Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

SKKN - Dạy luyện nói cho HS lớp 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (100.41 KB, 10 trang )

Lời mở đầu
Trong cuộc sống hàng ngày, ở mọi ngành nghề đều
cần đến các hoạt động giao tiếp. Giao tiếp qua việc sử
dụng ngôn ngữ sao cho chọn lọc để diễn đạt ý của mình
nhằm giúp người khác biết và hiểu những thông tin đến
đối tượng cần giao tiếp, nhằm đạt đến thành công trong
công việc. Đặc biệt,trong lĩnh vực giáo dục cũng đòi hỏi
người Giáo viên hướng dẫn, giảng dạy sao cho học sinh
của mình có được kỹ năng giao tiếp thật tốt. Chính vì lí do
đó, đối với HS ( bất cứ ở bậc học nào ) cũng đều được rèn
luyện 4 kỹ năng : nghe, nói, đọc, viết để đáp ứng nhu cầu
giao tiếp nêu trên.
Để thực hiện được yêu cầu trên ở chương trình mới
môn Tiếng Việt 1 yêu cầu giáo viên khi dạy phải đảm bảo
mục tiêu hình thành và phát triển cho học sinh đầy đủ 4
kỹ năng. Trong đó kỹ năng nói được luyện tập kết hợp
trong các kỹ năng đọc, nghe, viết. Điển hình là trong
tiết 2 của một bài học vần hay tập đọc có hẳn 1 hoạt
động riêng cho phần luyện nói.
Việc rèn kỹ năng nói đã giúp cho trẻ có khả năng
giao tiếp, biết ứng xử và nhận xét sự vật, sự việc trên
những nhận thức riêng, bằng sự cảm nhận ngây ngô của
con mắt trẻ thơ. Vì thế, để học sinh luyện nói lưu loát, đạt
hiệu quả, giáo viên cần phải có cách tổ chức dạy để khơi
gợi , kích thích học sinh có hứng thú bộc lộ cảm xúc, ý
nghĩ của mình nhằm phát huy kỹ năng nói của các em,
nhằm giúp trẻ sớm có tính cách mạnh dạn, cởi mở và tự
tin hơn trong quá trình giao tiếp.
Trên đây là một trong những điểm mới của sách giáo
khoa chương trình năm 2000 và tôi cũng muốn cùng cộng
tác để giúp cho các em rèn kỹ năng nói một cách hiệu


quả.
1
NHỮNG THUẬN LỢI – KHÓ KHĂN KHI DẠY LUYỆN
NÓI
1 / Thuận lợi :
- Học sinh lớp 1 có khả năng tự trả lời các câu hỏi đơn
giản và phát triển lời nói thành một câu, 1 đoạn văn
theo cảm xúc, suy nghĩ của mình.
- Đồ dùng dạy học đầy đủ, tranh ảnh đẹp kích thích học
sinh nói, ham học, ham tìm hiểu.
- Đa số các chủ đề luyện nói gần gũi với thực tế cuộc
sống của học sinh (Chủ đề về bản thân bé, bạn bè
xung quanh, ba mẹ, ông bà, những sinh hoạt thông
thường của các em : phim hoạt hình, đọc truyện,nhà
trẻ,chuối, bưởi, vú sữa …).
- Giáo viên được tham gia tập huấn, dự giờ riêng cho
phần luyện nói , từ đó giúp giáo viên nắm được các
mục tiêu chính trong phần luyện nói cho học sinh.
2 / Khó khăn :
- Tình hình học sinh : đa số các em ở vùng ven chưa qua
mẫu giáo nên khả năng giao tiếp còn hạn chế : các em
còn nhút nhát, ít phát biểu, chưa tự tin trong luyện nói.
- Thiếu một số tranh ảnh để minh hoạ cho chủ đề cần
luyện nói.
- Một số chủ đề lạ, chưa thật sự với cuộc sống của các em
: lễ hội, vó bè, đồi núi… nên các em khó hình dung để
phát huy khả năng nói của mình một cách phong phú.
- Thời lượng dành cho phần luyện nói còn ít nên học
sinh không được luyện nói nhiều.
2

BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
Để giúp Hs rèn luyện kĩ năng nói và phát triển khả
năng diễn đạt ý phong phú:
1. Điều trước tiên, tôi phải xác định và nắm rõ mục
tiêu chính của chủ đề cần luyện nói là gì? Chính chủ đề
là điểm tựa, gợi ý cho phần luyện nói. Gợi ý sao để tất cả
Hs đều được nói, không đi quá xa với chủ đề.
Chẳng hạn như: Chủ đề “Nói lời cảm ơn”, “Giúp
đỡ cha mẹ” ,”Con ngoan trò giỏi””Những người bạn
tốt”… Nếu đi quá sâu vào chủ đề sẽ dễ lẫn sang dạy đạo
đức.Vì thế, để khắc phục điều này, tôi chỉ định hướng cho
các em câu hỏi gợi ý xoay quanh vấn đề trọng tâm cần
luyện nói:
 Em chỉ kể cho cô và các bạn trong nhóm nghe về
những lần mình đã cảm ơn ai đó về điều gì?
 Hoặc kể những việc em đã làm để giúp đỡ cha mẹ
của mình ?
 Kể những việc đã làm thể hiện em đã cố gắng để
trở thành một người con ngoan trong gia đình, một
người trò giỏi của trường học? …
Hoặc những chủ đề về “Biển cả”,”Thung lũng,suối
,đèo”,”Hươu,Nai, Gấu,Voi,Cọp” “Sẻ,ri, bói cá, le le”” Gió,
mây, mưa, bão, lũ”…lẫn sang việc dạy tự nhiên xã hội.Do
đó, tôi cũng cố gắng giúp học sinh bằng cách gợi ý những
câu hỏi thật sát với chủ đề không sa đà tìm hiểu về đời
sống của các động vật, sự vật, hiện tượng,….Chẳng hạn
những chủ đề về các sự vật, hiện tượng xảy ra trong
thiên nhiên
 Cho học sinh xem 1 số tranh ảnh liên quan đến các
hiện tượng đó, Hs sẽ nêu được tên của các sự vật

trên. Sau đó, Gv chỉ cần nêu câu hỏi gợi ý để các
em cùng thảo luận với nhau về những tác hại,hoặc
3
những cách nào để ngăn chặn, bảo vệ khi chúng
xảy ra.
 Những chủ đề nói về động vật : Gv có thể cho
các em sắm vai tên của các con vật trong rừng cần
luyện nói. Nêu lên nhận xét riêng của em về
chúng(Em yêu, không thích con vật nào đó?Nói lên
cảm nhận của mình:tại sao em lại yêu, không thích
con vật đó?)
2. GV nắm bắt thực tế về khả năng nói c ủa từ ng
em đ ể đưa ra phương pháp,h ình thức dạy luyện nói
phù hợp vớ i đ ố i tư ợng.
 Phải chuẩn bị hệ thống câu hỏi gợi ý cho từng nhóm đối
tượng tuỳ nội dung từng bài.
Tùy theo từng chủ đề mà tôi có định hướng cho học sinh
khi luyện nói. Khi đặt câu hỏi để giúp các em biết cách nói
cho sát nội dung bài . Tôi phải chuẩn bị và dự trù thêm 1
số câu hỏi cho từng đối tượng, đi từ câu hỏi tổng quát, rồi
mới gợi ý bằng những câu hỏi nhỏ( Khi các em lúng túng
sẽ dễ dàng có cơ sở theo sự định hướng của cô để rèn nói)
 Chuẩn bị tranh ảnh,phương tiện dạy học phục vụ cho
phần luyện nói thêm sinh động, hứng thú.
Ngoài những tranh ảnh được cung cấp, tôi cùng với các
bạn trong khối sưu tầm thêm 1 số tranh ảnh, đồ dùng
khác liên quan đến bài dạy để phần luyện nói thêm phong
phú, gần gũi.
Chẳng hạn như: với các chủ đề nói về : cây cối, hoa
trái ( đưa những vật thật, tranh ảnh của những tờ ap-

phích, hình trên lịch, hình chụp….)
3. Phân các chủ đ ề ra thành nhiề u nhóm khác
nhau đ ể chọn lự a phương pháp và h ình thứ c khác
4
thay đ ổi cho phù hợp với cá n hân, nhóm, đ ối thoạ i,
đ ộc thoại…
- Với những chủ đề gần gũi với học sinh như: Chủ đề: Ba
má; Quà quê; Nhà trẻ; Bé và bạn bè; Người bạn tốt;
Điểm 10; Bữa cơm… Giáo viên gợi mở cho Hs nói qua
vốn hiểu biết thực tế của các em, chọn lựa những hình
thức học tập, trò chơi v.v…
Chẳng hạn như:
Chủ đề nói về gia đình:”Ba má” “Bà cháu”… có
thể cho học sinh sắm vai nhân vật thể hiện tình cảm của
ông bà, ba mẹ đã yêu thương, quan tâm, chăm sóc em .
Hoặc những tình cảm , việc làm của em thể hiện sự hiếu
thảo của một người cháu, người con đối với ông bà, cha
mẹ của mình.
- Với những chủ đề lạ, khó hơn: chủ đề: Vó bè; Suối đèo
thung lũng; Lễ hội; Ao, hồ, giếng; Đất nước ta tuyệt
đẹp; Ba Vì; Ruộng bậc thang…
Chủ đề Vó bè : Cho Hs quan sát tranh thật kỹ , Gv giới
thiệu trực tiếp đó chính là vó bè.Gợi ý để các em nói được
dụng cụ đó được đặt ở đâu?dùng để làm gì ?
Chủ đề Ba Vì : Sau khi Hs quan sát tranh xong, Gv giới
thiệu trực tiếp luôn : Tranh vẽ cảnh ở Ba Vì. Gợi ý cho các
em nêu lên những cảnh vật có trong bức tranh đó?Cảm
nhận về cảnh vật ở đó như thế nào?( Thích hay không
thích?Tại sao thích?)
4. Phương ti ện dạy học:

- Hình ảnh trong SGK là chủ yếu.
- Tận dụng những vật thật, tranh ảnh có sẵn trong thực
tế để làm phương tiện giảng dạy.
- Sưu tầm thêm 1 số tranh ảnh, mẫu vật.
5. Phương pháp và h ình thức tổ chức dạy:
5
- Do tình hình học sinh chiếm 1 nửa chưa qua mẫu giáo,
rất thụ động ít phát biểu. Hoặc phát biểu thì chỉ dững lại ở
chỗ trả lời những câu hỏi cô đưa ra. Do vậy, để giúp cho
các em làm quen và phát triển khả năng nói, tôi đã:
a) Gợi ý bằng hệ thống câu hỏ i qua phương pháp
đàm tho ại :
- Bước đầu chỉ dừng lại ở việc: “Thầy hỏi – trò đáp”. Dựa
trên lời nói của Hs, Gv sẽ chỉnh sửa câu nói sao cho rõ,
gọn, đủ ý, diễn đạt ý theo nội dung câu hỏi xoay quanh
chủ đề.
b) Sử dụng tranh ả nh, đ ồ dùng trực quan :
- HS quan sát tranh và diễn đạt lại những gì đã được
quan sát khi nhìn tranh. Mỗi hình vẽ trong tranh là 1 tình
huống thể hiện chủ đề của bài.
- Khi Hs đã quen với việc luyện nói, Gv sẽ nâng dần hình
thức trong quá trình dạy luyện nói:
 Chuẩn bị hệ thống câu hỏi gợi mở thật kỹ. Ban đầu là
những câu hỏi dễ dành cho Hs chọn và giúp cả lớp có
được những ý chính của chủ đề cần được nói. Sau đó
câu hỏi được nâng dần cao hơn, khái quát hơn.
- Chẳng hạn như: với chủ đề “Chợ tết”: Gv cho Hs nghe
nhạc hát về ngày tết: các em sẽ dễ dàng hình dung và
nhận ra ngay chủ đề cần phải luyện nói về ngày tết.
- Gv đưa ra 1 số câu hỏi mở để từng cá nhân có thể trả

lời dễ dàng khi quan sát hình vẽ về ngày tết:
 Tranh vẽ cảnh gì?
 Trong tranh con thấy có ai và có những gì? Họ đang làm
gì?
 Con đã đi chợ tết bao giờ chưa?
- Một số câu hỏi khác khái quát hơn để các nhóm cùng
thảo luận, diễn đạt ý hoàn chỉnh, thành 1 đoạn văn:
 Mọi người khi đi chợ tết như thế nào?
6
 Ba mẹ trong gia đình con thường mua những gì khi đi
chợ tết?
- Hoặc khi dạy chủ đề về “ Biển cả”:
 Phong cảnh biển đẹp như thế nào?
 Biển có gì? Nước biển màu gì?
 Âm thanh của biển ra sao?
 Em hãy kể về những lần đi tắm biển với gia đình?
 Tại sao em thích biển?
c) Tổ chức các hoạ t đ ộng trò ch ơi, t ạo hứng thú,
giúp các em mạnh dạn, tự tin, tích cực tham gia
trong quá trình luyện nói.
- Chẳng hạn như chủ đề: Nặn đồ chơi; Ao choàng, áo len,
áo sơ mi; Ghế đẩu, ghế xoay, ghế tựa; Phim hoạt hình;
Đọc truyện tranh… Hs sẽ được tham gia chơi nặn hình
bằng đất, tô màu, vẽ tranh, hay chọn các loại áo thích hợp
với thời tiết…
d) Tổ chức luyện nói theo hình thứ c cá nhân, nhóm
đôi, nhóm sáu, t ổ, lớp … Hs sẽ tự nói cho nhau nghe
cùng trao đổi những nhận biết và bày tỏ cảm xúc của
mình về nội dung chủ đề.
e) Phương pháp quan sát, đ ộ ng viên khen thư ởng :

- Trong tiết dạy, tôi thường chú ý đến Hs ít nói, thụ động,
đặt những câu hỏi dễ động viên các em cùng tham gia
nói. Đối với những em khá giỏi tôi sẽ khuyến khích, gợi
mở bằng những câu hỏi khái quát hơn để giúp các em tự
tin, mạnh dạn trình bày ý kiến, cảm xúc của mình 1 cách
chân thành.
- Tạo không khí lớp học thân thiện, cởi mở, động viên
khen thưởng kịp thời nhằm kích thích sự hứng thú, ham
học hỏi nơi các em.
7
- Trọng tâm khi dạy luyện nói cho Hs, tôi thường chú ý
rèn kỹ năng nói to, rõ tiếng; nói thành câu, thành đoạn
hoàn chỉnh, hay, giàu cảm xúc. Với một ngữ điệu tự nhiên,
chân thành.
KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
1) Học sinh :
- Rất hứng thú khi học phân môn TV, nhất là trong hoạt
động luyện nói.
- Lớp học sinh động, Hs tham gia tích cực phát biểu hăng
hái.
- Các em biết trả lời, diễn đạt ý nghĩ, cảm xúc của mình
một cách tự nhiên, chân thật.
- Khoảng 50% Hs nói thành 1 đoạn văn ( 3, 4 câu) đúng
với nội dung chủ đề cần luyện nói.
- Những em nhút nhát, rụt rè, thụ động đã nhanh nhẹn
hơn, tích cực hơn. Biết tham gia vào mọi hoạt động trong
quá trình luyện nói 1 cách chủ động.
- Biết ứng xử các từng huống trong khi giao tiếp 1 cách
nhạy bén, ngoan, lễ phép hơn.
2) Giáo viên :

- Lúc đầu tôi gặp rất nhiều khó khăn trong việc giúp các
em luyện nói.
- Đa số Hs chỉ biết trả lời theo câu hỏi 1 cách thụ động,
diễn đạt ý kém. Nhưng với sự hỗ trợ của Ban giám hiệu,
tổ khối và bằng sự cố gắng, lòng quyết tâm của bản thân
tôi đã kiên nhẫn rèn luyện, uốn nắn, chỉnh sửa “ từng lời
ăn tiếng nói” cho mỗi em.
- Học hỏi thêm kinh nghiệm của các bạn đồng nghiệp,
tham khảo sách vở để lựa chọn nhiều hình thức tổ chức
giúp các em trong quá trình luyện nói.
KẾT LUẬN:
Trên tinh thần đổi mới phương pháp dạy học theo
hướng tích cực. Yêu cầu luyện nói cũng nhằm mục đích
8
phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Do vậy tôi đã bước đầu
nghiên cứu và áp dụng mọi hình thức nhằm giúp việc
giảng dạy đạt hiệu quả. Tôi thiết nghĩ mỗi người Gv biết
cách khơi gợi, kích thích và tổ chức cho Hs nói năng, hứng
thú bộc lộ cảm xúc, ý nghĩ của mình 1 cách hồn nhiên độc
đáo là điều mà Gv cần làm. Theo tôi, đây chỉ là một số
trăn trở của tôi trong quá trình giảng dạy của mình trong
môn Tiếng Việt, trong đó phần “Luyện nói “ cũng là một
trong những băn khoãn của rất nhiều Gv là làm sao giúp
cho Hs của mình cùng dễ dàng tham gia vào quá trình rèn
kĩ năng giao tiếp, qua việc các em tự diễn đạt, trao đổi
những cảm nghĩ, xúc cảm ,tình cảm của mình trước một
sự kiện, việc làm nào đó…. Làm được như thế chúng ta đã
góp phần nho nhỏ thực hiện thành công trong việc đổi mới
chương trình giáo khoa mới theo yêu cầu của Bộ.
Ngày 26 tháng 03 năm 2006

Người viết
Lê Thị
Kim Hoa
Nhận xét của Ban giám hiệu








9
Nhận xét của Lãnh đ ạo cấp trên:








10

×