Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Lí thuyết và thực tế về quản lí nhà nước hoạt động bảo hiểm ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (316.37 KB, 28 trang )

1
LỜI NÓI ĐẦU
Bảo hiểm là một lĩnh vực rất quan trọng đối với các quốc gia nói chung và
với Việt Nam nói riêng. Không chỉ là một biện pháp di chuyển rủi ro, bảo hiểm
ngày nay đã trở thành một trong những kênh huy động vốn hiệu quả cho nền kinh
tế. Tăng trưởng và phát triển bền vững là mục tiêu lâu dài của mọi doanh nghiệp
bảo hiểm đang hoạt động trong nền kinh tế. Ngày nay, khi nền kinh tế thị trường
phát triển ngày càng mạnh mẽ thì sự cạnh tranh trong ngành bảo hiểm diễn ra cũng
ngày càng gay gắt hơn.
Thực tế hoạt động bảo hiểm thời gian qua đã cho thấy sự lớn mạnh không
ngừng của ngành bảo hiểm và nhiều tiềm năng phát triển trong tương lai. Thị
trường bảo hiểm Việt Nam đang được đa dạng hóa với tốc độ cao, sức ép mở cửa
thị trường và thách thức hội nhập ngày càng lớn.
Quản lý Nhà nước là hết sức quan trọng và không thể thiếu được ở bất kì xã
hội nào. Do tính chất quan trọng của ngành bảo hiểm đối với nền kinh tế, trong
những trường hợp cần thiết, Nhà Nước cần phải tiến hành can thiệp và điều tiết thị
trường này. Việc quản lí Nhà nước đối với hoạt động bảo hiểm ngày càng trở nên
quan trọng và được thể hiện rõ nét. Quản lý Nhà nước giúp cho bộ máy của các
doanh nghiệp tham gia bảo hiểm hoạt động nhịp nhàng, theo một khuôn khổ nhất
định và có hiệu quả hơn.
Sau đây là nội dung của đề tài: “Lí thuyết và thực tế về quản lí nhà nước
hoạt động bảo hiểm ở Việt Nam hiện nay” do nhóm 2 thực hiện.
2
PHẦN I
Lí thuyết về quản lí nhà nước đối với hoạt động bảo hiểm
1. Khái niệm và đặc điểm quản lí nhà nước
A. Khái niệm quản lí nhà nước
Quản lý Nhà nước là một dạng quản lý đặc biệt, được sử dụng các quyền
lực Nhà nước như lập pháp, hành pháp và tư pháp để quản lý mọi lĩnh vực xã hội.
B. Đặc điểm quản lí nhà nước
+ Nhà nước là một thiết chế quyền lực, sẽ định ra các luật, pháp luật, nghị


định , quyết định về tài chính, các chính sách, thuế, tiền tệ… Các luật, chính sách
này không những bắt buộc các doanh nghiệp, dân cư phải theo mà còn tạo điều
kiện môi trường để các doanh nghiệp hoạt động.
+ Nhà nước bỏ vốn vào các doanh nghiệp quan trọng, các khu vực công cộng,
các kết cấu hạ tầng. Nhà nước là nguồn tài chính to lớn đầu tư vào các lĩnh vực
khác nhau, không chỉ tạo ra môi trường , hành lang cho các doanh nghiệp hoạt
động mà còn tạo cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại cho các ngành mới, khu vực mới
có tầm quan trọng đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
+ Nhà nước cũng là người cung ứng các nguồn vốn cho đất nước, là người
quyết định phát hành tiền tệ, kiểm soát tất cả các hoạt động tín dụng và phân phối
tín dụng. Trong kinh doanh kinh tế thị trường, hoạt động của các doanh nghiệp
không thể thiếu nghiệp vụ tín dụng, không thể không chịu sự tác động của lưu
thông tiền tệ, của sự cung ứng tài chính của Nhà nước. Ngoài ra còn trợ giá, bù lỗ,
quy định giá…
+ Nhà nước chi tiêu bằng vốn ngân sách sẽ trở thành người tiêu dùng lớn nhất
của đất nước. Những khoản chi của Nhà nước tạo thành sức mua bằng tiền to lớn
và đòi hỏi những hàng hoá, dịch vụ đa dạng, phức tạp tạo ra thị trường to lớn cho
3
việc tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ của các doanh nghiệp. Trong bất cứ tình hình chế
độ xã hội nào, sức mua cho chỉ tiêu ngân sách Nhà nước tạo ra là sức mua lớn nhất
thị trường và là lực lượng tiêu thụ mạnh nhất.
+ Nhà nước là người có tư cách là quyền lực, thực hiện việc kiểm tra kiểm soát
tài chính, kinh doanh, các hoạt động kinh tế xã hội trong đó có các hoạt động bảo
hiểm. Những việc kinh doanh phạm pháp, những việc bê bối của các doanh nghiệp
bảo hiểm… được Nhà nước xử lý theo pháp luật, đảm bảo cho các doanh nghiệp
hoạt động theo yêu cầu của nền kinh tế và đời sống nhân dân.
Trong bất kỳ xã hội nào, đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa như nước ta thì Nhà nước quản lý hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội
trong đó có hoạt động bảo hiểm là một tất yếu khách quan đồng thời đòi hỏi chủ
quan xuất phát từ bản chất của Nhà nước ta.

2. Bảo hiểm
A. Các khái niệm:
+ Định nghĩa 1
Bảo hiểm là sự đóng góp của số đông vào sự bất hạnh của số ít
+ Định nghĩa 2
Bảo hiểm là một nghiệp vụ qua đó, một bên là người được bảo hiểm cam
đoan trả một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm thực hiện mong muốn để cho mình
hoặc để cho một người thứ 3 trong trường hợp xẩy ra rủi ro sẽ nhận được một
khoản đền bù các tổn thất được trả bởi một bên khác: đó là người bảo hiểm. Người
bảo hiểm nhận trách nhiệm đối với toàn bộ rủi ro và đền bù các thiệt hại theo các
phương pháp của thống kê
+ Định nghĩa 3
4
Bảo hiểm có thể định nghĩa là một phương sách hạ giảm rủi ro bằng cách
kết hợp một số lượng đầy đủ các đơn vị đối tượng để biến tổn thất cá thể thành tổn
thất cộng đồng và có thể dự tính được
+ Khái niệm mang tính chung nhất
Bảo hiểm là những quan hệ kinh tế gắn với quá trình hình thành, phân phối và
sử dụng quỹ bảo hiểm nhằm xử lý các rủi ro các biến cố bảo hiểm, đảm bảo cho
quá trình tái sản xuất và đời sống của xã hội diễn ra bình thường
B. Đặc điểm của bảo hiểm
+ Bảo hiểm là một hình thức dự trữ tài chính nhằm bù đắp và khắc phục những
tổn thất thiệt hại đối với sản xuất kinh doanh và đời sống con người khi những
biến cố bất lợi xảy ra.
+ Phân phối của quỹ bảo hiểm không phải là sự phân phối đồng đều bình quân
theo mức độ đóng góp.
+ Việc phân phối, sử dụng quỹ bảo hiểm không xác định trước được về quy mô,
thời gian diễn ra.
C. Vai trò của bảo hiểm
+ Vai trò kinh tế :

- Góp phần ổn định tài chính và đảm bảo cho các khoản đầu tư
- Kênh huy động vốn hữu hiệu để đầu tư phát triển kinh tế
- Bảo hiểm góp phần ổn định và tăng thu cho ngân sách đồng thời thúc đẩy phát
triển kinh tế đối ngoại giữa các nước
+ Vai trò xã hội:
- Góp phần ngăn ngừa đề phòng và hạn chế tổn thất, giúp cuộc sống của con
người an toàn, xã hội trật tự hơn.
5
- Tạo thêm công ăn việc làm cho ngườ lao động, tạo nếp sống tiết kiệm trên phạm
vi toàn xã hội.
- Bảo hiểm là chỗ dựa tinh thần cho mọi người dân, mọi tổ chức kinh tế xã hội
D. Các hình thức bảo hiểm
Tùy vào tiêu thức phân loại mà có những cách phân chia ra các hình
thức bảo hiểm khác nhau, nhóm 2 sẽ tập trung vào 2 hình thức bảo hiểm là: Bảo
hiểm kinh doanh và bảo hiểm xã hội
+ Bảo hiểm kinh doanh
- Trên góc độ tài chính, bảo hiểm kinh doanh là một hoạt động dịch vụ tài chính
nhằm phân phối lại những tổn thất khi rủi ro xảy ra.
- Trên góc độ pháp lý, bảo hiểm kinh doanh thực chất là một bản cam kết mà một
bên đồng ý bồi thường cho bên kia khi gặp rủi ro nếu bên kia đóng phí bảo hiểm.
Do đó, bảo hiểm kinh doanh là các quan hệ kinh tế gắn liền với việc huy động các
nguồn tài chính thông qua sự đóng góp của các tổ chức và cá nhân tham gia bảo
hiểm.
+ Bảo hiểm xã hội:
Bảo hiểm xã hội là loại hình bảo hiểm do nhà nước tổ chức và quản lý nhằm
thỏa mãn các nhu cầu vật chất ổn định cuộc sống của người lao động và gia đình
họ khi gặp những rủi ro làm giảm hoặc mất khả năng lao động.
3. Quản lí nhà nước đối với hoạt động bảo hiểm
A. Bảo hiểm xã hội
+ Bảo hiểm xã hội được áp dụng đối với từng đối tượng, từng loại doanh nghiệp

(cứ doanh nghiệp sử dụng 10 người lao động trở lên) để đảm bảo cho người lao
động được hưởng các chế độ bảo hiểm thích hợp
+ Nhà nước thống nhất quản lý Nhà nước bằng chính sách, pháp luật, chế độ…
6
+ Ban hành hệ thống pháp lệnh làm chuẩn mực pháp lý cho các loại hình bảo
hiểm:
- Quy định điều kiện bắt buộc và thủ tục hành chính cho sự ra đời và hoạt động
của cơ quan bảo hiểm.
- Quy định về chế độ và thủ tục về bảo hiểm và thực hiện bảo hiểm
- Quy định về cơ chế hoạt động của cơ quan bảo hiểm, chẳng hạn quy định mức
dự trữ cần thiết, cơ chế đầu tư phát triển quỹ bảo hiểm
+ Thống nhất quản lý bảo hiểm từ trung ương đến cơ sở thông qua hệ thống lao
động thương binh xã hội. Thống nhất về chế độ, mức chi trả, hình thức, phương
pháp tính toán. Chế độ bảo hiểm xã hội ở nước ta phản ánh bản chất tốt đẹp của
nhà nước xã hội chủ nghĩa
+ Thực hiện thanh tra, kiểm tra và xử lý các vi phạm trong hợp đồng bảo hiểm,
lành mạnh hoá hợp đồng bảo hiểm
+ Tổ chức quản lí nhà nước đối với hoạt động bảo hiểm xã hội
+ Cơ quan bảo hiểm xã hội có quyền và trách nhiệm sau đây:
- Về quyền hạn
Trình Thủ tướng Chính phủ ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền các
quy định để quản lý việc thu, chi bảo hiểm xã hội và xác nhận đối tượng hưởng
chế độ bảo hiểm xã hội; tổ chức phương thức quản lý bảo hiểm xã hội để bảo đảm
thực hiện các chế độ bảo hiểm có hiệu quả; tuyên truyền vận động để mọi người
tham gia thực hiện bảo hiểm xã hội; từ chối việc chi trả bảo hiểm xã hội cho các
đối tượng hưởng khi có kết luận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về hành vi
man trá làm giả hồ sơ tài liệu.
- Về trách nhiệm
Tổ chức thu, quản lý, sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội đúng quy định; thực hiện
đúng chế độ, điều lệ bảo hiểm xã hội của nhà nước; tổ chức việc trả lương hưu và

trợ cấp bảo hiểm xã hội kịp thời, đầy đủ thuận tiện; giải quyết các tranh chấp,
7
khiếu lại về bảo hiểm xã hội; thông báo định kỳ hàng năm về tình hình thực hiện
bảo
hiểm xã hội đối với người sử dụng lao động và người lao động.
B. Bảo hiểm kinh doanh
Nội dung quản lý hoạt động KDBH của Nhà nước vừa đảm bảo quản lý, xử
lý chặt chẽ những vấn đề đã, đang và sẽ phát sinh trong hoạt động kinh doanh bảo
hiểm, vừa đảm bảo tạo môi trường pháp lý, môi trường kinh doanh thuận lợi cho
DNBH và thị trường bảo hiểm phát triển. Điều 120 Luật KDBH quy định: “Nội
dung quản lý nhà nước về bảo hiểm kinh doanh bao gồm:
+ Ban hành và hướng dẫn thực hiện các văn bản quy phạm pháp Luật về kinh
doanh bảo hiểm; xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát
triển thị trường bảo hiểm Việt Nam;
+ Cấp và thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm,
doanh nghiệp môi giới bảo hiểm; giấy phép đặt văn phòng đại diện của doanh
nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm nước ngoài tại Việt Nam;
+ Ban hành, phê chuẩn, hướng dẫn thực hiện quy tắc, điều khoản, biểu phí, hoa
hồng bảo hiểm;
+ Áp dụng các biện pháp cần thiết để doanh nghiệp bảo hiểm bảo đảm các yêu
cầu về tài chính và thực hiện những cam kết với bên mua bảo hiểm;
+ Tổ chức thông tin và dự báo tình hình thị trường bảo hiểm;
+ Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo hiểm;
+ Chấp thuận việc doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm hoạt
động ở nước ngoài;
+ Quản lý hoạt động của văn phòng đại diện của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh
nghiệp môi giới bảo hiểm nước ngoài tại Việt Nam;
8
+ Tổ chức việc đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý và chuyên môn, nghiệp
vụ về bảo hiểm;

+ Thanh tra, kiểm tra hoạt động kinh doanh bảo hiểm; giải quyết khiếu nại, tố cáo
và xử lý vi phạm pháp Luật về kinh doanh bảo hiểm
9
Phần II
Thực tế quản lí nhà nước đối với hoạt động bảo hiểm ở Việt Nam
hiện nay
1 . Hệ thống tổ chức quản lý nhà nước về bảo hiểm hiện nay
Các cơ quan quản lý Nhà nước được phân cấp rõ ràng trong việc thực hiện
chế độ quản lý Nhà nước về hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Điều 121 Luật
KDBH quy định:
+ Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm
+ Bộ Tài chính chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về
kinh doanh bảo hiểm.
+ Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong phạm vi nhiệm vụ,
quyền hạn của mình có trách nhiệm quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm theo
quy định của pháp Luật.
+ Ủy ban nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực
hiện quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm tại địa phương theo quy định của
pháp Luật.
Cục quản lý, giám sát BH là đơn vị thuộc bộ máy quản lý nhà nước của Bộ
Tài chính, có chức năng giúp Bộ trưởng Bộ Tài chính thực hiện quản lý nhà nước
đối với lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm trong phạm vi cả nước; trực tiếp quản lý,
giám sát hoạt động kinh doanh bảo hiểm và các hoạt động dịch vụ thuộc lĩnh vực
kinh doanh bảo hiểm theo quy định của pháp luật. Cục Quản lý, giám sát bảo hiểm
có tư cách pháp nhân, có con dấu riêng, được mở tài khoản tại Kho bạc Nhà nước
và ngân hàng theo quy định của pháp luật.
Vụ Bảo hiểm làm việc theo chế độ chuyên viên
10
- Văn phòng Cục.
- Phòng Phát triển thị trường bảo hiểm.

- Phòng Quản lý, giám sát bảo hiểm phi nhân thọ.
- Phòng Quản lý, giám sát bảo hiểm nhân thọ.
- Phòng Quản lý, giám sát trung gian bảo hiểm .
- Phòng kiểm tra.
- Trung tâm Nghiên cứu và Đào tạo bảo hiểm.
Hệ thống Bảo hiểm xã hội Việt Nam tổ chức quản lý theo 3 cấp:
Ở Trung ương là bảo hiểm xã hội Việt Nam, bảo hiểm xã hội tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương; bảo hiểm xã hội huyện, quận, thị xã, thành phố trực
thuộc tỉnh. Hội đồng quản lý là cơ quan quản lý cao nhất của bảo hiểm xã hội Việt
Nam. Thành viên của nó bao gồm: đại diện của Bộ lao động – Thương binh và xã
hội, Bộ Tài Chính, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam và Tổng giám đốc Bảo hiểm
xã hội Việt Nam. Tổng giám đốc trực tiếp quản lý và điều hành Bảo hiểm xã hội
Việt Nam theo chế độ thủ trưởng.
Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về bảo hiểm xã hội.
Bộ lao động – Thương binh và xã hội là cơ quan của chính phủ thực hiện
việc quản lý nhà nước về bảo hiểm xã hội; xây dựng và trình ban hành pháp luật
về bảo hiểm xã hội; ban hành các văn bản pháp qui về bảo hiểm xã hội thuộc thẩm
quyền; hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra việc thực hiện bảo hiểm xã hội.
Chính phủ thành lập hệ thống tổ chức bảo hiểm xã hội thống nhất để quản lý
quỹ và thực hiện các chế độ, chính sách về bảo hiểm xã hội theo qui định của pháp
luật đối với người lao động
2. Thực trạng ban hành văn bản qui phạm pháp luật về BH.
A. Mặt tích cực:
Việc ban hành các văn bản qui phạm pháp luật về hoạt động bảo hiểm đã thể
hiện nhiều điểm tích cực. Nhiều văn bản đã được ban hành để điều chỉnh kịp thời
11
những vấn đề chưa chính xác, chưa hợp lý; làm căn cứ để các đơn vị, cơ quan,
doanh nghiệp bảo hiểm làm căn cứ để hoạt động đúng chuyên môn, đúng chính
sách, cơ chế.
Một trong những nội dung rất được dư luận đồng tình trong Luật Kinh

doanh Bảo hiểm sửa đổi vừa được Quốc hội thông qua trong năm 2010 là quy định
đưa sản phẩm bảo hiểm ra đấu thầu rộng rãi để tăng tính cạnh tranh, giảm tính độc
quyền trong kinh doanh bảo hiểm. Trước khi Luật Kinh doanh Bảo hiểm sửa đổi
được thông qua, thị trường bảo hiểm tồn tại một khái niệm được giới bảo hiểm gọi
là “bảo hiểm nội ngành”. Đó là những trường hợp các doanh nghiệp nhà nước
thành lập các công ty bảo hiểm. Các công ty này cung cấp dịch vụ bảo hiểm trong
nội ngành, thiếu cạnh tranh, không bảo đảm tính công khai, minh bạch trên thị
trường về mức phí bảo hiểm, bồi thường bảo hiểm làm cho thị trường bảo hiểm bị
chia cắt và phát triển thiếu tính cạnh tranh lành mạnh. Ngoài ra còn tình trạng các
doanh nghiệp trực thuộc hợp tác với công ty mẹ, nhằm khép kín dịch vụ bảo hiểm
trong nội ngành. Một số doanh nghiệp bảo hiểm hợp tác với cơ quan quản lý nhà
nước, chủ đầu tư để chỉ định, ép buộc mua bảo hiểm hoặc can thiệp trực tiếp vào
hoạt động kinh doanh bảo hiểm, dẫn đến hiện tượng chia cắt thị trường và tạo ra sự
cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp bảo hiểm.
Việc bổ sung hợp tác xã vào diện các loại hình doanh nghiệp được kinh
doanh bảo hiểm cũng cho thấy sự thay đổi kịp thời trong việc ban hành văn bản
qui định. Thực tế hiện nay, đã có nhiều hợp tác xã có quy mô lớn, những hợp tác
xã này đã đáp ứng đủ các điều kiện được kinh doanh bảo hiểm theo quy định,
chẳng hạn, quy định về vốn pháp định, năng lực tài chính, khả năng thanh toán,
quản trị điều hành, quản trị rủi ro, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ Hơn nữa, đây
là tổ chức kinh tế tập thể, có tư cách pháp nhân, hoạt động như một loại hình
doanh nghiệp. Do vậy, Luật sửa đổi, bổ sung đưa thêm hợp tác xã vào diện các
12
loại hình doanh nghiệp được kinh doanh bảo hiểm đã cho thấy sự điều chỉnh kịp
thời trong việc ban hành hệ thống chính sách.
Quyết định thành lập Quỹ bảo vệ người được bảo hiểm để bảo vệ quyền lợi
của người được bảo hiểm trong trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm phá sản hoặc
mất khả năng thanh toán cũng đã cho thấy tính đúng đắn trong ban hành văn bản
qui phạm pháp luật. Nguồn để lập Quỹ bảo vệ người được bảo hiểm được trích lập
theo tỷ lệ phần trăm trên phí bảo hiểm áp dụng đối với tất cả các hợp đồng bảo

hiểm.
B. Mặt hạn chế:
Bên cạnh những mặt tích cực, việc ban hành văn bản pháp luật vẫn còn một
số mặt hạn chế, gây khó khăn cho những đơn vị thi hành cũng như người tham gia
bảo hiểm.
Theo quy định mới về bảo hiểm y tế, người bị tai nạn giao thông phải có
giấy xác nhận không vi phạm pháp luật mới được thanh toán. Tuy nhiên có thể
thấy rằng quy định này của Bộ Y tế đã gây phiền hà, bế tắc cho người dân. Theo
Điều 3 trong Thông tư hướng dẫn thực hiện bảo hiểm y tế của liên tịch Bộ Y tế và
Bộ Tài chính (thông tư 09), những người bị tai nạn giao thông được xác định là
không vi phạm pháp luật thì mới được bảo hiểm y tế thanh toán. Nếu không, người
bệnh phải tự thanh toán chi phí. Tuy nhiên theo lập luận của Cục kiểm tra văn bản
quy phạm pháp luật (Bộ Tư pháp) nội dung này không phản ánh đúng tinh thần và
nội dung của Luật Bảo hiểm y tế. Vì theo quy định của Luật Bảo hiểm y tế, người
tham gia bảo hiểm y tế chỉ bị tước quyền được hưởng chi trả trong trường hợp
người đó có hành vi vi phạm pháp luật. Như vậy, nếu không chứng minh được
người này vi phạm pháp luật khi bị tai nạn giao thông thì cơ quan bảo hiểm vẫn
phải thanh toán. Trách nhiệm chứng minh này thuộc về cơ quan có thẩm quyền.
Mặt khác theo thông tư 09, để được thanh toán bảo hiểm y tế, người bệnh cần phải
có giấy xác nhận không vi phạm pháp luật về giao thông của cơ quan có thẩm
13
quyền. Tuy nhiên, thông tư lại không làm rõ "cơ quan có thẩm quyền" là cơ quan
nào, ai là người đưa ra giấy xác nhận này. Cách quy định như vậy dẫn đến sự hiểu
nhầm là trách nhiệm này thuộc về "người bệnh", gây phiền hà, bế tắc cho người
hưởng bảo hiểm y tế. Cũng theo Bộ Tư pháp, có nhiều ý kiến cho rằng cơ quan có
thẩm quyền xác nhận là Cảnh sát giao thông. Tuy nhiên, qua nghiên cứu cho thấy,
nếu người bị tai nạn có đến xin giấy xác nhận thì cảnh sát giao thông cũng không
có cơ sở để cấp loại giấy này. Trên thực tế, nhiều trường hợp tai nạn xảy ra nhưng
cơ quan có thẩm quyền không đến kịp, hiện trường bị xáo trộn, người gây tai nạn
trốn, người bị hại không có người làm chứng thì cơ quan có thẩm quyền sẽ không

thể kết luận nguyên nhân gây ra tai nạn. Như vậy nếu theo thông tư này sẽ có
nhiều trường hợp bị tai nạn giao thông sẽ không được thanh toán bảo hiểm ngay cả
khi họ không có lỗi. Ngoài ra theo quy định tại khoản 2, Điều 114 của Luật Bảo
hiểm xã hội, để được hưởng chế độ khi bị TNGT phải cung cấp bản sao biên bản
của công an giao thông. Nhưng trong thực tế thì rất khó thực hiện vì không phải tất
cả vụ TNGT đều có công an giao thông đến lập biên bản. Do thiếu các biên bản,
có nhiều trường hợp không được hưởng chế độ TNGT.
Cũng liên quan đến BHYT, việc cùng chi trả chi phí trong khám chữa bệnh
BHYT đã gây khó khăn cho một số nhóm đối tượng như người nghèo, người
hưởng trợ cấp bảo trợ xã hội bị bệnh nặng có chi phí khám chữa bệnh lớn như ung
thư, chạy thận nhân tạo… Luật Bảo hiểm y tế quy định đã vi phạm pháp luật thì
không được chi trả viện phí. Tuy nhiên trên thực tế, số người làm công tác giám
định hiện nay rất ít, không thể giải quyết được tất cả các trường hợp TNGT. Với
quy định như hiện nay, giám định viên cũng không đủ thẩm quyền để đề nghị công
an xác minh các trường hợp TNGT. Như vậy, ngành bảo hiểm sẽ phải gánh thêm
nhiều trách nhiệm.
14
Về vấn đề bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) thì quy định về thời gian đăng ký
thất nghiệp được xem là chưa hợp lý. Trong vòng 30 ngày kể từ ngày chấm dứt
hợp đồng, người lao động phải được chốt sổ bảo hiểm xã hội. Trong khi đó phải
đăng ký trong vòng 7 ngày kể từ ngày thôi việc và nộp sổ bảo hiểm xã hội trong
vòng 15 ngày kể từ ngày đăng ký. Bên cạnh đó, nhiều lao động khi thôi việc, vì
nhiều lý do nên chưa thể kịp đăng ký trợ cấp thất nghiệp theo hạn định. Các
quy định hiện hành về phòng chống trục lợi trong bảo hiểm ở Việt Nam còn quá
bất cập và không theo kịp thực tiễn thị trường. Biện pháp chế tài xử lý các hành vi
trục lợi bảo hiểm còn quá thiếu. Theo Nghị định về xử phạt hành chính, hành vi
trục lợi bảo hiểm chỉ bị cảnh cáo hoặc phạt tối đa là 20 triệu đồng. Bộ luật hình sự
chưa có điều luật nào quy định cụ thể về tội trục lợi bảo hiểm. Đối tượng trục lợi
bảo hiểm chỉ bị xử với các tội danh liên quan như tham ô, hối lộ, chiếm đoạt tài
sản Chính vì hành lang pháp lý chưa đầy đủ nên nhiều vụ trục lợi bảo hiểm chưa

được điều tra và xét xử nghiêm khắc, và cũng chính vì vậy không có tính răn đe.
Luật Kinh doanh bảo hiểm hiện hành chưa có quy định cụ thể về việc
chuyển nhượng từng loại hợp đồng bảo hiểm mà chỉ quy định chung việc chuyển
nhượng tất cả các loại hợp đồng bảo hiểm. Tại Điều 26 như sau: “1. Bên mua bảo
hiểm có thể chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm theo thỏa thuận trong hợp đồng
bảo hiểm. 2. Việc chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm chỉ có hiệu lực trong trường
hợp bên mua bảo hiểm thông báo bằng văn bản cho doanh nghiệp bảo hiểm về
việc chuyển nhượng và doanh nghiệp bảo hiểm có văn bản chấp thuận về việc
chuyển nhượng đó, trừ trường hợp việc chuyển nhượng được thực hiện theo tập
quán quốc tế”. Rõ ràng quy định về việc chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm tại
Điều 26 Luật Kinh doanh bảo hiểm còn quá chung chung và mới chỉ dừng lại ở
việc ghi nhận quyền của bên mua bảo hiểm trong việc chuyển nhượng hợp đồng
bảo hiểm cho người thứ ba và việc chuyển nhượng này phải được sự chấp thuận
bằng văn bản của doanh nghiệp bảo hiểm, mà chưa đề cập đến các vấn đề như:
15
điều kiện chuyển nhượng, thủ tục chuyển nhượng, quyền hạn và trách nhiệm của
các bên trong quan hệ chuyển nhượng; và hậu quả pháp lý của việc chuyển
nhượng hợp đồng bảo hiểm. Mặt khác, hợp đồng bảo hiểm con người, hợp đồng
bảo hiểm tài sản và hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự lại có sự khác biệt rất
lớn về đối tượng bảo hiểm, quyền lợi có thể được bảo hiểm, thời hạn bảo hiểm,
quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm
Vấn đề quy định về tuổi nghỉ hưu và mức hưởng lương hưu như quy định
của Luật BHXH hiện tại cũng được xem là chưa hợp lý, tuổi nghỉ hưu còn thấp,
nhất là đối với nữ, trong khi tuổi thọ trung bình ngày càng tăng, làm kéo dài thời
gian hưởng lương hưu; quy định về điều kiện giảm tuổi nghỉ hưu, nghỉ hưu trước
tuổi quá rộng nên số người nghỉ hưu trước tuổi ngày càng tăng Những hạn chế
này ảnh hưởng trực tiếp đến việc cân đối thu chi quỹ hưu trí, tử tuất trong tương lai.
Để việc cân đối thu chi quỹ hưu trí, tử tuất đảm bảo lâu dài, BHXH kiến nghị tăng
dần tuổi nghỉ hưu theo hướng cứ 2 năm tăng thêm 1 tuổi, đến khi tuổi của nam đủ
65 tuổi và tuổi nghỉ hưu của nữ đủ 60 tuổi.

Tình trạng chồng chéo văn bản hướng dẫn Luật cũng là vấn đề hạn chế
trong việc ban hành các văn bản qui định. Ví dụ, ngay sau khi Luật BHXH được
ban hành, Chính phủ và các Bộ, ngành đã tập trung xây dựng một hệ thống các văn
bản quy phạm pháp luật thực hiện các quy định của Luật BHXH bao gồm các nội
dung về hướng dẫn việc thực hiện chính sách, chế độ BHXH bắt buộc đối với cán
bộ, công chức, người lao động Tuy nhiên, hiện các văn bản hướng dẫn thực hiện
chưa kịp thời và đồng bộ. Một số nội dung hướng dẫn trong các văn bản còn chưa
rõ ràng. Bên cạnh đó, việc ban hành các văn bản sửa đổi, bổ sung cũng chưa kịp
thời gây khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện. Tại Hội thảo tháo gỡ
vướng mắc trong thực hiện Luật BHXH, Luật BHYT do Bảo hiểm xã hội Việt
Nam tổ chức mới đây, các ý kiến đều cho rằng cần có những chế tài mạnh mẽ hơn,
chặt chẽ hơn nhằm đảm bảo việc thực thi chính sách.
16
3. Thực trạng tổ chức quản lý và thực hiện chính sách của nhà nước đối với hoạt
động bảo hiểm hiện nay.
A. Mặt tích cực:
Công tác tổ chức quản lý và thực hiện chính sách của nhà nước đối với hoạt
động bảo hiểm đã đạt được nhiều thành công. Nhiều loại hình bảo hiểm được ra
đời để đáp ứng nhu cầu của xã hội, cũng như phục vụ cho công tác thực hiện chính
sách an sinh xã hội, phát triển sản xuất kinh doanh của chính phủ.
Chính sách bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) được triển khai ở nước ta từ ngày
1/1/2009. Đến nay, sau hai năm triển khai thực hiện đã từng bước khẳng định đây
là chính sách có tác động trực tiếp và thiết thực đối với người lao động , người sử
dụng lao động và vấn đề an sinh xã hội; được người sử dụng lao động, người lao
động đón nhận một cách tích cực, được dư luận xã hội đánh giá cao là một trong
những chính sách sớm đi vào cuộc sống.
Việc quyết định chế độ bảo hiểm đối với ngành nông nghiệp cũng đã cho
thấy sự hợp lý trong quá trình điều hành thực hiện chính sách của nhà nước. Bởi lẽ
hàng năm, nước ta thường phải hứng chịu các đợt thiên tai như lũ lụt, hạn hán, rét
buốt gây ảnh hưởng không nhỏ đến nền sản xuất nông nghiệp, gây ra nhiều khó

khăn mất mát cho bà con nông dân. Chính điều này nên trong thời gian dài rất ít có
công ty bảo hiểm đầu tư vào lĩnh vực này. Vì vậy sản phẩm bảo hiểm nông nghiệp
được xem là một quyết định đúng đắn, phục vụ tốt cho quá trình điều hành chính
sách của nhà nước, tạo sự tự tin, giúp nông dân khắc phục những thiệt hại nếu xảy
ra rủi ro. Theo QĐ 315 của Thủ tướng, từ 1-7-2011, nước ta sẽ chính thức triển
khai thí điểm BHNN tại địa bàn 21 tỉnh trên cả nước, cho 3 nhóm đối tượng chủ
yếu là: Cây lúa, đại gia súc, gia cầm và bảo hiểm cho nuôi cá tra, basa, tôm thẻ
chân trắng. đối tượng được tham gia BHNN là các hộ nghèo, cận nghèo và các tổ
chức, cá nhân sản xuất nông nghiệp khác. Nhà nước sẽ hỗ trợ 100% phí bảo hiểm
cho hộ nông dân, cá nhân nghèo sản xuất nông nghiệp tham gia thí điểm BHNN;
17
hỗ trợ 80% cho hộ nông dân, cá nhân cận nghèo sản xuất nông nghiệp tham gia thí
điểm BHNN và 60% cho hộ nông dân, cá nhân không thuộc diện nghèo, cận
nghèo sản xuất nông nghiệp tham gia thí điểm BHNN. Và tổ chức sản xuất nông
nghiệp tham gia thí điểm BHNN được hỗ trợ 20% phí bảo hiểm.
B. Mặt hạn chế:
Việc tổ chức quản lý việc thực hiện bảo hiểm ở một số nơi còn chưa sát sao.
Sau một năm Luật BHYT đi vào cuộc sống, nhưng đến năm 2010, toàn tỉnh Quảng
Ninh vẫn còn gần 40.000 trẻ em, chiếm 1/3 tổng số trẻ em dưới 6 tuổi chưa được
cấp thẻ bảo hiểm y tế, gây khó khăn cho cơ sở khám chữa bệnh và ngành Bảo hiểm
trong công tác thống kê, thanh toán chi phí khám bệnh.
Đối với cơ quan quản lý nhà nước hiện nay chưa có phần mềm thống kê các
báo cáo của các DNBH gửi đến Vụ Bảo hiểm- Bộ Tài chính. Các chuyên viên phải
cập nhật bằng tay từ số liệu báo cáo của DNBH. Hiện đã có 25 DNBH phi nhân
thọ, 10 DNBH nhân thọ, 8 DN môi giới bảo hiểm nên việc tổng hợp các số liệu
của các báo cáo rất phức tạp, tốn thời gian, công sức và dễ dẫn đến sai xót. Từ thực
trạng trên chúng ta thấy, hiện các DNBH đã mở rất nhiều chi nhánh, công ty thành
viên, văn phòng kinh doanh trên toàn quốc song việc không cập nhật được đầy đủ,
kịp thời chính xác các thông tin về kinh doanh bảo hiểm của những đơn vị này,
gây khó khăn cho công tác quản lý DNBH.

4. Thực trạng thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về BH; Giải quyết
khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về hoạt động BH hiện nay.
A. Mặt tích cực:
Công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về bảo hiểm cũng như
công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về hoạt động BH
đã thể hiện nhiều điểm tích cực. Nhiều đợt thanh tra đã phát hiện, ngăn chặn và xử
lý kịp thời những sai phạm. Ví dụ như năm 2010, qua thanh tra, thanh tra Sở Y tế
TP phát hiện Bệnh viện đa khoa tư nhân Phổ Quang (2B Phổ Quang, Q.Tân Bình)
18
có nhiều sai phạm trong thực hiện hợp đồng với BHXH TP. Cụ thể là nhiều trường
hợp bác sĩ chỉ định thuốc và xét nghiệm không phù hợp với chẩn đoán. Ví dụ
thuốc Telfat 180mg (kháng dị ứng) liều thông thường 1 viên/ngày, nhưng bác sĩ kê
toa cho bệnh nhân bị áp xe lạnh sau mổ nhọt với liều 4 viên/ngày. Bệnh nhân được
chẩn đoán hạ canxi nhưng cho làm xét nghiệm cholesterol (mỡ trong máu), HDL
(mỡ tốt trong máu), LDL (mỡ xấu trong máu), HbsAg (viêm gan siêu vi B), AST
(ung thư gan); bệnh nhân rối loạn tiêu hóa cho làm ECG (điện tim); bệnh nhân
viêm họng hạt cho xét nghiệm ion của máu; bệnh nhân viêm mũi họng cấp cho xét
nghiệm mỡ trong máu, chất cặn bã trong nước tiểu, xét nghiệm chức năng gan, xét
nghiệm men gan, xét nghiệm ion của máu và tổng phân tích nước tiểu. Đặc biệt, có
những bệnh nhân còn bị chỉ định thuốc có cùng tác dụng hoặc tác dụng đối kháng
nhau trong cùng một toa thuốc, sử dụng cùng một thời điểm. Có bệnh nhân được
bác sĩ kê toa thuốc uống cùng lúc bốn loại thuốc kháng viêm, hai loại thuốc kháng
dị ứng; có bệnh nhân cùng lúc được cho uống bốn loại thuốc trị ho
Qua thanh tra việc thu, quản lý và sử dụng quỹ BHYT trên địa bàn TP trong
bốn năm gần đây, Thanh tra TP đã phát hiện hầu hết các chứng từ, sổ sách dùng để
thanh toán chi phí khám chữa bệnh BHYT có sai sót ở những bệnh viện được
thanh tra là Bệnh viện Phổ Quang I, Bệnh viện Mắt Sài Gòn II, Bệnh viện Q.1,
Bệnh viện Q.8, Công ty TNHH Trung tâm y khoa Phước An (HEPA).
Hầu hết các chứng từ, hồ sơ thanh toán được kiểm tra ở các bệnh viện trên không
có đầy đủ chữ ký trên chứng từ, không lưu toa thuốc, không có chỉ định dùng

thuốc, y sĩ kê đơn thuốc, không tính tiền trên phiếu phát thuốc, không mở sổ
sách theo dõi, thống kê các chi phí thuốc theo quy định, số liệu trên chứng từ chi
tiết và bảng tổng hợp khác nhau, phiếu chỉ định xét nghiệm không có chữ ký của
bác sĩ, không có ngày tháng thực hiện xét nghiệm
19
Qua thanh tra tại 775 đơn vị đã phát hiện nhiều sai phạm như chủ doanh
nghiệp (DN) không thực hiện tham gia đầy đủ cho tổng số lao động hiện có của
DN thuộc đối tượng phải tham gia BHXH bắt buộc, không trả tiền BHXH vào
lương cho người lao động không thuộc diện phải tham gia BHXH bắt buộc, không
lập hồ sơ cấp sổ BHXH, không trả sổ BHXH kịp thời cho người lao động khi
chấm dứt hợp đồng lao động, trong đó vi phạm tập trung chủ yếu ở các DN
ngoài quốc doanh.
Trong năm 2010, Bộ Tài chính đã siết chặt quản lý hoạt động kinh doanh
BH. Thông qua thanh, kiểm tra, Bộ đã kịp thời chấn chỉnh những sai phạm của
một số DNBH, như chi hoa hồng BH khi chưa đủ điều kiện, từ chối chi trả BH
thiếu căn cứ… Cục Quản lý giám sát BH đã yêu cầu nhiều DNBH hạch toán bổ
sung doanh thu, tăng quỹ dự phòng, điều chỉnh giảm chi phí hoạt động Năm
2011, phấn đấu đạt tổng doanh thu phí BH toàn thị trường đạt 35.290 tỷ đồng, tăng
18,8% so với năm 2010. Đây là mục tiêu khá cao, nhưng với những kết quả mà
nhiều DNBH đã đạt được trong năm qua, mục tiêu này hoàn toàn trong tầm tay.
Ông Trịnh Thanh Hoan, Cục trưởng Cục Quản lý giám sát BH cho biết, để hoàn
thành mục tiêu tổng doanh thu phí BH toàn thị trường đạt 35.290 tỷ đồng, cùng
với nỗ lực của DN, Cục tiếp tục hoàn thiện các chính sách theo hướng phát triển
thị trường BH toàn diện, đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế và người dân. Các hoạt
động hỗ trợ DNBH, như tổ chức các khóa đào tạo cơ bản về BH, quản trị DN, đầu
tư… sẽ được Bộ Tài chính triển khai trong năm 2011, đáp ứng nhu cầu của các tổ
chức, cá nhân. Cục cũng tiếp tục nghiên cứu, rà soát, đề xuất Bộ Tài chính cắt
giảm quy trình, hồ sơ của một số thủ tục hành chính trong lĩnh vực BH, tạo điều
kiện thuận lợi cho thị trường phát triển.
Nghị định 85/2010/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực

chứng khoán và TTCK được ban hành thay thế Nghị định 36/2007/NĐ-CP đã
mạnh tay hơn trong việc xử lý CTCK trong việc mua bảo hiểm trách nhiệm nghề
20
nghiệp cho nhân viên. Theo đó, từ ngày 20/9/2010, CTCK sẽ bị phạt từ 50 - 70
triệu đồng nếu không mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp và không trích lập
đầy đủ quỹ bảo vệ NĐT. Với yêu cầu CTCK phải mua bảo hiểm trách nhiệm nghề
nghiệp cho nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán tại công ty (bồi thường thiệt hại
cho bên thứ 3), công ty bảo hiểm sẽ là nơi chi trả những khoản thiệt hại do sơ sót
của CTCK và nhân viên CTCK gây ra cho khách hàng. Tuy nhiên, đã 4 tháng qua
trôi qua, nhưng theo khảo sát của ĐTCK, đến nay vẫn không có nhiều CTCK tuân
thủ quy định này, cho dù hoạt động của CTCK tiềm ẩn nhiều rủi ro như: nhập lệnh
sai, tư vấn cho khách hàng không chính xác, đưa ra giá bảo lãnh phát hành không
phù hợp dẫn đến đợt phát hành không thành công, không chuyển được lệnh vì
đường truyền trục trặc… Những nghiệp vụ này đều thuộc diện CTCK phải mua
bảo hiểm.
Để nâng cao hiệu quả công tác của Cục Quản lý giám sát bảo hiểm, mới đây
Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định ban hành Nghị định 41/2009/NĐ-CP về xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, trong đó trao chức
năng thanh tra chuyên ngành và thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính cho Cục
Quản lý giám sát bảo hiểm. Theo đó, Bộ Tài chính đã ban hành quyết định thành
lập thanh tra chuyên ngành về bảo hiểm (thanh tra Cục) đồng thời ban hành các
quyết định quy định chức năng, nhiệm vụ của Thanh tra Cục. Với việc trao thẩm
quyền thanh tra và xử lý vi phạm cho Cục Quản lý và giám sát bảo hiểm, trong
năm 2010 và các năm sắp tới công tác thanh tra và xử lý vi phạm trong lĩnh vực
bảo hiểm được kỳ vọng sẽ mang tính chủ động và kịp thời. Và như thế, các hành
vi vi phạm trong lĩnh vực bảo hiểm sẽ bị xử lý nghiêm khắc hơn. Mức xử phạt
cũng như hình phạt bổ sung sẽ có tính răn đe cao hơn, thậm chí sẽ tước quyền sử
dụng giấy phép có thời hạn đối với phạm vi, địa bàn hoặc nghiệp vụ.
Quyết định yêu cầu phải công khai kết luận thanh tra cũng là điểm tích cực
trong công tác thanh tra. Đây là một trong những điểm mới của Luật Thanh tra số

21
56/2010/QH12 được Quốc hội khóa XII thông qua tại kỳ họp thứ tám ngày 15
tháng 11 năm 2010 và Chủ tịch nước ký lệnh công bố ngày 29 tháng 11 năm 2010.
B. Mặt hạn chế:
Công tác thanh tra, kiểm tra cũng như xử lý sai phạm, giải quyết khiếu nại
về hoạt động BH vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế.
Một trong những vấn đề khó khăn đối với các cơ quan BHXH là xác định và
quản lý đối tượng phải nộp BHXH bắt buộc nhưng cho đến nay, các cơ quan quản
lý Nhà nước chưa có số liệu thống kê chính xác số lượng đơn vị, doanh nghiệp có
sử dụng lao động cũng như số lượng người lao động (NLĐ) thuộc đối tượng đóng
BHXH bắt buộc. Cơ chế phối hợp giữa các ngành, các cơ quan có thẩm quyền để
xác định đối tượng phải đóng BHXH bắt buộc chưa rõ ràng. Vì vậy, cơ quan
BHXH chủ yếu chỉ thu được BHXH theo số lượng lao động mà các DN, đơn vị tự
giác đăng ký. Ông Đỗ Quang Khánh, Phó Giám đốc BHXH TPHCM, cho biết
trong đợt kiểm tra ngẫu nhiên 51 DN theo danh sách do Sở Kế hoạch - Đầu tư
TPHCM cấp phép, chỉ có 27 DN thực tế hoạt động, còn 24 DN kia không tìm đâu
ra. Thế nhưng, trong số 27 DN này lại chỉ có 7 DN có đóng BHXH cho NLĐ. Ông
Cao Văn Sang, Giám đốc BHXH TPHCM, bổ sung: “Theo Sở Kế hoạch - Đầu tư
TPHCM, sở này đã cấp phép cho hơn 120.000 DN. Nhưng kết quả khảo sát thực tế
chỉ có khoảng 80.000 DN hoạt động. Như vậy có hơn 40.000 DN mất tích!?”.
Tuy nhiên, hiện BHXH TPHCM chỉ quản lý được 38.227 DN, tổ chức, đơn vị
đang tham gia BHXH cho 1,61 triệu người. Như vậy, nếu làm phép tính đơn giản,
có đến gần 52.000 DN thực tế hoạt động nhưng không tham gia BHXH và kèm
theo đó là hàng chục, thậm chí hàng trăm ngàn lao động cũng không được hưởng
quyền lợi.
Về vấn đề xử lý sai phạm. Hiện vẫn chưa có chế tài hiệu quả đối với các DN
cố tình chây ì trốn đóng BHXH và chiếm dụng tiền lương tham gia BHXH của
NLĐ. Tại TPHCM, đến cuối năm 2010, có tới 19.139 DN, đơn vị, cơ quan, trong
22
đó có cả các DN Nhà nước nợ đọng BHXH của trên 687.100 NLĐ. Tổng số nợ

BHXH bắt buộc đến cuối năm 2010 tại TPHCM gần 374 tỉ đồng. Giải pháp cơ
quan BHXH TP cho là hiệu quả nhất là khởi kiện các DN cố tình chây ì, thế nhưng
thủ tục hết sức nhiêu khê, phức tạp. Tòa Lao động xử vụ kiện dân sự nhưng trước
đó phải có việc xử phạt hành chính của thanh tra lao động. Thậm chí thanh tra lao
động xử phạt xong, BHXH đi kiện, tòa không nhận và bảo đã có cơ quan chức
năng giải quyết rồi, cứ vậy mà thực hiện, tòa không xử. Một giải pháp khác là trích
trừ tài khoản của DN trả nợ cho BHXH thì DN đối phó bằng cách rút hết tiền trong
tài khoản, thậm chí có DN còn cung cấp cho thanh tra lao động tài khoản “đểu”,
chỉ còn vài ngàn đồng. Chưa hết, khi thanh tra lao động ra quyết định xử phạt, DN
không đóng, thanh tra cũng không có biện pháp cưỡng chế. Đơn cử như trường
hợp Công ty H&M Vina (quận Tân Phú) không ký HĐLĐ, không tham gia BHXH
cho 130 NLĐ suốt 7 năm qua và bị xử phạt 86 triệu đồng nhưng đến nay vẫn
không nộp phạt. BHXH chỉ được phép kiểm tra nhưng không được quyền xử phạt
DN vi phạm. Trong khi đó, các ngành chức năng liên quan thực hiện thanh kiểm
tra DN về thực hiện BHXH còn ít và chưa hiệu quả, quá trình thanh tra còn lồng
ghép trong các cuộc thanh tra về thực hiện pháp luật lao động nên hiệu quả không
cao. Ở nhiều tỉnh, thành phố,cơ quan BHXH địa phương đã chủ động kiến nghị
với Chính quyền thành lập các đoàn công tác liên ngành, các tổ thu nợ với sự tham
gia của các cơ quan chức năng như Công an, thuế vụ… nhưng kết quả thu nợ cũng
chẳng được là bao. Chẳng hạn riêng tại Hà Nội tính đến tháng 2 năm 2011 vẫn còn
hàng trăm đơn vị có số nợ lớn, kéo dài chưa nộp BHXH, ví dụ Công ty CP Tập
đoàn điện tử Công nghiệp Việt Nam nợ 1.518 triệu đồng ; Công ty Bách hoá Hà
Nội nợ 1.928 triệu đồng; Công ty CP Cầu 5 Thăng Long nợ 4.401 triệu đồng ;
Công ty CP Xây dựng công trình nợ 2.682 triệu đồng ;Trường Đại học Luật Hà
Nội nợ 959 triệu đồng; Công ty DV Truyền thanh, Truyền hình Hà Nội 1.701 triệu
đồng…
23
Một nguyên nhân nữa dẫn đến tình trạng nợ bảo hiểm đó là do lãi phạt chậm
nộp BHXH - BHYT thấp hơn lãi suất ngân hàng, cộng thêm chế tài đối với hành
vi cố tình trốn nộp BHXH - BHYT chưa đủ mạnh, do vậy nhiều doanh nghiệp

chiếm dụng tiền BHXH - BHYT sử dụng vào việc khác hoặc trả nợ vay ngân hàng
mà không sợ bị xử lý. Tính đến tháng 10-2010, tổng số nợ BHXH - BHYT lên đến
hơn 5.401 tỷ đồng; trong đó những địa phương có số nợ lớn, kéo dài là TPHCM,
Hà Nội, Bình Dương, Đồng Nai…
Công tác thanh tra, xử lý khiếu nại tại các bệnh viện vẫn còn nhiều hạn chế.
Hiện nhiều bệnh viện đang tồn tại tình trạng, một số dịch vụ kỹ thuật hoặc thuốc
có trong danh mục được Bộ Y tế phê duyệt cho bệnh viện dùng vào điều trị thường
xuyên bị BHYT từ chối không thanh toán. Mỗi lần dùng phải có thông báo gửi cho
BHXH, nhưng ít khi nhận được ý kiến phản hồi sớm bằng văn bản, nên bệnh viện
phải chờ. Vì thế không đảm bảo được tính kịp thời trong công tác điều trị. Một bác
sĩ chuyên về Tai Mũi Họng phản ánh, một số thuốc xịt phải dùng trong nhiều ngày,
khi bệnh nhân ra viện không dùng hết thì BHXH không thanh toán và cũng không
có văn bản hướng dẫn cụ thể, trong khi đó một lọ không thể dùng cho nhiều bệnh
nhân. Một thực tế khiến nhiều người dân rất bức xúc là hiện nay khi vào cấp cứu,
người bệnh còn phải đi lại nhiều lần vì chờ bảo hiểm trả lời. Không ít bệnh nhân
“ dở khóc, dở cười” vì chiếc thẻ BHYT in nhầm họ tên, tuổi nên bệnh viện
không dám nhận.
Một vấn đề nữa về hạn chế trong công tác thanh tra, kiểm tra đó là đội ngũ
làm giám định BHYT còn quá ít, chỉ đáp ứng được 1/3 nhu cầu. Vì thế mới xảy ra
hiện tượng thời gian dài, việc lập và chuyển danh sách trẻ em dưới 6 tuổi, người
nghèo và cận nghèo để mua thẻ BHYT ở một vài địa phương chưa đủ và kịp thời,
chỉ đạt 70%. Không ít bác sĩ phản ánh, trong khi BHXH không có văn bản hướng
dẫn cụ thể, nhưng lại “ có quyền” vặn người bệnh khi họ không có giấy tờ tùy
thân hay ảnh hợp lệ (chứng minh nhân dân, bằng lái xe ). Nhiều trường hợp, cán
24
bộ giám định BHXH “ bắt” bệnh nhân về xin xác nhận của BHXH địa phương
trong khi bệnh của họ đang giai đoạn nguy kịch. Điều này đã gây phản ứng gay gắt
của người dân, mà cơ sở y tế lại là nơi phải chịu trận vì những qui định “vô cảm”
đó. Một vài cán bộ có ý kiến, rằng công văn của BHXH các tỉnh gửi thông báo về
các bệnh viện được chuyển lên tuyến trung ương cũng không được BHXH tập hợp

gửi cho bệnh viện kịp thời để có căn cứ giải quyết cho bệnh nhân.
25
Phần III
Giải pháp và kiến nghị tăng cường quản lí nhà nước đối với hoạt động
bảo hiểm
1. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đối với hoạt
động bảo hiểm.
Luật KDBH được ban hành từ cuối năm 2000 và có hiệu lực từ 01/04/2001
đã tạo cơ sở pháp lý căn bản cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam.
Cùng với luật là rất nhiều văn bản dưới Luật hướng dẫn thi hành một cách cụ
thể,tạo rất nhiều thuận lợi cho các đối tượng tham gia hoạt động bảo hiểm. Tuy
nhiên, thực tế áp dụng trong thời gian qua cho thấy Luật và nhiều văn bản Luật
vẫn còn nhiều chỗ chưa thống nhất, chưa đầy đủ, hoặc chưa thích hợp với điều
kiện cụ thể ở nước ta. Chính vì thế, tới đây, những nhà làm luật cần học hỏi thêm
kinh nghiệm xây dựng luật của các nước, đồng thời có những nghiên cứu cụ thể
các điều kiện của Việt Nam để có những điều chỉnh thích hợp hơn nữa.
Sự thiếu hụt một khung pháp lý điều chỉnh hoạt động cạnh tranh ở nước ta
hiện nay đang gây rất nhiều khó khăn cho hoạt động kinh doanh của nhiều ngành
nghề, trong đó bảo hiểm chịu tác động không nhỏ. Do vậy, nhiệm vụ quan trọng
đặt ra trong thời gian tới là Chính phủ cùng các bộ, ngành liên quan tiến hành
nghiên cứu, soạn thảo và trình Quốc hội thông qua Luật cạnh tranh. Trước khi
Luật cạnh tranh được ban hành, các cơ quan quản lý Nhà nước về hoạt động kinh
doanh bảo hiểm, cụ thể là Bộ tài chính, cần ban hành thông tư, chế tài cụ thể để
quản lý, kiểm soát hoạt động cạnh tranh và xử lý vi phạm về cạnh tranh trong lĩnh
vực bảo hiểm.

×