Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

tiểu luận phong cách học tiếng Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (86.1 KB, 9 trang )

I. Phần mở đầu
Đứng về mặt t duy thể loại mà xét, giọng điệu trong thơ khác với giọng
điệu trong tiểu thuyết. Nếu thơ ca là tiếng nói độc bạch thì tiếng nói trong
văn xuôi đa dạng hơn. Đó là thứ giọng điệu mà theo G.N Pospelov, mang tính
khách quan, lạnh lùng. Bản chất của thể loại tự sự đòi hỏi nhà văn phải có cái
nhìn tỉnh táo hơn về đời sống chứ không quá nghiêng về tự thuật tâm trạng
nh thể trữ tình. Tìm hiểu giọng điệu văn xuôi, nhất là tiểu thuyết, cần chú ý
giọng điệu của ngời trần thuật và giọng điệu nhân vật. Khi nghiên cứu về tiểu
thuyết sử thi Việt Nam giai đoạn 1945-1975, đa phần các nhà nghiên cứu đều
nhất trí coi tiểu thuyết giai đoạn này là loại tiểu thuyết đơn thanh. T duy nghệ
thuật sử thi đã chi phối một cách sâu sắc đến cách tổ chức và thể hiện giọng
điệu của các nhà văn. Cảm hứng hùng ca của thời đại gắn chặt và thống nhất
với giọng điệu chủ đạo của tiểu thuyết sử thi 1945-1975. Trong phạm vi bài
viết, bớc đầu em xin đợc khảo sát các sắc thái giọng điệu trong tiểu thuyết sử
thi Việt Nam 1945-1975.
II. Phần nội dung
Là tiểu thuyết đơn thanh nên trong tiểu thuyết sử thi Việt Nam giai đoạn
1945-1975 không có hiện tợng nhiều bè nh trong tiểu thuyết đa thanh mà chỉ
có các sắc điệu làm nổi bật chủ âm của thời đại. Nói cách khác , bên cạnh
giọng điệu chính vẫn có những giọng điệu khác nhng các giọng này không
bình đẳng, không mang tính đối thoại mà chủ yếu bổ sung cho nhau, làm
đẹp nhau và tôn thêm giọng điệu chủ yếu là giọng điệu hùng ca.
Vì giữa giọng điệu ngời trần thuật và nhân vật có sự thống nhất nên
trong tiểu thuyết sử thi 1945-1975 rất ít giọng điệu giễu nhại. Ngôn ngữ suồng
sã cũng theo đó trở nên hiếm hoi. Thực ra trong tiểu thuyết sử thi vẫn có
đất cho ngôn ngữ thông tục (chủ yếu đợc thể hiện qua lời nhân vật) nhng nó
không phản ánh quan điểm của nhân vật mà là quan điểm của ngời kể chuyện
đợc ngụy trang bằng giọng của nhân vật mà thôi. Sự hoà hợp giữa cái tôi và
cái ta là một đặc điểm quan trọng của tiểu thuyết sử thi 1945-1975. Cái nhìn
nghệ thuật ấy tất yếu có quan hệ sâu sắc đến nghệ thuật thể hện giọng điệu của
nhà văn.


Chủ âm của tiểu thuyết sử thi 1945-1975, nh đã nói, là giọng điệu anh
hùng ca. Tuy nhiên trên cái giọng nền ấy, vẫn xuất hiện nhiều giọng điệu
khác. Đây là sự đa dạng nhng lại thống nhất trong giọng điệu tiểu thuyết sử thi
giai đoạn này. Đọc tiểu thuyết sử thi 1945-1975, tôi muốn nói đến những
giọng điệu cơ bản sau:
1. Giọng điệu hào hùng, sảng khoái.
Có thể nói ở mức độ này, mức độ khác, mỗi một tiểu thuyết giai đoạn
1945-1975 là một bài ca về cuộc sống vĩ đại của dân tộc. Tâm thế của nhà văn
là tâm thế của ngời ca sĩ hát lên những khúc ca đẹp nhất dâng tặng quê hơng,
xứ sở mình. Để ngợi ca đất nớc chân thật hơn, say sa hơn, ai cũng nỗ lực hết
mình nh câu thơ của Chế Lan Viên: Vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến luỹ .
chất giọng hào hùng thể hiện trớc hết qua nhan đề tác phẩm: Đất nớc đứng
lên, Mặt trận trên cao, Vỡ bờ, Sóng gầm, Sống mãi với thủ đô, vùng trời...Nh
vậy các nhà văn đều muốn hớng tới những không gian rộng lớn, hoặc là đầy
nóng bỏng, hoặc là trên cao. Chỉ không gian ấy, con ngời mới dễ vơn thành
Phù Đổng, Thạch Sanh của thờ đại mới. Để tạo nên chất giọng này, nhất thiết
nhà văn phải biết tạo cảm hứng say mê, truyền sang cho nhân vật niềm say mê
ấy. Thử đọc đợn văn sau đay của Nguyên Hồng ta sẽ thấy rõ điều đó:
Trong tâm trí Thanh, những dòng chữ in to đỏ của tờ báo kỉ niệm
ngày 14-7-1789 ra mấy tháng trớc lại giật lên bùng bùng. Những chữ
Basstille, Saint Just, Babeuf, Robespierre và hình ảnh những ngời chiến sĩ nọ
lại càng nổi rõ. Từ vầng trán, đôi mắt, mái tóc đến cái cổ áo của từng ngời
chiến sĩ lịch sử đã khuất nọ, cứ nh một màn ảnh chiếu ra với bao nhiêu cảnh
ngùn ngụt của bão lửa, gơm súng. Ngục Basstille của phong kiến Pháp đã bị
đạp đổ. Vua Louis XVI và vợ Marie Antoinette đã bị đa lên máy chém. Lịch
sử nhân loại đã tiến một bớc dài. Nhng vẫn còn bao nhiêu ngục Basstille
khác của đế quốc chủ nghĩa với vô vàn những vua chúa giàu sang, tàn bạo,
thối nát, vẫn còn đè nén các dân tộc, đặc biệt là đè lên các dân tộc thuộc
địa. Con đờng sống của nhân loại trớc và sau chỉ có thể vợt lên bằng cách
mạng. Đấu tranh và cách mạng. Đảng cộng sản và xã hội chủ nghĩa. Lực l-

ợng chính, lực lợng đi hàng đầu của cách mạng ngày nay. Lý tởng của cách
mạng ngày nay!...(Sóng gầm)
Đây là đoạn văn nói đến ý thức giác ngộ t tởng của nhân vật. Lập tr-
ờng ấy chắc chắn phù hợp, thống nhất với t tởng của tác giả. Để nhấn mạnh
tính hào hùng cua cách mạng, Nguyên Hồng sử dụng rất nhiều động từ, tính từ
có sắc thái biểu cảm mạnh, thể hiện sự mãnh liệt: giật giật bùng bùng, ngùn
ngụt, bão lửa, đạp đổ...Bên cạnh đó nhà văn có ý thức tạo nhịp qua sự lặp lại:
đã bị đạp đổ, đã bị đa lên máy chém. Cách nói này giúp ngời đọc cảm nhận
rõ hơn về sức mạnh bão cuốn của cách mạng. Để xác định con đờng đi tới, nhà
văn đã tạo nên tính dồn dập của hơi văn bằng cách thiết lập nhiều câu văn
ngắn cạnh nhau, giữa các câu có sự lặp từ để tạo trùng điệp. Những thủ pháp
mà Nguyên Hồng sử dụng trên đây đã làm cho Sóng gầm cất lên tiếng gầm
dũng mãnh trên con đờng hớng tới tơng lai. Lối tạo nhịp điệu nhanh, dồn dập
này cũng có mặt trong Dấu chân ngời lính của Nguyễn Minh Châu:
- Thề chiến đấu trả thù cho các đồng chí hi sinh!
- Xin thề!
- Xin thề!
Từng loạt tiếng hô nổ ra nh những loạt súng. Những cánh tay quấn
băng nâng những khẩu súng trờng và tiểu liên, những khẩu súng máy lên quá
đầu:
- Tiêu diệt hết bọ Mĩ dã man ăn cớp!
Tiếng thét diệt địch vang lên giữa những dịp cời. Tiếng thét phát ra từ
những trái tim đang bốc lửa. Tiếng thét đông đặc, phẫn nộ, rùng rùng khép
kín nh một hàng ngũ siết chặt (Dấu chân ngời lính).
ở đoạn văn này, nhà văn muốn nhấn mạnh tinh thần quyết chiến của
chiến sĩ ta qua những cách nói lặp, cách tạo trùng điệp về nhịp: Tiếng thét diệt
địch... tiếng thét phát ra... tiếng thét đông đặc...
Tâm thế ngợi ca khiến các nhà văn yêu thích và a dùng những gam màu
sáng, những biểu tợng gợi cảm giác về sự hùng vĩ. Không phải ngẫu nhiên mà
trong Đất rừng Phơng Nam, Đoàn Giỏi đã cài vào mạch chuyện sự tích ngời

anh hùng Võ Tòng đả hổ, Trần Hiếu Minh trong Rừng U Minh cài vào những
câu hát, Nguyên Hồng hay gợi lại không khí lịch sử trong Cửa biển, Nguyên
Ngọc thì dùng huyền thoại ông Tú trong Đất nớc đứng lên ông Tú chết rồi
nhng sông núi ông Tú vẫn còn. Việc sử dụng các yếu tố biểu trng khiến cho
hơi văn trở nên mạnh mẽ, nhịp văn trở nên hào hùng, sảng khoái. Nghe
BokSung kể chuyện, không chỉ mọi ngời mà Lửa cũng suy nghĩ, nó thấp
ngọn xuống. Cả nhà rông im lặng. Những câu chuyện của ông Tú vang lên
giữa núi rừng nh những tiếng vọng trầm hùng của lịch sử, thức dậy ở thế hệ
con cháu lòng yêu nớc, tinh thần tự hào dân tộc. Không gian đẫm màu huyền
thoại này về sau đợc Nguyên Ngọc sử dụng lại trong đoản thiên Rừng xà nu.
Những câu chuyện xảy ra trong thời hiện đại đã đợc các nhà văn đẩy lùi vào
quá khứ, bao bọc chúng trong một không gian thiêng hoá, và tại đây,
khoảng cách sử thi xuất hiện khiến cho câu chuyện trôi trong âm hởng hào
hùng.
2. Giọng điệu trữ tình, thống thiết.
Gắn liền với giọng điệu hùng ca là giọng điệu trữ tình thống thiết. Nó là hai
mặt của một vấn đề. Giọng điệu này xuất phát từ cảm hứng rng rng trớc vẻ
đẹp của dân tộc Việt Nam trong những ngày gian khổ nhng rất đỗi hào hùng.
Sự có mặt của loại giọng điệu này ít nhất có hiệu quả nh sau: trớc hết tái hiện
lại một cách chân thực không khí bi tráng của thời đại, sau nữa đánh vào tâm
can của ngời đọc khiến họ nhận thấy đợc chiều sâu và vẻ đẹp của cuộc kháng
chiến. Nhiều nhà văn đã sử dụng chất liệu này để tạo nên những áng thơ trữ
tình bằng văn xuôi. Về nỗi đau của nhân vật Xiêm cũng nh mảnh đất rừng núi
im lặng và thiêng liêng nơi đây, gót chân xâm lợc bao năm đã giày xéo, dù
hôm nay bom đạn có lát kín thì mặt đất cũng không vì thế mà đau đớn hơn.
Đó là những nỗi đau thầm lặng mà Xiêm phải chịu đựng. Ngời con gái không
may mắn ấy cuối cùng cũng tìm thấy nụ cời khi gặp Lợng. Còn thiên nhiên?
Nguyễn Minh Châu vẫn tiếp tục cách tả đầy chất trữ tình ấy: Nh ng hôm nay
thung lũng khe Sanh đẹp đẽ từng đau khổ đang trở dạ. Mặt đất mang đầy vết
tích bom đạn đang trải ra giữa hơng thơm mùa xuân để đón gót chân những

ngời chiến sĩ Giải phóng dậm lên. Nơi đây khắp vùng phía Nam thung lũng,
đi chỗ nào cũng thấy dấu tích những trận bom B52. Cây cối đều bị quật ngã,
các dòng suối đục ngầu, thuốc bom khét lẹt ám đầy nơng rẫy. Bom đạn đào
xới lên tất cả vậy mà có một giống cỏ đợc các chiến sĩ gọi là cỏ vạn thọ vẫn
mọc tơi tốt, mùa xuân đến vẫn khoe một sắc hoa vàng sẫm nh nghệ . Vậy là
trong cái nhìn của nhà văn, bom đạn có thể cày nát đất đai nhng không tiêu
diệt đợc sự sống. Sự sống vẫn tơi tốt, khoe sắc qua hình ảnh một loài hoa
(vạn thọ = bất tử). Rõ ràng, Nguyễn Minh Châu muốn coi cái bi là nền để cái
tráng cất lên những giai điệu đẹp đẽ nhất. Màu sắc lãng mạn và giọng điệu trữ
tình cũng đợc Nguyên Hồng a dùng. Nếu chất thơ trong văn Tô Hoài tinh tế
thì chất thơ trong văn Nguyên Hồng mang đầy hơng vị phù sa châu thổ qua

×