Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

GDQP-SƠ CỨU VẾT THƯƠNG CHIẾN TRANH P2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 20 trang )

Sơ cứu vết thương chiến tranh ( P2)
Đại tá Giáo sư, Bác sỹ quân y Rusanov. S.A
Chảy máu và cách dừng chảy máu
Hệ thống tuần hoàn và các mạch máu lan tỏa trong toàn bộ cơ thể con người. Mạch máu là
các ống mao mạch, được chứa đầy máu, dưới tác động của tim, máu trong các mạch máu
liên tục chẩy. Máu rửa sách các cơ quan và các tế bào trong cơ thể, mang đến từ hệ tiêu hóa
chất dinh dưỡng, từ hệ hô hấp khí O xy và các khí cần thiết khác cần thiết cho đời sống. Từ
những tế bào của cơ thể, máu mang khí CO2 và những chất thải cần phải thoát ra khỏi cơ
thể. Qua thận, máu giải phóng khỏi những chất thải. Máu mang khí CO2 đến phổi, phổi giải
phóng khí CO2 khỏi máu và đẩy ra ngoài. Như vậy, máu đóng vai trò quan trọng nhất trong
duy trì sự sống của cơ thể người, máu đảm bảo sự trao đổi chất và hô hấp của các tế bào.
Máu là chất lỏng, được gọi là huyết tương, bơi trong huyết tương là hàng tỷ tỷ quả cầu nhỏ li
ti màu đỏ và mầu trắng. Đó là hồng cầu và bạch cầu. Huyết tương trong xuốt và hơi có mầu
vàng, nhưng số lượng khổng lồ các hồng cầu đã cho máu có mầu đỏ. Một giọt máu có thể
chứa đến 2 trăm triệu hồng cầu. Màu đỏ của máu do đặc tính đặc biệt của chất protein này,
đó là hemoglobin, trong cấu tạo phân tử của nó có thành phần là sắt. Huyết tương mang
theo trong đó các chất dinh dưỡng đã hòa tan như đường gluco, protein, mỡ. Hồng cầu
mang theo oxy và khí cac bon nic, hồng cầu mang oxy có mầu đỏ tươi, còn hồng cầu mang
cacbonnic có mầu đỏ sẫm.
Bạch cầu trong mạch máu có số lượng nhỏ hơn hồng cầu hàng nghìn lần, bạch cầu có khả
năng tự chuyển động và thẩm thấu qua thành của mặt máu vào tế bào để tiêu diệt các vi
khuẩn, có khả năng tự tìm kiếm, bắt và ăn vi khuẩn. Khả năng tiêu diệt vi khuẩn trong máu và
trong tế bào là đặc điểm quan trọng chính của bạch cầu.
Huyết áp và sự chuyển động của máu phụ thuộc vào tim, tim như máy bơm áp lực, bơm máu
đi khắp cơ thê. Máu chảy theo các mạch máu, các mạch máu càng xa tim, càng nhỏ dần, nhỏ
đến li ty, được gọi là động mạch. Chính các mao mạch nay đã thực hiện quá trình trao đổi
chất của tế bào.
Sau đó, máu sẽ quay trở lại các ven tĩnh mạnh, đó là những mạch máu quay trở lại, tim đẩy
máu đi qua phổi, trao đổi CO2 và Oxy và trở về tim. Những động mạch và ven tĩnh mạch ở
gần tim có đường kính lên tới vài cm, động mạch, tĩnh mạch chủ ở hông đùi có đường kính
bằng bút chì, động mạch và tĩnh mạch của phần vai nhỏ hơn một chút. Chiều dài của các


mạch máu rất dài, hàng trăm nghìn km và tạo ra một mạng lưới dày đặc trên cơ thể con
người.
Khi bị thương do các vật gây lên, sẽ làm tổn thương các mạch máu, gây hiện tượng chảy
máu, Nếu vết cắt nhỏ, chỉ làm tổn thương các mao mạch nhỏ, các mạch máu sẽ tự cầm máu
do tính chất đặc biệt của máu. Ra ngoài không khí, máu sẽ đông đặc lại và gắn kết lại như
keo. Lớp keo này sẽ khô lại và bịt kín vết cắt trong vòng từ 7 đến 10 phút . Đặc biệt khi có
bông, băng hoặc các vật chất khác đè nhẹ ngăn cản chảy máu. Chảy máu trên diện rộng của
các mao mạch nhỏ không gây nguy hiểm cho cơ thể, do tồn thương ở các mao mạch nhỏ
dẫn đến chảy máu, và máu sẽ nhanh chóng đông và bịt kín các mao mạch, ngăn chặn hiện
tượng chảy máu và sau 7-10 phút, máu sẽ đông và từ từ khô lại. Ngoại trừ những trường
hợp có bệnh máu không đông, khi đó sẽ rất nguy hiểm cho người bị thương do máu chảy
mãi không cầm. Tương tự như vậy, nếu bị thương ở ven (tĩnh mạch) hiện tượng chảy máu
cũng nhanh chóng được cầm máu, do khi đó máu chảy về tim, huyết áp không lớn, máu chảy
chậm. Do đó, máu đông rất nhanh nên không bị mất máu nhiều. Chảy máu từ ven thường
chậm, đều và có mầu đỏ sẫm. Khi tĩnh mạch chủ bị thương, đặc biệt ở cổ, máu sẽ chảy
mạnh hơn, nhưng khi thở ra, máu chảy mạnh, khi hít vào, máu chảy yếu đi, thậm chí dừng
hẳn. Chỉ khi ven lớn bị phá vỡ thì mới gây hiện tượng mất máu nhiều. Tổn thương ở ven nhỏ
và vừa ít khi gây nguy hiểm cho tính mạng
Tổn thất động mạch thì hoàn toàn khác hẳn, máu trong động mạch dưới áp lực bơm máu của
tim. Chảy với tốc độ và huyết áp cao. Nếu động mạch bị thương, máu sẽ chảy ra rất nhanh.
Do đó, máu hoàn toàn không có khả năng tự động đông và cầm máu được. Hiện tượng mất
máu xảy ra rất nhanh, trong thời gian ngắn có thể mất rất nhiều máu. Bị thương ở động mạch
chủ rất nguy hiểm, nhất là các động mạch lớn. Dấu hiệu vỡ động mạch chủ là máu màu đỏ
tươi, chảy rất mạnh, có thể chảy thành vòi hoặc tràn ra rất nhanh, với thời gian ngắn có thể
làm ướt cả quần áo.
Chảy máu động mạch chủ- không chỉ là nguy hiểm nhất của hiện tượng chảy máu. Đây là
dấu hiệu nguy hiểm nhất của các hậu quả của vết thương trên chiến trường. Hiện tưởng
chảy máu nguy hiểm hơn nhiễm độc vết thương, nhiễm trùng vết thương có thể kéo dài từ 1-
2 ngày. Mất máu có thể diễn ra trong vòng vài phút, nếu vết thương trúng động mạch chủ và
không kịp ngăn chặn cầm máu.

Kiểm tra mạch đập để xác định vết thương có trúng động mạch chủ hay không
Người bình thường có khoảng 5 lít máu, mất ¼ lít hoặc ½ lít, cơ thể sẽ nhanh chóng phục
hồi. Do đó người cho máu không hề bị tổn hại, và lượng hồng cầu còn tăng hơn cả lúc chưa
cho máu. Nhưng mất đến 1 lít máu có thể gây nguy hiểm trầm trọng, thậm chí dẫn đến hy
sinh. Trong trường hợp máu chảy nhiều. Lượng huyết tương trong mạch máu mất đi, tạo ra
các mạch máu rỗng, khi đó tim sẽ hoạt động mà không có máu. Dòng máu bổ xung cho mạch
máu rất ít, huyết áp tụt xuống nhanh. Nếu có 2 người bị thương mất máu, một người bị chảy
máu từ từ cả ngày, còn một người khác mất 1 lượng máu lớn tương đương trong 10 phút, thì
người thứ 2 sẽ dẫn đến mất tính mạng do tim bị phá vỡ quy trình làm việc. Chính vì vậy, khi
người bị thương mất máu nhiều, cần truyền huyết thanh để duy trì lượng huyết tương có
trong cơ thể, đảm bảo tim hoạt động tốt, bao gồm cả truyền nước dừa trong trường hợp khẩn
cấp. Hiện tượng mất máu nhanh sẽ ảnh hưởng đầu tiên đến não bộ, bộ phận cần ổn định
lượng máu cung cấp. Nếu thiếu máu, các tế bào và các dây thân kinh não sẽ chết, và người
bị thương tử vong.
Cầm máu khi bị thương trúng động mạnh là nhiệm vụ quan trong, nhưng quan trọng hơn là
thời gian cầm máu. Đây là điều vô cùng quan trọng, vì cầm máu khi trúng động mạch là thời
gian cầm giữ không cho thương binh mất máu quá nhiều dẫn đến tử vong, chống được chảy
máu và kịp thời đưa thương binh đến quân y viện để cấp cứu triệt để. Mọ người, đặc biệt là
các chiến sỹ phải hiểu rõ về cầm máu, phải thực hiện thành thạo, chính xác phương pháp
cầm máu và thời gian cầm máu.
Garo vết thương chạm động mạch ở tay. Garo bằng vải hay bằng khăn tay cần được thực
hiện bằng thanh cứng vặn xoắn, phương thức thực hiện như hình trên.
Phương pháp đáng tin cậy nhất để ngăn chặn chảy máu ở các động mạch là garo. Phương
pháp garo là phương pháp dùng dây băng dài hoặc ống gen có đường kính bằng ngón tay từ
ống cao su mềm hoặc vải co dãn. Buộc chặt garo ở phía trên vết thương tay hoặc chân, có
thể dễ dàng chăn được động mạch và máu chảy ra vết thương. Băng garo cao su thường chỉ
có ở y tá, y sỹ và trong quân y viện. Khi cần sơ cứu trong điều kiện khẩn cấp của tai nạn,
thảm họa và chiến trường, thường không có dụng cụ garo, do đó, mọi vật có trong tay như
thắt lưng, dây to bản, vải hay khăn tay cũng có thể là công cụ để garo cầm máu. Cần thực
hiện chính xác các phương pháp garo là có thể cầm máu được. Chiến sỹ cần chú ý các hiện

tượng chảy máu, việc garo không cần thiết các vết thương không có hiện tượng chảy máu
động mạch chủ, có thể gây nguy hiểm cho tính mạng của thương binh.
Khi xác định xem thương binh có bị trúng thương vào động mạch chủ hay không, ngoài xem
mầu máu và chảy máu như thế nào, cần kiểm tra nhịp tim bằng cách đo nhịp đâp mạch trên
cổ tay thương binh (phương thức này còn dùng để xác định xem bệnh nhân có bị chảy máu
trong hay không) Phương pháp này thường sử dụng khi xảy ra vết thương mù hoặc kín, máu
trào ra khỏi vết thương it, nhưng lại chảy ngầm bên trong cơ thể. Khi bị mất máu, nhịp đập
của mạch máu trên cổ tay hoặc cổ chân rất yếu, thậm chí mất hẳn, mặt trắng xanh, choáng
sốc. Kiểm tra nhịp đập và huyết áp không cần có dụng cụ đặc biệt và chuyên môn kỹ thuật,
người chiến sỹ chỉ cầm tập kiểm tra mạch đập trên cổ tay hoặc cổ chân vài lần trong ngày,
sau một thời gian là có thể kiểm tra chính xác nhịp đập của mạch máu. Kỹ năng đo nhịp tim
và huyết áp rất có lợi trong cuộc sống đời thường. Ví dụ; trúng thương máu chảy rất nhiều,
thấm ướt cả quần áo, cần phải kiểm tra nhịp tim và áp huyết, nếu áp huyết tụt xuống thấp và
nhịp tim đập yếu, chắc chắn là trúng động mạch chủ, nếu mạch đập bình thường thì chỉ cần
ngăn máu chảy bằng bông, gạc mà không cần garo. Bị thương ở chân trên chiến trường,
không cần thiết phải kiểm tra huyết áp và nhịp mạch ở chân. Vết thương chảy máu nhiều ở
chân cần được garo ngay khi không chắc chắn rằng, có trúng vào động mạnh chủ hay không,
vì garo ở chân không gây nguy hiểm nhiều như ở tay nhưng cần chú ý thời gian nới garo để
lưu thông máu.
Những vị trí có thể đặt garo
Những nguy hiểm khi tiến hành garo
Khi garo, ngoài việc cầm máu còn xảy ra là garo đè lên hoạt động của dây thần kinh, do đó
sẽ dẫn đến hiện tượng tê bại tay hoặc chân.
Thời gian garo quá dài (hơn 2 giờ) sẽ dẫn đến tình trạng hoại tử các chi hoặc các khu vực có
vết thương.
Đương nhiên, trong những điều kiện đặc biệt, việc cứu sống tính mạng người lính vô cùng
quan trong, cũng có lúc phải hy sinh một phần cơ thể để giữ lại mạng sống của chiến sỹ.
Nhưng nhưng trường hợp chưa khẩn cấp đến phải garo, những sai lầm trong chuẩn đoán
tình trạng vết thương và không theo dõi được thời gian nới garo có thể dẫn đến sai lầm
nghiệm trọng gây tổn thất lớn cho thương binh.

Garo vết thương ở chân
Garo bằng thắt lưng được hướng dẫn bằng hình ảnh. Cần luồn dây để tạo ra hai vòng tròn,
đưa vào vị trí cần garo và kéo chặt lại.
Khi đặt garo cần chú ý đặt lên phía trên vết thương, gần với thân người. Nhưng garo không
được phép ảnh hưởng đến việc băng bó vết thương. Không được đặt garo lên da trần, đặc
biệt khi sử dụng dung cụ không chuẩn y tế như dây chun hoặc thắt lưng. Garo phải được đặt
trên quần áo, hoặc lớp vải đệm mềm quấn xung quanh, không dưới 2 lớp.

Garo khi vết thương mất cánh tay
Không nên đặt garo quá chặt, vì nếu kéo chặt quá sẽ gây tổn thương thần kinh và cơ. Nhưng
nếu đặt garo lỏng quá sẽ gây ra chảy máu mạnh hơn, do mạch máu chính đã ngừng chảy,
nhưng dưới huyết áp các mạch máu nhỏ sẽ chảy mạnh hơn, thành dòng. Garo được xiết
chặt cho đến khi máu ngừng chảy từ vết thương và không tìm thấy mạch đập trên cổ tay. Khi
thương binh mặc quần áo quá dày (mùa đông) cần xiết chặt thêm một chút, do quần áo sẽ co
lại và máu lại tiếp tục chảy. Không được để tay hoặc chân đặt garo quá 1 giờ, vì sau 2 giờ sẽ
gây hoại tử vết thương hoặc tay chân. Nếu trong vòng 2 giờ, do điều kiện chiến trường, chưa
thể đưa được thương binh đến quân y viện dã chiến hoặc trạm phẫu dã chiến, cần phải tháo
garo và buộc lại, ở vị trí cao hơn hay thấp hơn vị trí đã đặt garo.
Dụng cụ đặt garo chuyên dùng
Trong những điều kiện đặc biệt, khó đặt garo hoặc không có phương tiện garo, hoặc tình
huống người bị thương chỉ có một mình sẽ rất lâu để có thể garo được, phương án tối ưu là
tạm thời ngăn chảy máu bằng dùng lực, không được phí 1 giây. Đó là bẻ gập tay lại ở tư thế
chèn lên động mạch hoặc gập co đầu gối. Mạch máu sẽ bị chèn lại và không chảy xối xả.

Gập khóa các chi để chặn chảy máu động mạch
Nếu vết thương ở phần mạng sườn phía dưới, gần bụng dưới hoặc vùng bụng dưới, gập
chân lên bụn có thể tạm thời chăn được máu chảy. Khi vết thương nằm trên vùng khuỷu tay
có thể chặn lại bằng cách bẻ tay ra phía đằng sau lưng đến hết cỡ tay. Chú ý không quá
mạnh, có thể do vội mà gây trật khớp xương bả vai. Ở vị trí này động mạch chủ bị chèn đè
bởi xương bả vai và xương sườn. Gập các khớp được giữ bằng tay hoặc bằng dây băng.

Bản thân người bị thương có thể tự gập tay hoặc tự co chân và giữ bằng hai tay, cho người
hỗ trợ có thể nhanh chóng tìm công cụ để cố định các chi.
Một số trường hợp có thể đè lên động mạch chủ bằng tay. Khi vết thương nằm ở các vị trí mà
động mạch nằm dưới da không sâu và phía dưới là xương, có thể dùng để chặn mạch máu.
Vị trí có thể đè chặn được là trên nhóm cơ cánh tay, đùi trên khi bị thương ở chân. Đặt tay
vào vị trí như trên hình 16, phương pháp là sờ tay vào vị trí đã nêu, tìm ven và đè chặt nó
xuống xương, máu sẽ nhanh chóng ngừng chảy. Với vết thương ở đùi, cần dùng đến 2 tay
do mạch máu to hơn và ở sâu hơn. Nếu vết thương ở phần cổ, cần đặt tay vào vị trí của ven
bên cổ, và dùng ngón tay ép chặt vào bên xương cột sống cổ. Đông mạch cổ nằm bên cạnh
phải của cổ họng và thực quản. (.17.18).
Các vị trí đè tay chống chảy máu
Thương binh tự tay chặn vết thương chỉ trong trường hợp khẩn cấp, nhưng không giữ được
lâu hơn vài phút, người khỏe nhất 8-10 phút. Sau đó cần có quân y đến thực hiện các giải
pháp cầm máu hoặc đồng đội trợ giúp. Đương nhiên, tốt hơn hết là kịp thời đặt garo, khi máu
chảy chưa nhiều và thương binh còn đủ sức.
Dừng chảy máu có thể được thực hiện bằng phương pháp đè lên vết thương bằng bông gạc
cấp cứu. Phương pháp này rất tốt trong trường hợp các động mạnh không quá lớn và phía
dưới động mạch có xương. Thường là phần trên đầu, áp lực lên vết thương là các cuộn băng
cá nhân có trong gói y tế cá nhân của chiến sỹ. Phương pháp như sau: Đặt bông gạc lên trên
vết thương của gói bông băng y tế thứ nhất, phía trên đặt tiếp cuộn thứ 2 đã được xé túi bảo
vệ, nhưng không giở ra, phía trên bắt đầu quấn băng, vừa quấn vừa kéo cho băng quấn hơi
căng, để đè cuộn bông băng, gạc xuống vết thương, băng đè theo phương pháp này tốt nhất
băng theo phương pháp chữ thập như trên hình đã nêu.
Băng nén cổ
Băng nén vết thương có thể băng cho phần cổ. Nhưng để tránh ngạt thở cho thương binh,
phía bên kia cần có thanh đỡ bằng gỗ hay nhựa cứng, gác 1 đầu lền đầu thương binh, đầu
thứ 2 lên vai, trên vết thương đặt bông băng gạc và quấn băng lên cả thanh đỡ lẫn vết
thương, siết nhẹ để băng có thể đè lên gói bông băng chèn đè cầm máu. Phương pháp đè
lên vết thương thường sử dụng tốt nhất trong các trường hợp vết thương chạm tĩnh mạch

hoặc chảy nhỏ giọt, hoặc không còn giải pháp nào khác, như những vết thương vùng bụng
hoặc ngực. Phương pháp này không sử dụng lâu trong quá trình tải thương về trạm cấp cứu,
nhưng có thể dành 1 chút thời gian cho sự sống. Và có hy vọng máu sẽ đông lại ở miệng vết
thương và giảm bớt mất máu, nâng cao khả năng sống còn của chiến sỹ.
Vậy, khi gặp những vết thương chảy máu mạnh, cần nhanh chóng dùng mọi biện pháp
(Garo) đã nêu để dừng tình trạng mất máu. Bông băng gạc bị thấm đẫm máu phải thay rất
nhanh, vì khi bị thấm máu, chúng không còn khả năng kháng khuẩn và dễ gây trường hợp
nhiễm trùng máu. Những trường hợp chảy máu nhỏ giọt và chảy từ ven tĩnh mạch không cần
thiết phải garo, mà chỉ cần dùng bông gạc và băng nén chặt lên vết thương để cầm máu.
Với các vết thương ven, có thể đặt băng chèn đè, với các vết thương động mạch, cần chặn
máu chảy và đặt garo.
Trình tự sơ cứu vết thương trên tay, chân như sau: Trước hết gập các khớp tay, chân để
ngăn chăn tình trạng mất máu, sau đó cắt hoặc xé rộng quần áo trên vết thương, nới nhẹ các
khớp để kiểm tra xem vết thương trúng động mạch hay không. Nếu trúng động mạch phải
thực hiện garo vết thương, sau đó tiến hành băng bó sơ cứu.
Nếu vết thương ở đầu thì tức khắc phải băng cầm máu bằng cách băng đè lên vết thương để
cầm máu. Nếu vết thương ở phần cổ hoặc trên mặt thì dùng ngón tay để chặn tạm thời động
mạch cổ (thời gian rất hạn chế) sau đó đặt bông băng chèn đè để cầm máu.
Nếu chúng ta hành động nhanh, chính xác, dũng cảm và khéo léo, thì các trường hợp, dù
chảy máu rất mạnh, đặc biệt ở chi, đều có thể ngăn chặn được mất máu, do có thể đặt garo
được, và có thể cứu được mạng sống của chiến sỹ.
Thông thường, thương binh khi mất nhiều máu đều nằm trong tình trạng nguy hiểm đến tính
mạng, Khi mất nhiều máu thương binh trở lên trắng bệch, cảm thấy khát nước, có tiếng ù ở
tai, dễ rơi vào trạng thái hôn mê. Để chống lại trạng thái này, thương binh được đặt nằm nằm
sao cho đầu thấp hơn cơ thể. Tốt nhất là chân đặt kê cao hơn thân. Ở tư thế này máu chảy
lên não nhiều hơn, vì thiếu máu lên não có thể gây tử vong. Di chuyển thương binh ở trạng
thái nằm khi mất máu, kể cả người có thể đi được cũng phải nằm một thời gian, để tim quen
với trạng thái thiếu máu, ở trạng thái đứng thương binh có thể rơi vào tình trạng hôn mê sâu
do thiếu máu lên não.
Chặn chảy máu vết thương ở tay và chân trên chiến trường

Thương binh mất máu nhiều khi đã garo có thể cho uống nước để bổ xung lượng máu đã
mất, nhưng nếu bị thương ở vùng bụng và ngực, có nguy cơ chảy máu trong hoặc đã băng
bó không được uống hoặc ăn. Thương binh cần biết chính xác mình có bị tổn thương động
mạch hay không, vì tổn thương động mạch có thể dẫn đến chảy máu không chỉ ngay tức
khắc, mà có thể diễn ra sau vài ngày hoặc cả tuần. Sự bất ngờ chảy máu có thể dẫn đến tử
vong do không nắm được bệnh lý. Người bị thương vào động mạch cần rất chú ý đến vết
thương của mình, đặc biệt là ở chân và ở tay khi cử động. Nếu xuất hiện hiện tượng chảy
máu, dù chỉ là thấm mấy giọt, cần phải thông báo cho bác sỹ ngay tức khắc. Chỉ khi nào biết
chắc rằng động mạch ở vết thương vẫn nguyên vẹn, mới khẳng định an toàn. Ngoài việc mất
máu, vết thương ở động mạch và tĩnh mạch có thể đưa không khí vào tim. Không khí vào
máu có thể gây chết người, vì vậy khi vết thương ở cổ cần nghiêng đầu về phía vết thương
để miệng vết thương kép lại và không mở rộng ra, sau đó đặt băng để bịt vết thương.
Đau đớn, gãy xương và nẹp

Tính chất quan trọng thứ 3 của vết thương là đau. Mọi vết thương đều tạo lên cảm giác đau
đớn, nhưng sự đau đớn có thể rất khác nhau. Một số vết thương đau ít. Đại đa số những vết
thương bị gây ra bởi các vật sắc nhọn, như đạn, dao hoặc vật nhọn khác xuyên qua phần
mềm, con người đều có thể chịu đựng được và không ảnh hưởng đến sức khỏe. Nhưng có
những vết thương gây ra những cơn đau đớn ngoài sức chịu đựng. Đau đớn nặng và kéo dài
có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng, đó là đau do vết thương vùng bụng, vùng ngực,
đau do bị tổn thương các khớp và do bị gẫy xương, đau do tổn thương hệ thần kinh. Các cơn
đau này làm tổn thương và tê liệt hệ thống thần kinh, làm mất khả năng làm việc của tim và
toàn bộ hệ thống tuần hoàn với chu kỳ luân chuyển máu, Đau đớn quá sức chịu đựng sẽ gây
trạng thái nguy kịch và chết. Đặc biệt nguy hiểm khi cơn đau không xuất phát từ vết thương,
mà trạng thái khong ổn định, phần bị thương chịu tác động bởi nội hoặc ngoại lực như di
chuyển lực ép, lực đẩy. Điều đó thường xảy ra với các vết thương như gẫy xương hoặc các
khớp xương. Khi người bị thương nằm bất động, đau đơn có thể chịu đựng được, nhưng khi
di chuyển, nhưng cơn đau trở lên quá sức chịu đựng và vô cùng nguy hiểm. Nhưng thương
binh cần di chuyển khỏi chiến trường. Để có thể di chuyển được, cần cô lập vết thương khỏi
trạng thái di chuyển, bảo vệ nó khỏi những tác động nội lực và ngoại lực.v.v… Phương pháp

tốt nhất là đặt các thanh nẹp vết thương. Ngoài việc giảm đau, các thanh nép có tác dụng
định vị các xương gẫy không di chuyển khỏi vị trí đã gẫy ban đầu, giảm tổn thương phần
mềm và tạo điều kiện nối lại các khớp xương trong phẫu thuật.
Nẹp là công cụ gá, có tác dụng giữ cho các bộ phận tay, chân hoặc một phần cơ thể trong
trạng thái bất động. Đã có nhưng bộ nẹp phức tạp được làm từ gỗ, dây.v.v Nhưng trong điều
kiện chiến trường có thể sử dụng bất cứ một vật nào đủ cứng và dài, thuận tiện cho buộc các
chi bị thương để loại trừ khả năng di chuyển và cô lập bộ phận cơ thể để không gây đau đớn
quá sức chịu đựng. Đặt nẹp là biện pháp sơ cứu đầu tiên cho những thương binh bị gãy
xương hay khớp. Nép có thể sử dụng từ những thanh nẹp quân y đã chuẩn bị sẵn hoặc từ
ván, thanh gỗ, cành cây.v.v xương gẫy càng to và quan trọng thì càng cần nẹp to, rộng và
vững chắc. Chiều dài của nẹp cần phải dài hơn bộ phận cơ thể bị chấn thương và ảnh
hưởng của nó đến cơ thể. Gãy cẳng tay thì nẹp sẽ gắn hơn là gẫy cánh tay, nép sẽ phải buộc
xuốt cả cánh tay. Tương tự như vậy với chân, đùi, xương háng, xương sống.v.v…Ví dụ: Nếu
bị thương gẫy xương đùi hoặc khớp đùi, nẹp sẽ là cả tấm nẹp bên ngoài dài từ thắt lưng đến
bàn chân Tấm nẹp thứ 2 sẽ dài từ giữa đùi đến bàn chân. Nẹp được buộc chặt vào phần cơ
thể bị tổn thương ít nhất là 3 chỗ, ở hai đầu và phần giữa của thanh nẹp. Tốt nhất là băng giữ
nẹp được quấn từ đầu thanh nẹp đến cuối bộ phận tổn thương mà thanh nẹp giữ. trên hình
giới thiệu vị trí nẹp từ các vật liệu khác nhau trên các chi.
Đặt nẹp để sơ cứu chấn thương cho thương binh được tiến hành sau khi đã cầm máu và
băng bó vết thương. Có thể xảy ra tình huống không có vật liệu cho làm những cái nẹp thích
hợp và mọi vật xung quanh đều bị nhiễm độc hoặc phóng xạ.
Khi đó, chân bị gẫy xương cần nẹp chặt vào với chân lành lặn, tay người bị thương được
buộc chặt vào cơ thể người. Phương pháp giản đơn này cũng giúp cho người bị thương
không bị đau đớn, và cho phép di chuyển thương binh ra khỏi vùng nguy hiểm về trạm quân
y tiền phương. Không được phép đặt nẹp quá chặt, thắt lưng, dây da, băng không được hằn
sâu vào cơ thể thương binh. Nếu nẹp làm thương binh khó chịu hoặc đau, là đã không đặt
nẹp chính xác.
Cũng có trường hợp, các chi của cơ thể bị vặn xoắn, bẻ xuôi ngược không còn trong trạng
thái bình thường. Những chiến sỹ sơ cứu đồng đội không có kinh nghiệm sẽ có ý định xắp
xếp lại cho đúng, nhưng điều đó vô cùng nguy hiểm cho thương binh, và các mảnh xương vỡ

có thể xuyên, xé cơ hoặc các động mạnh và tĩnh mạch bên cạnh vết gãy, đồng thời có thể
gây ra cơn đau dữ dội cho thương binh, làm chậm tiến độ cấp cứu thương binh. Nếu nhìn
thấy xương gẫy xuyên qua cơ ra phía ngoài cũng không được phép chạm tay vào vì có thể
gây nhiễm khuẩn nặng nề cho vết thương.
Nẹp khi di chuyển thương binh bị chấn thương cột sống ( a, b) chấn thương đùi, xương bánh
chè, ( J) cánh tay và bả vai.
Chỉ cho phép nhẹ nhàng và theo dõi nét mặt của thương binh để di chuyển nhẹ bàn chân
hoặc ngón tay. Sau đó băng và nẹp cố định cơ thể thương binh. Mọi phương pháp cứu chữa
đều phải được thực hiện trên bàn phẫu thuật của quân y.
Tiếp theo

×