Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (36.05 KB, 3 trang )
1. Nữ trạng nguyên duy nhất của Việt Nam
Vị nữ trạng nguyên duy nhất của Việt Nam tên là Nguyễn Thị Du. Bà sinh ra tại làng Kiệt Đặc,
huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Bà là người tuyệt sắc, lại rất thông minh, năm 10 tuổi đã biết
làm văn bài. Ông thân bà tiếc tài con gái, cho cải nam trang đi học.
Năm 17 tuổi, chúa Mạc mở khoa thi, sĩ tử tham dự rất đông, bà đỗ thủ khoa còn chính thầy học
của bà chỉ đỗ thứ hai. Khi dự yến đãi các tân khoa, chúa Mạc thấy nhan sắc và phong cách của
bà sinh lòng ngờ vực, gạn hỏi và khám phá ra bà là gái giả trai, bèn nạp cung phong làm Tinh
Phi ngụ ý khen bà vừa xinh đẹp vừa sáng láng như một vì sao. Thời xưa phụ nữ không được
phép đi thi, thậm chi dự một buổi bình văn ở nhà Giám (Quốc Tử Giám) cũng không được. Bà cải
trang đi thi như thế là phạm tội khi quân, nhưng chúa Mạc không những không trừng phát mà
còn nạp cung, phong tước phi, tỏ ra rất quý trọng tài sắc của bà.
Nhà Mạc mất, bà vào rừng ẩn náu, bị quân Trịnh bắt được. Bà chống gươm xuống đất nói: “Các
người bắt được ta thì phải đưa ta đến nộp chúa của các ngươi, nếu vô lễ thì với lưỡi gươm này ta
sẽ tự tử”. Quân Trịnh bèn giải bà về nộp chúa Nghị Vương, chúa rất sủng ái.
Về già bà xuất gia đi tu ở chùa Vụ Nông, hạt Gia Lâm, lấy hiệu Diệu Huyền. Nghị Vương mất, con
là Dương Vương lên nối ngôi, triệu bà ra giữ chức Lễ Sư dạy cung nhân, nên người ta cũng gọi
bà là Lễ Phi.
Bà thường viện dẫn nghĩa lý kinh sử, sự tích cổ kim rành mạch, cả hai chúa Trịnh đều khen ngợi,
trọng vọng. Các biểu sớ, văn bài thi Đại khoa chúa đều nhờ bà khảo duyệt lại. Khoa Tân Mùi
(1631) em họ ngoại bà là Nguyễn Minh Triết (sau đổi tên là Nguyễn Thọ Xuân) ứng chế xong
bảo với bạn hữu: “Bài của tôi viết, cả triều chưa dễ mấy ai hiểu, có chăng chỉ bà chị tôi là Lễ Phi
mới hiểu được mà thôi”. Quả nhiên, bài đưa ra nhiều điển lạ, quan trường không hiểu hết, chúa
hỏi thì bà lý giải cặn kẽ, chúa cho Xuân đỗ đầu.
Năm 70 tuổi bà xin về làng, dựng am Đàm Hoa để ở, lại được cấp các thuế trong làng làm ngụ
lộc.
Bà mất năm 80 tuổi, táng ở núi Trị Ngư, làng Kiệt Đặc. Ngọn tháp xây trên mộ gọi là Tinh Phi cổ
tháp, được liệt vào hạng Chí Linh Bát Cổ, có khắc mười chữ trên bia: “Lễ Phi sinh thông tuệ, nhất
kính chiếu tam vương”. Trong bia Chí Linh Bát Cổ cũng ghi lại bài thơ đề trên Tinh Phi cổ tháp:
Ngọc thủ chiết cao chi,
Kinh nhan lưu cố thấp;
Tùng cổ thử giang sơn;