Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

so sánh văn hóa dân gian giữa dân tộc Việt và dân tộc Hàn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (597.22 KB, 89 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT
  
BÁO CÁO ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP BỘ
Đề tài:
SO SÁNH VĂN HÓA DÂN GIAN
GIỮA DÂN TỘC VIỆT VÀ DÂN TỘC HÀN
Mã số: B.2007 – 29 - 53
Chủ nhiệm đề tài: PGS,TS. CAO THẾ TRÌNH
Các thành viên đề tài: Th.S. Thân Thò Thúy Hiền,
CN. Nguyễn Huy Khuyến,
CN. Nguyễn Cao Luyện,
Th.S. Lê Thò Nhuấn,
Th.S. Bùi Thò Thoa,
Th.S. Lưu Thò Hồng Việt
Đà Lạt – 2009
DẪN LUẬN
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam và Hàn Quốc là hai quốc gia đồng văn-đồng chủng trong khu vực
Đông Á. Từ đầu thế kỷ XIII, Hoàng tử Đại Việt triều Lý là Lý Long Tường do một
cơ duyên đã phiêu bạt tới bán đảo Triều Tiên, đất lành chim đậu đã đònh cư tại Hoa
Sơn – Hàn Quốc, mở đầu cho mối quan hệ hữu nghò giữa 2 dân tộc. Trong các thế
kỷ XVI – XVIII, sứ thần hai nước Đại Việt – Cao Ly cũng đã có những cuộc tao
ngộ đầy ý nghóa ở Bắc Kinh – kinh đô của các triều Minh, Thanh ở Trung Quốc, góp
phần cho sự hiểu biết lẫn nhau giữa 2 nước. Đầu thế kỷ XX, trong những năm bôn
ba hoạt động cách mạng ở hải ngoại, Chủ tòch Hồ Chí Minh cũng đã dành một sự
quan tâm tới phong trào giải phóng dân tộc ở Triều Tiên. Đặc biệt, từ năm 1992, khi
2 nước Việt Nam và Hàn Quốc chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao, quan hệ hợp
tác – hữu nghò toàn diện trên mọi phương diện chính trò, kinh tế, văn hóa, giáo dục
giữa 2 nước đã được nâng lên một tầm cao mới.
Từ đó đến nay đã có khá nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam, Hàn Quốc dành


nhiều công sức cho việc tìm hiểu mối quan hệ văn hóa giữa 2 dân tộc Việt, Hàn,
một số công trình nghiên cứu bước đầu cũng đã được giới thiệu. Tiêu biểu là hai hội
nghò khoa học tổ chức tại Hà Nội (19/12/1994) và tại Thành phố Hồ Chí Minh
(8/2001) và sản phẩm là 2 tập kỷ yếu – Tương đồng văn hóa Việt Nam – Hàn Quốc
[56] và Những vấn đề văn hóa, xã hội và ngôn ngữ Hàn Quốc [48]. Bên cạnh đó,
một số ấn phẩm khoa học giới thiệu văn hóa Hàn Quốc của các nhà nghiên cứu
cũng đã được biên dòch, giới thiệu bằng Viêt ngữ. Tiêu biểu là các công trình của
Nguyễn Long Châu [10], Đặng Văn Lung [45], Lê Quang Thiêm [59].
Tuy vậy, nhìn chung, trừ hiện tượng sa man giáo, giới nghiên cứu Việt Nam
trong thời gian qua chủ yếu vẫn tập trung vào những vấn đề văn hóa Hàn Quốc
đương đại hay nhiều lắm cũng là những vấn đề văn hóa Hàn Quốc trung đại, còn
mảng văn hóa dân gian Hàn Quốc dường như vẫn còn bỏ ngỏ. Rõ ràng, đây là một
khiếm khuyết cần được khỏa lấp, bởi như vậy sẽ không đem lại một nhận thức hoàn
chỉnh về bức tranh văn hóa Hàn Quốc. Có một thực tế không thể phủ nhận, cũng
tương tự như ở người Việt – hay nói rộng hơn là cả không ít quốc gia khác trong khu
vực Đông Á và Đông Nam Á, văn hóa Hàn Quốc các thời trung đại và cận-hiện đại,
đều đã bò phủ lên một “lớp sơn” văn hóa Hán và văn hóa Ấn Độ và về sau là văn
hóa Âu – Mỹ. Lẽ đương nhiên, trong điều kiện như vậy, nhiều yếu tố văn hóa
2
truyền thống sẽ bò nhạt nhòa, khúc xạ trước những yếu tố văn hóa ngoại sinh. Trong
bối cảnh đó, chính văn hóa dân gian (và chỉ có văn hóa dân gian) mới là bộ phận ít
chòu sự tác động của các luồng văn hóa ngoại sinh và thể hiện rõ nét bản sắc văn
hóa tộc người.
Từ đó, việc đi sâu tìm hiểu những điểm tương đồng và dò biệt trong văn hóa
dân gian giữa hai dân tộc Hàn, Việt sẽ góp phần soi sáng không ít những vấn đề
khoa học liên quan tới văn hóa cổ truyền mỗi nước mà còn có ý nghóa phương pháp
luận đối với việc nghiên cứu những hiện tượng văn hóa tương tự trong văn hóa cổ
truyền của nhiều dân tộc trong khu vực Đông Á cũng như Đông Nam Á. Kết quả
nghiên cứu này hẳn sẽ góp phần tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa 2 dân tộc, và
thông quá đó đẩy mạnh mối quan hệ hợp tác – hữu nghò giữa Việt -Hàn ngày càng

có hiệu quả.
Đó chính là lý do chúng tôi chọn đề tài So sánh văn hóa dân gian giữa dân
tộc Việt và dân tộc Hàn làm đề tài nghiên cứu trọng tâm của khoa Đông phương.
2. Tổng quan về tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước
2.1. Trong phạm vi hiểu biết hiện nay của chúng tôi, liên quan tới việc tìm hiểu
văn hóa dân gian ở Việt tộc đã có nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Tiêu
biểu là học giả Phan Kế Bính với công trình Việt Nam phong tục[8], Đào Duy Anh
với tác phẩm Việt Nam văn hóa sử cương[1], Nguyễn Văn Huyên với chuyên khảo
La civilisation annamite (Văn minh Việt Nam)[31], Toan nh với các công trình Tín
ngưỡng Việt Nam, Nếp cũ: Hội hè, đình đám,[2,3] Nguyễn Duy Hinh với các công
trình – Tín ngưỡng thành hoàng Việt Nam, Một số bài viết về tôn giáo, Văn hóa tâm
linh Việt Nam [28, 29, 29a], Trần Quốc Vượng với tập chuyên đề Văn hóa Việt Nam
– tìm tòi và suy ngẫm[77], Trần Ngọc Thêm với tác phẩm – Tìm về bản sắc văn hóa
Việt Nam[57], Viện văn hóa dân gian với công trình Hỏi và đáp về văn hóa Việt
Nam [49], Vũ Ngọc Khánh với công trình Nghiên cứu văn hóa cổ truyền Việt Nam
[36], Đinh Gia Khánh với công trình Văn học dân gian Việt Nam [33], Cơ sở Văn hóa
Việt Nam của Huỳnh Công Bá [5], … Đó là chưa kể tới hàng trăm bài báo đăng tải
trên các tạp chí chuyên ngành khoa học xã hội – nhân văn,…
2.2. Về phía văn hóa dân gian Hàn Quốc – do những khó khăn về ngoại ngữ,
chúng tôi chỉ mới biết tới một số công trình giới thiệu tổng quan về văn hóa Hàn
Quốc, trong đó phần lớn là các ấn phẩm dòch thuật và ít hơn là một số nguyên tác
Hàn tự. Tiêu biểu là các cuốn Văn hóa Hàn quốc – những điều bí ẩn của Joo Kang
Hyun [81], Hàn Quốc văn hóa sử của Lee Min Sik và Lee Ji Won [84], Đại cương
3
về văn hóa Hàn Quốc của Pac Young Soon [86], Tín ngưỡng dân gian trong phong
tục Hàn Quốc của Choe Jun Sik [78], Dân tộc và dòng họ của Hàn Quốc của Hội so
sánh dân tộc (Hàn Quốc) [80], Tín ngưỡng dòng họ của Hàn Quốc (khu vực miền
Trung nước Hàn) của Kim Jong Dae [82], Tìm hiểu văn hóa Hàn Quốc của Nguyễn
Long Châu, Tiếp cận văn hóa Hàn Quốc của Đặng Văn Lung, Khái niệm văn hóa,
văn minh và văn hóa truyền thống Hàn của Lê Quang Thiêm, Korea – xưa và nay

của Ki-baik Lee[37], Lòch sử Hàn Quốc của Ban biên soạn giáo trình Hàn Quốc học
của Đại học Quốc gia Seoul và Đại học Quốc gia Hà Nội cùng biên soạn [7], Truyện
cổ Hàn Quốc do Trần Hữu Kham và Ahn Kyong Hwam sưu tầm và biên dòch [72],
Xã hội Hàn Quốc qua một số truyện cổ tích tiêu biểu của CN. Vũ Duy Hưng & NCS.
Nguyễn Hùng Vũ [44], Nghi lễ cưới truyền thống ở người Hàn Quốc của Trần Mạnh
Cát [9],...
2.3. Tuy nhiên, việc so sánh văn hóa dân gian Hàn Quốc với văn hóa dân gian ở
người Việt - theo hiểu biết của chúng tôi hiện nay, là vẫn còn khá mới mẻ với một
tập chuyên luận mỏng của TS. Jeon Hye Kyung (Toàn Huệ Khanh) – Nghiên cứu so
sánh truyện cổ Hàn Quốc và Việt Nam (thông qua tìm hiểu sự tích động vật) [41]
cũng như một vài báo cáo tại hội nghò khoa học “Những vấn đề văn hóa Việt Nam
– Hàn Quốc”(1995), được công bố trong tập kỷ yếu Tương đồng văn hóa Hàn Quốc
- Việt Nam“ như: Vài nét tương đồng trong truyện cổ Đại Hàn và Việt Nam của CN
Đặng Thiếu Ngân & GS. Đinh Gia Khánh, Về mối quan hệ loại hình giữa văn hóa
Việt Nam và Hàn Quốc của Lê Chí Quế, Vùng văn hóa Đông Á và sự tương đồng văn
hóa Việt Nam – Hàn Quốc của Trần Ngọc Vương, Văn hóa lễ hội truyền thống Việt
Nam – Hàn Quốc của Nguyễn Thò Huế, Vài nét gặp gỡ giữa truyện dân gian Hàn
Quốc và Việt Nam của Nguyễn Trường Lòch. Trong tập kỷ yếu “Những vấn đề văn
hóa, xã hội và ngôn ngữ Hàn Quốc” trên cơ sở hội nghò khoa học có cùng chủ đề
được tổ chức tại TP. Hồ Chí Minh (8/2001) cũng có bài Vài nét về nsự tương đồng
những yếu tố văn hóa truyền thống Việt Nam – Hàn Quốc của Mai Ngọc Chừ. Ngoài
ra, liên quan tới đề tài này, trên Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á chỉ có một bài của
Lý Xuân Chung – Đôi nét về sự tương đồng văn hóa Việt Nam – Hàn Quốc [15].
2.4. Nhìn chung, các tác giả nói trên mới chủ yếu đề cập tới những nét tương đồng
trong văn hóa giữa 2 dân tộc ở thời trung đại, cận đại và hiện đại, lúc mà nền văn
hóa dân tộc đã được phủ lên những lớp sơn văn hóa ngoại sinh từ Trung Hoa, Ấn Độ
và các nước Âu – Mỹ, còn lónh vực văn hóa dân gian, chỉ mới tiến hành so sánh ở
một vài chi tiết như tục chôn tượng người chết có ở người Hàn cổ nhưng không bắt
gặp ở người Việt cổ, các mô tif trong truyện cổ dân gian có nhiều điểm tương đồng
(mô típ chim tu hú, đa đa, chim quốc… cho tới các mô tif “lọ lem”/ “gì ghẻ-con

4
chồng”, “bọc trứng đẻ ra người”) hay các chuyện Nông Pu và Hưng Pu (Hàn) với
chuyện Cây khế (Việt), chuyện Loại hoa kỳ lạ (Việt) với Kén rể bằng trứng gà
(Hàn),….
Về phần mình, một thành viên trong nhóm đề tài của chúng tơi – CN. Lưu Thị
Hồng Việt, đã cơng bố một luận văn Thạc sỹ Ngữ văn với đề tài: So sánh truyện cổ
tích Việt – Hàn. Đề tài đã được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn Thạc sỹ Trường
Đại học Đà Lạt tháng 12/2007 và được chấm loại giỏi [74. Bên cạnh đó, trong q
trình triển khai đề tài, Chủ nhiệm đề tài – PGS.TS. Cao Thế Trình, cũng đã cơng bố
trên một số tạp chí khoa học chun ngành một số bài báo khoa học của mình. Đó là
các bài – Vài phương diện trong tục cúng tế tổ tiên ở người Hàn (qua đối sánh với tục
thờ cúng tổ tiên ở người Việt) trên Tạp chí Dân tộc học số 5/2008 và Tìm hiểu tín
ngưỡng phồn thực ở người Hàn trên Tạp chí Nghiên cứu Đơng Bắc Á số 1/2009 [69,
70], trong đó, bài Vài phương diện trong tục cúng tế tổ tiên ở người Hàn (qua đối
sánh với tục thờ cúng tổ tiên ở người Việt) được chọn là 1 trong 5 hay nhất của Tạp
chí Dân tộc học năm 2008 [54a,130; 63a,131]
2.5. Tinh thần chung của các bài viết nêu trên là tìm sự giống nhau mà ít quan tâm
tới sự khác nhau. Phương pháp tiếp cận chủ đạo chủ yếu vẫn từ lónh vực Văn học
của các nhà nghiên cứu văn học, ngôn ngữ học, mà hầu như ít có sự tham gia của
các nhà khoa học thuộc các lónh vực khác, nhất là các lónh vực Folklore, Nhân học /
Dân tộc học,… Rõ ràng, vẫn rất còn nhiều khoảng trống trong việc tìm hiểu những
tương đồng và dò biệt trong văn hóa Việt, Hàn cần được tiếp tục làm sáng tỏ.
3. Mục tiêu của đề tài
Mặc dù tiêu đề nêu ra có một nội hàm rất rộng, thế nhưng, trong khả năng
hữu hạn của mình, trước mắt chúng tôi chỉ tập trung vào những điểm tương đồng và
dò biệt nổi trội trong các lónh vực văn hóa vật thể và phi vật thể giữa 2 dân tộc Việt
– Hàn, nhất là những nét giống nhau, khác nhau trong tín ngưỡng dân gian giữa 2
dân tộc Hàn, Việt, nhằm góp phần tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa 2 dân tộc
và thông quá đó đẩy mạnh mối quan hệ hợp tác – hữu nghò giữa Việt Nam và Hàn
Quốc lên một bước mới, mà trước mắt là cung cấp thêm một nguồn tư liệu bổ ích

làm tài liệu tham khảo cho giảng viên và sinh viên ngành Hàn Quốc học cũng như
những ai có quan tâm, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của một ngành đào tạo
còn khá mới mẻ ở Việt Nam.
4. Các cách tiếp cận, phương pháp và phạm vi nghiên cứu của đề tài
5
Do đặc thù của đối tượng là so sánh những điểm tương đồng và dò biệt trong
văn hóa dân gian giữa 2 dân tộc Hàn, Việt, nên phương pháp tiếp cận chủ yếu của
chúng tôi là phương pháp liên ngành trên cơ sở khai thác thế mạnh của các phương
pháp nghiên cứu Văn học dân gian, Dân tộc học và nhất là Folklore.
Ngoài ra, trong phạm vi có thể được chúng tôi cũng tranh thủ tối đa phương
pháp điền dã nhân các chuyến thực tập ngắn hạn của các giảng viên trong khoa và
phỏng vấn các giảng viên tình nguyện từ Đại Hàn dân quốc tại Đại học Đà Lạt, nhất
là tham khảo những nhận xét, đánh giá từ GS, TS. Văn học Oh Jong Ho (Ngô Tông
Hạo) – hiện đang tham gia giảng dạy tiếng Hàn tại khoa Đông phương học.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung chủ yếu đề cập tới lónh vực văn hóa
dân gian chưa hoặc ít bò pha tạp bởi các yếu tố văn hóa ngoại sinh trong quá trình
giao lưu-tiếp xúc với các nền văn hóa Trung Hoa, văn hóa Ấn Độ (thơiø trung đại) và
văn hóa Âu – Mỹ (thời cận-hiện đại).
5. Đóng góp của đề tài
Như đã nói ở trên, ngoại trừ việc so sánh sự tương đồng trong một số sự tích
động vật trong truyện cổ dân gian Hàn, Việt của Jeon Hye Kyung, vài so sánh về
mô tif “lọ lem”, “người sinh ra từ bọc trứng” trong huyền thoạt Việt, Hàn của Lê
Chí Quế, các chuyện “nhân tình – thế thái” như mô tíf kén rể dựa trên tiêu chí trung
thực, anh tham – em hiền… với hướng tiếp cận chủ yếu từ giác độ Văn học – Nghệ
thuật, đề tài chúng tôi là một cố gắng mới của tập thể giảng viên khoa Đông
phương học – Trường Đại học Đà Lạt. Chúng tôi không có tham vọng giải quyết đầy
đủ mọi vấn đề liên quan tới nội dung của đề tài, nhưng với việc mở rộng các hướng
tiếp cận mới (Nhân học/Dân tộc học, Folklore,…, chí ít cũng là sự tập hợp tư liệu,
bước đầu tìm tòi, khám phá,“khai quật” những gì còn tiềm ẩn, ít thu hút được sự
quan tâm của giới nghiên cứu trong văn hóa cổ truyền Hàn Quốc và những điểm

tương đồng, dò biệt với văn hóa dân gian Việt. Hoàn toàn có thể khẳng đònh, việc
triển khai nghiên cứu và những kết quả bước đầu có thể còn rất khiêm tốn của đề
tài, là một đóng góp mới của chúng tôi.

6. Bố cục của đề tài
Ngoài các phần Dẫn nhập, Kết luận và Phụ lục, báo cáo của chúng tôi gồm 2
chương chính:
Chương I: Những điểm tương đồng và dò biệt trong lónh vực văn hóa vật thể
(tangible) giữa 2 dân tộc Hàn - Việt với các tiểu mục về sự tương đồng và dị biệt
trên các phương diện văn hóa đảm bảo đời sống, văn hóa ẩm thực, trang phục.
6
Chương II: Những điểm tương đồng và dò biệt trong lónh vực văn hóa phi vật
thể (intangible) giữa 2 dân tộc Hàn - Việt với các tiểu mục về tương đồng và dị biệt
trên các lĩnh vực văn học dân gian, dân ca, tín ngưỡng.

Chương I
NHỮNG ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG VÀ DỊ BIỆT TRONG VĂN HÓA
VẬT THỂ (TANGIBLE) GIỮA DÂN TỘC VIỆT VÀ DÂN TỘC HÀN
1.1. Những tương đồng và dò biệt trong lónh vực văn hóa đảm bảo đời sống
Một trong những điểm chung nổi bật dễ nhận thấy trong lónh vực văn hóa đảm
bảo đời sống giữa hai dân tộc Việt và Hàn là đều xuất phát từ nền kinh tế “dó nông
vi bản”. Trong quá trình tìm hiểu nền kinh tế truyền thống của hai dân tộc, chúng tôi
nhận thấy, bên cạnh những điểm tương đồng vẫn có thể có những điểm dò biệt liên
quan tới nền kinh tế nông nghiệp, ngư nghiệp, các nghề thủ công.
1.1.1. Tương đồng và dị biệt trong lĩnh vực nông nghiệp truyền thống
1.1.1.1. Trong lĩnh vực trồng trọt
Ở Hàn Quốc, vào thời kỳ Triều Tiên cổ, với việc sử dụng đồ sắt đã tạo ra vô
số thay đổi trong đời sống sinh hoạt của người Hàn. Trước tiên, trong lónh vực nông
nghiệp đã có sự phát triển một cách rõ rệt. Điều này được khẳng đònh từ sự xuất
hiện về các nông cụ như lưỡi cày và lưỡi hái. Hầu hết, các cánh đồng đã được chuẩn

bò trồng cấy bằng các nông cụ như cày gỗ cầm tay và bừa sắt. Cũng có khả năng là
chính con người đã kéo cày chứ không phải động vật. Theo phương thức này, sản
lượng lương thực gia tăng đáng kể so với thời đồ đồng. Cho đến thời kỳ thành lập
của những vương quốc liên minh Puyo, Koguryo và Chin, nông nghiệp là nguồn
cung cấp lương thực chính yếu của người Hàn. Điều này được thể hiện qua sự việc
các đời vua Puyõ phải chòu trách nhiệm về mùa màng thất bát, nếu hậu quả xảy ra -
họ có thể bò thoái vò hoặc bò giết. Việc trồng lúa nước đã trở nên phổ biến ở các nhà
nước Shamhan (Tam Hàn) và có thể các hồ chứa nước dẫn thủy nhập điền đã được
xây dựng. Ngoài việc trồng lúa, người Hàn còn trồng các loại ngũ cốc ở đồng khô.
Tương ứng với giai đoạn này của Hàn Quốc, ở Việt Nam vào thời Hùng Vương nghề
trồng lúa nước cũng đã từng bước trở thành một nghề chính và đóng vai trò chủ đạo
trong nền kinh tế, tạo ra nền “văn minh lúa nước” hay “nền văn minh sông Hồng”.
Với những nông cụ bằng sắt, ngành nông nghiệp trồng lúa nước đã phát triển thêm
một bước. Khi đã thuần dưỡng được cây lúa và đưa nghề trồng lúa lên vò trí trội hơn
trồng rau củ cũng là lúc cư dân Việt chuyển sang một hệ sinh thái chuyên biệt mang
7
tính nhân văn trên cái nền của hệ sinh thái phổ quát và nghề trồng vườn. Do đó,
khắp nơi trên đất Việt Nam hình thành một phức thể canh tác: ruộng/rẫy,
ruộng/nương, ruộng/vườn,… trong nghề trồng lúa. Việc sử dụng cày, bừa do trâu, bò
kéo đã nâng cao hiệu qủa làm đất, do vậy đã loại trừ dần phương pháp “hỏa canh”.
Người Việt cũng đã biết dùng phân để tăng thêm độ phì nhiêu của đất, tạo điều kiện
để thâm canh tăng vụ. Người Việt đã biết trồng lúa hai mùa, lúa hai mùa được gọi là
“lúa Giao Chỉ”. Theo kết quả nghiên cứu về nguồn gốc cây lúa dựa trên các vỏ trấu
được bảo lưu trong đồ gốm, Giáo sư Watabe Tadayo (Nhật Bản) kết luận, ở Đông
Nam Á tiền sử có hai trung tâm lúa: Vân Nam (Trung Quốc) và Assam (Ấn Độ), sau
đó nó được di chuyển theo hai hướng và dần dần thích nghi với môi trường xuống
đồng bằng vùng ngập nước, tạo ra giống lúa nước với phương thức gieo mạ rồi cấy;
lên vùng khô có cây lúa cạn với phương thức gieo thẳng. Lúa là loại cây trồng ưa
nước, do đó hình thức trồng lúa nước có thể có trước, còn việc đưa cây lúa cạn lên
vùng cao là có sau, bởi thuần dưỡng cây lúa nước trở thành cây lúa cạn phải mất

một thời gian lâu dài. Người ta cho rằng, có ba loại lúa: Indica, Joponica và Javanica
được phân bố như sau: Indica có tuổi xưa nhất và có mặt ở hầu khắp các vùng trồng
lúa, Japonica chủ yếu ở Bắc và Đông Á, còn Javanica và các biến thể của nó có
quan hệ chặt chẽ về mặt sinh học với các giống lúa nương, là chủng trẻ nhất có vai
trò quan trọng ở vùng hải đảo, kể cả Madagasca.
Từ những điều đã dẫn ra ở trên, chúng tôi đưa ra những điểm tương đồng và
khác biệt dưới đây trong ngành trồng trọt ở 2 dân tộc Hàn và Việt.
Điểm chung dễ nhận thấy trong kinh tế nông nghiệp truyền thống Hàn, Việt
chính là nơng nghiệp trồng lúa. Trồng lúa đóng vai trò chủ đạo trong kết cấu kinh tế
của người Việt và người Hàn. Nông nghiệp trồng lúa nước phát triển đòi hỏi công
tác thủy lợi, đắp đê phòng lụt, chống hạn được thực hiện. Nếu như người Hàn có hệ
thống các hồ chứa nước phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, ở người Việt cũng có hệ
thống kênh mương phục vụ cho việc tưới và tiêu nước. Việc trồng lúa nước ở người
Việt và người Hàn có tầm quan trọng số một, song lại phải thường xun đối phó với
2 tình trạng thiếu và thừa nước. Vì vậy, những biện pháp thủy lợi như be bờ, đắp
đập, khơi mương, tát nước, hồ chứa nước,… đã ra đời. Dù các hình thức thủy lợi của
hai dân tộc Việt và Hàn có đa dạng đến đâu, mẫu số chung vẫn là dựa trên nguyên
tắc dùng nước mưa trên mặt sông suối, ao hồ, hoàn toàn khác với hình thức tưới
nước ngầm lấy từ giếng của người Hán để phục vụ cho nông nghiệp khô vùng Trung
Nguyên.
Nông nghiệp truyền thống Việt và Hàn là đều gắn với kinh tế tiểu nông mà
gia đình là chủ thể. Các gia đình riêng lẻ đảm đương việc sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm trên cơ sở lao động gia đình hơn là chế độ nông trang như chế độ nông nô hay
8
đồn điền quy mô lớn ở phương Tây. Bên cạnh đó, người Việt và người Hàn luôn
sống trong sự lệ thuộc với tự nhiên, trước thiên nhiên bao la và huyền bí, con người
nhỏ bé run sợ, thần thánh hóa các lực lượng siêu nhiên, chỉ biết cầu khẩn nhờ trời,
nói theo kiểu người Việt: “Ơn trời mưa nắng phải thì”, “Người ta đi cấy lấy công.
Tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề. Trông trời, trông đất, trông mây. Trông mưa,
trông gió, trông ngày, trông đêm. Trông cho chân cứng đá mềm. Trời trong biển lặng

mới yên tấm lòng”. Ở người Hàn, với bằng chứng về tầm quan trọng của nông
nghiệp là các lễ hội nhằm cầu xin mùa màng phong nhiêu sau khi gieo mạ vào
tháng Năm và lễ mừng được mùa sau mùa gặt vào tháng Mười.
Còn một điều trùng hợp nữa trong nông nghiệp Việt, Hàn là ngoài trồng lúa
và hệ thống cây trồng phụ, cư dân Việt và Hàn còn phát hiện một hệ thống cây dược
liệu rất phong phú và quý giá để phòng bệnh và chữa bệnh. Hàng ngàn năm trôi
qua, con người của “nền văn minh thảo mộc” đã tìm ra một kho tàng cây thuốc,
những bài thuốc gia truyền, những cách chế biến, những phương pháp điều trò phù
hợp với con người và tự nhiên ở hai nước Việt Nam và Hàn Quốc. Chẳng hạn, ở Hàn
Quốc cây sâm được trồng ở khu vực Kaesõng nhằm mục đích xuất khẩu. Ở người
Việt cũng có rất nhiều cây thuốc quý có giá trò như sâm, tam thất. Ngoài trồng cây
nhân sâm, người Việt và người Hàn đều trồng cây thuốc lá và vải sợi bông. Chẳng
hạn, tại Hàn Quốc, cây thuốc lá được trồng vào khoảng thế kỷ XVII, sau đó cũng
được gieo trồng rộng khắp và một số được xuất khẩu sang Trung Quốc. Theo người
Hàn, lợi nhuận từ cây thuốc lá nhiều hơn từ lúa gạo, vì thế người Hàn đã giành một
phần đất đai màu mỡ nhất dành để trồng cây thuốc lá. Việc trồng bông để dệt vải
cũng được người Việt và người Hàn chú trọng nhiều hơn. Đối với người Việt và
người Hàn, việc trồng bông không chỉ để dùng trong gia đình, mà còn dùng để xuất
khẩu.
Bên cạnh những điểm giống nhau lónh vực trồng trọt của người Việt và người
Hàn vẫn có những điểm khác nhau. Ngay từ thời Bắc thuộc, ở những vùng thấp, do
chưa có máy móc để cày ruộng, người Việt đã biết dùng sức kéo của trâu bò thay
cho sức kéo của con người, với phương thức: “con trâu đi trước cái cày đi sau”. Nhờ
việc sử dụng trâu bò làm sức kéo trong nông nghiệp đã kéo theo diện tích trồng trọt
được mở rộng dần. Ở Việt Nam, các vua nhà Lý rất quan tâm đến việc bảo vệ trâu
bò. Dưới thời Lý, tội trộm cắp trâu bò bò trừng trò nặng. Tháng 2 năm 1117, đònh rõ
lệnh cấm giết trộm trâu, kẻ nào mổ trộm trâu bị phạt 80 trượng, đồ làm tang thất
phụ và bồi thường trâu, láng giềng mà không tố cáo, phạt 80 trượng [23; 442]. Lúc
này, các công trình thủy lợi cũng có điều kiện mở mang. Dọc các con sông lớn như
sông Hồng, sông Mã đã có đê phòng lụt. Nhiều kênh ngòi mương máng được đào

thêm hay nạo vét hàng năm. Giao Châu kí có ghi chép việc huyện Phong Khê (trung
9
tâm Cổ Loa) có đê phòng lụt. Hậu Hán thư có ghi lại sự việc “sửa sang kênh ngòi”
[23; 232]. Những biện pháp kỹ thuật nói trên được đưa vào sản xuất nông nghiệp
góp phần quan trọng vào việc tăng năng suất trong nông nghiệp. Theo một số tài
liệu cũ, “lúa mỗi năm được trồng hai lần về mùa hè (chiêm) và mùa đông (mùa) sản
xuất từ Giao Chỉ” [23; 232]. Năm 1248, vua Trần Thái Tông đặt cơ quan Hà đê có
phó/chánh sứ phụ trách việc sửa đắp đê ở các lộ, phủ, vua còn xuống chiếu đắp đê
Quai Vạc. Nhà nước còn chi phí một khoản tiền lớn vào việc đắp đê, nếu vào ruộng
của nông dân thì sẽ được bù tiến. Thời Trần, việc đắp đê ở bãi biển đã hình thành
hàng loạt điền trang. Khi có lũ lụt, cần hộ đê thì cả học sinh Quốc Tử Giám và con
đại thần, quý tộc cũng phải đi hộ đê. Có năm nước sông lên to, vua Trần Minh Tông
đích thân đi hộ đê. Việc xây dựng các công trình thủy nông cũng được nhà Trần đặc
biệt chú ý. Ở những vùng Thanh Hóa, Nghệ An là nơi có nhiều công trình thủy
nông. Năm 1231, vua Thái Tông sai hoạn quan Nguyễn Bang Cốc đào kênh từ
Thanh Hóa đến Diễn Châu (Nghệ An), sau được phong làm Phụ quốc Thái úy.
Tương ứng với giai đoạn này ở Việt Nam, tại Hàn Quốc dưới thời Silla (Tân La),
Cao Ly với việc tạo ra chiếc lưỡi cày từ thời các vương quốc liên minh là một bước
đột phá trong lao động, nhưng đến giai đoạn này người Hàn vẫn chỉ sử dụng sức kéo
của con người, mà không sử dụng sức kéo của trâu bò. Ngoài ra, người Hàn không
đắp đê ngăn lũ như người Việt, mà họ chỉ xây dựng các hồ chứa nước để dẫn thủy
nhập điền.
Một khác biệt lớn trong nông nghiệp của Việt Nam và Hàn Quốc – cho đến
thời kỳ xã hội lưỡng ban người nông dân Hàn mới biết đến kỹ thuật gieo mạ và cấy
lúa. Cho đến thế kỷ XVII, kỹ thuật nông nghiệp Hàn Quốc mới có những tiến bộ
đáng kể. Lúc này, người Hàn biết gieo lúa giống trên những luống mạ trước khi
được cấy ra một thửa ruộng nhỏ. Kế đó khi lúa đạt tới một mức độ thích hợp nào đó,
người ta nhổ lên rồi cấy lại trong ruộng lúa. Như vậy cũng một thửa đất có thể được
sử dụng cùng lúc cho vụ lúa mạch mùa đông. Kỹ thuật này cho phép gieo mạ trên
một lô đất nhất đònh trong khi các lô khác đang chờ mùa lúa mạch mùa đông chín

tới. Hệ thống mùa gối vụ như vậy cần nguồn cung cấp nước đầy đủ, do đó hồ nước
phục vụ tưới tiêu được xây dựng nhiều hơn. Cuối thế kỷ XVII, đã thống kê được
khoảng 6.000 hồ chứa nước, đánh dấu sự gia tăng sản lượng nông nghiệp đáng kể.
Trong khi đó, người nông dân Việt đã biết đến kỹ thuật trồng lúa ngay từ thời Hùng
Vương. Ở các di chỉ làng Vạc, làng Cả, các nhà khảo cổ học còn tìm thấy những hạt
thóc nằm trong nồi gốm, và vỏ trấu. Nhiều công cụ gặt lúa tìm thấy trong các di tích
văn hóa Đông Sơn như liềm, dao gặt, nhíp bằng đồng. Nhiều nhà khoa học còn căn
cứ vào cảnh giã gạo bằng chày tay trên mặt trống đồng để chứng minh cho nghề
trồng lúa nước lúc bấy giờ.
10
Ngoài ra còn phải kể đến một sự khác biệt lớn trong việc tìm ra giống lúa
nước của người Việt và người Hàn. Cây lúa nước của người Hàn không phải do
người Hàn tự thuần dưỡng, mà do quá trình tiếp xúc văn hóa giữa các dân tộc trong
vùng Đông Á. Mặt khác, theo các nhà nghiên cứu con đường truyền lúa nước vào
Hàn Quốc lại bao gồm hai nhánh: một nhánh từ biển Nhật Bản truyền lên, một
nhánh từ Thái Bình Dương truyền sang vào khoảng thế kỷ IV trước công nguyên
[1*]
.
Với Việt Nam, tuy không nằm trong khu vực xuất phát đầu tiên của giống lúa Oryza
satival, mà theo quan niệm hiện nay - các vùng rộng lớn từ Bắc Ấn Độ đến Tây
Nam Trung Quốc, nhưng ít nhất Việt Nam cũng thuộc vào khu vực thuần dưỡng và
phổ biến cây lúa thuộc loại Oryza japoni hay Oryza sinica. Ở Việt Nam, nền nông
nghiệp trồng lúa có mặt từ xa xưa, mà các dữ kiện khảo cổ học cho thấy là từ thời
hậu kỳ đá mới, thậm chí từ các nền văn hóa Hòa Bình, Bắc Sơn, cách ngày nay gần
mười ngàn năm [61; 89]. Như vậy, ở Hàn Quốc cây lúa nước xuất hiện muộn hơn so
với ở Việt Nam. Điều này có thể khẳng đònh, chủ nhân của người Hàn đã tiếp nhận
giống lúa của cư dân Đông Á, trong đó có cư dân Việt cổ.
Điểm khác biệt trong trồng trọt của người Việt và người Hàn – ngoài trồng
lúa tẻ, người Việt còn trồng lúa nếp. Dựa vào các kết quả nghiên cứu khảo cổ học,
cư dân Đơng Sơn trồng nhiều loại lúa tẻ và nếp, họ sử dụng gạo nếp nhiều trong các

dịp lễ hội, trong nghi lễ thờ cúng. Một số truyện cổ tích như chuyện “bánh chưng,
bánh dày”, các dấu tích những chiếc chõ gốm đồ xôi ở văn hóa Đông Sơn đã cho
thấy điều đó. Ở Hàn Quốc, trong các tài liệu nói về ngành trồng trọt của Hàn Quốc
không thấy đề cập đến cây lúa nếp của người Hàn.
Một điểm khác biệt nữa trong kỹ thuật trồng trọt của người Việt Nam và Hàn
Quốc đó là cho đến thế kỷ XVII, kỹ thuật trồng lúa khô của người Hàn mới được
chú trọng phát triển. Còn đối với người Việt, nhất là cư dân sống ở các vùng trung
du miền núi, kỹ thuật trồng lúa khô đã được họ đưa vào nông nghiệp ngay từ thời
Bắc thuộc. Bên cạnh đó, nhờ sự hiểu biết về thời tiết hai mùa khô, mưa và với nhu
cầu tăng vụ, người Việt đã đưa cây lúa lên cao, vào bãi, lên nương và nhờ mưa để
có đủ độ ẩm cho cây sinh trưởng.
Điểm khác biệt lớn nữa trong trồng trọt của người Việt và Hàn là người Việt
được coi là những cư dân bầu bí và rau củ. Việc trồng rau củ của người Việt nhằm
đáp ứng yêu cầu có thức ăn bột và rau quả bổ trợ cho cuộc sống chủ yếu dựa vào
thiên nhiên. Ở những vùng duyên hải Việt Nam, cư dân ven biển vẫn coi ăn khoai
1
1* Theo PGS. TS Nguyễn Văn Lòch – Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, cây lúa
được trồng ở Hàn Quốc là giống lúa hạt dài, dẻo, mà giống lúa này xuất phát từ Nhật Bản và
Ấn Độ..
11
lang với cá là bữa ăn truyền thống. Cây khoai lang trở thành lương thực chính, có
năng suất cao, vì rất phù hợp với đất pha cát:
“Trăng rằm đã tỏ lại tròn
Khoai lang đất cát đã ngon lại bùi”(Ca dao )
Ngoài khoai lang, người Việt còn trồng các loại khoai môn, khoai sọ, môn
riềng, môn nước, bầu bí… Trong khi đó, người Hàn không phải là cư dân nông
nghiệp bầu bí, mà trồng nhiều các loại rau ôn đới như cải củ, hành tây, cải bắp.
Ngoài các đặc điểm nêu trên, ở người Việt và người Hàn còn có một điểm
khác biệt nữa trong nông nghiệp đó là vào những dịp cày cấy, gặt hái, Nhà nước
đình hoãn mọi công dòch để tập trung sức lao động vào sản xuất nông nghiệp. Năm

1435, triều đình ra lệnh cho các quan đòa phương “hễ công việc gì có hại đến nghề
nông thì không được kinh động sức dân”.
1.1.1.2. Trong ngành chăn nuôi
Ngoài trồng trọt, cư dân Hàn, Việt còn chăn nuôi các loại gia súc, gia cầm.
Vào thời kỳ các vương quốc liên minh, ngoài trồng trọt, cư dân Triều Tiên cổ, còn
có nhiều hoạt động kinh tế khác. Ở Puyo người ta chăn nuôi trâu, ngựa, chó và có cả
tên của các chức quan thể thấy đi kèm. Ở miền Nam bán đảo cũng vậy, người ta
cũng chăn nuôi gia súc. Xương ngựa và trâu, bò đã khai quật được nơi gò vỏ sò Kim
Hải bối trủng. Nhiều loại gia cầm đuôi dài cũng phát hiện được tại vùng Tam Hàn.
Ở Việt Nam, nghề chăn nuôi cũng được phát triển thêm một bước ngay những thập
niên đầu công nguyên. Ngoài chăn nuôi các gia súc truyền thống như trâu, bò, lợn,
gà, chó, vòt, …, họ còn nuôi voi, ngựa để thồ hàng, lấy thòt,… Tại di chỉ làng Vạc đã
tìm thấy 13 chiếc răng trâu, bò, trong đó có 6 chiếc răng của trâu nhà [73; 298]. Trên
trống đồng Đông Sơn, còn khắc hình người dắt chó.
Điểm khác biệt lớn nhất trong chăn nuôi của người Việt và người Hàn là
người Việt đã biết thuần dưỡng, chăn nuôi voi để phục vụ trong chiến đấu chống
quân thù (từ cuộc khởi nghóa hai Bà Trưng đến cuộc khởi nghóa Tây Sơn đều thấy sự
có mặt của các thớt voi chiến). Bên cạnh đó, ở các vùng nông thôn, nhờ có những
bước đột phá trong trồng trọt, sản phẩm làm ra ngày một nhiều, người Việt đã dùng
một phần sản phẩm cho chăn nuôi gia súc, gia cầm. Mặc dù, chưa phải là hoạt động
kinh tế chính trong sinh hoạt kinh tế của người Việt, nhưng vò trí của chăn nuôi lại
rất quan trọng trong đời sống vật chất và đời sống tinh thần của họ. Chăn nuôi góp
phần cung cấp thòt, trứng, bổ sung nguồn thực phẩm hàng ngày nhằm cải thiện bữa
ăn cho gia đình. Ngoài ra, sản phẩm chăn nuôi còn được sử dụng trong các nghi lễ
tín ngưỡng, ma chay, cưới hỏi. Phương thức chăn nuôi ở người Việt vẫn còn khá đơn
12
giản, họ chưa chăn nuôi theo kiểu trang trại lớn như ở người Hàn, mà chỉ dừng lại ở
việc chăn nuôi để tận dụng nguồn thức ăn từ tự nhiên cũng như sản phẩm dư thừa
của trồng trọt và chăn nuôi theo phương thức thả rông, nên hiệu quả của chăn nuôi
còn thấp.

1.1.2. Tương đồng và dị biệt trong lĩnh vực ngư nghiệp
Ngay từ xa xưa, nghề khai thác thủy hải sản đã rất phát triển ở các cư dân trên
bán đảo Triều Tiên. Vào thời kỳ các vương quốc liên minh, người ta đã tìm thấy một
bức tranh khắc trên đá tại Pangudae khắc họa những chú cá voi, các sinh vật biển và
hoạt động trên biển của cư dân Triều Tiên cổ. Điều đó chứng tỏ hoạt động đánh cá
của những cư dân vùng duyên hải. Với ba mặt tiếp giáp biển, đây chính là nguồn
thực phẩm quan trọng của các tiểu quốc Okchõ (Ốc Tự) và Eastern Ye (Đông Uế)
nằm ở đồng bằng nhỏ hẹp của vùng duyên hải phía Đông. Tuy bán đảo Triều Tiên
có nhiều dòng sông, nhưng hoạt động đánh bắt cá nước ngọt của người Hàn lại
không phát triển. Trong các tài liệu viết về hoạt động kinh tế của người Hàn chỉ
thấy nhắc đến việc người Hàn đánh bắt cá trên biển và ăn cá biển, mà không thấy
nhắc đến việc đánh cá nước ngọt và ăn cá nước ngọt, bởi người Hàn quan niệm, cá
nước ngọt tanh mùi bùn. Mặt khác, dọc bờ biển quanh bán đảo có khoảng 3.000 hòn
đảo lớn nhỏ, hầu hết tập trung ở vùng bờ biển Tây Nam, nên nghề đánh bắt hải sản
rất phát triển. Trong số những ngư trường của Hàn Quốc phải kể đến ngư trường ở
đảo Cheju. Hòn đảo Cheju chính là nơi người Hàn đánh bắt cá với những trữ lượng
lớn.
Ở Việt Nam tuy có bờ biển tương đối dài, nhưng nghề khai thác hải sản của
người Việt không phát triển. Phần lớn các làng ven biển vốn là các làng làm nông
đã từ đồng bằng chuyển cư chưa thật lâu đời, họ thường kết hợp với đánh cá biển và
làm muối. Tầm khai thác hải sản chỉ là vùng cận duyên bằng những thuyền lưới thô
sơ. Sản phẩm đánh bắt được chỉ đáp ứng một cách hạn chế những nhu cầu bữa ăn
hàng ngày của các làng nông nghiệp ở không xa bờ biển, còn cư dân ở sâu trong
đồng bằng, nhất là các đô thò, từ xa xưa đã ít ăn cá biển. Điều đó chứng tỏ, trong
truyền thống, ngoài việc quai đê lấn biển, người Việt không mấy nhạy cảm và thành
thạo không gian biển. Họ không biết chế biến cá biển theo văn hóa biển (ăn sống),
mà nấu cá biển theo kiểu cá sông, cá đồng. Nói cách khác, trong truyền thống người
Việt hoàn toàn xoay lưng lại với biển. Ngoài đánh cá biển ở vùng cận duyên, người
Việt còn đánh cá nước ngọt ở sông, hồ, đầm ao và ruộng. Việc đánh bắt cá nước
ngọt được thực hiện vào những dịp nông nhàn để sử dụng những giờ không có việc

hoặc do những ngư dân nghèo khổ sống thường xuyên trên thuyền. Nhiều gia đình
người Việt còn chú trọng việc nuôi cá ở trong ao. Người Việt đồng bằng Bắc bộ đã
đặt việc nuôi cá ao lên mô hình VAC (vườn, ao, chuồng), thậm chí còn đưa việc ni
13
cá ao lên vò trí hàng đầu: “nhất canh trì, nhì canh viên, tam canh điền (nhất ni cá
ao, nhì làm vườn, thứ ba làm ruộng”).
1.1.3. Tương đồng và dị biệt trong lĩnh vực thủ công nghiệp.
Trong phức hợp nông nghiệp lúa nước ở người Việt và người Hàn thường có
nhiều nghề phụ, trong đó nghề quan trọng không thể thiếu là dệt vải. Đối với người
Hàn, nghề sản xuất ở gia đình (chủ yếu là dệt vải) được coi như là một phương tiện
làm cho gia đình nông dân tự túc về mặt kinh tế. Nghề sản xuất lụa, sợi gai dầu, vải
gai cổ truyền vẫn tiếp tục được phát triển cho đến ngày nay. Trong thời kỳ lưỡng
ban, với việc phát triển ngành trồng bông vải, ngành dệt vải cũng đã trở nên phổ
biến, không chỉ có nông dân mới dùng bông vải để dệt quần áo, mà nhà nước cũng
dùng bông vải để may quân phục và bông vải cũng còn là một mặt hàng ngoại
thương của Triều Tiên. Ở Triều Tiên, vào triều Lý người ta đã cho phép dùng vải
bông để nộp thuế thay thế cho các hình thức đóng thuế khác. Bên cạnh đó, nghề
gốm được người Hàn chú trọng phát triển, nhất là dưới thời Cao Ly, các sản phẩm
làm ra thường để trưng bày hơn là sử dụng trong cuộc sống thường ngày. Do đó, vẻ
đẹp của đồ gốm Hàn là sự mảnh mai, thanh tú. Chế tạo nông cụ cũng là một hoạt
động ở nông thôn Hàn. Nghề này do những người thợ rèn đảm nhiệm, có thể là xen
kẽ với các hoạt động nông nghiệp thông thường của họ.
Đối với người Việt, các nghề thủ công truyền thống như dệt vải, đúc đồng,
nung gốm, đục đá, khắc gỗ, sơn chạm, đan lát,… cũng được hình thành, phát triển và
đạt đến một đỉnh cao về kỹ năng và nghệ thuật. Nghề dệt xuất hiện sớm ở Việt
Nam. Vào thời Lý, nghề trồng dâu nuôi tằm đã khá phát triển. Làng Nghi Tàm là
làng chuyên trồng dâu nuôi tằm, dệt lụa. Dân chúng vẫn biết đến Tổ sư của nghề
này. Đó là công chúa Từ Hoa – con vua Lý Thái Tông đã dạy cho dân làng biết
trồng dâu, dệt lụa. Xưa kia, hầu như làng nào cũng có nghề dệt nhuộm. Ở Hà Nội,
những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, ở phố Hàng Đào có nơi mua vào và bán

ra các hàng dệt từ các làng dệt nổi tiếng như the La Cả, La Khê gấm Vạn Phúc.
Nghề gốm cũng là nghề xuất hiện sớm ở Việt Nam. Đến thời Lý, một số trung tâm
sản xuất gốm đã khá phát triển như Bát Tràng, Quả Cảm (Bắc Giang) chuyên làm
các đồ sành.
Ngoài ba nghề dệt, gốm và luyện kim người Việt và Hàn còn chú ý đến nghề
mộc. Đặc điểm chung trong nghề mộc của hai dân tộc là làm tủ áo, giường, hòm,
bàn ăn và nhiều mặt hàng gia dụng khác.
Các triều đại phong kiến Việt Nam và Hàn Quốc đều chú trọng việc khai thác
mỏ, nhất là khai thác vàng. Tại Việt Nam, công việc khai thác vàng bạc, châu ngọc
trong nhân dân cũng được đẩy mạnh, nhiều loại đồ trang sức bằng vàng, bạc, ngọc
14
được gia công tinh tế như vòng tay, nhẫn, trâm, lược, hoa tai,… chủ yếu nhằm phục
vụ cho nhu cầu của tầng lớp thống trò và quý tộc phương Bắc.
Bên cạnh những điểm chung dễ nhận thấy, giữa các nghề thủ công của người
Việt và người Hàn vẫn có những điểm khác biệt lớn, như ở Hàn Quốc những người
thợ có nghề đặc biệt đều được đăng ký vào những bảng phân công với tính cách là
quan tượng và được gắn với những bộ phận khác nhau tại Seoul hay tại chính quyền
đòa phương. Cũng giống như Cao Ly, vào đầu triều Lý công việc của các thợ thủ
công và công tượng được nhà nước che chở. Mặc dù được đăng ký trong các bảng
phân công của nhà nước, các quan tượng này cũng không phải dành hết thời gian và
sức lực để đáp ứng đòi hỏi của chính quyền. Họ chỉ bò thúc bách phục vụ chính
quyền trong một thời gian nào đó trong năm và chỉ làm việc theo yêu cầu của khách
hàng riêng họ. Những người thợ thủ công này được nhà nước bảo hộ, họ làm thành
những hộ độc lập và quản lý kinh tế của họ. Khác với các nghề thủ công của Hàn
Quốc, ở Việt Nam nổi lên hiện tượng là tất cả các lò thủ công này đều tồn tại ngay
trong làng. Nguồn sống chính phần lớn là do làm ruộng. Các nghề thủ công truyền
thống vẫn chỉ làm vào thời kỳ nông nhàn, “tháng ba ngày tám” do quy đònh của nhòp
điệu thời vụ canh tác, vì thế người nông dân nào cũng biết thêm một nghề thủ công,
từ đơn giản như đan lát, làm gốm thô sơ đến các nghề thủ công mỹ nghệ tinh xảo
nhằm thỏa mãn nhu cầu tự cấp, tự túc trong phạm vi gia đình, làng xóm. Cho nên,

tiểu thủ công nghiệp vẫn chưa tách khỏi nông nghiệp trở thành nghề sản xuất độc
lập.
Cần chú ý một điểm khác giữa các nghề thủ công của người Việt và người
Hàn là khi giành được độc lập, các triều đại phong kiến Việt Nam trực tiếp xây
dựng một số xưởng thủ công để phục vụ cho việc đúc tiền, chế tạo vũ khí, đóng
thuyền, xây dựng thành quách, chùa chiền,… gọi là các quan xưởng. Thợ thủ cơng ở
đây phải làm việc cưỡng bức theo chế độ binh dòch. Mặt khác, với một nghìn năm
Bắc thuộc, nhất là dưới thời nhà Ngô đô hộ, hàng nghìn thợ thủ công bò đưa sang
Trung Quốc để xây dựng kinh đô Kiến Nghiệp. Nhiều thợ thủ công bò trưng tập vào
lao động trong các xưởng thủ công của chính quyền đô hộ. Đây là nguyên nhân làm
chậm bước chuyên môn hóa để hình thành các làng và phường thủ công nghiệp, mặc
dù đã có sự tách rời ít nhiều của một bộ phận lao động trong xã hội là thợ thủ công
khỏi nông nghiệp. Sang thời kỳ độc lập, nghề thủ cơng có điều kiện để phát triển.
Về thủ công nghiệp của Nhà nước là các Cục bách công, Cục bách tác hay quan
xưởng. Công việc chủ yếu của lực lượng lao động ở đây là đúc tiền, chế tạo binh khí,
đóng chiến thuyền, làm đồ dùng, mũ áo vua, quan và một số sản phẩm phục vụ
hoàng cung và triều đình. Thợ làm việc trong các cục bách tác là những thợ giỏi; tuy
nhiên, họ phải tuân thủ các quy chế hết sức ngặt nghèo, từ thời gian làm việc đến
15
đảm bảo chất lượng. Ngoài ra, Nhà nước còn “cấm các thợ bách tác không được làm
đồ dùng theo kiểu Nhà nước, tự tiện bán cho dân gian [23; 488]. Điều này hoàn toàn
khác với ở Hàn Quốc, những người thợ thủ công Hàn được sử dụng chính vốn của họ
để sản xuất và bán các sản phẩm do họ làm ra. Chẳng hạn, những nhà may áo lông
thú và làm dao đã sản xuất và bán các khăn quàng cổ bằng lông thú và dao có trạm
trổ cho phụ nữ. Họ có quyền cạnh tranh với các thương nhân có môn bài. Ngoài ra, ở
Hàn Quốc, sản phẩm của các quan tượng được sản xuất dưới sự bảo hộ của nhà
nước. Các quan tượng làm việc để đáp ứng nhu cầu của khách hàng riêng của họ
vào những lúc họ có thể làm được (ngoài thời gian bắt buộc phải làm cho nhà nước),
nhưng sau này người ta thấy xuất hiện những quan tượng chỉ làm việc riêng của họ
mà thôi. Những người thợ thủ công này sản xuất các mặt hàng xa xỉ theo đơn đặt

hàng của khách hàng lưỡng ban, nhưng chủ yếu họ sản xuất các đồ gia dụng cho
quảng đại quần chúng và đưa ra bán ở chợ. Các mặt hàng thợ thủ công Hàn bán ra
chợ là các đồ dùng bằng đồng, mũ bằng lông đuôi ngựa và giày da. Thợ chế tạo đồ
dùng bằng gang được hưởng độc quyền trong việc chế tạo và bán nồi nấu ăn. Những
người thợ này tập trung tại An Thành phía Nam Seoul và tại Đònh Châu phía Bắc
Bình An đạo. Họ thuê lao động và bán các sản phẩm cho các thương nhân tại các
chợ phiên.
Một điểm khác biệt trong các nghề thủ công của người Việt và Hàn là ngay
từ đầu công nguyên, người Việt đã có một công nghệ đúc đồng, mà những di vật
thời văn minh Đông Sơn còn lại cho đến ngày nay như trống đồng, thạp đồng, thố,
rìu, qua đồng, mũi tên, lưỡi cày,… - những hiện vật tiêu biểu cho bàn tay tài hoa
tuyệt vời, thể hiện trí tuệ thông minh, sáng tạo của người Việt cổ. Điều này cũng
chứng tỏ người Việt cổ đã đạt đến một trình độ luyện kim cao so với các trung tâm
văn minh khác. Trong khi đó, tương ứng với giai đoạn này ở Việt Nam, người Triều
Tiên cổ chỉ mới biết chế tạo ra các lưỡi cày, lưỡi hái, khuôn đúc đồng, khuôn đúc
sắt, phục vụ cho sản xuất nông nghiệp.
Điểm khác biệt lớn nhất trong các nghề thủ công của hai dân tộc là các sản
phẩm gốm. Nói đến sản phẩm gốm của Hàn Quốc không thể không nhắc đến đồ
men ngọc bích của Cao Ly. Đồ men ngọc bích Cao Ly phát triển dưới ảnh hưởng của
đồ men Tống, nhưng được coi là vượt trội hơn. Trong khi đó, ở người Việt mới chỉ
sản xuất được những đồ gốm nửa sành, nửa sứ và tuy đã có đồ sành sứ tráng men,
nhưng chưa đạt đến trình độ cao như ở Hàn Quốc (người Trung Quốc đánh giá đồ
tráng men ngọc bích Cao Ly là đẹp nhất thế giới).
Một điểm khác biệt nữa giữa nghề thủ công của người Việt so với người Hàn
là sản xuất gạch ngói. Do nhu cầu xây dựng kinh đô Thăng Long cũng như các công
trình công cộng khác, nên từ thời Lý gạch, ngói đã được làm ra với khối lượng lớn.
16
Gạch thời Lý có loại hình tròn hay chữ nhật với những hoa văn dây cúc, hoa sen,
rồng uốn khúc. Ở Hàn Quốc, các tài liệu về các ngành thủ công không thấy nhắc
đến làm gạch ngói, mà chỉ chú trọng đến các đồ dùng bằng sắt và bằng gang.

Điểm khác biệt lớn trong các nghề thủ công của người Việt và người Hàn là
trong quá trình giao lưu văn hóa, kinh tế với nước ngoài trong một nghìn năm Bắc
thuộc, người Việt đã tiếp thu một số kỹ thuật của các nước, làm nảy sinh thêm một
số nghề thủ công mới như nghề làm giấy từ các nguyên liệu như rêu biển, lá cây, vỏ
cây, nhất là sản xuất giấy trầm hương có vân rất đẹp và có giá trò. Lái buôn Trung
Quốc đã mua giấy trầm hương ở Việt Nam đem về Trung Quốc dùng loại giấy gió.
Vua nhà Tấn (cuối thế kỷ III) đã sai các quan lại Trung Quốc dùng loại giấy gió để
chép lại các sách Xuân Thu và kinh truyện để dâng vua. Ở Hàn Quốc đến thời Cao
Ly nghề làm giấy vẫn chưa phát triển.
Một điểm khác biệt lớn nữa là ở người Việt cùng với dệt vải lụa, nghề
nhuộm, thêu tạo nên những màu sắc và đường nét tinh xảo trên vải. Bên cạnh màu
thâm và nâu được ưa chuộng trong y phục truyền thống Việt, nghề nhuộm cổ truyền
cũng đã tạo ra chất liệu tự nhiên các màu sắc vải, hoa văn phù hợp với lứa tuổi, giới
tính, nghề nghiệp. Nhiều loại tơ, lụa, the, vải được chọn làm đồ tiến cống của chính
quyền đô hộ ở Giao Châu dâng lên vua Đường. Sách An Nam chí nguyên (Quyển 1)
chép: vải lụa thì có sa sát liễu, sa bình văn tảo tâm, hợp sa, láng bong, ỷ, lăng. Tơ
đay, tơ chuối có thể kéo sợi làm vải mỏng như the lượt hợp với khí hậu nóng bức.
Điều này chứng tỏ người Việt có sự sáng tạo trong việc tạo ra các loại vải khác
nhau. Ở Hàn Quốc, trong các tư liệu viết về nghề dệt vải của người Hàn không thấy
nhắc đến công việc thêu thùa của nữ giới Hàn và cũng không thấy nhắc đến sự đa
dạng của các loại vải.
Ngoài ra, ở Việt Nam với nền kinh tế nông nghiệp phát triển, đời sống nhân
dân được ổn đònh đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của công thương
nghiệp. Các ngành nghề thủ công truyền thống như kéo tơ, dệt lụa, làm đồ gốm,…
tiếp tục được phục hồi và phát triển từ thời kỳ dựng nước đến nay. Một số làng nghề
thủ công ra đời và hoạt động sôi nổi như Bát Tràng, Thổ Hà, Hương Canh, Huê Cầu.
Nhiều câu ca dao đã nói lên những nghề thủ cơng truyền thống và lâu đời của người
Việt như:
“Ai về Đồng Tỉnh, Huê Cầu.
Đồng Tỉnh bán thuốc, Huê Cầu nhuộm thâm”.

Ở người Việt, các nghề thủ công thể hiện sự chuyên môn hóa của mỗi vùng
quê. Ở các thò trấn, thợ thủ công đã tổ chức lại thành những phường chuyên môn.
Thành Thăng Long thời Lê sơ có 36 phường, mỗi phường làm một nghề nhất đònh
17
(Yên Thái làm giấy, Nghi Tàm dệt vải, Hà Tân nung vôi,…). Ở Hàn Quốc, các nghề
thủ công rất phát triển ở triều đình, còn ở các đòa phương ít được chú trọng, không
thể hiện sự chuyên môn hóa của từng đòa phương.
*
* *
Nhìn chung, nền kinh tế truyền thống của người Việt và người Hàn nổi lên
một số đặc điểm sau:
Sản xuất nông nghiệp truyền thống của người Việt và người Hàn mang tính
chất độc canh, trồng lúa là chủ yếu, hoa màu và cây ăn quả chưa được chú ý nhiều.
Việc độc canh cây lúa rõ ràng chưa tận dụng hết khả năng đất đai và nguồn nhân
lực vốn rất dồi dào ở hai nước.
Nông nghiệp truyền thống của hai dân tộc Việt và Hàn vẫn là một nền sản xuất
nhỏ, mang tính tự cung, tự cấp, tự sản và tự tiêu, phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện
tự nhiên. Chính những điều đó đã hạn chế hiệu quả sản xuất cũng như sự đổi mới,
kìm hãm sự phát triển của hai dân tộc cho đến đầu thế kỷ XX
Bên cạnh những đặc điểm chung, ở người Hàn và người Việt vẫn có những
điểm khác nhau trong văn hóa đảm bảo đời sống. Chẳng hạn, các hoạt động kinh tế
phụ như các nghề thủ công, chăn nuôi,… trong truyền thống chưa tách khỏi nông
nghiệp, phụ thuộc vào nông nghiệp đã hạn chế rất nhiều tiềm năng lao động và kó
xảo của người Việt. Mặt khác, nền kinh tế của người Việt còn mang tính chất tự cấp,
tự túc. Nông sản và các sản phẩm thủ công, chăn nuôi hầu như chỉ đủ để cung cấp
cho sinh hoạt của làng xã. Ngoài ra, chính sách trọng nông của các triều đại phong
kiến đã hạn chế sự phát triển các nghề thủ công, làm cho các nghề thủ công của
người Việt kém phát triển hoặc mai một. Ở Hàn Quốc, các nghề thủ công được các
triều đại phong kiến về sau chú trọng phát triển nhiều hơn.
1.2. Những nét tương đồng và dò biệt trong lónh vực văn hóa vật thể

1.2.1. Ẩm thực
1.2.1.1. Quan niệm về ẩm thực của hai ddân tộc Việt, Hàn
Trong tiến trình lòch sử, theo đà phát triển kinh tế-xã hội, ăn uống trở thành
một thành tố trong tổng thể cấu trúc văn hóa, hình thành khẩu vò cá nhân và khẩu vò
cộng đồng, từ đó hình thành những nguyên lý, nguyên tắc, quy ước về ăn uống mà
giới nghiên cứu đònh danh là văn hóa ẩm thực. Dưới đây, chúng tôi tập trung giới
thiệu những nét đặc sắc trong văn hóa ẩm thực của người Hàn và người Việt.
18
Giữa 2 dân tộc Việt và Hàn có nhiều điểm tương đồng về văn hóa, trong đó
có văn hóa ẩm thực. Bên cạnhđđó, cũng có những nét khác biệt, tạo nên bản sắc độc
đáo của mỗi dân tộc. Tuy ăn uống trước tiên để tồn tại, để duy trì sự sống, từ đó tái
sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội, nhưng qua thời gian và nhu cầu của xã hội,
việc ăn uống đã được nâng lên một bươc: từ ăn để sống, ăn no đến ăn để thưởng
thức, việc ăn uống đã được xem như là một nét văn hóa không thể thiếu đối với mỗi
dân tộc.
Đối với người Hàn, ẩm thực đóng một vai trò quan trọng trong nền văn hóa lâu
đời và đặc sắc. Bữa ăn sáng thường có 6 món, bữa trưa -12 món và bữa tối gần 20
món. Mỗi món ăn có những nguyên liệu và phương pháp nấu riêng, không trùng lặp
với các bữa ăn. Theo GS. Lê Quang Thêm, một đặc trưng của văn hóa ẩm thực Hàn
là họ ưa ăn nóng, khẩu vò phải cay, thích mặn, dùng nhiều hương vò nóng. Thức ăn ở
người Hàn có nhiều rau củ, nhiều loại lá, rễ. Có thể nói bản sắc văn hóa ẩm thực
của người Hàn đậm chất sản phẩm núi rừng kết hợp với biển cả và du mục thể hiện
rất rõ trong thức ăn, cách ăn, thức uống, cách thức chế biến và khẩu vò của người
Hàn [24; 184].
Đặc điểm nổi bật của ẩm thực Hàn quốc là mỗi vùng, miền và mỗi mùa xuân,
hạ, thu, đông đều có những món ăn riêng, độc đáo. Nguyên liệu món ăn đa dạng;
nhiều màu sắc. Vì thế, việc chế biến, trình bày cũng lắm công phu, tinh tế, mang
tính thẩm mỹ cao. Dường như họ “ăn bằng mắt”. Rất nhiều món, nhiều kiểu chén
đóa, nhiều sắc màu được bày trên bàn ăn, nhưng mỗi thứ chỉ một ít. Hầu hết các món
ăn Hàn Quốc đều sử dụng gia vò như: xì dầu, hành, tỏi, muối, dầu ăn, dầu vừng, bột

tiêu, tương ớt, ớt khô... Kim chi và tương đậu là hai món không thể thiếu trong bữa
cơm truyền thống của người Hàn.

1.2.1.2. So sánh văn hóa ẩm thực của dân tộc Hàn và dân tộc Việt
Quan niệm ăn uống của người Việt khác với quan niệm của người phương Tây.
Người phương Tây quan niệm ăn uống thể hiện triết lý: Ăn để mà sống, không phải
sống để để mà ăn. Chính vì vậy khẩu vò của họ không thay đổi, họ có chung một
khẩu vò, ăn những đồ ăn sẵn: đồ hộp, xúc xích, khẩu vò riêng thành khẩu vò chung và
đã hình thành nên những quán fastfood, quán ăn KFC. Người Việt quan niệm “có
thực mới vực được đạo”. Như vậy miếng ăn đã bắt mạch văn hóa, nó quan trọng đến
mức như một đấng tối cao, toàn năng, đến trời cũng không có quyền xâm phạm
“Trời đánh tránh miếng ăn”.
Người Việt phân biệt ba nội dung: ăn cốt để no (chém to kho mặn), ăn có nhân
cách (đói cho sạch, rách cho thơm), ăn có văn hóa: ăn trong giá trò tự thân của nó, ăn
mà không có người thưởng thức, không trong không gian văn hóa thì sẽ không ngon.
19
Như vậy, theo người Việt, ý niệm ăn tồn tại trong mọi sinh hoạt vật chất và tinh thần
của con người, hay nói cách khác ăn là hoạt động của cuộc sống con người.
Đặc trưng của nền văn hóa ẩm thực Việt mang dấu ấn của nền văn minh thực
vật. Điều đó thể hiện ở cơ cấu bữa ăn gồm các thành phần chính: gạo, rau (quả) và
một phần cá tôm, thòt, trong đó bữa ăn gọi là bữa cơm, ăn cơm là chính (người sống
vì gạo, cá bạo vì nước), sau đó là rau (cơm không rau như nhà giàu chết không kèn
trống). Do điều kiện tự nhiên ở Việt Nam có nhiều sông suối, nên người Việt thường
ăn các loại động vật nước ngọt như cá, tôm…. Người Việt thường tận dụng hết các
loại rau củ quả để làm những món ăn dân dã, nhưng không thể thiếu trong mỗi bữa
ăn. Đó là các loại rau muối chua, rau luộc, rau trộn, rau sống… Ở người Hàn cũng
mang những nét tương đồng như thế. Người Việt có câu: “Tương cà là gia bản”, ở
người Hàn cũng có câu: “nhà nhà làm kim chi”
(*
2

)
.
Trong tiếng Hàn có từ hae được dùng để gọi tên các loại thức ăn lên men như
rau củ lên men, hải sản lên men, đậu tương lên men… và các món này không thể
thiếu trong mỗi bữa ăn đối với người Hàn [54;44].
Kim chi có thể được làm từ nhiều loại rau khác nhau, trong đó nhiều nhất là cải
thảo và củ cải, ngồi ra còn có các loại kim chi hành, kim chi dưa chuột…. Các loại
rau được ngâm nước muối và rửa sạch. Sau ráo nước, họ trộn gia vị vào cải thảo và củ
cải. Kimchi cung cấp ít calo và cholesterol, nhưng giàu chất xơ và nhiều vitamin hơn
cả táo. Vì vậy, người Hàn có câu: "ăn kim chi mỗi ngày khỏi cần đến thầy thuốc ".
Văn hóa ẩm thực ở người Việt còn mang đậm dấu ấn của văn hóa làng, được
biểu hiện cụ thể ở sự cộng cảm, tính cộng đồng và tình nghóa trong ăn uống. Đó là
triết lý cặp đôi - đôi đũa như vợ chồng – “chồng thấp vợ cao như đôi đũa lệch so sao
cho vừa”; tục chia phần, chia sẻ đồ ăn, cách chế biến món ăn đồ uống có sự pha chế
hỗn hợp các thành phần để tạo nên món ăn - ruột bầu nấu với tép khô; tính cộng
cảm - ăn chung mâm, chấm chung bát nước chấm.
Ở người Hàn cũng có văn hóa dùng thìa và đũa, song khác với người Việt ở
chỗ, mỗi người một bát nước chấm và bát canh riêng biệt, cho nên họ dùng cả thìa
và đũa trong khi ăn, còn người Việt không dùng thìa riêng, mà chỉ dùng một cái thìa
để múc canh hoặc mắm. Nếu người Việt ăn chung mâm, người Hàn lại ăn chung
bàn. Mọi món ăn được dùng khay để bưng ra, nhưng lại được sắp lên bàn chứ không
sắp vào mâm như người Việt.
2
* Vào khoảng thế kỉ XIX, nguyên liệu chủ yếu để làm kim chi là rau bắp cải Trung Quốc, củ
cải, dưa leo và ớt bột. Những thứ đó được ngâm vào nước muối có pha thêm chút rượu. Nồng
độ muối, rượu và các loại gia vò cay nóng, lá thơm được gia giảm tính toán một cách thích hợp
sẽ quyết đònh màu sắc, hương vò của kim chi. Có tài liệu nghiên cứu cho biết, ngay từ thời kỳ
Choson (1392 - 1910), đã có tới hơn 80 loại kim chi [54; 444]..
20
Văn hóa ẩm thực người Việt thể hiện rõ nét triết lý phương Đông, đề cao sự

hòa hợp và cân bằng âm dương, thể hiện rõ nét ở tập quán dùng gia vò rất hài hòa
và ứng hợp chuẩn “Con gà cục tác lá chanh, con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi , con
chó khóc đứng khóc ngồi, bà ơi đi chợ mua tôi củ riềng…”. Việc sử dụng các món ăn
đồ uống như một vò thuốc cho cơ thể - sự cân bằng giữa con người – môi trường tự
nhiên thông qua ăn uống, sử dụng nguyên liệu chế biến và thưởng thức theo từng
vùng khí hậu, từng thời điểm và theo mùa.
Ở người Hàn cũng vậy, các món ăn dùng rất nhiều ớt và ớt bột làm nguyên
liệu gia giảm. Hầu như, tất cả các món ăn của họ đều có vò cay của ớt. Người Hàn
quan niệm ăn ớt vào mùa đông sẽ nóng người lên; ăn vào mùa hè, ớt nóng sẽ làm
mồ hôi chảy ra, có tác dụng giải nhiệt trong cơ thể.
Ở người Việt, xuất phát từ nền văn minh nông nghiệp, đã hình thành nên một
nét văn hóa ẩm thực đặc trưng: bữa ăn chính và không thể thiếu của người Việt là
cơm tẻ, được sử dụng hàng ngày, không bao giờ chán.
Đối với người Hàn, bữa ăn của họ cũng có những nét tương đồng so với người
Việt. Đó là bữa ăn thường có cơm (米 - mễ) là món chính (正 食 - chính thực), rau,
các loại dưa và canh là các món ăn kèm. Đối với người Hàn, gạo là thứ lương thực
tốt nhất và bán được giá, nên nông dân thường bán gạo để mua lại các loại ngũ cốc
rẻ hơn để dùng như lúa mì, kê. Người Việt cũng vậy, nền kinh tế thò trường và do
nhu cầu của xã hội những sản phẩm đặc sản làm ra họ không để lại dùng, mà bán đi
để mua những loại rẻ hơn và được nhiều hơn.
Người Việt cũng như người Hàn đều coi cơm là món chính trong bữa ăn. Đối
với người Việt, trong cơ cấu bữa ăn bộc lộ rất rõ dấu ấn của truyền thống văn hóa
nông nghiệp lúa nước. Người Hàn có câu:“một hột cơm đuổi được mười con quỷ”,
tương đương với câu nói của người Việt “cơm tẻ là mẹ ruột”, “lòng người sinh ra từ
hũ gạo” tương đương với “có thực mới vực được đạo”; “ ăn cơm chín nói lời sống”
tương đương với “người nói năng bộp chộp”; “gã chết đói trước bát cơm” tương
đương “người lười há miệng chờ sung”, “ôm cây đợi thỏ…” [30].
Cũng như người Việt, ngoài món chính là cơm, còn rất nhiều các món ăn
khác, người Hàn gọi là món ăn kèm. Ngoài cơm, món ăn Hàn không giống với các
món ăn của các nước châu Á khác như Trung Quốc, Nhật Bản…. Người Hàn sử dụng

một số loại gia vò đặc biệt, nhờ thế mà có sự phân biệt giữa món ăn của người Hàn
với một số nước láng giềng. Việc sử dụng phụ gia như tỏi, tiêu đỏ, hành xanh, dầu
mè, nước tương xì dầu làm cho món ăn Hàn có mùi thơm lừng và có thể nhận ra một
cách dễ dàng. Tuy nhiên, họ lại không thích hoặc ít sử dụng rau thơm trong chế biến
và trong các bữa ăn như người Việt. Người Việt và người Hàn đều có chung một món
ăn khối khẩu: - thịt chó.
21
Ngoài món kim chi, món đậu tương (doenjang) với khả năng chống ung thư
cũng thu hút được nhiều sự quan tâm của các nhà dinh dưỡng Hàn Quốc ngày nay.
Người Hàn thường làm món đậu tương ngay tại gia đình. Đặc điểm này cũng giống
với nhiều người Việt ở nhiều đòa phương khác nhau. Đậu tương cũng được sử dụng
hàng ngày trong mỗi bữa ăn của người Việt. Thậm chí, đậu tương được chế biến làm
nhiều món ăn khác nhau như: tương, đậu hũ, đậu khuôn, sữa đậu…
Người Hàn ăn ba bữa một ngày, mặc dù các bữa sáng, trưa và tối chỉ khác
nhau về số lượng các món thức ăn gọi là panchan trong mỗi bữa ăn. Trong mỗi bữa
ăn người Hàn thường chuẩn bò chừng 6 món cho bữa sáng, 12 món cho bữa trưa và
gần 20 món cho bữa tối. Mỗi bữa ăn thông thường có cơm, một món dưa chua (kim
chi ) và canh. Điểm này khác với người Việt, thông thường người Việt cũng ăn từ 2
– 3 bữa. Trong bữa cơm có cơm, canh, cá hoặc thòt (chất đạm) và đặc biệt không thể
thiếu là món rau.
Rau của người Việt rất phong phú và được tận dụng làm thức ăn rất nhiều như
rau khoai, rau muống, cải….các loại củ được trồng ở các vùng nông thơn. Trong bữa
ăn của người Việt thường không nhiều món như người Hàn. Mâm cơm có thể có từ 2
– 3 món hoặc nhiều hơn thì 4 – 5 món. Cơ cấu mỗi bữa ăn cũng khác. Bữa trưa của
người Việt là bữa chính, phải ăn no để có sức khỏe làm việc. Bữa sáng - ăn nhẹ, bữa
tối - ăn ít hơn bữa trưa
(* 3)
.
Về bữa ăn thường ngày của người Hàn và người Việt cũng có những điểm
giống và khác nhau. người Hàn, món ăn kèm rất phong phú, đa dạng, nhưng bữa

ăn hàng ngày của họ lại chỉ có cơm, kim chi, canh, rau, cá nướng, thòt. Trong bữa ăn
Hàn có một sự tương phản rất rõ: cơm nhạt phải đi với món mặn, rau trộn nguội phải
đi kèm với canh nóng.
Ở người Việt điều này cũng mang những nét đặc trưng riêng, bữa ăn thường
gắn liền với triết lý âm dương. Trong bữa ăn phải có âm, có dương, thòt là dương, rau
củ là âm. Tính hài hòa giữa trời và đất thể hiện rất rõ trong bữa ăn hàng ngày. Đặc
biệt bữa ăn không thể thiếu rau xanh, cho dù bữa cơm có thiếu thòt cá, nhưng món
rau, canh thì không thể thiếu. Do truyền thống trọng nông, nên trong bữa ăn của
người Việt yếu tố cây nhà lá vườn vẫn rất đậm nét. Có thể vài ba mớ rau cũng có
một bữa ăn rất ngon, rau được chế biến rất nhiều cách, rau luộc, rau xào, rau trộn,
rau sống… người Hàn rau được chế biến thành món kim chi rất nổi tiếng nó, được
coi là món ăn khơng thể thiếu trong mỗi bữa ăn của người Hàn.
1.2.1.3. Ứng xử của người Việt và người Hàn qua văn hóa ẩm thực.
3
* Thói quen ăn nhiều vào bữa trưa và ăn ít hoặc không ăn vào bữa sáng của người Việt đã
thay đổi trong giai đoạn hiện nay. Bữa sáng đã được duy trì nhiều hơn, đặc biệt là ở thành phố
có điều kiện kinh tế.
22
Người Việt quan niệm: “lời chào cao hơn mâm cỗ. Bữa ăn của người Việt
thường bắt đầu bằng lời mời cơm: “ mời gia đình mời cơm, mời ông bà bố mẹ anh
chò mời cơm, hay mời bác xơi cơm…”. Ở người Hàn cũng vậy, lời chào hỏi của người
Hàn đó là “Bab mok kot soyo ? (“Anh đã ăn cơm chưa ?”). Khi được hỏi câu này,
người khách phải nói thực. Nếu đã ăn rồi thì thôi, còn nếu chưa ăn, chủ nhà sẽ dọn
cơm cho khách.
Về cách cư xử bên bàn ăn của người Việt và người Hàn cũng có những tương
đồng. Trong xã hội Hàn Quốc truyền thống, những người đàn ông trong nhà bao giờ
cũng được quyền ăn trước, còn phụ nữ phải chờ xem có cần lấy thêm thức ăn cho họ
nữa không. Sau khi đàn ông ăn xong, thì trẻ con và phụ nữ mới được ăn. Đôi khi trẻ
con và phụ nữ phải ăn trong bếp, đàn ông ăn ở phòng khách. Tuy nhiên, các gia đình
Hàn hơm nay cả nhà ngồi ăn chung với nhau.

Bữa ăn tại nhà là thời điểm tụ tập cả gia đình. Theo truyền thống, khi người
lớn tuổi nhất trong nhà cầm đũa bắt đầu bữa ăn, những người khác mới lần lượt làm
theo. Khi ăn phải ngồi ngay ngắn, nhai từ tốn, không nhấc bát lên khỏi bàn. Trên
bàn ăn, cơm và canh được đặt lên trước, canh đặt bên phải cơm, thức ăn khác và
món chấm được đặt ở giữa. Món ăn nóng và thòt ở bên phải, món ăn lạnh được làm
từ rau được đặt bên trái. Đũa, thìa đặt bên phải bàn.
Hiện tượng này cũng giống như xã hội Việt truyền thống, khi mà tư tưởng
trọng nam khinh nữ còn nặng nề. Phụ nữ không được ngồi ăn chung với nam giới và
ngồi cùng bàn với khách. Ngày nay, tư tưởng này ở người Việtkhông còn. Cả gia
đình quây quần trong bữa ăn, tạo ra một không khí ấm áp.
Ở người Hàn không ai được phép ăn trước người lớn tuổi nhất khi mà người
đó chưa động đũa. Mặc dù người Hàn ít khi hoặc không nói chuyện trong bữa ăn,
nhưng trong phòng ăn lại ít khi được yên tónh. Đó là thói quen thưởng thức bữa ăn
của người Hàn có đặc điểm rất kì. Người ta ồ à để thể hiện sự hài lòng, húp canh
hay húp mỳ soàm soạp đã trở thành một thói quen. Cũng như vậy, người Hàn cao
tuổi thường ợ to sau bữa ăn để thể hiện sự hài lòng.
Đối với người Việt, trong một bữa ăn thường hay nói chuyện với nhau, chuyện
gia đình, xã hội… tạo ra một không khí ấm cúng trong bữa ăn. Nếu như bữa ăn mà
không có tiếng nói thì thật là buồn như đưa đám. Người Việt khác người Hàn ở chỗ:
họ không ồ à để khen món ăn ngon cũng không ợ to để biểu thò bữa ăn ngon mà
thường rất tế nhò. Sau bữa ăn mọi người vui vẻ hài lòng với bữa ăn và thường có đôi
lời khen (có khơng ít trường hợp là khen xã giao): “Bữa ăn ngon quá” hay “món này
ngon và hấp dẫn quá…” - như một lời động viên kòp thời cho người chuẩn bò món ăn
thêm mát lòng.
Về việc đãi khách ở người Việt và người Hàn cũng có nhiều điểm lý thú.
Người Việt có câu: “khách đến nhà không gà thì gỏi, nhòn miệng đãi khách” ,để tỏ ý
23
chủ nhà rất hiếu khách. Trong bữa ăn mời khách cả người Hàn và người Việt đều
khiêm tốn nói: “Đây là bữa cơm rau”, “có gì ăn nấy”, hay “cây nhà lá vườn” để tạo
cho khách luôn được tự nhiên trong bữa ăn (khơng phải áy náy liệu mình đã gây tốn

kém cho chủ nhà hay khơng).
Khách khứa luôn được tiếp đãi hào phóng trong các ngôi nhà Hàn tộc. Người
ta luôn nấu những món thật cao sang, chuyện đắt rẻ không thành vấn đề. Người Hàn
rất lấy làm vinh hạnh khi làm cho khách được hài lòng. Các bà chủ nhà thường thích
thú khi thấy các vò khách khen ngợi món ăn mình nấu và sự tiện nghi của ngôi nhà
mình. Trước bữa ăn người ta luôn mời thức uống ngoài phòng khách. Sau đó khách
được mời vào dùng bữa trong phòng ăn của gia đình. Những ai được mời dùng cơm
trong phòng ăn của gia đình đều mặc nhiên hiểu rằng họ được đón tiếp thân mật như
người nhà.
Người Việt và người Hàn đều có điểm giống nhau ở việc tiếp đãi khách. Họ
đều muốn vò khách của mình hài lòng khi đến thăm bằng cách mời cơm. Người Việt
có câu: “ăn trông nồi ngồi trông hướng”. Khách được mời ngồi đối diện với chủ ở vò
trí trung tâm. Khi tiếp khách, chủ nhà thường đon đả gắp các món ăn cho khách.
Người khách thường đáp lại tình cảm của chủ nhà bằng sự tế nhò. Khi ăn không nên
ăn chậm quá làm người khác phải chờ, cũng không nên ăn quá nhanh để không
mang tiếng tham ăn. Không nên ăn hết thức ăn trong đóa, không được ăn thừa thức
ăn trong bát… Người Hàn cũng vậy, khi ăn khách cũng thường để lại một chút thức
ăn, coi đó như là sự đầy đủ của chủ nhà đối với khách. Người Hàn rất vui khi khách
xin thêm thức ăn, họ coi đó là sự may mắn vì món ăn được nấu rất ngon.
1.2.1.4. Những nét đặc trưng cơ bản của văn hóa ẩm thực Hàn Quốc.
Về đồ ăn, tuy ngũ cốc chính cũng là cơm gạo, nhưng khác với người Việt, ở
người Hàn vai trò của các loại ngũ cốc khác cũng rất lớn. Rất nhiều loại bánh, món
ăn… được làm từ kê, cao lương, mì mạch. Do biển bao quanh 3 mặt, nên người Hàn
ăn nhiều hải sản, nhất là các món gỏi (cá sống). Cá sông được ít được sử dụng. Các
món ăn của người Hàn thường có các vị chua và cay, nhất là món kim chi. Kim chi có
tác dụng kích thích vò giác và giúp tiêu hóa tốt. Cay vì dùng nhiều gia vò ớt, tỏi,
hành… cho phù hợp với xứ lạnh. Ớt không chỉ được dùng nhiều trong bữa ăn mà còn
được dùng đề làm kim chi, vì thế nhu cầu về ớt là rất lớn.
Con gái, đặc biệt là con dâu Hàn, đều phải học nấu ăn. Sau khi về nhà chồng,
các cô dâu đều được mẹ chồng huấn luyện rất kỹ để nấu món ăn hợp khẩu vò mọi

người trong gia đình. Người con dâu biết nấu ăn ngon được xem là người khéo tay,
đảm đang.
24
Tính tôn ty thể hiện rất rõ trong việc bố trí bàn ăn và nghi thức bữa ăn truyền
thống. Ở Hàn Quốc người già luôn được kính trọng nhất. Trong bữa ăn người Hàn
cũng ít nói chuyện tạo nên sự trang nghiêm.
1.2.1.5. Về đồ uống của người Hàn và người Việt
Cả người Hàn và người Việt đều sử dụng rượu trong các bữa tiệc vui, bữa ăn
thường ngày và những ngày lễ tết. Việc sử dụng rượu trong văn hóa ẩm thực của
người Hàn và người Việt cũng có nhữngđđiểm tương đồng và dò biệt. Người Việt
thường thích rượu gạo (rượu được chưng cất từ gạo), bởi đây là loại rượu ngon, đậm
đà và dễ uống. Người Hàn thường dùng rượu soju và một số loại rượu khác. Theo
thống kê năm 1997, bình quân một người Hàn uống hết 120 chai rượu soju, 12 bình
rượu makkeolli, 1 chai wisky và 204 lon bia[58; 74],
Việc uống rượu ở người Hàn có những quy đònh khắt khe. Trước hết, phải rót
một ly cho người cùng uống trước khi rót cho mình . Người có đòa vò thấp hơn phải
mời người có đòa vò cao hơn; nếu đòa vò và tuổi tác lệch nhau quá xa, phải nâng ly
bằng hai tay, hoặc tay phải cầm ly, tay trái đỡ phía dưới tay phải. Người được nhận
ly rượu đó cũng phải đáp trả lại tương tự như vậy. Khi ly đã sang tay người nhận,
người mời sẽ rót rượu vào ly. Khi người đó uống xong ly của mình, theo tục lệ, cái ly
sẽ được chuyển sang người khác. Những người uống rượu nhất thiết không được rót
rượu vào ly còn chưa uống hết.
Người Việt thường nói: “nam vô tửu như kì vô phong”, “tửu bất khả ép, ép bất
khả tư ø. Với người Hàn, không uống cũng không sao, nhưng nếu sau khi đã uống một
ly mà lại từ chối uống tiếp thì bò coi là người không thích giao thiệp. Đối tượng uống
rượu ở người Hàn cũng giống như người Việt, có nhiều độ tuổi thích uống và cả nam
và nữ đều có thể uống, thậm chí có người còn cho rằng - đất nước Hàn Quốc là một
“xã hội khuyến rượu”[58; 74]. Người Việt gọi những người hay rượu là “sâu rượu”,
người Hàn gọi những người đó là “cá voi rượu”.
Ở người Việt văn hóa “ẩm” đã trở thành truyền thống, họ tạo ra nhiều loại đồ

uống, trong đó rượu là một đặc trưng. Rượu của người Việt có nhiều loại, rượu được
chưng cất từ gạo tẻ, rượu nếp - chưng cất từ gạo nếp, rượu thuốc được ngâm từ với
các vò thuốc bắc. Ngoài ra người Việt còn tạo ra nhiều loại rượu bổ khác từ thực vật
và động vật, như rượu chuối hột, rượu rắn, rượu tắc kè, rượu cá ngựa…
Người Việt, người Hàn đều có chung cách chúc tụng trong tiệc rượu. Ở người
Hàn, mở đầu bữa tiệc, một người cầm ly đứng dậy nêu lý do, rồi đề nghị: Kan pe !
(“cạn chén” - 乾 杯 ). Người Việt cũng chúc tụng nhau, đề nghị cạn chén và rất
vui khi mọi người uống hết rượu trong chén của mình.
25

×