Tải bản đầy đủ (.pdf) (163 trang)

Tài liệu luyện thi THPT quốc gia môn Ngữ văn (Hay)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.33 MB, 163 trang )

TÀI LIỆU LTĐH MÔN VĂN Thầy Lê Phước Nghiệp
TRUNG TÂM LTĐH 17 QUANG TRUNG ĐT: 07103 751 929 Trang 1

TRUNG TÂM GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
17 QUANG TRUNG






























Thầy Lê Phước Nghiệp








Cần Thơ 2014
Địa chỉ: 17 Quang Trung – Xn Khánh – Ninh Kiều – Cần Thơ
Điện thoại: 0939.922.727 – 0915.684.278 – (07103)751.929
TÀI LIỆU LTĐH MÔN VĂN Thầy Lê Phước Nghiệp
TRUNG TÂM LTĐH 17 QUANG TRUNG ĐT: 07103 751 929 Trang 2
PHẦN I : VĂN HỌC VIỆT NAM TRƯỚC 1945.
HAI ĐỨA TRẺ - THẠCH LAM
I. CẢM THỤ TÁC PHẨM
“Hai đứa trẻ” là một bức tranh chân thực và cảm động, về cuộc sống của con
người nghèo khổ ở một phố huyện xa xơi, hẻo lánh, hàng đêm có một chuyến tàu lửa đi
qua. Câu chuyện còn bộc lộ tâm sự và ước vọng mơ hồ thật tội nghiệp và thật đáng
thương của hai đứa trẻ.
Qua câu chuyện “Hai đứa trẻ” nhà văn Thạch Lam đã bộc lộ niềm cảm thơng và
thương xót của mình đối với cuộc sống của những con người lao động nghèo khổ, nhất là
đối với hiện thực cuộc sống tăm tối và ước vọng mơ hồ của tuổi thơ. Đó chính là tấm
lòng nhân đạo của nhà văn.
1. Cảnh chiều tối ở phố huyện và tâm trạng của Liên:
a) Cảnh chiều tàn:

Nhà văn Thạch Lam đã chọn những âm thanh, màu sắc và hình ảnh khá tiêu biểu,
độc đáo để vẽ nên cảnh chiều tàn nơi một phố huyện xa xơi, hẻo lánh”
“Tiếng trống thu khơng trên cái chòi của huyện nhỏ ; từng tiếng một vang ra để
gọi buổi chiều”.
“Phương tây, đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp
tàn”.
“Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời”.
“Một buổi chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngồi đồng ruộng
theo gió nhẹ đưa vào”.
“Trong cửa hàng hơi tối, muỗi đã bắt đầu vo ve”.
“Chợ họp giữa phố vãn từ lâu. Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Trên đất chỉ
còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía”.
b) Cảnh sống ở phố huyện lúc chiều tối:
– “Một vài người bán hàng về muộn đang thu xếp hàng hố, đòn gánh đã xỏ sẵn
vào quang rồi…”
– Cửa hàng tạp hố của chị em Liên vắng khác.
– Mẹ con chị Tý “dọn cái hàng nước dưới gốc cây bàng, bên cạnh cái mộc gạch”.
Chị Tý bán rất ế ẩm “chả kiếm được bao nhiêu, nhưng chiều nào chị cũng dọn hàng, từ
chập tối cho đến đêm”.
TÀI LIỆU LTĐH MÔN VĂN Thầy Lê Phước Nghiệp
TRUNG TÂM LTĐH 17 QUANG TRUNG ĐT: 07103 751 929 Trang 3
– Cụ Thi, một bà già hơi điên vào qn chị Liên mưa rượu với tiếng cười khanh
khách. Uống xong rượu cụ lảo đảo bước ra ngồi rồi “đi lẫn vào bóng tối, tiếng cười
khanh khách nhỏ dần về phía làng”.
Những chi tiết này cho chúng ta thấy cuộc sống của người dân nghèo nơi phố
huyện này thật vất vả, khốn khó như kéo lê cuộc đời mình trong bóng tối, khơng có được
chút ánh sáng của ngày mai.
c) Tâm trạng của Liên:
Cảnh chiều tàn và cuộc sống tối tăm của người dân nghèo ở đây đã gợi lên một
nỗi buồn thấm thía trong lòng Liên: “Liên ngồi n lặng bên mấy quả thuốc sơn đen; đơi

mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều q thấm thía vào tâm hồn
ngây thơ của chị; Liên khơng hiểu sao, nhưng chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ
khắc của ngày tàn”.
Phải chăng cái nghèo khổ của chính gia đình Liên và cái nghèo khổ của những
người chung quanh đã làm cho Liên buồn? Có lẽ là thế, bởi chính cái nghèo khổ đã cướp
đi một phần tuổi thơ của Liên, bao niềm vui và mơ ước của Liên đã tàn lụi và héo hắt như
cảnh chiều tà. Cái chi tiết: “Liên trơng thấy động lòng thương” mấy đứa trẻ con nhà
nghèo ở ven chợ “nhưng chính chị cũng khơng có tiền để cho chúng” đã cho ta thấy nỗi
xót xa của Liên trong cái cảnh nghèo. “Hai chị em Liên đứng sững nhìn theo cụ Thi đi lần
vào bóng tối” càng làm tăng thêm nỗi xót xa, đau đớn đến tái tê trong lòng Liên.
2. Cảnh phố huyện về đêm và tâm tình của hai đứa trẻ:
a) Khung cảnh phố huyện về đêm :
– Đêm thật im vắng và mát mẻ “một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua
gió mát”.
– Đêm ngập tràn bóng tối: “Đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng
tối, từ một vài cửa hàng còn thức, nhưng cửa chỉ để hé ra một khe ánh sáng”, “Tối hết cả
con đường thăm thẳm ra sơng, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng sẫm
đen hơn nữa”.
– Ánh sáng mờ nhạt, leo lét: “Vòm trời hàng ngàn ngơi sao ganh nhau lấp lánh,
lẫn với những vết sáng của những con đom đóm bay là là trên mặt đất hay len vào những
cành cây”. Ánh sáng của phố huyện như chỉ còn thu nhỏ lại ở “quầng sáng thân mật xung
quanh ngọn đèn lay động trên chõng hàng của chị Tý ” và “cái bếp lửa của Bác Siêu”.
b) Cuộc sống của phố huyện về đêm:
Cuộc sống ở phố huyện về đêm thật buồn tẻ, hiu hắt, với những cuộc đời lam lũ
bế tắc, quẩn quanh trong cái nghèo túng, khơng hề có ánh sáng của ngày mai: “đêm nào
Liên và em cũng phải ngồi trên chiếc chõng tre dưới gốc cây bàng với cái tối của quang
cảnh phố chung quanh”; đêm nào chị Tý cũng ngồi bên ngọn đèn con bên hàng nước của
TÀI LIỆU LTĐH MÔN VĂN Thầy Lê Phước Nghiệp
TRUNG TÂM LTĐH 17 QUANG TRUNG ĐT: 07103 751 929 Trang 4
chị, bác Siêu ngồi bên bếp lửa gánh phở của bác, đêm nào vợ chồng bác Xẩm cũng “góp

chuyện bằng mấy tiếng đàn bầu bật trong n lặng. Thằng con bò ra đất, ngồi manh
chiếu, nghịch nhặt những rác bẩn vùi trong cát bên đường”.
Cuộc sống đen tối của chừng ấy con người đã để lại trong lòng nhà văn một nỗi
niềm đau đớn, xót xa: “Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho
sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ”.
c) Tâm tình của chị em Liên:
Cuộc sống cơ cực, nghèo khổ đã cướp đi sự hồn nhiên của tuổi thơ chị em Liên:
“Từ khi nhà Liên dọn về đây, từ khi có cái cửa hàng này, đêm nào Liên và em cũng phải
ngồi trên chiếc chõng tre dưới gốc cây bàng với cái tối của quang cảnh phố chung
quanh” điều đó cũng nghĩa là đêm nào chị em Liên cũng phải nhìn thấy những cuộc đời
với những số phận đen tối diễn ra trước mắt mình như cuộc đời của chị Tý, bác Siêu, gia
đình bác Xẩm Chán ngán trước cái hiện thực ấy nên “An và Liên lặng ngước mắt lên
nhìn các vì sao để tìm sơng Ngân Hà và con vịt theo sau ơng Thần Nơng” nhưng “Vũ trụ
thăm thẳm bao la đối với tâm hồn hai đứa trẻ đầy bí mật và xa lạ và làm mỏi trí nghĩ, nên
chỉ một lát hai chị em lại cúi nhìn về mặt đất, về quầng sáng thân mật xung quanh ngọn
đèn lay động trên chõng hàng của chị Tý ”.
Từ việc “An và Liên lặng ngước mắt lên nhìn các vì sao ” đến việc “hai chị em
lại cuối nhìn về mặt đất ” đó chính là tâm trạng của chị em Liên muốn trốn tránh, muốn
qn đi hiện thực nhưng cũng chỉ được trong chốc lát để rồi phải trở về cái hiện thực đầy
xót xa.
Thật đáng thương cho An và Liên khi “An và Liên ngửi thấy mùi phở thơm” từ
gánh phở của bác Siêu và phở “là một thứ q xa xỉ, nhiều tiền, hai chị em khơng bao giờ
mua được”. Một món ăn bình thường đã trở thành q xa vời với chị em Liên và gợi lại
trong tâm hồn Liên những hồi niệm về ngày xưa ở Hà Nội, với những kỷ niệm xa xơi,
mơ hồ.
Dù “An và Liên đã buồn ngủ ríu cả mắt” nhưng “hai chị em vẫn gượng để thức
khuya chút nữa đến khi tàu xuống để bán hàng, may ra có một vài người mua”.
Nhưng đó khơng phải là mục đích chính, mà đó chính là An và Liên “muốn được nhìn
chuyến tàu, đó là hoạt động cuối cùng của đêm”.
Với chi tiết này nhà văn Thạch Lam khơng những mơ tả chân dung cuộc sống thật

đáng thương của chị em Liên mà còn cho ta thấy niềm khát khao về cuộc sống của chị em
Liên, niềm khát khao ấy vẫn chưa bị hồn tồn dập tắt, mà vẫn tồn tại dù có nhỏ nhoi.
3. Cảnh phố huyện khi tàu đêm đi qua và ước vọng mơ hồ của hai đứa trẻ:
Chuyến tàu đêm đi qua đã phá tan cái khơng gian tĩnh mịch đêm khuya của phố
huyện, đem lại cho phố huyện một chút gì đó của sự sống.
TÀI LIỆU LTĐH MÔN VĂN Thầy Lê Phước Nghiệp
TRUNG TÂM LTĐH 17 QUANG TRUNG ĐT: 07103 751 929 Trang 5
– “Hai ba người cầm đèn lồng lung lay các bóng dài : mấy người làm cơng ở hiệu
sách đi đón bà chủ ở tỉnh về. Bác Siêu nghển cổ nhìn ra phía ga ”
– “Tiếng còi xe lửa ở đâu vang lại”.
– “Liên đánh thức em: – dậy đi, An. Tàu đến rồi”.
– “Một làn khói bừng sáng trắng lên đằng xa, tiếp đến tiếng hành khách ồn ào
khe khẽ”.
– “Tiếng còi đã rít lên, và tàu rầm rộ đi tới các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh
cả xuống đường”.
Đêm nào chị em Liên cũng thức để đón chuyến tàu đi qua. Q buồn ngủ, mi mắt
An sắp sửa rơi xuống còn dặn theo chị: “Tàu đến chị đánh thức em dậy nhé”. Sống giữa
cái phố huyện xa xơi hẻo lánh này An và Liên rất buồn, hầu như khơng có chút niềm vui
nào. Niềm vui duy nhất của hai chị em là được nhìn thấy chuyến tàu đêm đi qua với “các
toa đèn sáng trưng, chiếu ánh cả xuống đường. Liên chỉ thống trơng thấy những toa
hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh và các cửa kính sáng”.
Chuyến tàu qua rồi mà “hai chị em còn nhìn theo cái chấm nhỏ của chiếc đèn
xanh trên toa sau cùng, xa xa mãi khuất sau rặng tre”.
Chuyến tàu từ Hà Nội về làm cho “Liên lặng theo mơ tưởng, Hà Nội xa xăm, Hà
Nội sáng rực vui vẻ và hun náo”. Con tàu đã gợi lại trong tâm hồn Liên với những hồi
niệm xa xơi trong ký ức về Hà Nội, nơi Liên đã từng sống với bao kỷ niệm êm đềm.
Con tàu chỉ đến và đi trong chốc lát nhưng “con tàu như đã đem một chút thế giới
khác đi qua. Một thế giới khác hẳn đối với Liên, khác hẳn các vầng sáng ngọn đèn của
chị Tý và ánh lửa của Bác Siêu”.
Chính đó là niềm vui là nguồn an ủi chị em Liên giữa cái phố huyện tối tăm, buồn

tẻ này, nên khi con tàu đi qua rồi, trả lại cho phố huyện cái đêm tối mênh mang và n
lặng thì chị em Liên và An mới đi ngủ.
Khi “gối đầu lên tay nhắm mắt lại” trong lòng Liên vẫn còn đọng lại một cảm
giác mơn man, xa xơi nào đó: “Những cảm giác ban ngày lắng đi trong tâm hồn Liên và
hình ảnh thế giới chung quanh mình, mờ mờ đi trong mắt chị. Liên thấy mình sống giữa
bao nhiêu sự xa xơi khơng biết như chiếc đèn con của chị Tý chỉ chiếu sáng một vùng đất
nhỏ”. Với chi tiết này nhà văn Thạch Lam càng làm nổi bật niềm khát khao cuộc sống
thật mãnh liệt, nhưng cũng thật đáng thương của Liên trước cái thực tại đầy đen tối. Liên
ước mơ được sống trong một cảnh đời khác tươi sáng hơn, tốt đẹp hơn nhưng ước mơ ấy
thật mong manh. Và nhà văn đã đi đến kết luận thật chua chát: “Nhưng Liên khơng nghĩ
được lâu, mắt chị nặng dần, rồi sau Liên ngập vào giấc ngủ n tĩnh, cũng n tĩnh như
đêm đêm trong phố, tịch mịch và đầy bóng tối”. Cái kết luận này cho ta thấy cả tấm lòng
thương u, thơng cảm đầy đau đớn xót xa của nhà văn đối với cuộc sống của tuổi thơ
trước cái xã hội ngột ngạt, đen tối lúc bấy giờ.
TÀI LIỆU LTĐH MÔN VĂN Thầy Lê Phước Nghiệp
TRUNG TÂM LTĐH 17 QUANG TRUNG ĐT: 07103 751 929 Trang 6
– Bằng những chi tiết đời thường nhưng với những cảm xúc tinh tế, lời văn nhẹ
nhàng, có sức gợi tà tác giả đã đi sâu vào thế giới nội tâm của hai chị em Liên và An,
khơi dậy trong lòng người đọc cảm giác vừa buồn thương vừa xót xa đau đớn cho cuộc
sống của tuổi thơ trong xã hội đen tối lúc bấy giờ.
– Tác giả rất khéo léo khi dựng cảnh chiều tàn và đêm của một phố huyện xa xơi
hẻo lánh và lấy đó làm nền để thể hiện nổi bật hai hình tượng nhân vật trung tâm Liên và
An.
– Những hình ảnh trong truyện có sức gợi tả lớn, gợi cho người đọc những mối
liên tưởng sâu xa như cảnh chiều tàn mênh mơng, “êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch
nhái kêu ran ngồi đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào”, cảnh bóng đêm phủ ngập đầy phố
huyện, hình ảnh hai chị em Liên “ngước mắt lên nhìn các vì sao để tìm sơng Ngân Hà và
con vịt theo sao ơng Thần Nơng ”: hình ảnh ngọn đèn leo lắt của chị Tý, ngọn lửa từ
gánh phở của bác Siêu; hình ảnh vợ chồng bác Xẩm và mấy đứa con ngủ gục trên manh
chiếu tự bao giờ, hình ảnh hai chị em Liên và An nhìn theo con tàu: hình ảnh Hà Nội

trong ký ức mơ hồ của Liên tất cả những hình ảnh đó đều gợi lên trong lòng người đọc
về cuộc sống đen tối bế tắc của những con người ở một vùng q nghèo đói. Điều đó
chứng tỏ nhà văn Thạch Lam khơng những chỉ thành cơng trong nghệ thuật tả cảnh mà
nhà văn còn rất thành cơng trong nghệ thuật tả hình.
“Hai đứa trẻ” là một truyện ngắn khá thành cơng của nhà văn Thạch Lam. Với lời
văn nhẹ nhàng, cảm xúc tinh tế, ngơn ngữ giàu hình ảnh gợi tả, tác giả đã vẽ nên một bức
tranh khá chân thực và sinh động về cuộc sống của người dân ở một phố huyện xa xơi
hẻo lánh. Đặc biệt đó là cuộc sống thật tội nghiệp và đáng thương của hai chị em Liên,
An và đó cũng chính là hình ảnh của cuộc sống tuổi thơ Việt Nam trong xã hội lúc bấy
giờ.
Truyện “Hai đứa trẻ” đã thể hiện nổi bật tính nhân văn sâu sắc của nhà văn Thạch
Lam.

II. TẬP LÀM VĂN
Đề 1 : Bức tranh phố huyện và tâm trạng nhân vật Liên qua ngòi bút Thạch Lam
trong truyện ngắn Hai đứa trẻ. Từ đó rút ra ý nghĩa tư tưởng gì của tác phẩm ?
BÀI LÀM
1Giới thiệu chung
Giống như phần lớn truyện ngắn khác của Thạch Lam, Hai đứa trẻ là một truyện
khơng có cốt truyện. “Hai đứa trẻ ”, ngồi trên chiếc chõng nát trước cửa hàng của một
phố huyện, ngắm cảnh phố xá lúc chiều muộn đi vào đêm ; tuy đã buồn ngủ ríu cả mắt,
hai chị em vẫn cố sức để đợi xem chuyến tàu đêm đi qua, rồi mới khép cửa hàng đi ngủ…
TÀI LIỆU LTĐH MÔN VĂN Thầy Lê Phước Nghiệp
TRUNG TÂM LTĐH 17 QUANG TRUNG ĐT: 07103 751 929 Trang 7
Truyện chỉ có thế nhưng khơng nhạt nhẽo, vơ vị, mà trái lại, rất thấm thía, nhiều dư vị, dư
vang. Đó là do sức gợi cảm đặc biệt của “loại truyện tâm tình” Thạch Lam ; được viết ra
từ một ngòi bút nhân hậu và một giọng điệu nhỏ nhẹ, điềm tĩnh, lắng sâu.
2. Phân tích.
* Bức tranh phố huyện nghèo nàn, tăm tối
Như tên tác phẩm, đó là truyện của “hai đứa trẻ”, nhưng cũng là truyện của cả

một phố huyện nghèo với những con người bé nhỏ thưa thớt, tội nghiệp đang âm thầm đi
vào đêm tối. Đêm tối đã trở thành “cái nền thiên nhiên” cho bức tranh đời sống của phố
huyện nghèo, thành một hình tượng nghệ thuật đặc sắc có sức lay động và ám ảnh mạnh
mẽ.
a) Ít có tác phẩm nào hình ảnh đêm tối lại được miêu tả đậm đặc, trở đi trở lại…
như một ám ảnh khơng dứt như trong truyện Hai đứa trẻ của Thạch Lam : tác phẩm mở
đầu bằng những dấu hiệu của một “ngày tàn” và kết thúc bằng một “đêm tịch mịch đầy
bóng tối”, ở trong đó, màu đen, bóng tối bao trùm và ngự trị tất cả : đường phố và các
ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối, tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sơng, con đường
qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại sẫm đen hơn nữa. Một tiếng trống cầm canh ở huyện
đánh tung lên một tiếng ngắn, khơ khan, khơng vang động ra xa, rồi cũng chìm ngay vào
bóng tối… Cả đồn tàu từ Hà Nội mang ánh sáng lướt qua trong phút chốc rồi cũng “đi
vào đêm tối”… Người đọc cảm nhận đây khơng chỉ là đêm tối của thiên nhiên, của khơng
gian và thời gian, mà còn là bóng tối của cuộc đời, của những kiếp người nơi phố huyện.
Một bức tranh thiên nhiên đầy ấn tượng, được vẻ lên bằng những nét bút tinh tế, lại hàm
chứa nhiều ý nghĩa sâu sắc.
b) Trong cái phơng của khung cảnh bóng tối dày đặc này, là những mảnh đời của
những con người sống trong tăm tối. Họ là những con người bình thường, chỉ xuất hiện
thống qua, hầu như chỉ như một cái bóng, từ hình ảnh mẹ con chị Tí với hàng nước tồi
tàn đến một gia đình nhà xẩm sống lê la trên mặt đấ, cho đến cả những con người khơng
tên : một vài người bán hàng về muộn, những đứa trẻ con nhà nghèo cúi lom khom nhặt
nhạnh tìm tòi… Tất cả họ khơng được Thạch Lam miêu tả chi tiết : nguồn gốc, xuất thân,
số phận… nhưng có lẽ nhờ thế mà số phận họ hiện lên càng thêm bé nhỏ, tội nghiệp, ai
cũng sống âm thầm, nhẫn nhục, lam lũ giống như những cái bóng lầm lũi, lặng lẽ trong
cái bóng tối bao trùm và ngự trị tất cả phố huyện. Bóng tối ấy bủa vây kín mít khiến cho
ngọn đèn leo lét của hàng nước chị Tí “chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ” và ánh lửa từ
thùng phở bác Siêu cũng chỉ hắt ra một vầng sáng con con. Khơng phải ngẫu nhiên mà
hình ảnh ngọn đèn chị Tí cứ trở đi trở lại đến bảy lần trong mấy trang truyện ngắn như
một biểu tượng đầy ám ảnh về những kiếp sống nhỏ nhoi leo lét, vơ nghĩa giữa đêm tối
mênh mơng của cuộc đời. “Ngọn đèn và ánh lửa cuộc đời” ấy thật yếu ớt và tội nghiệp

gợi lên niềm xót xa thương cảm trong lòng người đọc trước một cảnh sống mỏi mòn và
ngưng đọng. Cảnh phố huyện chiều tối hơm nay cũng giống như hơm qua và sẽ lặp lại
trong ngày mai : mẹ con chị Tí lại lễ mễ dọn hàng, bác phở Siêu lại gánh hàng ra và thổi
TÀI LIỆU LTĐH MÔN VĂN Thầy Lê Phước Nghiệp
TRUNG TÂM LTĐH 17 QUANG TRUNG ĐT: 07103 751 929 Trang 8
lửa, bác xẩm lại rải chiếu và bày cái thau sắt… Nhịp sống ấy cứ lặp đi lặp lại ngày này
sang tháng khác, đơn điệu uể oải, buồn tẻ. Nhưng biết làm sao được! Khơng phải những
con người khốn khổ ấy khơng hi vọng – khơng hi vọng thì làm sao sống được? “Chừng
ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày
của họ”. Có điều, sự mong đợi ấy thật tội nghiệp: “một cái gì tươi sáng” ấy là “một cái
gì” thật mơ hồ; và biết đến bao giờ nó mới đến? Dẫu sao thì những dòng chữ ấy cũng là
một sự sẻ chia, thơng cảm, một tấm lòng thương u được viết ra bằng một ngòi bút nhân
hậu với một giọng điện nhỏ nhẹ mà thấm thía lắng sâu. Văn Thạch Lam là như thế và
trong truyện ngắn này ta gặp được nhiều câu văn, giọng văn tâm tình như thế.
*. Tâm trạng buồn chán và ước mơ khao khát của Liên
Giữa bấy nhiêu con người, nhà văn chỉ đi sâu vào thế giới tâm hồn của “hai đứa”
trẻ đặc biệt là Liên. Chúng chưa phải là loại cùng đinh nhất của xã hội nhưng là tiêu biểu
cho những con nhà lành, đang rơi vào cảnh nghèo đói, bế tắc vì sa sút, thất nghiệp.
a. Tâm trạng buồn chán trước cảnh sống hiện tại ở phố huyện
Hình ảnh tăm tối của phố huyện và những con ngừơi tăm tối khơng kém, sống “ở
nơi đây hiện lên qua cái nhìn và tâm trạng của Liên. Mở đầu tác phẩm ta bắt gặp hình ảnh
Liên ngồi n lặng bên mấy quả thuốc sơn đen “đơi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái
buồn man mác của buổi chiều xun thấm vào tâm hồn ngây thơ của chị ” và “chị thấy
buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn”. Thạch Lam khơng miêu tả tỉ mỉ đời
sống vật chất của Liên, nhà văn chủ yếu đi sâu thể hiện thế giới tinh thần của nhân vật
với nỗi buồn man mác, mơ hồ của một cơ bé khơng còn hồn tồn trẻ con, nhưng cũng
chưa phải là người lớn. Tác giả gọi “chị” vì quả Liên là một người chị biết quan tâm săn
sóc em, biết đảm đang tảo tần thay mẹ, nhưng tâm hồn Liên thì vẫn còn là tâm hồn trẻ dại
với những khao khát hồn nhiên, thơ ngây, bình dị. Một tâm hồn như thế mà “buồn man
mác trước cái giờ khắc của ngày tàn” thì thật thấm thía biết bao, đáng cho ta suy nghĩ

biết bao về cảnh sống lúc bấy giờ nơi phố huyện.
Tâm hồn trẻ vốn ưa quan sát, sợ bóng tối và khát khao ánh sáng. Bức tranh phố
huyện hiện ra chính là qua tâm trạng này : “Hai chị em gượng nhẹ (trên chiếc chõng sắp
gãy) ngồi n nhìn ra phố… Liên trơng thấy “mấy đứa trẻ con nhà nghèo ven chợ cúi lom
khom trên mặt đất đi lại tìm tòi” nhưng “chính chị cũng khơng có tiền để mà cho chúng
nó…” “Trời nhá nhem tối, bây giờ chị em Liên mới thấy thằng cu bé xách điếu đóm và
khiêng cái ghế trên lựng ở trong ngõ đi ra…” “Hai chị em đứng sững nhìn theo bà cụ Thi
đi lẫn vào bóng tối…” Nhìn những con người âm thầm đi vào đêm tối, những cái bóng
lặng lẽ trong bóng đêm dày đặc, nỗi buồn chán dâng lên trong lòng Liên, bởi vì “từ khi
nhà Liên dọn về đây… đêm nào Liên và em cũng phải ngồi trên chiếc chõng tre dưới gốc
cây bàng với cái tối của quang cảnh phố xung quanh”…
Cuộc đời Liên cũng đã âm thầm đi vào bóng tối từ lúc nào, cơ đã sống trong cái
bóng tối dày đặc của phố huyện từ bao lâu… mà đến nay, “đêm tối đối với Liên quen lắm,
TÀI LIỆU LTĐH MÔN VĂN Thầy Lê Phước Nghiệp
TRUNG TÂM LTĐH 17 QUANG TRUNG ĐT: 07103 751 929 Trang 9
chị khơng sợ nó nữa”. “Khơng sợ nó nữa” nghĩa là đã từng sợ. Chỉ mấy từ “khơng sợ nó
nữa” mà gợi ra bao liên tưởng. Hẳn là Liêng đã từng sợ cái bóng tối dày đặc đã từng bao
vây những ngày đầu mới dọn về đây. Còn bây giờ Liên đã “quen lắm”. Sống mãi trong
bóng tối rồi cũng thành quen, cũng như khổ mãi người ta cũng quen dần với nỗi khổ. Có
một cái gì tội nghiệp, cam chịu qua hai từ “quen lắm” mà nhà văn dùng ở đây. Và người
đọc cũng cảm thấy xót xa khi một tâm hồn thơ ngây non trẻ đã bị vùi sâu trong bóng tối
của cuộc đời đến mức thanh chai sạn. Một câu văn ngắn mà hàm chứa bao ý nghĩa, để lại
nhiều dư vị, dư vang.
b. Ước mơ khao khát một cuộc sống tốt đẹp hơn
Liên “quen lắm” với bóng tối khơng có nghĩa là cơ hồn tồn cam chịu sống trong
cái bóng tối ấy suốt cả cuộc đời. Những người sống trong bóng tối bao giờ cũng thèm
khát ánh sáng và muốn được sống trong ánh sáng. Thạch Lam đã đi sâu vào cái nỗi thèm
khát ánh s1ng trong chỗ sâu nhất của những tâm hồn trẻ dại. Ơng dõi theo hai chị em
Liên ngước mắt lên nhìn vòm trời sao lấp lánh để tìm sơng Ngân Hà và con vịt theo sau
ơng Thần Nơng như trẻ thơ vẫn khao khát những điều kì diệu trong truyện cổ tích, những

vũ trụ thăm thẳm bao la đối với tâm hồn hai đứa trẻ như đầy bí mật, lại q xa lạ làm mõi
trí nghĩ, nên chỉ một lát, hai chị em lại cúi nhìn về mặt đất, về quầng sáng thân mật chung
quanh ngọn đèn lay động của chị Tí…
Sống mãi trong bóng tối “quen lắm” với bóng tối, Liên càng khát khao hướng về
ánh sáng, cơ theo dõi, tìm kiếm, chỉ mong ánh sáng đến từ mọi phía : từ “ngàn sao lấp
lánh trên trời” đến từng hột sáng lọt qua phên nứa, rồi Liên mơ tưởng tới ánh sáng của
q khứ, của những kỉ niệm về “Hà Nội xa xăm. Hà Nội sáng rực vui vẻ và hun náo”
đã lùi xa tít tắp ; tất cả, cuối cùng, đã bùng lên thành một khát khao mãnh liệt như là một
nhu cầu bức thiết về tinh thần khơng thể thiếu được : đêm đêm thức đợi xem chuyến tàu
đi qua phố huyện, để được trong chốc lát, thốt ra khỏi cuộc sống buồn chán nơi phố
huyện, sống một cuộc sống nhộn nhịp hun náo và đầy ánh sáng. Liên đã mải mê đón
chờ đồn tàu từ Hà Nội về với “các toa đèn sáng trưng” và nhìn hút theo chấm nhỏ của
chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng xa xa mãi… Đó là thế giới của ao ước, dùng chỉ là
một ao ước nhỏ nhoi, dù chỉ như là một ảo ảnh. Nhưng như thế cũng đã là những phút
giây bừng sáng hạnh phúc trong cả một ngày dài buồn chán, tẻ nhạt của hai đứa trẻ.
Khơng thấm đượm một tấm lòng nhân ái sâu xa, khơng hiểu lòng con trẻ khơng có một
tâm hồn nhạy cảm giàu chất thơ thì khơng thể diễn tả tinh tế đến thế nỗi thèm khát ánh
sáng của những con người sống trong bóng tối.
3. Nhận xét chung,
Qua bức tranh phố huyện và tâm trạng nhân vật Liên, tác phẩm thể hiện một niềm
xót thương vơ hạn đối với những kiếp người nhỏ bé, vơ danh, khơng bao giờ được biết
đến ánh sáng và hạnh phúc, cuộc sống mãi mãi bị chơn vùi trong tăm tối, nghèo đói, buồn
chán nơi phố huyện, và nói rộng ra, trên đất nước còn chìm đắm trong cảnh nơ lệ và đói
nghèo. Đồng thời tác phẩm cũng muốn lay tỉnh những tâm hồn uể oải, đang lụi tắt, đốt
TÀI LIỆU LTĐH MÔN VĂN Thầy Lê Phước Nghiệp
TRUNG TÂM LTĐH 17 QUANG TRUNG ĐT: 07103 751 929 Trang 10
lên trong lòng họ ngọn lửa của lòng khao khát được sống một cuộc sống có ý nghĩa hơn,
khao khát thốt khỏi cuộc đời tăm tối đang muốn chơn vùi họ. Đó là ý nghĩa nhân văn và
nhân đạo sâu sắc của Hai đứa trẻ.
(Giới thiệu đềthi TS ĐH&CĐ –NXB

ĐHQG –HN )
Đề 2 : Anh/chị hãy nêu những nét chính về tình cảm nhân đạo và bút pháp nghệ
thuật của Thạch Lam trong truyện ngắn Hai đứa trẻ.
(Đề tuyển sinh ĐH khối C năm 2009 )
GỢI Ý BÀI LÀM
- Giới thiệu Thạch Lam là một trong những cây bút chủ lực của nhóm Tự lực văn đồn
với những sáng tác mang đậm tình cảm nhân đạo và bút pháp nghệ thuật đặc sắc, trong
đó có truyện Hai đứa trẻ.
- Tình cảm nhân đạo trong tác phẩm Hai đứa trẻ được thể hiện trong:
+ Sự cảm thơng của nhà văn với những rung động nhẹ nhàng, tinh tế trong tâm
hồn con người: tâm hồn Liên man mác buồn trong thời khắc của một ngày tàn; Liên xúc
động khi nhìn thấy những đứa trẻ nghèo đi lại nhặt nhạnh những vật thừa nơi chợ chiều
nhưng chính chị cũng khơng có tiền cho chúng.
+ Sự cảm thơng cho những kiếp người nhỏ bé nơi phố huyện nghèo. Đó là những
kiếp người nghèo khổ, đơn điệu, mòn mỏi, tẻ nhạt.
* Hình ảnh mẹ con chị Tí bán nước trà và q vặt hằng đêm.
* Hình ảnh bác phở Siêu bán phở gánh.
* Hình ảnh vợ chồng bác xẩm hát dạo, xin ăn.
* Và cả hình ảnh chị em Liên, An – những đứa trẻ sớm phải phụ giúp sinh
kế gia đình.
+ Sự thấu hiểu và trân trọng của nhà văn với khát vọng thầm lặng, sâu sắc trong
tâm hồn những người nghèo khổ. Họ ln khao khát về một thế giới, một tương lai tươi
sáng khác với hiện tại nghèo khổ đen tối của họ: ngần ấy con người ngồi trong bóng tối
hướng vọng về đồn tàu Hà Nội rực rỡ, sang trọng – hình ảnh tươi sáng của tương lai.
- Bút pháp nghệ thuật đặc sắc biểu hiện qua:
+ Cốt truyện giản dị hầu như khơng có chuyện mà vẫn chứa đựng nội dung giàu
tính nhân văn, gợi được những rung động sâu lắng, hấp dẫn nơi người đọc và có sức lay
tỉnh tâm hồn người.
+ Bút pháp tả thực kết hợp hài hòa với trữ tình tạo dựng sinh động, chân thật bức
tranh nhân thế cảm động của phố huyện nghèo nhưng đầy ấp tình người.

+ Lời văn trong sáng và gợi hình, gợi cảm; giọng văn trữ tình, giàu chất thơ tạo
được âm hưởng ngân vang và ấn tượng sâu sắc nơi người đọc.
- Thạch Lam với Hai đứa trẻ đã để lại cho văn học Việt Nam một sáng tác đặc sắc
giàu tính nhân văn.


( Theo đáp án của Bộ GD&ĐT )

TÀI LIỆU LTĐH MÔN VĂN Thầy Lê Phước Nghiệp
TRUNG TÂM LTĐH 17 QUANG TRUNG ĐT: 07103 751 929 Trang 11
CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ - NGUYỄN TN
I. CẢM THỤ TÁC PHẨM
Thơng qua câu chuyện “Chữ người tử tù” nhà văn Nguyễn Tn đã ca ngợi những con
người tài đức đó là những con người dù có rơi vào hồn cảnh nghiệt ngã khốn cùng nào
vẫn giữ được cái “thiên lương” cao đẹp, sống hiên ngang, bất khuất, khơng hề bị khuất
phục trước uy quyền và bạo lực. Câu chuyện là một khẳng định sự bất tử của cái đẹp.
1. Nhân vật Huấn Cao:
– Xây dựng nhân vật Huấn Cao, Nguyễn Tn dựa vào nhân vật cụ thể Cao Bá
Qt. Cao Bá Qt là một con người thơng minh, học giỏi nổi tiếng, rất mực tài hoa, văn
hay, chữ tốt nhưng ơng khơng chấp nhận cái triều đại phong kiến thối nát lúc bấy giờ nên
đã lãnh đạo phong trào nơng dân khởi nghĩa chống lại triều đình. Về cái chết của ơng có
hai ý kiến khác nhau: có ý kiến cho rằng ơng đã hy sinh trong chiến trận, có ý kiến khác
lại cho rằng ơng đã bị bắt và bị xử trảm.
Điều này cho ta thấy được tấm lòng rất trân trọng của Nguyễn Tn đối với
những người anh hùng đã hy sinh vì nghĩa lớn. Qua đó, ta thấy được tấm lòng ưu ái của
ơng đối với đất nước.
– Huấn Cao là một người nghệ sĩ chân chính rất mực tài hoa, hiếm có trong nghệ
thuật thư pháp. Ơng “viết chữ rất nhanh và đẹp”. Chữ viết của ơng đã trở thành những
bức tranh nghệ thuật và là niềm khao khát của những con người say mê cái đẹp: “có được
chữ ơng Huấn Cao mà treo là có một vật báu trên đời”. Nhưng Huấn Cao là một con

người sống có nhân cách, biết tự trọng. Ơng ln ln đặt chữ tâm trên chữ tài, trên cả
bạc vàng, địa vị: “Ta nhất sinh khơng vì vàng ngọc hay quyền thế mà phải ép mình viết
câu đối bao giờ”. Cho nên xin đượ chữ của ơng khơng phải là chuyện dễ, khơng phải ai
cũng xin được trừ ba người bạn tri âm, tri kỷ của ơng: “Tính ơng vốn khoảng, từ chỗ tri
kỷ, ơng ít chịu cho chữ”. Tuy vậy, nhưng khi ơng “thấy cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài”
của viên quản ngục thì ơng lại bằng lòng cho chữ “nào ta có biết đâu một người thầy
Quản đây mà lại có những sở thích cao q như vậy. Thiếu chút nữa, ta đi phụ mất một
tấm lòng trong thiên hạ”.
Những lời khun của Huấn Cao với viên quản ngục đã thể hiện rõ quan điểm
thống nhất giữa cái tâm và cái tài, giữa cái đẹp và cái thiện: “Ta khun thầy Quản nên
thay chốn ở đi. Chỗ này khơng phải là nơi để treo một bức lụa trắng với những nét chữ
vng tươi tắn nó nói lên những hồi bão tung hồnh của một đời con người”, “… tơi
bảo thực đấy, thầy Quản nên tìm về nhà q mà ở đã, thầy hãy thốt khỏi cái nghề này đi
đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây, khó giữ cái thiên lương cho lành vững và
rồi cũng đến nhem nhuốc mất cả đời người lương thiện đi”. Lời khun chân thành này
của Huấn Cao đã gây xúc động mạnh và cảm hố được viên quản ngục: “Ngục quan cảm
TÀI LIỆU LTĐH MÔN VĂN Thầy Lê Phước Nghiệp
TRUNG TÂM LTĐH 17 QUANG TRUNG ĐT: 07103 751 929 Trang 12
động, vái người tử tù một cái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng
làm cho nghẹn ngào: “kẻ mê muội này xin bái lĩnh””.
– Huấn Cao là một người anh hùng, đầy khí phách, sống hiên ngang khơng hề
khuất phục trước uy quyền và bạo lực:
Huấn Cao là một lãnh tự của phong trào nơng dân khởi nghĩa, ngang nhiên chống
lại triều đình, Khi bị bắt, cổ đeo gơng, bị giải vào nhà lao chờ ngày xử chém ơng vẫn ung
dung, khơng hề sợ sệt: “Huấn Cao đứng đầu gơng, quay cổ lại bảo mấy bạn đồng chí :
rệp cắn tơi, đỏ cả cổ lên rồi. Phải dỗ gơng đi”.
Lời viên quản ngục nói với thầy thơ lại càng làm nổi bật cái tài và cái khí phách
của Huấn Cao: “Thầy có nghe người ta đồn Huấn Cao ngồi cái tài viết chữ tốt, lại còn
có tài bẻ khố và vượt ngục nữa khơng?”.
Trong tù “Huấn Cao vẫn thản nhiên nhận rượu thịt, coi như đó là một việc vẫn

làm trong cái hứng bình sinh lúc chưa bị giam cầm”, Huấn Cao còn khinh bỉ viên quản
ngục, kẻ nắm trong tay quyền lực có thể hành hạ, đánh đập mình vì ơng những tưởng
viên quản ngục này cũng như bao nhiêu viên quản ngục khác. Thái độ khinh bỉ của ơng
được thể hiện khá rõ trong câu trả lời câu hỏi của viên quản ngục: “Vậy ngài có cần thêm
gì nữa xin cho biết. Tơi sẽ cố gắng chu tất”, “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một
điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”.
– Huấn Cao là một con người rất u cái đẹp, cái thiện. Chính vì vậy mà ơng cảm
thơng được tấm lòng biết u cái đẹp của viên quản ngục, cho chữ viên quản ngục. Và
cũng chính vì có quan niệm thống nhất giữa cái đẹp và cái thiện nên Huấn Cao đã khun
viên quản ngục nên về q, rời bỏ cái nghề quản ngục để giữ lấy cái đẹp và cái thiện.
Tóm lại, Huấn Cao là một nhân vật tốt lên một vẻ đẹp khá tồn diện. Ơng vừa là
một con người rất mực tài hoa vừa là một con người hiên ngang khí phách, sống với một
mục đích, lý tưởng cao đẹp bất chấp cả uy quyền và bạo lực. Ơng ln ln đặt chữ
“tâm” trên chữ “tài” và có quan niệm thống nhất giữa cái đẹp và cái thiện. Cái đẹp và cái
thiện phải ln ln đi đơi với nhau, gắn bó mật thiết với nhau, khơng thể tách rời nhau
được. Huấn Cao quả là một nhân vật thật lý tưởng.
2. Nhân vật viên quản ngục
– Viên quản ngục là một con người biết q trọng kẻ tài đứng: khi mới nghe sáng
mai lính tỉnh sẽ dẫn đến sáu tên tù án chém, trong đó có Huấn Cao thì lòng viên quản
ngục cảm thấy băn khoăn, thương tiếc: “Nơi góc chiếc án thư cũ đã nhạt màu vàng son
một cây đèn để leo lét rọi vào một khn mặt nghĩ ngợi. Ngục quan băn khoăn ngồi bóp
thái dương”.
Đêm đã về khuya, nhưng “nơi góc chiếc án thư vàng son đã nhợt, đã mờ, đĩa dầu
sở trên cây nến vơi lần mực dầu” viên quản ngục vẫn ngồi đấy, rất hiền từ. Hình ảnh:
“đầu đã điểm hoa râm, râu đã ngả màu. Những đường nhã nheo của một bộ mặt tư lự,
TÀI LIỆU LTĐH MÔN VĂN Thầy Lê Phước Nghiệp
TRUNG TÂM LTĐH 17 QUANG TRUNG ĐT: 07103 751 929 Trang 13
bây giờ đã biến mất. Ở đấy, giờ chỉ còn là mặt nước ao xn, bằng lặng, kín đáo và êm
nhẹ” của viên quản ngục chính là bản chất lương thiện vốn có của ơng, cái bản chất mà
bấy lâu nay sống trong cái cảnh tối tăm của đề lao với việc coi ngục của ơng đã bị che lấp

đi. Huấn Cao xuất hiện như một nguồn ánh sáng, khơi dậy lại trong ơng cái bản chất
lương thiện của ơng. Và chính tác giả đã khẳng định:
“Trong hồn cảnh đề lao, người ta sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc, tính cách
dịu dàng và lòng biết giá người, biết trọng người ngay của viên quan coi ngục này là một
thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn độn xơ bồ”.
Chính cái bản chất vốn có của viên quản ngục được đánh thức nên : “Viên quản
ngục nhìn sáu tên tù mới vào với cặp mắt hiền lành. Lòng kiêng nể… ngục quan còn có
biệt nhỡn đối riêng với Huấn Cao…” và ngày ngày cho người thơ lại mang rượu thịt vào
cho Huấn Cao.
Khi ơng bị Huấn Cao thốt lên câu nói đầy khinh bạc: “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta
chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây “. Viên quản ngục vẫn nhẫn
nhục chịu đựng với bao nỗi khổ tâm và lễ phép chấp nhận lui ra với câu nói “xin lĩnh ý”.
Điều đó đã cho ta thấy tấm lòng kính trọng của viên quản ngục đối với những người có
tài như ơng Huấn Cao, đồng thời cũng thể hiện niềm khát khao mãnh liệt của viên quản
ngục mong có được chữ viết của ơng Huấn Cao. Theo ơng có được chữ viết ấy là có được
“một báu vật trên đời”.
Trong cảnh cho chữ, ta thấy thái độ của viên quản ngục thật trân trọng, đầu óc của
ơng như căng ra đầy xúc động: “người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại vội khúm
núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ơ chữ trên mặt phiến lụa óng”.
Sau khi được Huấn Cao cho chữ và khun bảo, viên quản ngục càng xúc động,
nức nở, nghẹn ngào, xin nghe theo lời dạy của Huấn Cao: “Ngục quan cảm động, vái
người tù một cái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn
ngào: “kẻ mê muội này xin bái lĩnh””. Quả đúng như điều nhà văn đã nói ở trên: “Ơng
trời nhiều khi chơi ác đem đày ải những cái thuần khiết vào giữa một đống cặn bã. Và
người thẳng thắn, lại phải ăn đời ở kiếp với lũ quay quắt”. Nhưng ta tin một điều là viên
quản ngục sẽ về q, từ bỏ cái nghề coi ngục để giữ “thiên lương cho lành vững” và vui
với cái đẹp như ơng Huấn Cao mong muốn.
Tóm lại, tuy sống bằng cái nghề độc ác, tàn bạo, nhưng viên quản ngục là một con
người biết q trọng kẻ có tài, biết u cái đẹp, trân trọng với cái đẹp, biết nghe theo lời
khun bảo của Huấn Cao để trở về với cái thiện và giữ lấy cái đẹp.

3. Cảnh cho chữ :
Cảnh cho chữ diễn ra ở cái thời điểm đêm đã về khuya và trong một cái khơng
gian chật hẹp, tối tăm của nhà ngục với “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có, đã bày ra
TÀI LIỆU LTĐH MÔN VĂN Thầy Lê Phước Nghiệp
TRUNG TÂM LTĐH 17 QUANG TRUNG ĐT: 07103 751 929 Trang 14
trong một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột,
phân gián”.
Trong cảnh này, tác giả đã khéo tạo những hình ảnh đối lập. Thứ nhất là sự đối
lập giữa cái đẹp của “tấm lụa trắng tinh”, “phiến lụa óng”, “nét chữ vng tươi tắn”,
thoi mực thơm” với cái dơ dáy, bẩn thỉu của “buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy
mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Thứ hai là sự đối lập giữa hình ảnh
người tù “cổ đeo gơng, chân vướng xiềng đang dậm tơ nét chữ trên tấm lụa trắng tinh
căng trên mảnh ván” với hình ảnh viên quản ngục “khúm núm” và thầy thơ lại gầy gò
“run run bưng chậu mực”.
Sự đối lập thứ nhất cho ta thấy giữa cái ác, nơi tăm tối của nhà ngục cái đẹp vẫn
sống, khơng hề bị tiêu diệt. Trong sự đối lập thứ hai ta thấy một sự chuyển hố quyền lực.
Viên quản ngục nắm trong tay quyền hành hạ, đánh đập Huấn Cao lại trở thành “khúm
núm” trước Huấn Cao. Đó phải chăng chính là sức mạnh của cái đẹp, cái thiện đã chiến
thắng cái xấu cái ác.
Điều cuối cùng trong cảnh cho chữ là lời Huấn Cao khun bảo viên quản ngục:
“Thầy Quản nên về nhà q mà ở đã, thầy hãy thốt cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến
chuyện chơi chữ. Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc
mất cả đời lương thiện đi” và thái độ cảm động của viên quản ngục trước lời khun đó
và hứa nghe theo “kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Đây là một điều có nghĩa thật vơ cùng
sâu sắc và độc đáo. Phải chăng với điều này tác giả như muốn nói với chúng ta rằng:
giữa cái ác, cái đẹp vẫn khơng bị tiêu diệt, nhưng cái đẹp khơng thể sống chung với cái
ác, cái đẹp vẫn phải đi đơi với cái thiện. Muốn thưởng thức cái đẹp tâm hồn con người
phải có lương thiện, trong sáng, thanh cao.

II. TẬP LÀM VĂN

Đề 1 : Phân tích vẻ đẹp của hình tượng nhân vật Huấn Cao trong truyện ngắn Chữ
người tử tù của Nguyễn Tn
BÀI LÀM
1. Nguyễn Tn là một nhà văn tài hoa – khí phách. Ngay từ trước Cách mạng
tháng Tám, ngòi bút ấy đã biết hướng thiện, hướng mỹ để tìm ra và lưu giữ lại cho đời
những vẻ đẹp của một thời vang bóng. Trong nhiều vẻ đẹp của Vang bóng một thời xuất
bản năm 1940, nổi lên một vẻ đẹp chói lòa, rực rỡ, vẻ đẹp của hình tượng nhân vật Huấn
Cao trong truyện ngắn Chữ người tử tù nổi tiếng của ơng.
2. Nhân vật Huấn Cao được sáng tạo từ một ngun mẫu có thực trong cuộc đời:
đó là nhà thơ Cao Bá Qt anh hùng khí phách lại nổi tiếng viết chữ đẹp một thời.
Ngun mẫu vốn đã đẹp, nhưng khi đi vào tác phẩm, nhờ điển hình hố nghệ thuật, đã trở
thành một hình tượng nhân vật lunh linh tỏa sáng với ba vẻ đẹp rực rỡ chói lồ: vẻ đẹp
TÀI LIỆU LTĐH MÔN VĂN Thầy Lê Phước Nghiệp
TRUNG TÂM LTĐH 17 QUANG TRUNG ĐT: 07103 751 929 Trang 15
của tài hoa; của khí phách hiên ngang bất khuất, của “thiên lương” trong sáng. Ba vẻ đẹp
này khơng tách rời nhau mà gắn bó chặt chẽ với nhau để làm nên vẻ đẹp của nhân vật lí
tưởng của Nguyễn Tn. Và nhà văn, với nghệ thuật già dặn, khi miêu tả trực tiếp, lúc
miêu tả gián tiếp, lúc đặc tả thành ấn tượng nổi bật, ln đặt nhân vật vào những tình
huống nổi bật, ln đặt vào nhân vật vào những tình huống để thử thách và trong quan hệ
đối sánh với viên quản ngục và thầy thơ lại tất cả đã làm bật nổi lên vẻ đẹp của nhân vật
Huấn Cao.
a) Huấn Cao là một con người tài hoa khác thường. Ơng viết chữ rất đẹp. Đây là
viết chữ Hán, một nghệ thuật, một thú chơi tao nhã của người xưa gọi là thư pháp. Người
ta treo chữ đẹp (hoặc viết trên lụa, hoặc khác trên gỗ phủ sơn mài) trong nhà, nơi trang
trọng nhất như treo những bức họa q.
Tài viết chữ của Huấn Cao như thế nào, cứ xem thái độ của viên quản ngục thì rõ:
“Biết đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền, từ những ngày nào, cái sở nguyện của viên quan coi
ngục này là có một ngày kia treo ở nhà riêng mình một câu đối do tay ơng Huấn Cao viết.
Chữ ơng Huấn Cao đẹp lắm, vng lắm ( ) có được chữ ơng Huấn Cao mà treo là có
một vật báu trên đời”. Tất nhiên, chữ ơng Huấn Cao phải đẹp lắp, q lắm thì viên quản

ngục và thầy thơ lại mới phải kiên trì và dụng cơng đến như thế trong cách đối xử “biệt
nhỡn” đối với ơng để mong được ơng cho chữ. Mà đâu phải chỉ có kiên trì và cơng phu.
Còn phải dũng cảm nữa. Bởi vì biệt đãi một tên tử tù là một việc làm rất nguy hiểm. Mới
biết chữ ơng Huấn Cao đẹp đến chừng nào qua ước mơ và hành động của viên quản ngục.
b) Huấn Cao cũng là một con người có khí phách khác thường. Một tử tù chỉ đợi
ngày ra pháp trường mà khơng hề tỏ ra nao núng, vẫn ung dung đường hồng. “Đến cái
cảnh chết chém, ơng còn chẳng sợ nữa là ”. Khí phách anh hùng của Huấn Cao cũng
được làm nổi rõ trong quan hệ với viên quản ngục. Viên quản coi tù này hồn tồn có
quyền dùng những thủ đoạn tàn bạo đối với ơng, nhưng ơng chẳng những khơng sợ mà
còn “cố tình làm ra khinh bạc đủ điều”. Ngục quan vào gặp ơng trong nhà giam “khép
nép” hỏi: “Vậy ngài có cần thêm gì nữa xin cho biết. Tơi sẽ cố gắng chu tất”, ơng trả lời
thẳng: “Người hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào
đây”. Một tử tù mà đáp lại lời cầu xin của ngục quan như vậy, xưa nay thật hiếm có.
Nhưng quản ngục chẳng những khơng nổi nóng mà còn tỏ ra kính nể hơn nữa, bởi
vì “y cũng thừa hiểu những người chọc trời khuấy nước, đến trên đầu người ta, người ta
cũng còn chẳng biết có ai nữa, huống chi cái thứ mình chỉ là một kẻ tiểu lại giữ tù”.
c) Tuy nhiên Huấn Cao khơng phải là con người có trái tim bằng thép. Đúng là
tiền bạc và quyền thế khơng lung lạc được ơng. Ngay cả việc cho chữ cũng vậy, ơng đã
nói: “Ta nhất sinh khơng vì vàng ngọc hay quyền thế mà phải ép mình viết câu đối bao
giờ”. Cho nên khi tưởng rằng người quản ngục trong cái trại giam này cũng giống như
mọi tên quản ngục khác, nghĩa là kẻ đại diện thơ bạo của quyền lực phi nghĩa, thì ơng tỏ
ra hết sức cứng rắn. Nhưng khi hiểu rằng đây là một tâm hồn trong sáng lạc vào giữa đám
người “cặn bã”, ơng liền thay đổi thái độ. Hố ra con người ấy cũng có lúc mềm lòng:
TÀI LIỆU LTĐH MÔN VĂN Thầy Lê Phước Nghiệp
TRUNG TÂM LTĐH 17 QUANG TRUNG ĐT: 07103 751 929 Trang 16
“Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như
thầy quản đây mà lại có những sở thích cao q như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất
một tấm lòng trong thiên hạ”. Đây là cái mềm lòng của một “thiên lương” trong sáng,
một “chữ tâm” cao cả đã khiến Huấn Cao sẵn sàng cho chữ ngục quan – dòng chữ cuối
cùng của một đấng tài hoa và một bậc anh hùng nghĩa sĩ. Và ta hiểu ơng cho chữ ngục

quan khơng chỉ vì mục đích chơi chữ đơn thuần, mà chủ yếu là cho chữ để cứu người,
cứu một con người đã lầm đường lạc lối, như ta đã thấy trong cảnh cho chữ ở cuối truyện.
d) Ba vẻ đẹp nói trên – tài hoa, khí phách, thiên lương – của nhân vật đã được đẩy
lên đến đỉnh cao và bộc lộ sáng lòa trong hình tượng lẫm liệt của Huấn Cao cho chữ viên
quản ngục. Cảnh cho chữ được nhà văn đặc tả thành “một cảnh tượng xưa nay chưa từng
có” ở chốn lao tù đã tơn cao vẻ đẹp của nhân vật và bộc lộ sâu sắc chủ đề tác phẩm.
“Trong một khơng khí khói tỏa như đám cháy nhà, ánh sáng đỏ rực của một bó
đuốc tẩm dầu rọi lên ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch còn ngun
vẹn lần hồ ( ). Một người tù, cổ đeo gơng, chân vướng xiềng, đang đậm tơ nét chữ trên
tấm lụa trắng tinh ( ) Người từ viết xong một chữ, viên quản ngục lại vội khúm núm cất
những đồng tiền kẽm đánh dấu ơ chữ đặt trên phiến lụa óng. Và cái thầy thơ lại gầy gò,
thì run run bưng chậu mực ( ) Huấn Cao thở dài, buồn bã đỡ viên quản ngục đứng thẳng
người dậy và đĩnh đạc bảo:
– Ở đây lẫn lộn. Ta khun thầy Quản nên thay chốn ở đi ( ). Thoi mực, thầy
mua ở đâu tốt và thơm q. Thầy có thấy mùi thơm ở chậu mực bốc lên khơng? Tơi
bảo thực đấy: thầy Quản nên tìm về nhà q ở đã, thầy hãy thốt khỏi cái nghề này đi đã,
rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng
đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi”.
Đoạn văn đã sử dụng thành cơng bút pháp đối lập: đối lập ánh sáng và bóng tối,
cái đẹp và sự bẩn thỉu hơi hám. Và người tử tù, tuy cổ đeo gơng, chân vướng xiềng,
nhưng tư thế thì hiên ngang lồng lộng trước sự khúm núm đầy cảm phục của người quản
ngục. Đó là sự chiến thắng của cái tài, cái đẹp, cái thiên lương kết tinh cao độ ở hình
tượng lẫm liệt của Huấn Cao đối với bóng tối, sự nhơ bẩn của một xã hội phi nghĩa.
Và khi người quản ngục vái người tử tù một vái, chắp tay nghẹn ngào nói: “Kẻ
mê muội này xin bái lĩnh” thì khơng phải chỉ là tạ ơn người đã cho chữ mình mà là vái
một nhân cách đẹp: vẻ đẹp của tài hoa, của khí phách anh hùng và của thiên lương trong
sáng cao cả.
3. Ba vẻ đẹp trên đây hội tụ ở một con người đã làm nên vẻ đẹp của nhân vật lí
tưởng trong tác phẩm của Nguyễn Tn: con người tài hoa – khí phách. Với hình tượng
Huấn Cao, Nguyễn Tn đã sáng tạo được một nhân cách kiêu dũng, bất khuất trong vị

thế một người tử tù trong một truyện ngắn trang nghiêm, cổ kính. Hình tượng ấy, khơng
chỉ biểu lộ cái tài, mà còn biểu lộ sâu sắc cái tâm hướng thiện – hướng mỹ của nhà văn
lớn Nguyễn Tn. ( Giới thiệu đề thi TS ĐH&CĐ –NXB ĐHQG –HN )
TÀI LIỆU LTĐH MÔN VĂN Thầy Lê Phước Nghiệp
TRUNG TÂM LTĐH 17 QUANG TRUNG ĐT: 07103 751 929 Trang 17

HẠNH PHÚC CỦA MỘT TANG GIA
(Trích Số đỏ)
VŨ TRỌNG PHỤNG
I. CẢM THỤ TÁC PHẨM
Thơng qua việc miêu tả cảnh đám tang ở nhà cụ cố Hồng, Vũ Trọng Phụng đã
vạch trần chân tướng và phê phán quyết liệt bộ mặt xấu xa, bỉ ổi, lố lăng, kệch cỡm đầy
thối nát của bọn người mang danh là tầng lớp thượng lưu trong xã hội thực dân nửa
phong kiến.
1. Nhan đề chương XV: “Hạnh phúc của một tang gia”:
Vũ Trọng Phụng đặt tên cho chương XV là “Hạnh phúc của một tang gia” nhằm
để tạo nên tiếng cười châm biếm sâu cay cái nghịch lý đảo điên trong đạo lý làm người.
Gia đình có tang, mà lại đại tang, đó là điều đầy đau thương, đầy mất mát trong
gia đình. Thế mà tác giả lại gọi đó là một điều hạnh phúc, kể cũng lạ thật. Nhưng đọc
tồn chương này ta thấy điều mà tác giả nói đó là sự thật, và rất thật và rất cụ thể. Đám
tang cụ Tổ mà mọi người trong nhà cụ cố Hồng từ già đến trẻ, từ con đến cháu, gương
mặt ai cũng hớn hở hẳn lên, khơng hề có chút gì là đau buồn, thương tiếc vì “cái chết kia
đã làm cho nhiều người sung sướng lắm”. Tất cả những người trong gia đình cụ cố Hồng
đã từ lâu mong đợi ngày cụ Tổ nằm xuống để được chia gia tài, để “cái chúc thư kia sẽ
vào thời kỳ thực hành chứ khơng còn là lý thuyết viễn vơng nữa”. Cái chết của cụ Tổ đã
đem lại cho họ niềm vui sướng và hạnh phúc, đáp ứng điều họ hằng mong đợi bấy lâu
nay. Quả đúng là “Hạnh phúc một tang gia” : “Bọn con cháu vơ tâm ai cũng sung sướng
thỏa thích Người ta tưng bừng vui vẻ ”.
2. Những gương mặt trong gia đình cụ cố Hồng trong đám tang:
 Cụ cố Hồng (con trai của cụ Tổ):

Trước cái chết của người cha, cụ cố Hồng khơng hề có một chút gì là đau đớn, xót
xa mà ngược lại còn tỏ ra sung sướng, đầy kiêu hãnh khi nghĩ đến ngày đưa tang: “Cụ cố
Hồng đã nhắm nghiền mắt lại để mơ màng đến cái lúc cụ mặc đồ xơ gai, lụ khụ chống
gậy, vừa ho khạc vừa khóc mếu, để cho thiện hạ phải chỉ trỏ: – Úi kìa, con giai lớn đã
già đến thế kia kìa! Cụ chắc cả mười phần rằng ai cũng phải ngợi khen một cái đám ma
như thế, một cái gậy như thế ”. Cụ và bà cụ rất thản nhiên trước cái chết của cụ Tổ, chỉ
lo bàn đến việc cưới chạy tang cho cơ Tuyết, cơ con gái hư hỏng.
 Văn minh (con trai cụ cố Hồng, cháu nội cụ Tổ):
Vă n Minh đã từng du học bên Tây, nhưng khơng hề đậu được mảnh bằng nào, về
mở tiệm may và trở thành chủ tiệm may Âu hố. Văn Minh chỉ trơng mong cụ Tổ chết để
TÀI LIỆU LTĐH MÔN VĂN Thầy Lê Phước Nghiệp
TRUNG TÂM LTĐH 17 QUANG TRUNG ĐT: 07103 751 929 Trang 18
được chia gia tài. Khi cụ Tổ chết Văn Minh hớn hở ra mặt, lo “đi mời luật sư đến chứng
kiến cái chết của ơng nội mà thơi”. Tác giả đã để cho Văn Minh tự bộc lộ cái điều bấy lâu
nay hắn hằng mong ước: “Thế là từ nay mà đi, cái chúc thư kia sẽ vào thời kỳ thực hạnh
chứ khơng còn là lý thuyết viễn vơng nữa”. Và ơng còn thầm biết ơn Xn tóc đỏ đã “gây
ra cái chết của ơng già đáng chết”.
 Vợ Văn Minh (cháu dâu):
Vợ Văn Minh rất mừng rỡ “sốt cả ruột vì mãi khơng được mặc đồ xơ gai tân thời,
cái mũ mấn trắng viền đen” một kiểu đồ tang tân thời của tiệm may Âu hố, đã quảng
cáo rùm beng: “có thể bán cho những ai có tang đương đau đớn vì kẻ chết cũng được
hưởng chút ít hạnh phúc ở đời”.
 Cậu Tú Tân (con cố cụ Hồng, cháu nội cụ Tổ):
Cậu Tú Tân thì trơng mong đến ngày đưa đám tang để thi thố cái tài chụp ảnh của
cậu đến sốt cả ruột : “Cậu Tú Tân thì cứ điên người lên vì cậu đã sẵn sàng mấy cái máy
ảnh mà mãi cậu khơng được dùng đến”. Đến hơm đưa đám cậu Tú Tân rất phấn chấn, vui
vẻ tột độ. Cậu chạy hết chỗ này đến chỗ khác “bấm máy ảnh lách tách”. Lúc hạ quan tài,
cậu Tú Tân còn bắt mọi người đóng kịch để cậu chụp ảnh: “Cậu Tú luộm thuộm trong
chiếc áo thụng trắng đã bắt bẻ từng người một, hoặc chống gậy, hoặc gục đầu, hoặc
cong lưng, hoặc lau nước mắt như thế này, như thế nọ để cậu chụp ảnh lúc hạ huyệt”

và còn hơn thế nữa “bạn hữu của cậu rầm rộ nhảy lên những ngơi mả khác mà chụp để
cho ảnh khỏi giống nhau”.
 Ơng Phán “mọc sừng”
Ơng Pháp mọc sừng cảm thấy sung sướng hạnh phúc khi “được cụ cố Hồng nói
nhỏ vào tai rằng chia cho con gái và rể thêm một số tiền là vài nghìn đồng” để bù vào cái
khoản bị vợ cắm sừng và “chính ơng c ũng khơng ngờ rằng giá trị đơi sừng hươu vơ hình
trên đầu ơng ta mà lại to đến như thế”. Và đặc biệt thật khơi hài là cái cảnh ơng Pháp
“dưới cái khăn trắng to tướng, cái áo thụng lòe xòe, ơng Phán cứ oặt người đi, khóc mãi
khơng thơi” và “khóc to: Hứ! Hứ! Hứ! ” Đang khóc, ơng Phán chợt dúi vào tay Xn
“cái giấy bạc năm đồng gấp tư” để gọi là trả cơng Xn khi Xn nói thẳng vào mặt ơng:
“Thưa ngài, ngài là một người chồng mọc sừng!” ngay trước mặt cụ Tổ, khiến cụ Tổ uất
lên mà chết. Chính nhờ câu nói đó của Xn mà ơng thêm được mấy nghìn bạc.
 Tuyết (cháu gái cụ Tổ, con cụ cố Hồng, em gái Văn Minh):
Tuyết là một cơ gái mới lớn, lãng mạn, hư hỏng, đám tang là dịp để cơ trưng bày,
chưng diện cái mốt quần áo lố lăng, khiêu dâm của tiệm may Âu hố do nhà mỹ thuật
Typn thiết kế: “Tuyết mặc bộ y phục Ngây thơ, cái áo dài voan mỏng trong đó có cóoc–
sê, trong như hở cả nách và nửa vú – nhưng mà viền đen, và đội cái mũ mấn xinh xinh.
Thấy thiên hạ đồn mình hư hỏng nhiều q, Tuyết bèn mặc bộ Ngây thơ để cho thiên hạ
TÀI LIỆU LTĐH MÔN VĂN Thầy Lê Phước Nghiệp
TRUNG TÂM LTĐH 17 QUANG TRUNG ĐT: 07103 751 929 Trang 19
phải biết rằng mình chưa đánh mất chữ trinh”. Đưa đám ma mà chẳng khác nào đi dạ
hội.
Tuyết rất hồ hởi trong lòng, nên “với cái tráp trầu cau và thuốc lá, Tuyết mời các
quan khác rất nhanh nhẹn” nhưng lại làm ra vẻ buồn, một “vẻ buồn lãng mạn rất đúng
mốt một nhà có đám”.
Đưa đám ma mà “Tuyết đã liếc mắt đưa tình” với Xn tóc đỏ thì hết chỗ nói.
Tóm lại, cả người nhà của cụ cố Hồng khơng ai có chút đau buồn, thương tiếc cụ
Tổ. Khơng có được những tình cảm ấy thì đám ma trở thành trơ trẽn, vơ nghĩa. Trong
ngòi bút của tác giả cái “hài” đã chứa đựng cái “bi”. Chúng ta khơng khỏi đau lòng trước
cái cảnh đám tang mà mọi người trong nhà đều vui vẻ và “bầy con cháu chí hiếu chỉ nóng

ruột đem chơn cho chóng cái xác chết của cụ Tổ”. Tác giả đã nói lên cái nghịch lý trong
đạo lý cổ truyền của dân tộc với bao nỗi xót chua.
3. Cảnh đưa tang:
– Đám đơng đưa tang tồn là những người sang trọng, có địa vị trong xã hội lúc
bấy giờ, đó là “những ơng bạn thân của cụ cố Hồng ngực đầy hn chương nhiều ơng
tai to mặt lớn ”. Nhưng với chi tiết: “nhiều ơng tai to mặt lớn thì sát ngay linh cữu, khi
trống thấy làn da trắng thập thò trong làn áo voan trên cánh tay và ngực Tuyết, ai nấy
cũng đều cảm động hơn những khi nghe tiếng kèn Xn nữ ai ốn, não nùng”. Tác giã đã
vạch trần bộ mặt xấu xa bỉ ổi bọn chúng.
– Đây là một đám tang rất lớn, rất long trọng nhưng bát nháo “theo cả lối Ta, Tàu,
Tây có kiệu bát cống, lợn quay đi lọng, cho đến lốc bốc xoảng và bú dích và vòng hoa, có
đến ba trăm câu đối, vài ba trăm người đi đưa, lại có cậu Tú Tân chỉ huy, những nhà tài
tử chụp ảnh đã thi nhau như ở hội chợ”. Và tác giả đã kết luận một cách khơi hài đầy
châm biếm sâu cay: “Thật là một đám ma to tát có thể làm cho người chết nằm trong
quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng, nếu khơng gật gù cái đầu !”.
– Đám ma làm hun náo cả thành phố: “Đám ma đi đến đâu làm hun náo đến
đấy”, “kèn Ta, kèn Tây, kèn Tàu lần lượt thay nhau mà rộn lên”.
Thành phần tham dự đám ma còn có: ơng đốc tờ Xn, ơng Xn cố vấn báo Gõ
mõ, nhà sư hổ mang Tăng Phú, người đứng đầu trong cái phong trào “chấn hưng Phật
giáo” và “trong mấy trăm người đi đưa thì một nửa là phụ nữ, phần nhiều tân thời, bạn
của cơ Tuyết, bà Văn Minh, bà Phó Đoan vân vân Thật là đủ giai thanh gái lịch ”
– Đặc biệt là đám tang này là một dịp cho người ta quảng cáo những trang phục
tang lễ mới do tiệm may Âu hố thiết kế như : đổ xơ gái tân thời, cái mũ mấn trắng viền
đen… có thể ban cho những ai có tang đương đau đón vì kẻ chết cũng được chút ít hạnh
phúc ở đời”. Đó còn là: “bộ y phục Ngây thơ – cái áo dài voan mỏng trong đó có cc-sê,
trơng như hở cả nách và nửa vú nhưng mà viền đen”.
TÀI LIỆU LTĐH MÔN VĂN Thầy Lê Phước Nghiệp
TRUNG TÂM LTĐH 17 QUANG TRUNG ĐT: 07103 751 929 Trang 20
– Điều đáng chú ý hơn nữa là đám trai thanh gái lịch đi đưa tang này khơng phải
là để biểu lộ tấm lòng tiếc thương người q cố mà là để “chim nhau, cười tình với nhau,

bình phẩm nhau, chê bai nhau, ghen tng nhau, hẹn hò nhau, bằng những vẻ mặt buồn
rầu của những người đi đưa ma”.
– Nhân vật Xn tóc đỏ xuất hiện giữa lúc đám tang đang đi với với “sáu chiếc
xe, trên có sư chùa Bà Banh, xe nào cũng che hai lọng, từ một ngã len vào chiếm chỗ sau
năm lá cờ đen. Hai vòng hoa đồ sộ, một của báo Gõ Mõ, một của Xn, cũng len vào
hàng đầu” càng làm cho cảnh đưa tang thêm lố lăng, kệch cỡm hơn.
Tóm lại, qua cảnh đưa tang này, với ngòi bút trào lộng, châm biếm sâu sắc, Vũ
Trọng Phụng đã làm rõ sự đua đòi trong lối sống văn minh rởm, vạch trần bộ mặt trơ trẽn
đến trâng tráo của tầng lớp thượng lưu mới. Bọn chúng đã đi ngược truyền thống đạo lý
xưa nay của dân tộc.
Nhận xét
Qua chương “Hạnh phúc của một tang gia” ta thấy Vũ Trọng Phụng quả là bậc
thầy của lối văn trào lộng châm biếm. Ơng khai thác triệt để cái nghịch lý trong đạo lý
làm người, ơng nêu lên sự đối kháng giữa cái “bi” và cái “hài”: cái đau buồn, mất mát
của một gia đình có người thân qua đời với cái vui vẻ “hạnh phúc của một tang gia” để
tạo nên tiếng cười châm biếm sâu cay cái tầng lớp thượng lưu mới trơ trẽn đến trâng tráo
khi chạy theo lối sống văn minh rởm. Qua đó ơng đã vạch trần bộ mặt xấu xa bỉ ổi của
thực dân nửa phong kiến lúc bấy giờ, đồng thời cảnh giác mọi người trước những phong
trào do bọn thực dân phong kiến đề ra. Nhất là phong trào Âu hố.
II. TẬP LÀM VĂN
Nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng qua chương “Hạnh phúc của một
tang gia” trong “Số đỏ”
BÀI LÀM
1. Giới thiệu
Năm 1936, Vũ Trọng Phụng bước sang tuổi 24. “Ơng vua phóng sự đất Bắc” liền
cho ra đời năm tác phẩm lừng danh: “Giơng tố”, “Số đỏ”, “Làm đĩ”, “Vỡ đê” và “Cơm
thầy cơm cơ”. Tác phẩm của ơng được đánh giá là “vào loại xuất sắc nhất của văn xi
Việt Nam từ khi có chữ quốc ngữ”.
2. Phân tích
Trong đó, “Số đỏ” với nghệ thuật trào phúng bậc thầy, nó được coi là một kiệt tác

bất hủ trong văn chương đương thời. Vũ Trọng Phụng đả kích cực kỳ cay độc cái xã hội
trưởng giả tư sản thành thị đang chạy theo lối sống “Âu hố” văn minh rởm, hết sức đồi
bại và lố lăng đương thời. “Số đỏ” chỉ dài độ 200 trang nhưng nhung nhúc những hạng
người xấu xa, đê tiện như me Tây, ma cà bơng, giới cảnh sát, loại nhà chùa, đám du học,
TÀI LIỆU LTĐH MÔN VĂN Thầy Lê Phước Nghiệp
TRUNG TÂM LTĐH 17 QUANG TRUNG ĐT: 07103 751 929 Trang 21
có cả nghệ sĩ, y học, giới báo chí… Vũ Trọng Phụng đã từng tun bố: “Riêng tơi, xã hội
này tơi chỉ là khốn nạn, quan thâm lại nhũng, đàn bà hư hỏng, đàn ơng dâm bơn, xã hội
chó đểu…”
Chương 15 với cái tiểu nhan đề: “Hạnh phúc của một tang gia” đã đem đến cho
người đọc bao thú vị như được mục kích một màn hài kịch trong bộ “Tấn trò đời” của xã
hội thực dân phong kiến.
Nhan đề chương 15 là một nghịch lý đầy ý vị, chua cay. Tang gia là gia đình có
tang, ở đây là đại tang tất phải đau thương buồn thảm. Ấy vậy mà lại hạnh phúc. Cái gia
đình tam đại đồng đường này, khi cụ Tổ hơn 80 tuổi phải chết đã làm cho lũ con cháy
“sung sướng lắm!”.
Vũ Trọng Phụng đã xây dựng thành cơng một tình huống điển hình để phơi bày
những bộ mặt đồi bại trong cái gia đình trưởng giả này, vạch trần những cặn bã, những
qi thai của cái xã hội dở Ta dở Tây buổi ấy.
Cha chết, ơng chết “bọn con cháu vơ tâm cũng sung sướng thỏa thích”. Đây là dịp
hiếm có để khoe của, khoe giàu, phơ cái sang ra cho thiên hạ biết. “Người ta tưng bừng
vui vẻ đi đưa giấy cáo phó, gọi phường kèn, th xe đám ma, vân vân…” Niềm vui tràn
ngập “tang gia ai cũng vui vẻ cả”.
Người con trai cả – cụ cố Hồng – hút liền một chập 60 điếu thuốc phiện, hả hê lim
dim đơi mắt. Bữa nay cha chất, cụ vui vẻ lắm, nhưng thằng bồi tiêm vẫn còn đếm được
1872 câu gắt: “Biết rồi khổ lắm nói mãi!”. Trong cái dư vị êm ái của thuốc phiện, cụ
“nhắm nghiền mắt lại để mơ màng” đến cái giờ phút hạnh phúc “hạnh phúc nhất: mặc đồ
xơ gai, lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc vừa khóc mếu” để cho thiên hạ phải trầm trồ: “một
cái đám ma như thế, một cái gậy như thế”, … rồi ngạc nhiên chỉ trỏ: “Úi kìa, con giai
nhớn đã già đến thế kia kìa…”. Con trai đã “báo hiếu” cha như vậy! Đó là một nét biếm

họa thần tình. Tâm hồn sa đọa, đạo lý suy đồi đến cùng cực, từ cha đến con.
Hai đứa cháu nội của cụ Tổ xuất hiện giữa đám tang với bao nét kệch cỡm lố
lăng. Văn minh đi Tây du học 6-7 năm mà chẳng có một “mảnh bằng nào cả” về nước
hắn mở hiệu may để cổ vũ cho cái trò “Âu hố” nhằm phơ ra những bộ phận kín đáo của
phái đẹp”. Ơng nội chết, đứa cháu q hố này nhăm nhăm nghĩ tới chuyện chia gia tài,
thích thú ra mặt vì “cái chúc thư kia đã vào thời kỳ thực hành chứ khơng còn là lý thuyết
viễn vơng nữa”. Cậu Tú Tân thì mở cờ trong bụng, được dịp trổ tài bấm lách tách “mấy
cái máy ảnh mà mãi cậu khơng dùng đến”. Lúc đưa tang, cậu lăng xăng chạy lên chạy
xuống, cậu dàn cảnh, cậu đạo diễn lúc hạ huyệt bắt bẻ từng người cách “chống gậy”, “gục
đầu”, “cong lưng”, “lau mắt” như thế này, thế nọ để cậu bấm máy. Y “luộm thuộm trong
chiếc áo thụng trắng” như một tên hề!
Vũ Trọng Phụng đã tả đám ma cụ Tổ bằng nhiều nét hoạt kê, châm biếm sâu cay
rởm đời của bọn thượng lưu tha hố. Một đám ma to tát “một đám ma gương mẫu”,
nhưng chẳng qua là một đám rước xách. Có kiệu bắng cổng lớn quay đi lọng. Có lốc bốc
TÀI LIỆU LTĐH MÔN VĂN Thầy Lê Phước Nghiệp
TRUNG TÂM LTĐH 17 QUANG TRUNG ĐT: 07103 751 929 Trang 22
xoẻng và bu dịch, Có vòng hoa, 300 câu đối, vài ba trăm người đi đưa. Đúng là một đám
ma tạp pí lù “theo cả lối Ta, Tàu, Tây”. Bởi thế nên bầy con cháy thì hạnh phúc, còn
“người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng nếu khơng gật gù cái
đầu…” Lấy cái phi lý để vạch trần cái lố lăng, đồi bại là một nét vẻ cực kỳ sắc sảo, độc
đáo trong nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng.
“Có bao đám khách” q phái và “sang trọng đến đưa ma cụ cố Tổ. Phụ nữ chiếm
một nửa, là “giai thanh gái lịch”, là bạn của Tuyết và bà phó Đoan… Họ đến đưa ma là
để “cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, hẹn hò nhau…” Bọn mày râu, bạn
của cụ cố Hồng đến đưa tang để khoe mẽ “ngực đầy những huy chương” của “nước mẹ”
hay của bọn bù nhìn ban phát cho. Khi tả bộ râu của đám quan khách này, tác giả “Số đỏ”
đã sáng tạo nên những chi tiết, những ngơn từ và giọng điệu trào phúng chua cay. Một lối
nói nhạo, chế giễu thần tình. Trên mép và cằm các ơng trưởng giả khoe “tài” hoặc hung
hăng, hoặc lún phún hay rầm rậm, loăn quăn,…”. Người đọc phải bấm bụng mà cười khi
đọc đoạn văn tả những bộ râu ấy. Đằng sau bộ râu kia là những mặt người tha hố vơ

ln!
Vũ Trọng Phụng đã dùng thủ pháp “phục bút” khi tả sự xuất hiện của Xn Tóc
Đỏ. Tuyết mặc bộ “Ngây thơ” đi mời trầu và thuốc lá quan khách với “vẻ buồn lãng mạn
rất đúng mốt một nhà có đám”. Cơ vơ cùng sung sướng khi thấy “anh Xn” đã đến và
bèn “liếc mắt, đưa tình… để tỏ ý cám ơn”. Xn Tóc Đỏ đã đến đưa đám một cách sang
trọng cực kỳ, với 6 chiếc xe, với sư chùa Ba Banh, với sư cụ Tăng Phú, hai vòng hoa lớn
… đã làm cho cụ bà sung sướng kêu lên: “Ấy, giá khơng có món ấy thì là thiếu chưa
được to, may mà ơng Xn đã nghĩ hộ tơi!” Xn chẳng giận lại còn đến phúng viếng rất
to, làm cho đám ma cụ cố Tổ trở nên “danh giá nhất tất cả”.
Xn Tóc Đỏ xuất hiện, ơng Phán “mọc sừng” vốn đã nhờ “đơi sừng hươu” ấy mà
được bố vợ chia cho thêm vài nghìn đồng bạc, trong lúc khóc thật to: “Hứ! Hứ! ” để
báo hiếu mà vẫn khơng qn giữ chữ “tín” với ân nhân. Ơng ta đã “dúi” vào tay” Xn
“một cái giấy bạc 5 đồng gấp tư”. Cuộc mua bán hay trả ngĩa diễn ra sòng phẳng và kín
đáo q! Xn và ơng Pháp “mọc sừng” như một cặp bài trùng, hai diễn viên hài siêu
hạng. Chính cảnh này là sự tột đỉnh của sự trào lộng trong màn hài kịch “đám ma gương
mẫu”. Chính ở cảnh này, sự bịp bợm, giả dối và thơ bỉ của bọn “thượng lưu”, đã lên tới
độ vơ liêm sỉ q ghê tởm. Những con người “chó đểu” trong cái “xã hội chó đểu là như
thế đó!
3. Nhận xét
Tóm lại, qua chương “Hạnh phúc của một tang gia”, Vũ Trọng Phụng thể hiện
xuất sắc tài kể chuyện và nghệ thuật hoạt kê trong miêu tả. Cái tài của tác giả “Số Đỏ” là
đã phóng đại những bức chân dung biếm hoạ, những cảnh lố lăng theo thủ pháp nghệ
thuật trào phúng làm cho người ta cười mà thấy được bao sự thật chứa đựng ở trong đó.
Chuyển kể đầy kịch tính với bao sự phi lý đến ghê người đã lật tung cái mặt nạ của bọn
đạo đức giả!
TÀI LIỆU LTĐH MÔN VĂN Thầy Lê Phước Nghiệp
TRUNG TÂM LTĐH 17 QUANG TRUNG ĐT: 07103 751 929 Trang 23
Tiếng cười trong “Số đỏ” là tiếng cười châm biếm có giá trị tố cáo và mang ý
nghĩa xã hội sâu sắc. Đám ma cụ cố Tổ đích thực là một màn hài kịch, diễn viên là bầy
con cháu và lũ quan khách, đã phơi bày tất cả cái bản chất lố lăng và đồi bại của xã hội

nhuốm màu sắc “Âu hố” kệch cỡm./.
( 99 bài văn – Tạ Đức Hiền )

CHÍ PHÈO
NAM CAO
I. CẢM THỤ TÁC PHẨM
Truyện ngắn “Chí Phèo” nói chung và đoạn trích “Chí Phèo” nói riêng đã phản
ánh q trình bi thảm của một kiếp người nơng dân nghèo khổ, lương thiện bị đẩy vào
con đường lưu manh tội lỗi khơng lối thốt. Qua đó, Nam Cao đã tố cáo cái xã hội thực
dân nửa phong kiến và bọn cường hào địa chủ ở nơng thơn, vì đó là những ngun nhân
chính gây ra những tấn bi kịch cho những người nơng dân nghèo khổ, lương thiện như
Chí Phèo.
Đoạn trích này thuộc phần cuối của tác phẩm, miêu tả bước ngoặt tâm lý đột ngột
của Chí Phèo khi Chí Phèo gặp Thị Nở và kết thúc bi thảm của cuộc đời Chí Phèo. Vật
thiết tưởng trước khi muốn phân tích đoạn trích này chúng ta phải trở lại phần đầu của tác
phẩm để thấy rõ diễn biến cuộc đời và sự phát triển tâm lý của nhân vật Chí Phèo.
1. Chí Phèo vốn là một người nơng dân lương thiện:
– Chí Phèo vốn là một người khơng cha, khơng mẹ, khơng họ hàng thân thích
nhưng Chí sống rất ngay thẳng, chân thật, hiền từ. Chí sống bằng việc đi ở mướn cho nhà
này, nhà khác, khơng làm gì nên tội. Năm hai mươi mốt tuổi làm canh điền cho nhà Bá
Kiến, chính Bá Kiến cũng phải cơng nhận Chí “hiền như cục đất”.
– Khi Chí Phèo bị mụ vợ ba Bá Kiến bắt bóp đầu, xoa bụng, đấm lưng và gợi ý
một cách sỗ sàng với hắn: “Tao bảo mày vào đây có phải là chỉ để bóp đầu, xoa bụng,
đấm lưng thơi đâu. Con trai gì mới hai mươi tuổi mà như một ơng cụ khơng bằng” để
nhằm thỏa mãn nhục dục mụ, Chí Phèo vẫn giữ được lòng tự trọng, Chí cảm thấy xấu hổ,
khó chịu hơn là sung sướng. Chí nghĩ: “hai mươi tuồi người ta khơng là đá, nhưng cũng
khơng tồn là xác thịt”.
– Chí đã từng mơ ước cuộc sống lương thiện với “một gia đình nho nhỏ. Chồng
cuốc mướn, cày th, vợ dệt vải, chúng lại bỏ một con lợn ni để làm vốn liếng. Khá giả
thì mua dăm ba sào ruộng làm”.

Những chi tiết trên đã cho ta thấy Chí Phèo vốn là một người nơng dân hiền lành,
chất phát, lương thiện, cái cuộc sống đầy tối tăm vẫn khơng làm hắn đánh mất cái bản
chất tốt đẹp của Chí Phèo.
TÀI LIỆU LTĐH MÔN VĂN Thầy Lê Phước Nghiệp
TRUNG TÂM LTĐH 17 QUANG TRUNG ĐT: 07103 751 929 Trang 24
2. Chí Phèo bị đẩy vào con đường lưu manh tội lỗi khơng lối thốt:
– Chí Phèo vơ cớ bị bỏ tù.
– Sau tám năm ở tù ra Chí Phèo hồn tồn thay đổi tâm tính: “đầu cạo trọc lóc,
răng cạo trắng hớn, khn mặt cơn cơn, trên hai tay hắn chạm trổ nào rồng, nào
phượng, ngực hắn phanh ra và trên ngực xăm hình một ơng tướng cầm chùy, trơng gớm
chết ” Cái nhà tù của bọn thực dân phong kiến đã bắt giam những con người lương
thiện, gây trong lòng những con người lương thiện như Chí nỗi hận thù và biến họ thành
những kẻ hung dữ, độc ác.
– Ở tù ra, trở về làng Vũ Đại, Chí quyết tâm trả thù Bá Kiến nhưng trong lòng Chí
vẫn còn mang cái sợ cố hữu của người nơng dân đã bao đời bị áp bức, bóc lột, nên Chí đã
mượn hơi men để thêm bạo dạn mà trả thù. Do thiếu khơn ngoan, thiếu cảnh giác trước
một kẻ thù “khơn róc đời của làng Vũ Đại này” nên Chí đã bị Bá Kiến đánh lạc mất
phương hướng trả thù, làm mềm nhũn ý chí trả thù của hắn. Cho đến khi Bá Kiến cho hắn
năm đồng bạc để uống rượou và năm sào vườn ở bãi sơng thì Bá Kiến đã thực hiện đầy
đủ âm mưu mua chuộc và lợi dụng Chí, biến Chí thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại, gieo
bao đau thương cho người dân làng Vũ Đại này. Chí có biết đâu những tội ác Chí gây ra
trong khi say là do Bá Kiến sai hắn làm. Chí đã hồn tồn đánh mất cái bản chất lương
thiện vốn có của Chí.
3. Chí Phèo muốn trở về cuộc đời lương thiện nhưng khơng được (đoạn trích)
– Sau cái đêm gặp Thị Nở, Chí Phèo mới tỉnh “hắn bâng khng như tỉnh dậy sau
một cơn say rất dài”. Tỉnh dậy thì hắn rất hiền. Hắn chỉ hung dữ độc ác trong lúc say
nhưng khi tỉnh dậy thì cái bản chất lương thiện của hắn lại trở về. Hắn cảm thấy lòng
buồn vơ hạn.
– Tỉnh dậy, hắn nghe những âm thanh của nhịp sống đời thường: tiếng chim hót
líu lo, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá trên sơng, tiếng của hai người đàn bà

trao đổi với nhau về giá vải ở chợ những âm thanh ấy ngày nào cũng có, nhưng hơm
nay hắn mới nghe lần đầu, bởi vì hắn có bao giờ tỉnh đâu. Lòng hắn lại “nao nao buồn”,
hắn mơ hồ nhớ lại có một thời xa xưa nào đó hắn đã từng mơ ước “có một gia đình nho
nhỏ. Chồng cuốc mướn, cày th, vợ dệt vải, chúng lại bỏ một con lợn ni để làm vốn
liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”.
– Nam Cao đã miêu tả diễn biến tâm lý của Chí Phèo lúc này thật độc đáo: “Tỉnh
dậy hắn thấy hắn già mà vẫn còn cơ độc”. hắn mới nhớ hắn “đã ngồi bốn mươi tuổi
đầu”, cái tuổi “đã tới dốc bên kia của đời”, hắn nghĩ: “một trận ốm có thể gọi là dấu hiệu
báo rằng cơ thể đã hư hỏng nhiều. Nó là cơn mưa gió cuối thu cho biết trời trở rét, nay
mùa đơng đã đến. Chí Phèo hình như trơng thấy trước tuổi già của hắn, đói rét và ốm
đau, và cơ độc, cái này càng đáng sợ hơn đói rét và ốm đau”. Những chi tiết này cho ta
thấy nét hung dữ, độc ác hàng ngày của Chí Phèo đã hồn tồn biến mất, cái bản chất
lương thiện của Chí đã trở về, Chí hiền từ và nỗi lòng của Chí thật đáng thương biết bao.
TÀI LIỆU LTĐH MÔN VĂN Thầy Lê Phước Nghiệp
TRUNG TÂM LTĐH 17 QUANG TRUNG ĐT: 07103 751 929 Trang 25
Chí khơng những cơ đơn trong lúc tỉnh mà Chí còn cơ độc ngay cả trong lúc say: lúc say
Chí chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi cả những ai khơng chửi nhau với Chí,
nhưng tất cả đều khơng ai lên tiếng, họ khơng thừa nhận Chí trong cái trật tự của xã hội
lúc bấy giờ, họ coi Chí là một kẻ “chun nghề ăn vạ và rạch mặt”, Chí Phèo khơng tìm
thấy một chút u thương nào trong cái xã hội ấy.
– Giữa lúc ấy thì Chí Phèo gặp Thị Nở. Thị Nở tuy là một người đàn bà “xấu ma
chê quỷ hờn và đần như người đần trong cổ tích” nhưng Thị Nở đã đánh thức được cái
phần người trong Chí, lơi Chí ra khỏi những cơn say dài, triền miên vơ tận, làm bùng lên
đốm sáng lương tri còn sót lại trong con người Chí.
Gặp Thị Nở, Chí Phèo rất ngạc nhiên, hết ngạc nhiên thì Chí rất xúc động “hắn
thấy mắt mình hình như ươn uớt”. Bát cháo hành của Thị Nở đã làm ấm lòng Chí, làm
cho Chí bâng khng, gợi cho Chí nhớ lại cuộc đời đã qua của mình, một cuộc đời mà
Chí phải cướp giật để sống “nào hắn có thấy ai tự nhiên cho cái gì”, “hắn phải làm cho
người ta sợ” mới có ăn. Bây giờ Chí lại nhận một bát cháo hành “mới thơm làm sao”,
“rất ngon” từ tay một người đàn bà. Điều đó làm cho Chí vừa sung sướng, hạnh phúc

vừa đau đớn, xót xa khi nghĩ về những chuổi ngày đã qua của mình. Chí bâng khng tự
hỏi: “Tại sao mãi đến bây giờ hắn mới nếm mùi vị cháo” rồi tự trả lời: “Có ai nấu cháo
cho ăn đâu? Mà còn ai nấu cháo cho mà ăn nữa! Đời hắn chưa bao giờ được săn sóc bởi
một bàn tay đàn bà”.
Trước khi Chí say rượu bây giờ Chí say tình. Chí Phèo u Thị Nở và Thị Nở
cũng u Chí. Đây là tình u của một kẻ lưu manh “chun nghề ăn vạ, rạch mặt” với
một người đàn bà “xấu ma chê quỷ hờn” nhưng đó là lại là một tình u thắm đượm tình
người. Tình u đã biến Chí “thành trẻ con”. Chí muốn “làm nũng với Thị như với mẹ”.
Tình đã xua đi bao nét hung dữ, độc ác trên khn mặt Chí, làm cho Chí trở nên rất hiền
lành: “Ơi sao mà hắn hiền, ai dám bảo đó là cái thằng Chí Phèo vẫn đập đầu, rạch mặt
mà đâm chém người?” và Nam Cao đã khẳng định: “Đó là cái bản tính ngày thường của
hắn bị lấp đi”.
Từ say tình, Chí Phèo say đời:
– Chí Phèo u Thị Nở. Thị Nở đã làm cho Chí thèm khát một cuộc đời lương
thiện: “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hồ với mọi người biết bao!”. Chí
muốn lấy Thị Nở để trở về cuộc đời lương thiện: “Thị Nở sẽ mở đường hắn. Thị có thể
sống n ổn với hắn thì làm sao người khác lại khơng thể được.” Chí Phèo tin rằng: “Họ
sẽ thấy rằng hắn cũng có thể khơng làm hại được ai. Họ sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội
bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện”.
Con đường trước mắt Chí vừa mở ra, Chí đang chuẩn bị cuộc hành trình để thực
hiện ước mơ làm người lương thiện của Chí thì con đường ấy bỗng đóng chặt lại. Bà cơ
Thị Nở khơng cho Thị Nở lấy Chí vì cho rằng Chí là kẻ “chun nghề ăn vạ, rạch mặt”.
Cái xã hội ấy khơng thừa nhận Chí, khơng cho Chí làm người lương thiện, thiêu rụi

×