Tải bản đầy đủ (.doc) (128 trang)

Luận văn Thạc sĩ Đóng góp của Tự Lực Văn Đoàn qua hai tiểu thuyết đoạn tuyệt của Nhất Linh và Nửa Chừng Xuân của Khải Hưng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.35 MB, 128 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên h tt

p : //

ww w .

l

r c

- t

nu .

e du . v

n
ĐẠI HỌC THÁI
NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ
PHẠM
===========O0O===========
LẠI THỊ THÚY
VÂN
ĐÓNG GÓP CỦA TỰ LỰC VĂN ĐOÀN
QUA HAI TIỂU THUYẾT ĐOẠN TUYỆT CỦA NHẤT LINH
VÀ NỬA CHỪNG XUÂN CỦA KHÁI HƯNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
Thái Nguyên, năm
2009
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên htt



p://

www.

l

rc

-t

nu.

edu.v

n
ĐẠI HỌC THÁI
NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ
PHẠM
===========O0O===========
LẠI THỊ THÚY
VÂN
ĐÓNG GÓP CỦA TỰ LỰC VĂN ĐOÀN
QUA HAI TIỂU THUYẾT ĐOẠN TUYỆT CỦA NHẤT LINH
VÀ NỬA CHỪNG XUÂN CỦA KHÁI HƯNG
Chuyên ngành: Văn học Việt
Nam
Mã số:
60.22.34

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGÔ VĂN
THƯ
Thái Nguyên, năm
2009
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên h tt

p : //

ww w .

l

r c

- t

nu .

e du . v

n
MỤC LỤC
Trang

®Çu

1
1. Lý do chọn đề tài
1

2. Lịch sử vấn
đề

3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
10
3.1. Đối
tượng

10
3.2. Phạm vi nghiên
cứu 11
4. Phương pháp nghiên cứu
11
5. Đóng góp của luận văn
11
6. Cấu trúc luận
văn

12
NỘI DUNG

13
Chương 1: ĐÓNG GÓP CỦA TỰ LỰC VĂN ĐOÀN ĐỐI VỚI QUÁ
TRÌNH HIỆN ĐẠI HÓA VĂN HỌC VIỆT
NAM.


13
1.1. Cơ sở lịch sử - văn hóa - xã hội cho sự ra đời của Tự lực văn

đoàn 13
1.1.1. Những cơ sở lịch sử - văn hóa- xã hội của công cuộc
hiện
đại hóa nền văn học Việt Nam giai đoạn đầu thế kỉ XX. 13
1.1.2. Sự ra đời của Tự lực văn
đoàn
17
1.2. Tiểu thuyết luận đề của Tự lực văn
đoàn

20
1.2.1. Khái niệm tiểu thuyết, tiểu thuyết luận đề và tiểu thuyết
luận
đề của Tự lực văn đoàn 20
1.2.2. Tiểu thuyết luận đề của Nhất Linh và Khái Hưng 24
1.3. Vai trò của Tự lực văn đoàn đối với quá trình hiện đại hóa văn
học dân tộc
30
1.3.1. Cổ vũ cho phong trào thơ mới 32
1.3.2. Hiện đại hóa thể loại tiểu thuyết 33
Chương 2: BƯỚC CHUYỂN TRONG QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ
CON NGƯỜI TRONG TIỂU THUYẾT NHẤT LINH VÀ KHÁI HƯNG 36
2.1. Quan niệm nghệ thuật về con người trong tiểu thuyết Tự lực
văn
đoàn

36
2.1.1. Quan niệm nghệ thuật về con người trong nghiên cứu văn
học 36
2.1.2. Quan niệm nghệ thuật về con người trong tiểu thuyết Tự lực

văn
đoàn
39
2.2. Con người theo mô hình đạo đức lễ giáo phong
kiến 42
2.2.1. Mâu thuẫn giữa con người cá nhân với đại gia đình phong
kiến
42
2.2.2. Nhân vật đại diện cho nền luân lý phong kiến cũ 46
2.3. Con người theo mô hình phương Tây hiện đại
53
2. 3.1. Nhân vật trí thức Tây học 53
2.3.2. Nhân vật phụ nữ đấu tranh cho hạnh phúc cá nhân 60
Chương 3: NHỮNG CÁCH TÂN NGHỆ THUẬT TRONG ĐOẠN TUYỆT
VÀ NỬA CHỪNG
XUÂN
72
3.1. Hiện đại hóa trong cốt truyện và kết cấu
72
3.1.1. Hiện đại hóa trong cốt
truyện:
73
3.1.2. Hiện đại hóa trong kết
cấu
78
3.2. Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật
84
3.2.1. Miêu tả tâm lý nhân vật qua ngôn ngữ đối
thoại
86

3.2.2. Miêu tả tâm lý qua ngôn ngữ độc thoại nội
tâm:
92
3.3. Hiện đại hóa trong ngôn ngữ và giọng điệu
96
3.3.1. Hiện đại hóa trong ngôn
ngữ
96
3.3.2. Hiện đại hóa trong giọng điệu 102
KẾT
LUẬN


109
TÀI LIỆU THAM
KHẢO


113
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên h tt

p : //

ww w .

l

r c

- t


nu .

e du . v

n
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đầu thế kỷ XX, xã hội Việt Nam chuyển mình với nhiều thay đổi lớn
lao trên mọi phương diện. Hòa chung vào dòng chảy của xã hội, văn học Việt
Nam có điều kiện gặp gỡ, tiếp xúc với nền văn học phương Tây hiện đại nên
đã có những biến chuyển mạnh mẽ. Những ảnh hưởng ấy đã nhanh chóng đưa
văn học tiến gần và tiến nhanh hơn đến “quỹ đạo” của quá trình hiện đại hóa.
Một nền văn học mới ra đời với những quan niệm thẩm mĩ mới đòi hỏi người
nghệ sĩ phải có sự cách tân, để văn học phát triển phù hợp với thời đại. Trước
những yêu cầu trên, nhiều nhóm phái văn học đã ra đời đáp ứng có hiệu quả
nhu cầu của tầng lớp độc giả mới. Trong đó Tự lực văn đoàn đã nhanh chóng
vươn lên chiếm giữ vị trí “chủ soái” trên văn đàn trong suốt những năm 30
của thế kỉ XX: “Tự lực văn đoàn không phải là nhóm duy nhất nhưng là nhóm
quan trọng nhất và nhóm cải cách đầu tiên của nền văn học hiện đại” [24, 550
- 551].
Với khoảng 10 năm hoạt động của mình, Tự lực văn đoàn đã có nhiều
đóng góp cho quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam, đặc biệt là ở thể loại
tiểu thuyết. Trong sự tồn tại phát triển của nhóm, chúng ta không thể không
nhắc đến hai cây bút trụ cột Nhất Linh và Khái Hưng. Bằng tài năng nghệ
thuật và sức sáng tạo không mệt mỏi, hai ông đã có những đóng góp quan
trọng cho quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX, góp phần
làm rạng danh tên tuổi của nhóm.
Là những cây bút tài năng, tâm huyết với cuộc sống và nghệ thuật,

Nhất Linh, Khái Hưng không chỉ để lại một số lượng tác phẩm tương đối lớn
mà những sáng tác của hai ông có nhiều ảnh hưởng tới tư tưởng của tầng lớp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên h tt

p : //

ww w .

l

r c

- t

nu .

e du . v

n
2
thanh niên trí thức Việt Nam những năm 30 và tạo được sự ngưỡng mộ đối
với độc giả yêu mến văn học.
Cả Nhất Linh và Khái Hưng đều sáng tác ở nhiều thể loại, song có
lẽ thành công nhất vẫn là thể loại tiểu thuyết, trước hết là tiểu thuyết luận đề,
và sau đó là tiểu thuyết tâm lý. Những tác phẩm của Tự lực văn đoàn nói
chung và của Nhất Linh, Khái Hưng nói riêng, giờ đây đã quá quen thuộc với
độc giả yêu văn học và giới nghiên cứu phê bình. Vị trí của hai ông ngày càng
được khẳng định vững chắc. Số lượng lớn các bài viết và những công trình
nghiên cứu về sự nghiệp văn chương của hai ông là minh chứng hùng hồn
khẳng định điều đó.

Những thành công trong tiểu thuyết luận đề của Nhất Linh và Khái
Hưng đã góp phần quan trọng dần từng bước tạo ra diện mạo mới cho văn học
Việt Nam đầu thế kỷ XX. Đoạn tuyệt của Nhất Linh và Nửa chừng xuân của
Khái Hưng là hai cuốn tiểu thuyết luận đề vừa là mở đầu, vừa là có giá trị
nhất, góp tiếng nói tố cáo, phê phán mạnh mẽ những hủ tục lạc hậu và bênh
vực quyền được hưởng hạnh phúc cá nhân của con người. Trong tác phẩm của
mình, hai nhà văn đặc biệt quan tâm tới thân phận đáng thương của người phụ
nữ trong chế độ đại gia đình phong kiến. Hai ông đã xây dựng khá thành công
hình tượng những người con gái có cá tính mạnh mẽ, dám đấu tranh chống lại
nền giáo lý lạc hậu đã tồn tại, ăn sâu vào nếp nghĩ của người dân Việt Nam
hàng ngàn năm qua. Đó là những cô gái tân thời có học hành, được tiếp xúc
với văn minh phương Tây nên thấu hiểu sâu sắc những bất công trong xã hội
mà bản thân họ là những nạn nhân phải gánh chịu. Vì thế khát vọng hạnh
phúc, khát vọng tình yêu ở những người phụ nữ này mạnh mẽ hơn ai hết, và
hành động chống đối lại xã hội ấy là điều hoàn toàn hợp với quy luật khách
quan của tiến bộ xã hội. Tác phẩm của Nhất Linh và Khái Hưng chính là
những tiên báo cho sự phát triển tất yếu của xã hội. Đây chính là đóng góp
của Tự lực văn đoàn đối với tiến trình hiện đại văn học dân tộc. Đến với tiểu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên h tt

p : //

ww w .

l

r c

- t


nu .

e du . v

n
3
thuyết của Tự lực văn đoàn, chúng tôi muốn góp một tiếng nói khẳng định vai
trò của văn đoàn này trong lĩnh vực đổi mới trên cả phương diện: nội dung và
nghệ thuật tiểu thuyết.
2. Lịch sử vấn đề
Nói về các hiện tượng văn học, không phải bất cứ nhà văn hay tác phẩm
nào cũng may mắn trở thành đối tượng được giới phê bình quan tâm nghiên
cứu. Ngay từ lúc mới xuất hiện trên văn đàn Việt Nam, Tự lực văn đoàn đã
thu hút được sự chú ý của độc giả yêu văn chương. Trong một khoảng thời
gian không phải dài hoạt động trong lĩnh vực sáng tạo nghệ thuật, Tự lực văn
đoàn, nhất là hai tác giả Nhất Linh và Khái Hưng đã để lại cho nền văn học
Việt Nam những tác phẩm có giá trị trên cả hai phương diện nội dung và nghệ
thuật.
Tuy nhiên, đây cũng là hiện tượng gây nhiều tranh cãi trong lịch sử văn
học nước nhà. Công việc nghiên cứu, đánh giá các tác phẩm của Nhất Linh,
Khái Hưng nói riêng và Tự lực văn đoàn nói chung khá phức tạp. Mỗi một
thời kỳ lại có những quan điểm trái ngược nhau. Thậm chí sự bất đồng trong
ý kiến đánh giá còn xảy ra ngay trong một thời kỳ giữa hai miền Nam -
Bắc. Hai cuốn tiểu thuyết Đoạn tuyệt của Nhất Linh và Nửa chừng xuân của
Khái Hưng là hai cuốn tiểu thuyết đã mang lại tên tuổi cho hai cây bút trụ cột
của nhóm. Song đây cũng là hai cuốn tiểu thuyết gây nhiều tranh cãi và làm
tốn giấy mực của giới nghiên cứu phê bình nhất.
Chúng tôi tạm chia những ý kiến đánh giá về Tự lực văn đoàn và
ha
i

tác giả trên theo 3 giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất (trước 1945):
Đây là giai đoạn mà Tự lực văn đoàn đang hoạt động và thu hút được
nhiều sự chú ý của độc giả. Trong đó, Nhất Linh và Khái Hưng là những tác
giả tiêu biểu. Đây chính là thời kỳ sáng tác sung mãn nhất của hai cây bút
này.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên h tt

p : //

ww w .

l

r c

- t

nu .

e du . v

n
4
Có nhiều bài phê bình của các tác giả như: Trương Tửu, Mộng Sơn, Vũ
Ngọc Phan, Trần Thanh Mại… được đăng trên các báo: Loa, Sông Hương,
Ngày nay, Thời thế, Hà Nội Tân văn, Phụ nữ Thời đàm… Bên cạnh đó còn
có các công trình nghiên cứu khác đều có mối quan tâm tới tiểu thuyết của
Nhất Linh và Khái Hưng.
Trong bài viết “Dưới mắt tôi”, nhà nghiên cứu Trương Chính đã có

đánh giá khá xác đáng về Đoạn tuyệt, Lạnh lùng của Nhất Linh và Hồn bướm
mơ tiên, Nửa chừng xuân của Khái Hưng. Ông viết: “Đoạn tuyệt là một kiệt
tác trong văn học hiện đại Việt Nam. Vì Đoạn tuyệt không chỉ có giá trị xã
hội. Nó còn có một giá trị tâm lý không ai chối cãi được” [24, 629].
Năm 1941, Dương Quảng Hàm trong cuốn Việt Nam Văn học sử yếu đã
nhận xét các tác phẩm của Nhất Linh và Khái Hưng như sau: “Hầu hết các tác
phẩm của ông (Nhất Linh) là những luận đề tiểu thuyết” [18, 454]. Khi nhận
xét về Khái Hưng, ông viết: “Tuy vẫn có khuynh hướng xã hội nhưng lại
thiên về mặt lý tưởng và có thi vị riêng… Khái Hưng có một cách tả người và
tả cảnh xác thực mà có một vẻ nhẹ nhàng thanh tú khiến cho người đọc thấy
cảm” [18. 455].
Năm 1942, trong cuốn Nhà văn hiện đại, Vũ ngọc Phan đã nhận ra sự
tiến bộ trong tiểu thuyết của Nhất Linh và Khái Hưng: “Nếu đọc tiểu thuyết
của Nhất Linh từ Nho phong cho tới những tác phẩm gần đây nhất của ông,
người ta thấy tiểu thuyết của ông biến đổi rất mau. Ông viết từ tiểu thuyết ái
tình, tiểu thuyết tình cảm, qua những tiểu thuyết luận đề, tiến đến tiểu thuyết
tâm lý” [55, 324]. Với Khái Hưng, ông nhận xét: “Nhưng dù ở tiểu thuyết lý
tưởng, tiểu thuyết phong tục hay tiểu thuyết tâm lý, cái đặc sắc… là sự xét
nhận rất đúng về tâm hồn nam nữ thanh niên Việt Nam” [ 55, 780].
Tiểu thuyết của Nhất Linh và Khái Hưng trong thời kỳ này được đánh
giá cao về mặt nội dung tư tưởng: chống chế độ đại gia đình phong kiến, giải
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên h tt

p : //

ww w .

l

r c


- t

nu .

e du . v

n
5
phóng cá nhân, giải phóng người phụ nữ thoát khỏi cánh cửa ngục thất của
chế độ đại gia đình phong kiến. Người ta xem Đoạn tuyệt của Nhất Linh như
một thứ “vũ khí” bắn thẳng vào thành trì kiên cố và bảo thủ của xã hội phong
kiến. Trên báo Loa (1935), Trương Tửu nhận xét: “Đoạn tuyệt là một vòng
hoa tráng lệ đặt lên đầu của chủ nghĩa cá nhân. Tác giả đàng hoàng công nhận
sự tiến bộ và hăng hái tin tưởng ở tương lai. Ông giúp cho bạn trẻ vững lòng
phấn đấu nghĩa là vui mà sống”. Trương Chính còn cho rằng: “Đoạn tuyệt
đánh dấu một cách rõ ràng thời kỳ thay đổi tiến hóa của xã hội An Nam. Nó
công bố sự bất hợp thời của một nền luân lý khắc khổ, eo hẹp, đã giết chết
bao nhiêu hy vọng, đè bẹp bao nhiêu lực lượng đáng kể, giam hãm bao nhiêu
chí khí bồng bột đương ao ước sống một đời đầy đủ, một đời mãnh liệt cường
tráng” [23, 293]. Còn “Nửa chừng xuân là cuốn truyện ghi dấu sự phấn đấu
giữa cá nhân và chế độ ấy. Tác giả biện luận cho quan hệ nhân sinh mới và
công bố sự bất hợp thời của những tập quán do nền luân lý cổ truyền tạo ra”
[14, 313].
Nhìn một cách tổng quát, giới phê bình trước 1945 đánh giá cao Tự lực
văn đoàn. Nội dung tư tưởng với chủ đề chống lễ giáo phong kiến và giải
phóng cá nhân được chú ý quan tâm. Tuy nhiên, các công trình này còn rất
chung chung và có phần giản đơn. Đó mới chỉ là những bước gợi mở chứ
chưa đi sâu khám phá những đóng góp về phương diện nghệ thuật.
Giai đoạn thứ 2 (từ 1946 – 1986):

Do hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, nên việc đánh giá một số hiện
tượng văn học trong đó có Tự lực văn đoàn ở giai đoạn này bị tạm gác lại.
Thời kỳ này, người ta nhìn nhận và đánh giá văn học dưới góc nhìn chính trị,
các tiêu chí đánh giá một tác phẩm văn học đều xuất phát từ lập trường và
quan điểm giai cấp. Tác phẩm của Tự lực văn đoàn giai đoạn này bị đánh giá
chưa thỏa đáng, thậm chí còn có phần khắt khe. Tuy nhiên, cũng có những ý
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên h tt

p : //

ww w .

l

r c

- t

nu .

e du . v

n
6
kiến khẳng định những đóng góp của Tự lực văn đoàn. Đồng chí Trường
Chinh trong bản báo cáo Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam được nêu trong
Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ hai (1948) vừa nêu những hạn chế của
văn đoàn này nhưng đồng thời cũng đã khẳng định: “Dẫu sao, hoạt động của
nhóm Tự lực văn đoàn đã đẩy mạnh phong trào văn nghệ nước ta tiến tới”.
Có một điểm rất đáng lưu ý là sự khác nhau trong quan điểm và thái

độ đánh giá về Tự Lực văn đoàn ở hai miền Nam - Bắc.
ở miền Bắc, không kể các bài viết, có các công trình nghiên cứu của
nhóm Lê Quý Đôn với Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam (1957); Văn học
Việt Nam 1930 – 1945 (1961) của Bạch Năng Thi, Phan Cự Đệ; Sơ thảo văn
học Việt Nam (1964) của Viện Văn học; Tiểu thuyết Việt Nam của Phan Cự
Đệ, tập 1 (1974)… đều nhắc tới Tự lực văn đoàn và tiểu thuyết của Nhất
Linh, Khái Hưng. Nhưng nhìn chung, quan điểm của các công trình này tỏ ra
hết sức khắt khe đối với đóng góp của Tự lực văn đoàn trong tiến trình hiện
đại hóa văn học Việt Nam. Nguyên nhân là do các nhà phê bình đã căn cứ vào
những tiêu chí chính trị của văn học cách mạng và lấy đó làm thước đo các
giá trị cho văn học lãng mạn mà quên mất rằng, văn học lãng mạn có những
đặc trưng riêng của nó. Thêm vào đó các nhà phê bình lại quá coi trọng việc
phản ánh hiện thực trong tác phẩm. Họ cho rằng, văn học là phải phản ánh
được đời sống cực khổ của nhân dân do bị địa chủ, thực dân áp bức bóc lột
mà quên đi đời sống nội tâm với bao dằn vặt, day dứt của thế hệ thanh niên trí
thức cũng là một vấn đề đáng được quan tâm. Chính vì vậy mà Tự lực văn
đoàn bị đánh giá là xa rời thực tiễn.
Có thể nói, những nhận định về Tự lực văn đoàn còn dè dặt, mới chỉ
khen ngợi một chút về nội dung chống phong kiến và phương diện nghệ thuật
“Về phương diện văn học sử, công lao chủ yếu của Nhất Linh và Khái Hưng
là đã có những đóng góp trong việc xây dựng một nền tiểu thuyết hiện đại”
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên h tt

p : //

ww w .

l

r c


- t

nu .

e du . v

n
7
[10, 87]. Còn chủ yếu là phê phán khá mạnh mẽ các tiểu thuyết của Nhất Linh
và Khái Hưng.
Trái ngược với miền Bắc, ở miền Nam, Tự lực văn đoàn lại được đề
cao, chú trọng quá mức. Nhiều tác phẩm của Tự lực văn đoàn đã được in lại
và phổ biến rộng rãi. Bên cạnh các bài viết đăng trên các tạp chí, còn có các
công trình văn học sử được đưa vào giảng dạy trong nhà trường. Có nhiều
công trình khảo cứu và nghiên cứu về Tự lực văn đoàn như: Khái Hưng,
người thứ nhất muốn làm nguyên soái của văn chương sáng giá của Hồ Hữu
Tường (1964); Nhất Linh, văn tài tiêu biểu của Tự lực văn đoàn của Phạm
Thế Ngũ (1965); Nhất Linh hay khuynh hướng lãng mạn phản kháng của Bùi
Xuân Bào (1972)… Nhiều công trình văn học sử được dùng trong nhà trường
như: Bình giảng về Tự lực văn đoàn (1958) của Nguyễn Văn Xung; Việt Nam
văn học sử giản ước tân biên (1960) của Phạm Thế Ngũ; Tự lực văn đoàn
(1960) của Doãn Quốc Sỹ; Văn học thế hệ 1932 (1972) của Thanh Lãng; Tiểu
thuyết Việt Nam hiện đại (1972) của Bùi Xuân Bào; Lược sử văn học Việt
Nam - Nhà văn tiền chiến (1974) của Thế Phong.
Đặc biệt, sau khi Nhất Linh qua đời, xuất hiện một loạt các bài viết
tưởng nhớ về ông của các tác giả Đặng Tiến, Tường Hùng, Doãn Quốc Sỹ,
Trương Bảo Sơn, Thế Uyên, Nguyễn Văn Trung…
Nhìn chung, các ý kiến đánh giá về Tự lực văn đoàn và hai nhà văn
Nhất Linh, Khái Hưng không có gì mới so với thời kỳ trước 1945. Chẳng hạn

Thế Phong đã khen Khái Hưng: “Đi sâu vào tâm lý với một kỹ thuật viết
trưởng thành”. Hay Nguyễn Văn Xung trong Bình giảng về Tự lực văn đoàn
viết: “Không phải tả cảnh như Khái Hưng nhưng là để móc vào đấy những
biến chuyển trong tình cảm nhân vật” [71, 32]. Một vài ý kiến ghi nhận sự
đóng góp của Nhất Linh, Khái Hưng nhưng còn mờ nhạt. Bên cạnh đó, xu
hướng đề cao vẫn là cơ bản. Như vậy, ở thời kỳ này, các ý kiến vẫn tập trung
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên h tt

p : //

ww w .

l

r c

- t

nu .

e du . v

n
8
đề cao tiểu thuyết của hai ông. Sự đối cực giữa các ý kiến không làm rõ được
những đóng góp cũng như hạn chế của Tự lực văn đoàn. Đôi khi sự đóng góp
cũng được ghi nhận song còn rất mờ nhạt. Trong khi đó, các giá trị đích thực
của văn chương lại không hề được đề cập tới.
Giai đoạn thứ ba (từ sau 1986):
Công cuộc đổi mới đất nước đã thực sự mở ra một kỷ nguyên mới cho

sự phát triển của văn học nói riêng và văn hóa nghệ thuật nói chung trong
phạm vi cả nước. Với tư duy nghệ thuật đổi mới, các nhà nghệ sĩ đã được “cởi
trói” và thoát khỏi sự nhìn nhận đánh giá nghệ thuật theo quan điểm chính trị.
Những sự “hàm oan” của văn học trong quá khứ đã được các nhà khoa học
nhìn nhận lại một cách khách quan hơn, trả lại cho văn học những giá trị đích
thực mà nó vốn có.
Hầu hết tác phẩm của Nhất Linh và Khái Hưng đã được tái bản, một số
cuốn được tái bản nhiều lần với số lượng lớn. Các hội nghị khoa học được mở
ra nhằm xem xét, đánh giá lại các tác phẩm văn chương của Tự lực văn đoàn.
Tháng 5 năm 1989, Nhà xuất bản Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp phối
hợp với Đại học Tổng hợp và các nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu văn học
danh tiếng như: Tô Hoài; Huy Cận, Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức, Trần Đình
Hượu, Phong Lê … đã tổ chức cuộc Hội thảo văn chương về Tự lực văn đoàn.
Tại đây, các nhà nghiên cứu tập trung khẳng định lại vai trò và những đóng
góp của Tự lực văn đoàn trong tiến trình hiện đại hóa nền văn học nước nhà.
Tiếp sau hội thảo này, xuất hiện hàng loạt các công trình, các bài viết
có giá trị nghiên cứu về văn chương của Tự lực văn đoàn như: Về Tự Lực văn
đoàn (1989) - Nguyễn Hữu Trác, Đái Xuân Ninh; Tự lực văn đoàn, con người
và văn chương (1990) - Phan Cự Đệ; Tự lực văn đoàn nhìn từ góc độ tính
liên tục của lịch sử qua bước ngoặt hiện đại hóa trong lịch sử văn học
phương Đông (1991) - Trần Đình Hượu; Thêm mấy ý kiến về Tự lực văn

9
đoàn (1991) - Lê Thị Đức Hạnh… Ngoài ra còn một số luận án tiến sĩ nghiên
cứu về Tự lực văn đoàn như: Tiểu thuyết Nhất Linh trước Cách mạng Tháng
Tám (1997) của Vũ Thị Khánh Dần; Quan niệm về con người trong tiểu
thuyết Tự lực văn đoàn (1997) của Lê Thị Dục Tú; Mô hình tiểu thuyết Tự
lực văn đoàn (2003) của Nguyễn Thị Tuyến…
ở các bài viết và những công trình nghiên cứu này, các tác phẩm của
Tự lực văn đoàn nói chung và của hai tác giả Nhất Linh, Khái Hưng nói riêng

đã được ghi nhận và đánh giá công bằng theo những giá trị văn học đích thực.
Giáo sư Phan Cự Đệ trong Tự lực văn đoàn - Con người và văn chương đã
có những đánh giá hết sức công bằng và giàu sức thuyết phục: “So với tiểu
thuyết trước năm 1930, tiểu thuyết Tự lực văn đoàn đã đi sâu hơn nhiều vào
thế giới nội tâm phong phú của con người… Ngòi bút của Nhất Linh rất có tài
miêu tả những mối tình đầu trong sáng, đượm chút ngập ngừng, e thẹn, kín
đáo và ý nhị” [9, 370]. Dù vậy, GS cũng chỉ ra những hạn chế: “Tuy nhiên, ở
những tác phẩm thời kỳ cuối Khái Hưng, Nhất Linh không những không đấu
tranh đòi giải phóng cá nhân, mà còn có xu hướng đẩy con người vào chủ
nghĩa duy tâm và định mệnh” [9. 330].
Nhìn chung, các nhà nghiên cứu đều công nhận nội dung tiến bộ của
tiểu thuyết Nhất Linh là thể hiện khát vọng giải phóng con người cá nhân,
giải phóng người phụ nữ thoát khỏi những giáo lý khắc nghiệt của xã hội
phong kiến và lên tiếng đòi quyền được hưởng hạnh phúc cho con người. Nhà
nghiên cứu Vu Gia trong cuốn Nhất Linh trong tiến trình hiện đại hóa văn học
đã viết: “Đoạn tuyệt là cuốn tiểu thuyết luận đề đầu tiên trong lịch sử văn học
Việt Nam, và là cuốn tiểu thuyết mà Nhất Linh muốn đem đến cho người đọc
thời bấy giờ thấy được tiếng Việt cũng đủ khả năng diễn đạt mọi ngóc ngách
tình cảm của con người, thấy được đâu là cái mới, cái cũ, đâu là tiến bộ văn
minh, đâu là lạc hậu lỗi thời, và để người đọc hôm nay thấy được sự gian

10
truân của

11
buổi đầu chống lại chế độ đại gia đình phong kiến” [17, 153]. Giáo sư Hà
Minh Đức trong lời giới thiệu Nửa chừng xuân đã viết: “Nửa chừng xuân là
cuộc tiến công vào lễ giáo phong kiến đã khẳng định quyền tự do hôn nhân
của lớp thanh niên trí thức đang được phát triển về quyền sống và ý thức cá
nhân” [25, 10]. Thời kỳ này các nhà nghiên cứu phê bình đã khai thác giá trị

văn chương của Tự lực văn đoàn khá hợp lý với thái độ công bằng và khách
quan.
Đã nhiều năm qua đi, việc nghiên cứu và đánh giá về hai tác giả Nhất
Linh, Khái Hưng ngày càng có những khám phá mới mẻ và xác đáng. Tuy
nhiên việc đi sâu vào nghiên cứu hai cuốn tiểu thuyết Đoạn tuyệt và Nửa
chừng xuân trong sự đối sánh với nhau thì lại ít người để ý tới. Đứng trước
thực trạng đó, chúng tôi mạnh dạn đi sâu vào nghiên cứu hai tác phẩm Đoạn
tuyệt và Nửa chừng xuân để chỉ ra những nét tương đồng và khác biệt trong
tác phẩm của hai nhà văn. Trong luận văn của mình, chúng tôi sẽ cố gắng tìm
hiểu một cách có hệ thống tư tưởng nghệ thuật của Nhất Linh, Khái Hưng
cùng những cách thức xây dựng hệ thống nhân vật của hai nhà văn này và
những đóng góp cho quá trình hiện đại hóa nền văn học Việt Nam giai đoạn
đầu thế kỉ XX. Qua luận văn, chúng tôi mong muốn được góp một tiếng nói
nhỏ bé của mình vào việc khẳng định và tôn vinh những giá trị nghệ thuật mà
Tự lực văn đoàn nói chung và hai tác giả Nhất Linh, Khái Hưng đã đóng góp
cho tiến trình hiện đại hóa nền văn học dân tộc.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng
Đối tượng khảo sát chính là hai cuốn tiểu thuyết của Nhất Linh, Khái
Hưng: Đoạn tuyệt và Nửa chừng xuân. Để hiểu rõ hơn về hai tác giả này,
chúng tôi đi vào nghiên cứu thêm một số tiểu thuyết khác nhằm bổ trợ cho
những nhận thức và hiểu biết sâu sắc hơn về quan niệm nghệ thuật của Nhất

12
Linh, Khái Hưng như: Nho phong, Lạnh lùng, Đôi bạn, Bướm trắng của Nhất
Linh; Hồn bướm mơ tiên, Gia đình, Thoát ly, Thừa tự của Khái Hưng.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Chúng tôi tập trung nghiên cứu về vấn đề chống lễ giáo phong kiến,
giải phóng cá nhân trong hai cuốn tiểu thuyết Đoạn tuyệt và Nửa chừng xuân.
Đặc biệt chú ý nhấn mạnh tới hai hệ thống nhân vật nữ đối lập nhau. Một bên

là những người con gái tân thời có học, được tiếp xúc với văn minh phương
Tây, đại diện cho cái mới. Một bên là người phụ nữ mang nặng tư tưởng
phong kiến, đại diện cho cái cũ. Chúng tôi đi sâu nghiên cứu tâm lý và hành
động của những nhân vật phụ nữ có quan niệm sống hiện đại trong quá trình
đấu tranh giải phóng cá nhân. Về phương diện nghệ thuật, chúng tôi đặc biệt
quan tâm tới sự hiện đại hóa thể loại tiểu thuyết.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn, chúng tôi sử dụng các phương pháp
sau:
- Phương pháp phân tích tổng hợp
- Phương pháp so sánh đối chiếu
- Phương pháp thống kê phân loại
- Phương pháp văn học sử
5. Đóng góp của luận văn
Viết luận văn này, chúng tôi mong muốn được góp tiếng nói nhỏ bé
vào việc tiếp tục khẳng định và tôn vinh vị trí, vai trò cách tân nghệ thuật của
tiểu thuyết Tự lực văn đoàn nói chung và của hai tác giả Nhất Linh Khái
Hưng nói riêng đối với nền văn học Việt Nam hiện đại.
Luận văn đi vào khảo sát cụ thể hai tác phẩm Đoạn tuyệt của Nhất Linh
và Nửa chừng xuân của Khái Hưng để thấy được những cách tân về mặt thể
loại trên cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật.

13
Nghiên cứu tiểu thuyết luận đề của Nhất Linh, Khái Hưng chúng tôi
nhằm chỉ ra sự đóng góp của hai nhà văn trong công cuộc đấu tranh bênh vực
cho cái mới, lên tiếng đòi phá bỏ những cái cũ đã lạc hậu, lỗi thời, đòi quyền
tự do cá nhân cho con người.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn được triển khai ở 3 chương:

Chương 1: Đóng góp của Tự lực văn đoàn đối với quá trình hiện đại
hóa văn học Việt Nam.
Chương 2: Bước chuyển trong quan niệm nghệ thuật về con người
trong tiểu thuyết Nhất Linh và Khái Hưng.
Chương 3: Những cách tân nghệ thuật trong Đoạn tuyệt và Nửa
chừng xuân.

14
NỘI DUNG
Chương 1:
ĐÓNG GÓP CỦA TỰ LỰC VĂN ĐOÀN ĐỐI VỚI QUÁ
TRÌNH HIỆN ĐẠI HÓA VĂN HỌC VIỆT NAM.
1.1. Cơ sở lịch sử - văn hóa - xã hội cho sự ra đời của Tự lực văn đoàn
1.1.1. Những cơ sở lịch sử - văn hóa- xã hội của công cuộc hiện đại hóa
nền văn học Việt Nam giai đoạn đầu thế kỉ XX.
Cùng với sự đổi thay có tính chất bước ngoặt của dân tộc, văn học Việt
Nam đầu thế kỉ XX cũng có một bước “chuyển mình” mang tầm vóc thế kỉ.
Từ một nền văn học trung đại mang đậm tính chất cổ điển kéo dài trong suốt
hơn mười thế kỷ, đến nay văn học Việt Nam đã nhanh chóng gia nhập vào
tiến trình văn học thế giới. Diện mạo nền văn học nước nhà giờ đây đang dần
thay đổi và vận động theo hướng hiện đại hóa.
Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, Pháp tuy là một nước thắng trận
nhưng vẫn phải gánh chịu nhiều tổn thất kinh tế nặng nề. Để khôi phục lại nền
kinh tế của mình, thực dân Pháp đã tăng cường khai thác thuộc địa. Chúng ra
sức vơ vét, bóc lột tài nguyên thiên nhiên của nước ta. Sau hai cuộc khai thác
thuộc địa và thực hiện những chính sách kinh tế mới, xã hội Việt Nam đã biến
đổi một cách sâu sắc và toàn diện. Từ một mô hình xã hội phong kiến phương
Đông, Việt Nam đã căn bản chuyển sang xã hội thực dân nửa phong kiến.
Giờ đây chính quyền bản xứ nằm trong tay thực dân Pháp, bộ máy cai
trị được tổ chức lại theo hướng hiện đại hơn và chi phối toàn diện mọi mặt

đời sống xã hội. Kết quả của việc đưa ra một loạt các chính sách kinh tế
mới là chế độ nửa phong kiến thuộc địa được hình thành. Xã hội lúc này xuất
hiện nhiều đô thị với các nhà máy, đồn điền mọc lên nhanh chóng. Việc phát
triển kinh tế hàng hóa đã tạo ra một thị trường sôi động chưa từng có ở Việt

15
Nam
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên h tt

p : //

ww w .

l

r c

- t

nu .

e du . v

n
14
từ trước tới nay. Cũng chính từ đây trong xã hội đã hình thành nhiều giai cấp,
tầng lớp mới. Nếu như trước đây xã hội Việt Nam chỉ có hai giai cấp chính là
nông dân và địa chủ thì nay có thêm các giai cấp khác như: tư sản, tiểu tư sản,
vô sản… Với những chính sách kinh tế của mình, thực dân Pháp đã phá vỡ
chính sách “bế quan tỏa cảng” của triều đình nhà Nguyễn và đưa Việt Nam

tiếp xúc với bên ngoài, với văn minh nhân loại và nhanh chóng hòa nhập vào
“guồng quay” hiện đại của thế giới.
Từ sự thay đổi về mô hình xã hội đã kéo theo sự biến động trong kết cấu
xã hội Việt Nam. Để nắm vững thuộc địa, thực dân Pháp phải tìm mọi cách để
nắm chắc chính quyền các cấp và kiểm soát được nhân dân. Vì vậy chúng
phải xây dựng một bộ máy cai trị trung thành và một cơ sở xã hội thích hợp
với chế độ của chúng. Nhằm thay thế tầng lớp Nho sĩ, thân sĩ - tầng lớp có cội
nguồn và được tín nhiệm lớn ở nông thôn Việt Nam, Pháp đã mở ra các
trường hậu bổ, trường Pháp – Việt, trường Cao đẳng đào tạo những thế hệ Tây
học để thay thế cho những văn thân xuất thân từ Nho học. Về cơ bản, những
chính sách của thực dân Pháp đã làm cho xã hội Việt Nam “chuyển mình”
bước sang xã hội tư sản, một hướng tư sản kém lành mạnh nhất. Nhưng công
bằng mà nói thì chính điều đó lại tạo điều kiện cho các mặt khác phát
triể
n.
Đó là sự thay đổi bộ mặt thành thị, biến nó thành những trung tâm kinh tế
mới; làm mất đi thế lực của nhiều lực lượng bảo thủ, trì trệ; tạo điều kiện cho
cái mới du nhập vào đời sống của người nông dân ở thôn quê, giúp thay đổi
nhận thức lạc hậu của họ.
Xã hội thực dân nửa phong kiến hình thành qua quá trình đấu tranh giữa
ta và địch, giữa sự tranh chấp của cái cũ và cái mới. Tương ứng với các hiện
tượng đó là cuộc cạnh tranh Đông - Tây trong văn học. Đội quân xâm lược đã
tìm mọi cách để du nhập văn hóa Pháp vào Việt Nam nhằm đẩy lùi, chiếm
chỗ, thay thế văn hóa cổ truyền của ta. Sự đổi thay về mặt chính trị - kinh tế -
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên h tt

p : //

ww w .


l

r c

- t

nu .

e du . v

n
15
xã hội đã tác động tới cuộc sống tinh thần, tâm lý và cách suy nghĩ của người
dân Việt Nam. Sự thâm nhập của cái mới đã làm thay đổi nhận thức của con
người về xã hội, đồng thời tạo ra những con người mới với quan niệm sống và
cách nhìn khác trước. Trong xã hội xuất hiện những vấn đề mới và đòi hỏi bổ
sung những cách giải quyết mới đem lại những chuyển đổi căn bản trong đề
tài, chủ đề, đó chính là điều kiện cho nhân vật văn học hiện đại xuất hiện thay
thế cho những kiểu nhân vật đã quá quen thuộc trong văn học trung đại.
Mỗi một giai cấp, tầng lớp lại có nhu cầu thưởng thức văn hóa khác nhau.
Trong xã hội Việt Nam, có bao nhiêu giai cấp, tầng lớp thì đòi hỏi phải có bấy
nhiêu “món ăn” tinh thần cần phải đáp ứng. Đây chính là nguyên nhân khiến
cho đời sống văn học của ta ngày càng phát triển phong phú và phức tạp, kéo
theo sự xuất hiện của một lượng công chúng đa dạng. Cũng chính từ đây đã
hình thành nên một đội ngũ những người sáng tác văn chương tương ứng với
tính chất xã hội. Thời kỳ đầu, những nhà văn này là một lớp người có vốn kiến
thức sâu rộng về văn hóa phương Đông nhưng cũng không còn hoàn toàn xa lạ
với văn hóa phương Tây. Về sau, họ là một lớp sáng tác trẻ hơn, hiện đại hơn.
Đó là lớp trí thức trẻ được đào tạo ở các trường hậu bổ, trường Pháp – Việt,
trường cao đẳng. Họ là lớp Tây học đầu tiên ít nhiều có vốn Nho học. Tư

tưởng của họ được đổi mới và đi theo hướng hiện đại. Dần dần đội ngũ này
hướng hẳn về phía Tây học, tìm đến với chủ nghĩa cá nhân và con đường giải
phóng cá nhân trong chủ nghĩa lãng mạn Pháp thế kỉ XIX. Các nhà văn
này, với một phong cách chuyên nghiệp đã nhanh chóng vươn lên trở thành
lực lượng sáng tác chính. Văn chương giờ đây đã trở thành một “nghề” kiếm
sống chứ không đơn thuần viết ra chỉ để thưởng thức, để “tri âm”, để “tải
đạo” giáo huấn như văn chương thời trung đại. Có thể nói văn chương đã thực
sự trở thành một thứ “hàng hóa” trong xã hội. Người viết văn hiện đại do sự
thúc bách của công việc mưu sinh nên sức sáng tạo của những cây bút trở nên
dồi dào, phóng khoáng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên h tt

p : //

ww w .

l

r c

- t

nu .

e du . v

n
16
Đó là điều kiện tạo nên một cuộc cách mạng trong văn chương. Những nhà
văn chuyên nghiệp – họ là những trí thức hiện đại, được trưởng thành từ nhà

trường Tây học. Vì vậy từ tư tưởng cho đến cách thức, phương pháp sáng tác,
quan niệm của họ đều chịu ảnh hưởng của phương Tây và mang tính chất
hiện đại. Với lượng công chúng độc giả ngày càng đông đảo và đa dạng thì
nhu cầu đổi mới văn học càng trở nên cấp bách hơn bao giờ hết. Sự thâm nhập
của văn hóa phương Tây đã nhanh chóng tác động mạnh mẽ vào quá trình
hình thành và hiện đại hóa nền văn học nước nhà.
Một nhân tố quan trọng tạo nên bước đột phá trong quá trình hiện đại hóa
văn học thời kì này là sự xuất hiện và “lên ngôi” của chữ Quốc ngữ, nhằm
thay thế cho chữ Hán và chữ Nôm. Điều này tạo cơ hội để mở rộng lượng
công chúng độc giả mới. Rõ ràng chữ Quốc ngữ, kể từ lúc mà cả dân tộc Việt
Nam có ý thức sử dụng, đã đảm nhiệm được một khối lượng công việc rất
lớn, nó vừa có ý nghĩa “phục hưng” các giá trị truyền thống, vừa là tiền đề để
vươn tới các giá trị mới giúp văn học Việt Nam từng bước hội nhập với nhân
loại, với thời đại.
Đặc biệt là báo chí thời kì này rất phát triển, chỉ trong khoảng một thời
gian rất ngắn đã xuất hiện hàng trăm tờ báo lớn nhỏ khác nhau. Sự bùng nổ
của báo chí là phương tiện hữu hiệu nhất đưa văn học đến với công chúng độc
giả mọi tầng lớp một cách nhanh nhất. Có những tờ báo chuyên đăng tải
những sáng tác văn học. Nếu không có sự “trợ giúp’ đắc lực của báo chí thì
độc giả không thể tiếp cận nhanh chóng với các tác phẩm văn học. Sẽ thật là
thiếu sót nếu không kể đến công nghệ in ấn hiện đại đã góp phần thúc đẩy quá
trình hiện đại hóa nền văn học Việt Nam. Nếu như trước đây công việc xuất
bản chỉ mang tính chất là một hoạt động mang tính tiểu thủ công, manh mún,
lặt vặt thì nay xuất bản mang tính công nghệ hiện đại đã cho ra đời các tác
phẩm văn học “tràn ngập” thị trường và đến với công chúng một cách dễ dàng
nhất.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên h tt

p : //


ww w .

l

r c

- t

nu .

e du . v

n
17
Khác với văn học trung đại, văn học hiện đại được hình thành và phát
triển trên cơ sở xã hội thuộc địa. Sự xâm nhập của văn minh phương Tây đã
kéo theo những nhu cầu văn hoá có tính thương mại. Văn học giờ đây đã trở
thành một nghề kiếm sống. Lúc này, công chúng văn học đã đông đảo hơn về
mặt số lượng, đa dạng hơn về mặt thành phần. Người sáng tác văn học là tầng
lớp trí thức Tây học đang dần thay thế cho nhà Nho làm chủ văn đàn. Cùng
với sự bùng nổ của công nghệ in ấn và báo chí là những điều kiện để hình
thành một nền văn học mới tuy ban đầu còn rất mỏng manh. Sự chuyển đổi từ
văn học trung đại sang văn học hiện đại ở nước ta diễn ra với nhịp độ nhanh
chóng và gấp gáp. Điều đáng nói nhất là nền văn học của ta được hiện đại hoá
ngay chính trong lòng xã hội thuộc địa. Những cơ sở lịch sử, văn hóa, xã hội
trên đây chính là những tiền đề quan trọng quyết định quá trình hiện đại hóa
của nền văn học Việt Nam.
1.1.2. Sự ra đời của Tự lực văn đoàn
Sự ra đời
Nhắc đến Tự lực văn đoàn, người ta không thể không nhắc tới Nhất Linh,

ông là người sáng lập đồng thời cũng là vị thủ lĩnh lãnh đạo văn đoàn.
Tháng 3 năm 1933, Tự lực văn đoàn chính thức công bố thành lập trên
báo Phong hóa với 7 thành viên chính thức (thất tinh) gồm: Nhất Linh
(Nguyễn Tường Tam), Khái Hưng (Trần Khánh Dư), Hoàng Đạo (Nguyễn
Tường Long), Thạch Lam (Nguyễn Tường Lân), Thế Lữ (Nguyễn Thứ Lễ),
Tú Mỡ (Hồ Trọng Hiếu), Xuân Diệu (Ngô Xuân Diệu). Ngoài 7 thành viên
chính thức, Tự lực văn đoàn đã tập hợp được một đội ngũ cộng tác viên đông
đảo bao gồm các nhà thơ của phong trào Thơ mới như: Huy Cận, Anh Thơ,
Lưu Trọng Lư, Đoàn Phú Tứ, Thanh Tịnh; các nhà văn như: Nguyên Hồng,
Đỗ Đức Thu, Phan Văn Dật, Mạnh Phú Tư, Vi Huyền Đắc…; các họa sĩ nổi
tiếng như: Tô Ngọc Vân, Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Cát Tường…
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên h tt

p : //

ww w .

l

r c

- t

nu .

e du . v

n
18
Nhóm hoạt động với tư cách độc lập không tuân theo một chỉ thị nào

ngoài đường lối do chính họ vạch ra. Nhờ tinh thần đoàn kết, niềm say mê văn
chương, Tự lực văn đoàn đã gặt hái được nhiều thành công vang dội, hoạt
động của nhóm có ảnh hưởng mạnh mẽ đối với nền văn học hiện đại Việt
Nam đầu thế kỉ XX.
Mục đích của Tự lực văn đoàn gồm 4 điểm:
1. Tự lực văn đoàn họp những người đồng chí trong văn giới. Người
trong đoàn đến với nhau cốt có liên lạc về tinh thần, cùng nhau theo đuổi một
tôn chỉ, hết sức giúp nhau để đạt được mục đích chung, hết sức che chở nhau
trong những công cuộc văn chương.
2. Người trong đoàn có quyền đề dưới tên mình chữ Tự lực văn đoàn và
bao nhiêu tác phẩm của mình đều được văn đoàn nhận và đặt dấu hiệu.
3. Những sách của người ngoài, hoặc đã xuất bản, hoặc còn là bản thảo
gửi đến để văn đoàn xét, nếu 2/3 người trong đoàn có mặt ở Hội đồng xét là
có giá trị và hợp với tôn chỉ thì sẽ nhận đặt dấu hiệu của đoàn và sẽ tùy sức cổ
động giúp. Tự lực văn đoàn không phải là một hội buôn bán sách.
4. Sau này, nếu có thể được, văn đoàn sẽ đặt giải thưởng gọi là Giải
thưởng Tự lực văn đoàn để thưởng những tác phẩm có giá trị và hợp với tôn
chỉ của văn đoàn.
Tháng 6 năm 1934, tôn chỉ của Tự lực văn đoàn được chính thức công
bố trên Phong hóa gồm 10 điểm:
1. Tự sức mình làm ra những sách có giá trị về văn chương chứ không
phiên dịch sách nước ngoài nếu những sách này chỉ có tính cách văn chương
thôi. Mục đích để làm giàu thêm văn sản trong nước.
2. Soạn hay dịch những sách có tư tưởng xã hội, chú ý làm cho người và
xã hội ngày một hay hơn lên.
3. Theo chủ nghĩa bình dân, soạn những cuốn sách có tính chất bình dân
và cổ động cho người khác yêu chủ nghĩa bình dân.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên h tt

p : //


ww w .

l

r c

- t

nu .

e du . v

n
19
4. Dùng một lối văn giản dị dễ hiểu, ít chữ nho, một lối văn thật có tính
cách An Nam.
5. Lúc nào cũng mới, trẻ, yêu đời, có chí phấn đấu và tin ở sự tiến bộ.
6. Ca ngợi những nét hay, vẻ đẹp của nước nhà mà có tính cách bình dân.
Không có tính cách trưởng giả, quý phái.
7. Trọng tự do cá nhân.
8. Làm cho người ta biết rằng đạo Khổng không hợp thời nữa.
9. Đem phương pháp Thái Tây ứng dụng vào văn chương An Nam.
10. Theo một điều trong 9 điều trên đây cũng được miễn là đừng trái
ngược với những điều khác.
Với mục đích và tôn chỉ đã đề ra, Tự lực văn đoàn đã mở ra một quan
niệm văn chương hết sức tiến bộ, thể hiện khát vọng xây dựng một nền văn
học dân tộc theo xu hướng hiện đại và niềm mong mỏi được đấu tranh cho sự
giải phóng cái tôi cá nhân, giải phóng sự ràng buộc con người khỏi hệ tư
tưởng phong kiến, đồng thời muốn đem lại sự trong sáng cho ngôn ngữ tiếng

Việt và hiện đại hóa các thể loại văn học, nhất là thể loại tiểu thuyết.
Cơ quan ngôn luận của nhóm là hai tờ báo Phong hóa và Ngày nay. Ngay
từ khi mới ra đời, tuần báo Phong hóa đã nhận được sự hưởng ứng nhiệt tình
của độc giả: “Tờ báo nổ ra như một trái bom, mang lại cho xã hội Việt Nam
khi đó một món quà người ta chưa hề được thưởng thức: Cái cười” [24, 22].
Phong hóa đã chinh phục độc giả mọi tầng lớp bằng tiếng cười trào phúng
sảng khoái, đả phá những tục lệ cổ, những nhân vật tai to mặt lớn thời bấy giờ.
Đó cũng chính là nguyên nhân dẫn đến việc năm 1935 tờ báo bị đình bản
trong suốt 3 tháng. Đến năm 1936, tờ báo bị đóng cửa và được thay thế bằng
Ngày nay. Trên cơ sở sáp nhập và đổi tên một số nội dung của Phong hóa,
Ngày nay đã hạn chế bớt nội dung trào phúng và đi sâu vào các mặt của đời
sống xã hội. Thông qua Phong hóa và Ngày nay, Tự lực văn đoàn đả kích bọn
địa chủ và quan lại phong kiến, phơi bày và phê phán những hủ tục lạc hậu và

×