng (nhỡ nhàng)
Mẹo phân biệt ch với tr
- tr không đứng trớc những chữ bắt đầu bằng âm đệm nhng ch thì có.
Ví dụ: Ôm choàng, bị choáng, choang choang,
- tr không bao gờ láy với ch và ngợc lại. Do đó chỉ có những từ láy cùng
âm tr hoặc ch và ngợc lại.
Ví dụ: chăm chỉ, trâng tráo, trân trân
- Với những từ chỉ đồ dùng trong gia đình thì thờng viết là ch.
Ví dụ: chyên, chổi, chõng, chạn, chén
Mẹo phân biệt s với x
- Các từ chỉ thức ăn hoặc đồ dùng liên quan đến thức ăn hoặc đồ dùng liên
quan đến thức ăn thì viết là x.
Ví dụ: xôi, xào, xong
- Những từ chỉ thiên nhiên hoặc chỉ tên cây cối, các loại quả thì viết là s.
Ví dụ: ngôi sao, cây sen, cây súng, cây si
Trên đây là một số mẹo luật nhận diện chữ cái phân biệt l/n trong khi viết
chính tả mà mỗi giáo viên thuộc phơng diện phơng ngữ
Bắc bộ nói chung và giáo viên B Minh Thuận nói riêng cần nắm đợc để hớng dẫn
các em viết chính tả.
7. Một số điểm cần l u ý khi dạy theo quy trình một tiết chính tả theo h ớng đổi
mới.
14
- Bớc câu hỏi gợi ý tìm hiểu nội dung đoạn viết là bớc có hiệu quả chính tả thấp.
Vì nội dung hầu hết các em đã nắm đợc thông qua các bài tập đọc. Bớc này không
nên kéo dài, nếu kéo dài sẽ lãng phí thời gian. Giáo viên nên tăng cờng cho luyện
tập (với những bài chính tả so sánh mà nội dung bài không có trong danh sách tập
đọc thì giáo viên có thể hỏi qua về nội dung đoạn viết).
- Bớc luyện viết chữ khó, phân biệt các cặp từ so sánh và bớc luyện tập
có thể nhập làm thành một. Đây là bớc quan trọng để giúp học sinh không mắc lỗi
chính tả, giáo viên cần lu ý.
- Bớc chấm và chữa bài nên đặt ở cuối cùng trong tiết học vì việc đánh
giá kết quả học sinh phải đặt sau quá trình luyện tập.
Để tiết dạy chính tả đạt kết quả cao, gây hứng thú trong học tập cho học
sinh, giáo viên có thể tổ chức hoạt động học dới hình thức trò chơi nh tìm nhanh
các cặp từ so sánh đối lập, tìm những bài hát ở Tiểu học có phụ âm đầu là n/l.
Mục đích cuối cùng của bài chính tả là phải ghi nhớ các trờng hợp viết
đúng một cách có ý thức mà trong đó thực chất của loại bài so sánh là: Giúp học
sinh nắm vững nội dung ngữ, nghĩa của từ gắn với chữ viết. Giáo viên so sánh để
phân biệt những trờng hợp dễ lẫn lộn cho các em. Mặt khác giáo viên cần năng
động, sáng tạo trong giảng dạy. Soạn ra những bài luyện tập phù hợp với các em ở
địa phơng mình. Cho học sinh đặt câu với những từ dễ mắc lỗi hoặc có thể đa ra
những đoạn văn, đoạn thơ trong đó có nhiều từ viết sai chính tả để học sinh tự
mình phát hiện lỗi, tìm hiểu nguyên nhân sai và chữa lại cho đúng.
Đây là một nhiệm vụ quan trọng của giáo viên giảng dạy ở các vùng phơng
ngữ. Nhiệm vụ này không chỉ tiến hành trong một thời gian ngắn mà cho ta kết
quả tốt ngay đợc mà phải tiến hành trong thời gian dài.
IV . Hiệu quả do sáng kiến mang lại .
4.1. Hiệu quả kinh tế:
4.2. Hiệu quả về mặt xã hội:
15
Chúng ta đang thực hiện luật phổ cập giáo dục Tiểu học để tạo nên một mặt
bằng dân trí nhất định trong cả nớc. Tuy nhiên trình độ học sinh có thể cha thật
đồng đều giữa học sinh thành phố với học sinh nông thôn; giữa học sinh ở các khu
trung tâm với học sinh con em dân tộc thiểu số. Việc xác định các trọng điểm
chính tả cần dạy cho học sinh vùng phơng ngữ là việc làm hết sức cần thiết và
quan trọng. Vì chính việc trang bị cho các em những kiến thức về chính tả - về
ngôn ngữ viết một cách chuẩn mực thì các em có đầy đủ năng lực học tiếp lên các
lớp trên và có khả năng giao tiếp với xã hội một cách tự tin, chững chạc và nó sẽ
góp phần ổn định mặt bằng chung về dân trí trong cả nớc, đem lại những nguồn
lợi vô giá cho đất nớc (đặc biệt là những vùng còn ảnh hởng cục bộ do tiếng địa
phơng).
4.3.Hiệu quả trực tiếp đối với lớp thử nghiệm:
Qua việc tìm hiểu thực tế là: Tìm đợc những trọng điểm chính tả và áp dụng
sáng tạo những luật chính tả, mẹo chính tả, quy luật phân bố các âm, vần trong
tiếng Việt cho học sinh trên xã Minh Thuận. Qua một thời gian thực hiện, kết quả
thu đợc nh sau:
Lớp T.số học
Các lỗi chính tả thờng mắc
l/n; ~/./ tr/ch; s/x; r/d/gi Cấu trúc âm tiết
5B 24 2 em 2 em không
V. Một số đề xuất, kiến nghị để áp dụng sáng kiến.
Để chủ trơng đổi mới phơng pháp dạy học nói chung, việc dạy chính tả cho
học sinh tiểu học đạt hiệu quả cao hơn tôi có một đề xuất nh sau:
- Đối với công tác quản lý:
Cần có hớng dẫn cụ thể giúp các cấp cán bộ quản lý, giúp giáo viên có nhận
thức đúng đắn hơn, đầy đủ hơn về đổi mới phơng pháp dạy học.
Cần biên soạn những tài liệu hớng dẫn về đổi mới phơng pháp dạy học phù
hợp, cụ thể với từng phân môn theo từng khối lớp.
16
Giáo viên sau khi học tập nâng cao trình độ, chuyên môn nghiệp vụ (ở các
lớp học cao đẳng, đại học ) cần có chế độ chính sách rõ ràng, tạo điều kiện cho
họ yên tâm công tác, thúc đẩy ý thức tự học ở mỗi ngời.
- Đối với giáo viên Tiểu học:
Phải kiên trì thực hiện đổi mới phơng pháp dạy học. Cần nắm bắt rõ năng
lực học tập của từng đối tợng học sinh để giảng dạy có hiệu quả. Tự học và tự bồi
dỡng để nâng cao trình độ nghiệp vụ của bản thân góp phần nâng cao chất lợng
giáo dục của nhà trờng.
- Đối với học sinh:
Các em học sinh phải thực hiện tốt nhiệm vụ của học sinh, tích cực học tập
và rèn luyện.
Hăng hái tham gia các hoạt động của Đoàn, Đội đề ra.
- Đối với nhà trờng:
Cần có kế hoạch từng bớc xây dựng cơ sở vật chất, thiết bị dạy học theo
danh mục thiết bị chuẩn của Bộ Giáo Dục.
Cần phải chọn xem cần trang bị cái gì trớc, cái gì sau sao cho phù hợp với
điều kiện trờng mình.
Tổ chức các cuộc giao lu văn hoá, văn nghệ, thể thao, tạo sân chơi lành
mạnh cho các em. Đa các chuẩn mực nói, viết đúng chính tả vào ngay cả các cuộc
giao lu để học sinh có tinh thần học tập ngay trong vui chơi giải trí.
Minh Thuận, ngày 28 tháng 5 năm 2010.
Ngời thực hiện
Nguyễn Thị Kiều Vân
17
cơ quan đơn vị áp dụng sáng kiến
(xác nhận, đánh giá xếp loại)
phòng giáo dục - đào tạo
(xác nhận, đánh giá xếp loại)
18
c¸c phô lôc kÌm theo s¸ng kiÕn
Danh môc c¸c tµi liÖu tham kh¶o
1. Tõ ®iÓn tiÕng ViÖt.
2. Tõ ®iÓn chÝnh t¶.
3. Gi¸o tr×nh tiÕng ViÖt I
(Dµnh cho häc viªn ngµnh Gi¸o dôc TiÓu häc. Nxb ®¹i häc s ph¹m)
19