Bộ giáo dục và đào tạo
Trờng đại học vinh
lê thị vân
đóng góp của tự lực văn đoàn
trong tiến trình phát triển tiểu thuyết
Việt Nam hiện đại
Luận văn thạc sĩ ngữ văn
Vinh - 2007
Bộ giáo dục và đào tạo
Trờng đại học vinh
lê thị vân
đóng góp của tự lực văn đoàn
trong tiến trình phát triển tiểu thuyết
Việt Nam hiện đại
Chuyên ngành: văn học Việt Nam
MÃ số: 60.22.34
Luận văn thạc sĩ ngữ văn
Ngời hớng dẫn khoa học:
TS. Lê thời tân
Vinh - 2007
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài........................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề............................................................................................2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................11
4. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của đề tài......................................................11
5. Phương pháp nghiên cứu..........................................................................11
6. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài............................................................11
7. Cấu trúc của luận văn...............................................................................12
Chương 1. Những đóng góp về nội dung tư tưởng của tiểu thuyết Tự
lực văn đồn...............................................................................13
1.1. Giải phóng con người ra khỏi sự ràng buộc của lễ giáo phong kiến,
khẳng định cái tôi cá nhân........................................................................13
1.1.1. Sự tung phá những ràng buộc của gia đình phong kiến..............15
1.1.2. Khẳng định ý thức cá nhân bằng những lối thốt trong tình u
.....................................................................................................23
1.1.3. Con người cá nhân cực đoan với nhu cầu giải phóng bản năng
.....................................................................................................26
1.2. Hình ảnh người khách chinh phu mang tâm sự yêu nước thầm kín.........28
Chương 2. Cốt truyện và kết cấu trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn.........36
2.1. Cốt truyện trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn..........................................37
2.1.1. Cốt truyện phiêu lưu....................................................................39
2.1.2. Cốt truyện mang luận đề xã hội..................................................40
2.1.3. Cốt truyện tâm lí..........................................................................45
2.2. Kết cấu trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn...............................................48
2.2.1. Kết cấu đa tuyến..........................................................................49
2.2.2. Kết cấu theo quy luật tâm lí........................................................51
Chương 3. Nghệ thuật miêu tả tâm lí trong tiểu thuyết Tự lực văn đồn
.....................................................................................................56
3.1. Miêu tả tâm lí trong tiểu thuyết luận đề...................................................60
1
3.1.1. Miêu tả tâm lí qua ngơn ngữ.......................................................60
3.1.2. Miêu tả tâm lí qua hành động......................................................64
3.1.3. Miêu tả tâm lí trong mối quan hệ hài hòa với thiên nhiên động
.....................................................................................................66
3.2. Miêu tả tâm lí trong tiểu thuyết tâm lí......................................................67
3.2.1. Miêu tả nội tâm qua ngôn ngữ.....................................................69
3.2.2. Miêu tả tâm lí qua sự khơng đồng nhất giữa hành động và
tâm lí............................................................................................75
3.2.3. Miêu tả tâm lí bằng dịng nội tâm trữ tình...................................76
3.3. Ngơn ngữ và giọng điệu...........................................................................78
3.3.1. Hiện đại trong câu văn xuôi........................................................80
3.3.2. Làm giàu thêm cho vốn ngữ vựng trong tiểu thuyết...................83
3.3.3. Phong cách hành văn...................................................................88
KẾT LUẬN.....................................................................................................92
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................95
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hơn nửa thế kỷ trôi qua, kể từ khi tiểu thuyết Tự lực văn đồn xuất
hiện, đã có rất nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí đối lập nhau trong việc đánh
giá đóng góp của tiểu thuyết lãng mạn nói riêng và trào lưu văn học lãng mạn
nói chung cho tiến trình phát triển của văn học dân tộc. Trên tinh thần đổi
mới, việc thẩm định lại giá trị của văn học quá khứ với một tư duy khoa học,
một phương pháp nghiên cứu đúng đắn, một thái độ bình tâm tĩnh trí, một tình
cảm trân trọng di sản văn học của tiền nhân, là một việc làm hết sức khó khăn
nhưng đầy hấp dẫn và rất cần thiết.
Đầu thế kỷ XX, trong văn học Việt nam đã diễn ra một “sự kiện” có
tính chất bước ngoặt: Cơng cuộc hiện đại hố văn học. Dịng văn học bác học,
chính thống chịu ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo và văn học Trung Quốc, đã
mất vị trí độc tơn trên văn đàn dân tộc. Nền văn học mới chịu ảnh hưởng của
văn học Châu Âu, chủ yếu là văn học Pháp, ngày càng phát triển. Văn học
Việt Nam đi vào quỹ đạo hiện đại. Quan niệm văn học, quan niệm cái đẹp và
thi pháp của các thể loại đã thay đổi. Nền văn học mới có đội ngũ tác giả, có
phương tiện truyền bá đời sống văn học khác với nền văn học của các nhà nho
từ mấy thế kỷ trước.
Đúng trong khoảng thời gian có tính chất bước ngoặt đó, tiểu thuyết Tự
lực văn đồn ra đời, nó đã “đánh dấu giai đoạn tồn thắng” [43] của nền văn
học mới. Tự lực văn đoàn hoạt động chỉ trong vòng trên dưới mười năm (1932
- 1942, tạm tính từ ngày tờ “Phong hố” ra đời cho đến lúc Thạch Lam mất ngày 28/06/1942). Trong phạm trù ý thức hệ tư sản, Tự lực văn đoàn đã nói lên
những khát vọng dân tộc và dân chủ của đông đảo quần chúng chủ yếu là của
các tầng lớp tiểu tư sản trí thức và thanh niên thành thị. Tự lực văn đồn khơng
đặt vấn đề giải phóng xã hội nhưng đã đấu tranh địi giải phóng con người, giải
phóng bản ngã. Đặc biệt đấu tranh cho tự do hôn nhân, cho cuộc sống của
người phụ nữ chống lại sự ràng buộc khắt khe của lễ giáo phong kiến.
2
Thế nhưng, trong suốt một thời gian dài, những đóng góp tích cực của
Tự lực văn đồn bị bỏ qua hoặc chưa được chú ý đúng mức. Trong những
năm đổi mới, việc đánh giá lại một số hiện tượng văn học trước cách mạng
Tháng Tám, trong đó có Tự lực văn đoàn, đã khách quan, khoa học hơn trước.
Chúng ta đã lấy tiêu chí văn học để thẩm định lại các tác phẩm, tác giả chứ
không chỉ chú ý vào thái độ chính trị của họ. Trong khơng khí đổi mới đó việc
nghiên cứu vai trị của Tự lực văn đồn đối với q trình phát triển nền văn
học dân tộc là một việc làm cần thiết và bổ ích, có ý nghĩa thiết thực.
Có thể nói, văn Tự lực văn đồn đã góp phần khơng nhỏ về mặt nội
dung tư tưởng cũng như mặt nghệ thuật. Việc chúng tôi chọn đề tài: “Đóng
góp của Tự lực văn đồn trong tiến trình phát triển tiểu thuyết Việt Nam hiện
đại” thể hiện mong muốn có thể góp một tiếng nói, một ý kiến trong sự
nghiệp nghiên cứu chung.
2. Lịch sử vấn đề
Trong lịch sử văn học Việt Nam cận - hiện đại, ít có hiện tượng văn học
nào mà từ khi ra đời đã trở thành đề tài tranh luận sôi nổi trên báo chí và thu
hút sự chú ý của giới phê bình văn học cho đến tận nay như hiện tượng Tự lực
văn đoàn. Và cũng như nhiều hiện tượng văn chương phức tạp khác, số phận
của Tự lực văn đoàn đã trải qua những bước thăng trầm. Vị trí của nó trong
tiến trình lịch sử văn học dân tộc cũng có lúc đã chịu sự thử thách, phán xét,
sàng lọc có phần nghiệt ngã của thời gian và dư luận.
Để đi vào nghiên cứu và đánh giá những đóng góp của Tự lực văn đồn
trong tiến trình phát triển tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, ta có thể tạm chia
q trình đánh giá Tự lực văn đồn thành ba giai đoạn:
2.1. Trước năm 1945
Đây là giai đoạn Tự lực văn đồn đang hoạt động. Xuất hiện nhiều
cơng trình, nhiều bài phê bình quan trọng:
Tháng 5/1939, trong Dưới mắt tơi, Trương Chính đã có nhiều ý kiến
đánh giá về Đoạn tuyệt, Lạnh lùng (Nhất Linh); Hồn bướm mơ tiên, Nửa
3
chừng xuân, Trống mái, Gia đình (Khái Hưng); Gánh hàng hoa, Đời mưa gió
(Nhất Linh - Khái Hưng). Những ý kiến của Ơng tuy có phần đề cao Tự lực
văn đồn nhưng cho đến nay vẫn cịn có giá trị. Ông khen “Đoạn tuyệt là một
kiệt tác trong văn học Việt Nam hiện đại. Vì Đoạn tuyệt khơng chỉ có giá trị
xã hội, nó cịn có một giá trị tâm lý” [26, 18]. Hay ông khen Hồn bườm mơ
tiên “là quyển truyện thứ nhất có sức cám dỗ lạ lùng” và Khái Hưng “đã đem
vào văn chương một nghệ thuật mới, sắc sảo và huyền diệu” [26, 36]. Ông
cũng phê bình Nửa chừng xn kết cấu khơng chặt chẽ và trong quá trình viết
Khái Hưng sao nhãng chủ đề xung đột giữa cá nhân và gia đình. Về Thạch
Lam ơng vạch ra nhiều lỗi trong cách hành văn nhưng ông cũng không phủ
nhận Thạch Lam là một văn tài và là “một dấu hiệu riêng không thể nhầm lẫn
được”, “tuy không sâu sắc bằng Khái Hưng, không rắn rỏi bằng Hồng Đạo,
Thạch Lam có một tâm hồn dễ rung động hơn. Phản ánh tư tưởng và tâm lý,
nhà văn ấy lại nhiều tình cảm” [26, 149].
Năm 1941, trong Việt Nam văn học sử yếu, Dương Quảng Hàm nhận
xét bốn tác phẩm của Nhất Linh và Khái Hưng: Đoạn tuyệt, Lạnh lùng, Hồn
bướm mơ tiên, Nửa chừng xuân. Ông đánh giá: “Hầu hết các tác phẩm của
ông (Nhất Linh) là những luận đề tiểu thuyết” [38, 454]. Còn tác phẩm của
Khái Hưng “tuy vẫn có khuynh hướng xã hội nhưng lại thiên về mặt lý tưởng
và có thi vị riêng… Khái Hưng có một cách tả người và tả cảnh xát thực mà
có một vẻ nhẹ nhàng, thanh tú khiến cho người đọc thấy cảm” [38, 455].
Năm 1942, Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại đưa ra quan điểm
đánh giá về Nhất Linh, Khái Hưng rất gần với quan điểm hiện nay. Ơng
nhận thấy sự tiến hố trong tiểu thuyết của Nhất Linh: “Từ cái lối còn cổ lỗ
như Nho phong, tiểu thuyết của ơng đã đi vào loại tình cảm, rồi đi thẳng
vào lối tiểu thuyết luận đề…” [52, 837]. Với Khái Hưng, ông nhận xét:
“Nhưng dù ở tiểu thuyết lí tưởng, tiểu thuyết phong tục hay tiểu thuyết tâm
lí, cái đặc sắc… là sự xét nhận rất đúng về tâm hồn nam nữ thanh niên Việt
Nam” [52,780].
4
Nhìn chung, các nhà phê bình trước năm 1945 đánh giá cao Tự lực văn
đồn, nhưng cịn chung chung và có phần đơn giản. Các cơng trình trên bước
đầu chỉ mới nêu lên được một số đóng góp của tiểu thuyết Tự lực văn đoàn về
tư tưởng và nghệ thuật như đấu tranh giải phóng cá nhân, nghệ thuật tả cảnh
và miêu tả tâm lí.
2.2. Từ 1945 đến 1986
Đây là giai đoạn Tự lực văn đồn thường được nhìn nhận bằng nhãn
quan chính trị và xuất phát từ lập trường chính trị, từ quan điểm giai cấp, nhất
là đối với Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo. Cho nên, các nhận xét, đánh
giá về hoạt động văn chương của Tự lực văn đoàn thường tỏ ra khắt khe, chưa
thoả đáng. Mặt đóng góp của Tự lực văn đồn có phần bị xem nhẹ, trong khi
đó mặt tiêu cực lại bị nhấn quá mạnh.
Năm 1948, trong bản báo cáo Chủ nghĩa Mác và văn hoá Việt Nam đọc
tại Hội nghị văn hoá tồn quốc lần thứ II, đồng chí Trường Chinh đã nêu lên
những mặt hạn chế của văn đoàn này, nhưng đồng thời cũng khẳng định rằng:
“Dẫu sao, hoạt động của nhóm Tự lực văn đồn đã đẩy mạnh phong trào văn
nghệ nước ta tiến tới”.
Một số cơng trình nghiên cứu lớn trong đó có đề cập đến Tự lực văn
đồn công bố ở miền Bắc như Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam (1957) của
nhóm Lê Q Đơn, Văn học Việt Nam năm 1930 - 1945 (1961) của Bạch
Năng Thi - Phan Cự Đệ, Sơ thảo văn học Việt Nam (1964) của Viện Văn học,
Bàn về những cuộc đấu tranh tư tưởng trong lịch sử văn học (1971) của Vũ
Đức Phúc. Ngồi ra cịn có thể kể đến một số bài phê bình của Nguyễn Đức
Đàn, Vũ Đức Phúc. Nhìn chung, khi đề cập đến văn chương Tự lực văn đoàn,
nhất là khi đề cập đến sáng tác của Nhất Linh, Khái Hưng, Hồng Đạo thì
ngồi tinh thần “gạn đục khơi trong”, ý thức tìm kiếm những đóng góp của Tự
lực văn đồn cho tiến trình phát triển văn học dân tộc, hầu hết những ý kiến
đánh giá tỏ ra chặt chẽ, thậm chí có lúc dường như phủ định. Đó là do các nhà
phê bình đã lấy tiêu chí chính trị của văn học cách mạng làm thước đo mà
5
khơng thấy rằng văn học lãng mạn cũng có những đặc trưng riêng của nó.
Hơn nữa, họ đã quan niệm về khái niệm “hiện thực” cịn q hẹp: đó chỉ là
đời sống dân nghèo chống lại sự áp bức của địa chủ, đế quốc, mà không thấy
rằng đời sống tâm tư của tầng lớp trí thức tiểu tư sản, thanh niên ấy là một bộ
phận của đời sống xã hội nên đã nhận định Tự lực văn đoàn “xa rời hiện
thực”. Vũ Đức Phúc cho rằng văn học lãng mạn tiêu cực theo nhiều kiểu: “Có
khuynh hướng đề cao các mặt xấu của cuộc sống: làm giàu, buôn lậu, làm
“anh hùng” kiểu du cơn, anh chị. Có khuynh hướng hưởng lạc theo nhiều kiểu
khác nhau: ham mê thanh sắc, thích đi giang hồ để tìm kiếm cảm giác mới lạ,
say sưa trong tình u khơng cần tới hơn nhân, ca ngợi cuộc sống trụy lạc;
nếu khơng có điều kiện để thực hiện một cuộc sống đầy khoái lạc như thế thì
mơ ước về cõi tiên, về quá khứ, mong tìm thấy ở đó rượu, thơ, gái đẹp” [55,
17]. Bên cạnh đó cũng có những ý kiến đánh giá thoả đáng như: “Sau năm
1930, người ta quyết liệt kêu gọi phá cái “cũ”, lập nên cái “mới”, cái “mới” tư
sản để thay thế cho cái cái “cũ” phong kiến, thái độ của nhà văn thường dứt
khốt, hình tượng văn học có ý nghĩa lật đổ và cách tân rõ rệt” hay “…cái
nhân văn tư sản dù sao cũng tiến bộ hơn là cái tư tưởng phong kiến cổ hủ, hẹp
hòi” [33, 97]. Ý kiến đúng đắn trên tiếc là đưa ra quá sớm nhưng cũng không
được hưởng ứng bao nhiêu.
Về nghệ thuật, cũng có một số ý kiến đánh giá những đóng góp của Tự
lực văn đồn về ngơn ngữ, về miêu tả tâm lý nhưng không đi sâu. Giáo sư
Phan Cự Đệ trong Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại (1974) đã nhận thấy cơng
lao của Tự lực văn đồn: “Về phương diện văn học sử, công lao chủ yếu của
Nhất Linh và Khái Hưng là đã có những đóng góp trong việc xây dựng một
nền tiểu thuyết hiện đại” [30, 87].
Trong lúc đó, ở miền Nam giai đoạn 1954 - 1975, Tự lực văn đoàn
được đề cao, chú trọng quá mức. Các nhà nghiên cứu không thấy hết những
hạn chế thực sự về tư tưởng nghệ thuật của một số tác giả, tác phẩm, đẩy vấn
đề nghiên cứu đánh giá Tự lực văn đoàn đến một đối cực khác so với giới
6
nghiên cứu ở Miền Bắc. Sự đánh giá quá cao đó khơng loại trừ những động
cơ ngồi văn chương. Theo bài Tự lực văn đoàn trên sách báo ở Miền Nam
trước đây của Đào Văn A [21], văn chương Tự lực văn đồn đã được đưa vào
chương trình dạy và học ở tất cả các bậc học từ bậc đệ nhất (THCS) đến bậc
đệ nhị (THPT) với khối lượng lớn các tác phẩm. Ngoài ra, các tác phẩm văn
chương Tự lực văn đồn cịn được đưa vào các loại sách “luận đề”, sách “trần
thuyết”, các loại sách “luyện văn”, “thuật viết văn”… làm tài liệu cho học
sinh. Các sách nửa giáo khoa, nửa khảo cứu có: Bình giảng Tự lực văn đoàn
của Nguyễn Văn Xung, Tự lực văn đoàn của Doãn Quốc Sỹ, Khảo luận về
Đoạn tuyệt, Khảo luận về Nửa chừng xuân, Thân thế và sự nghiệp của Nhất
Linh của Lê Hữu Mục. Sau khi Nhất Linh chết, trên một số báo Sài Gòn xuất
hiện một loạt bài viết về Nhất Linh của Đặng Tiến, Nguyễn Văn Trung,
Nguyễn Văn Xung, Dỗn Quốc Sỹ, Vũ Hạnh, Nguyễn Mạnh Cơn, Thế Uyên,
Trương Bảo Sơn… Đây chỉ là những bài viết ngắn mang tính chất hồi ký,
cảm tưởng, nhận xét về tác giả hoặc tác phẩm. Về lịch sử văn học có các cuốn
tiêu biểu như: Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (1960 - Phạm Thế Ngũ)
Bảng lược đồ văn học Việt Nam, quyển hạ (1967 - Thanh Lãng); Văn học Việt
Nam thế kỷ XIX, tiền bán thế kỷ XX 1800 - 1945 (1973 - Vũ Hân)… Các ý
kiến đánh giá về tác giả và tác phẩm khơng có gì mới hơn ý kiến của các nhà
nghiên cứu trước năm 1945 như: khen Khái Hưng “đi sâu vào tâm lý với một
kỹ thuật viết trưởng thành” [54, 27], “Bướm trắng đã đưa ngịi bút phân tích
tâm lý vào địa hạt nhân bản” [49, 463] và cho rằng đến Bướm trắng, kỹ thuật
viết tiểu thuyết của Nhất Linh đã đạt tới trình độ hồn hảo.
Dường như các ý kiến chỉ chung chung mơ hồ, lúc thì về kết cấu tâm
lý, lúc thì về kỹ thuật, hình thức chứ chưa nghiên cứu tiểu thuyết Tự lực văn
đoàn như là một chỉnh thể để khẳng định những đóng góp của họ cho q
trình phát triển văn học dân tộc.
Nhìn chung, có thể thấy tình hình nghiên cứu, đánh giá Tự lực văn
đồn từ năm 1985 trở về trước tuy đã có những thành tựu quan trọng, nhưng
7
có nơi có lúc chưa thấu đáo và chưa đạt tới yêu cầu cần thiết. Những mặt
tích cực về nội dung tư tưởng và những đóng góp về mặt hình thức nghệ
thuật của Tự lực văn đồn vào tiến trình phát triển tiểu thuyết Việt Nam hiện
đại hoá dân tộc đã được ghi nhận, nhưng đó mới chỉ là bước đầu và chưa
thật đầy đủ. Trong khi đó, những mặt hạn chế, tiêu cực của Tự lực văn đồn
có lúc, có nơi lại bị nhấn mạnh đến mức làm lu mờ phần giá trị văn học
khách quan của nhiều tác phẩm.
2.3. Từ 1986 đến nay
Dưới ánh sáng của công cuộc đổi mới tư duy, những đóng góp và hạn
chế của tiểu thuyết Tự lực văn đồn đã được nhìn nhận một cách điềm tĩnh,
thấu đáo, khách quan và khoa học hơn. Những giá trị văn học, những điểm
khả thủ của Tự lực văn đồn đã được coi trọng.
Trong bầu khơng khí đổi mới, nhiều hiện tượng văn học quá khứ được
đánh giá lại, trong đó có Tự lực văn đồn. Những nhà nghiên cứu lâu năm bắt
đầu lên tiếng. Bên cạnh việc nêu lên những mặt hạn chế họ cũng đã khẳng
định những đóng góp tích cực của tiểu thuyết Tự lực văn đồn cho sự phát
triển nền văn hố dân tộc.
Năm 1988, hàng loạt tiểu thuyết của Nhất Linh và Khái Hưng được
NXB ĐH và GDCN tái bản: Nửa chừng xuân, Hồn bướm mơ tiên, Đời mưa
gió, Đẹp, Đoạn tuyệt, Đôi bạn… với Lời giới thiệu của Giáo sư Phan Cự Đệ,
Hà Minh Đức. Giá trị của Tự lực văn đoàn đã được minh định theo tinh thần
đổi mới tư duy nghiên cứu, đổi mới cách tiếp cận văn học, cách nhìn nhận,
đánh giá lại các hiện tượng văn học cũ.
Đến tháng 5/1989, khoa Ngữ văn trường Đại học Tổng hợp và NXB
ĐH và GDCN tổ chức hội thảo Về văn chương Tự lực văn đoàn. Trên tinh
thần xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa quan điểm chính trị và văn chương,
không bỏ qua thế giới vô thức, thế giới tâm linh của con người khi đánh giá
các hiện tượng văn học (Nguyễn Đình Chú) [27]. Các ý kiến đều tập trung
khẳng định vai trị và vị trí của văn xi Tự lực văn đồn trong tiến trình phát
8
triển của nền văn học dân tộc: “Những năm 20 là quá trình khẳng định văn
học mới và Tự lực văn đoàn đánh dấu giai đoạn toàn thắng với sự đóng góp
lớn, chủ động và tích cực” (Trần Đình Hượu) [36]; “Tự lực văn đồn… có vai
trị rất lớn trong sự phát triển văn học của ta những năm 30” (Trương Chính)
[25]; “Tự lực văn đồn đã có đóng góp lớn vào nghệ thuật tiểu thuyết, vào
tính hiện đại của tiểu thuyết, đóng góp vào tiếng nói và câu văn của dân tộc
với lối văn trong sáng và rất Việt Nam” (Huy Cận) [36]. Cũng năm 1989,
NXB Khoa học xã hội ra mắt tuyển tập đồ sộ (8 tập) để giới thiệu bức tranh
tồn cảnh “văn xi lãng mạn Việt Nam” với lời giới thiệu của PGS Nguyễn
Hoành Khung: “Văn học lãng mạn Việt Nam với sự chối bỏ mạnh mẽ kiểu tư
duy nghệ thuật cũ khuôn sáo, ước lệ, hướng văn học đi vào con người cụ thể
đã mở đường cho sự giải phóng cá tính sáng tạo và góp phần quyết định đem
lại sinh khí cho văn học” [44, 25].
Đáng chú ý hơn cả là cuốn Tự lực văn đoàn - Con người và văn
chương của Giáo sư Phan Cự Đệ (1990) - một chuyên gia nghiên cứu về văn
học lãng mạn. Trong một số cơng trình trước, ông đã từng nghiên cứu, đánh
giá khá toàn diện về Tự lực văn đoàn nhưng đến thời điểm này, Giáo sư đã
coi cơng việc của mình là: “Nhìn nhận lại một hiện tượng văn học mà trước
đây, do điều kiện lịch sử, việc đánh giá cịn có chỗ khắt khe hoặc chưa tồn
diện”. Theo ơng, “Tiểu thuyết Tự lực văn đồn có một vai trị rất lớn trong
việc đổi mới nền văn học vào những năm 30 của thế kỉ, đổi mới từ quan niệm
xã hội cho đến việc đẩy nhanh các thể loại văn học trên con đường hiện đại
hố, làm cho ngơn ngữ trở nên trong sáng và giàu có hơn” [32, 37]. Bằng
phương pháp phân tính, so sánh các tác phẩm của văn học Pháp và văn học
Việt Nam trước đó, Giáo sư đã chỉ ra những đóng góp cụ thể của tiểu thuyết
Tự lực văn đồn trên các phương diện xây dựng nhân vật tiểu thuyết, kết cấu
tiểu thuyết và ngơn ngữ văn học: “tâm lí nhân vật đã tinh tế hơn nhiều so với
những nét tâm lý cịn đơn giản trong Tố Tâm của Hồng Ngọc Phách” [32,
41], “kết cấu theo quy luật tâm lí chứ khơng theo trình tự thời gian như tiểu
9
thuyết chương hồi” [32, 41], ngôn ngữ văn học “giản dị, trong sáng, giàu khả
năng diễn đạt hơn và đặc biệt, rất gần gũi với tâm hồn dân tộc” [32, 58].
PGS Trương Chính và PGS Lê Thị Đức Hạnh trong một loạt bài tiểu
luận đăng trên Tạp chí văn học từ năm 1988 - 1993 đã cung cấp thêm nhiều tư
liệu và cách đánh giá Tự lực văn đoàn theo tinh thần đổi mới: Vấn đề đánh
giá Tự lực văn đồn (3+4/1988), Nhìn lại vấn đề giải phóng phụ nữ trong tiểu
thuyết Tự lực văn đồn (5/1990), Trần Tiêu có phải là thành viên của Tự lực
văn đồn khơng? (5/1990), Thêm mấy ý kiến đánh giá về Tự lực văn đoàn
(3/1991), Tự lực văn đoàn và phong trào thơ mới (2/1993). Ngồi ra, cịn
có cơng trình nghiên cứu về Tự lực văn đoàn trên nhiều mặt: Vấn đề con
người cá nhân (Quan niệm về con người cá nhân trong tiểu thuyết Tự lực
văn đoàn - Lê Thị Dục Tú, năm 1997), sự đóng góp của Nhất Linh và Khái
Hưng nói riêng và Tự lực văn đồn nói chung đối với văn học ( Khái Hưng
- nhà tiểu thuyết - Vu Gia, 1994; Nhất Linh trong tiến trình hiện đại hố
văn học - Vu Gia, 1995; Về Tự lực văn đoàn - Nguyễn Trác - Đái Xuân
Ninh, 1993; Mấy suy nghĩ về nhà văn Nhất Linh - Nguyễn Tường Tam của
Nguyễn Hữu Hiếu, Tạp chí Văn học số 4 (1994), vấn đề quan niệm thẩm mĩ
và quan niệm triết học (Văn học Việt Nam - văn học hiện đại giao lưu gặp
gỡ - Trần Mai Nhi, 1994)… Đặc biệt, có một số bài viết đề cập đến một số
vấn đề nghiên cứu, đánh giá Tự lực văn đoàn từ trước đến nay như một quá
trình đi từ những nhận định đơn giản, cực đoan đến những nhận định chính
xác hơn, khoa học hơn như: Vấn đề đánh giá văn học lãng mạn Việt Nam và
sự đổi mới tư duy nghiên cứu văn học (Tạp chí Văn học, số 9/1995); Cuối
thế kỷ nhìn lại việc nghiên cứu đánh giá văn chương Tự lực văn đồn (Tạp
chí Văn học, số 2/2000).
Trong phần Khải luận văn xuôi lãng mạn Việt Nam thời kỳ 30 -45
(Thảo luận văn chương,1998) Giáo sư Hà Minh Đức một lần nữa khẳng định:
“Tự lực văn đoàn đã ngự trị trên văn đàn (thời kỳ 1932 - 1935), đem lại hơi
thở và sức sống mới cho văn học” [37, 77].
10
Tự lực văn đoàn tuy là một trong những hoạt động văn chương đáng chú
ý của thế kỷ XX, nhưng “số phận” khơng mấy sn sẻ. Q trình nghiên cứu
và đánh giá hiện tượng văn học này tuy đã đạt được những thành tựu đáng kể
nhưng chưa khép lại vì mỗi giai đoạn lịch sử, mỗi thời đại và mỗi thế hệ cơng
chúng có một cách riêng để tiếp cận và khai thác những giá trị của quá khứ.
Nhìn chung, văn chương Tự lực văn đồn đã góp phần rất quan trọng
trong việc đưa văn học Việt Nam tiến thẳng vào thời kỳ hiện đại, nghiêng về
những quan niệm nhân sinh và tư tưởng văn học phương Tây. Họ đã thấy rõ
việc cần phải xác định một nền văn học hiện đại với một cách viết mới, một
mặt đòi giải phóng cá nhân, đề cao cái tơi, coi cái tơi cá nhân là một cơ sở xã
hội đấu tranh cho tự do hôn nhân, hạnh phúc lứa đôi, phê phán kịch liệt gia
đình phong kiến. Đó là cả một hệ đề tài - chủ đề tư tưởng mới mà Tự lực văn
đoàn đem đến cho thời đại. Mặt khác, Tự lực văn đồn đã xác định một nền
tiểu thuyết có kết cấu chặt chẽ, lối kể chuyện hấp dẫn duyên dáng, ngôn ngữ
trong sáng, gợi cảm giàu chất thơ và hiện đại hoá các thể loại văn học nước
nhà để kích thích cá tính sáng tạo của các nhà văn đưa văn học Việt Nam hoà
nhập với nền văn học thế giới.
Nếu như trong thơ ca, Thơ mới được coi là cuộc cách mạng bộc lộ rất
tự nhiên những cảm xúc mới thì Tự lực văn đồn cũng có ý nghĩa như vậy
trong lĩnh vực tiểu thuyết. Tiểu thuyết tự lực văn đồn tỏ ra thích hợp với điều
kiện sinh hoạt và khả năng thưởng thức của một tầng lớp độc giả mới. Tự lực
văn đồn đã miêu tả mơi trường phong kiến tư sản và tiểu tư sản, xây dựng
được những nhân vật mới đại diện cho tầng lớp thanh niên mới. Trong luận văn
này, chúng tôi dừng lại trong phạm vi thể loại tiểu thuyết, xem đây như một đề
tài nghiên cứu độc lập bởi chúng tôi nhận thấy chưa có một cơng trình nào đi
sâu nghiên cứu những đóng góp của Tự lực văn đồn trong tiến trình phát triển
nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Mong muốn có những ý kiến mới mẻ đóng
góp vào sự nghiệp nghiên cứu chung trên cơ sở học hỏi, tiếp thu những kết quả
của các giáo sư, học giả, các nhà nghiên cứu về Tự lực văn đoàn.
11
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu văn chương Tự lực văn đoàn là một vấn đề lớn vì tổ chức
văn học này bao gồm nhiều tác giả, nhiều tác phẩm theo nhiều thể loại: thơ,
truyện ngắn, tiểu thuyết và lý luận phê bình… Trong phạm vi luận văn này,
chúng tôi dồn trọng tâm vào tiểu thuyết Tự lực văn đồn, cố gắng tìm hiểu
những đóng góp của tiểu thuyết tự lực văn đồn cho tiến trình phát triển tiểu
thuyết Việt Nam hiện đại.
4. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Đi vào những khuynh hướng chủ đề nội dung chính để thấy được tư
tưởng của các tiểu thuyết gia Tự lực văn đoàn.
- Phân tích tiểu thuyết của Tự lực văn đồn để chỉ ra những đóng góp,
cách tân cũng như những hạn chế lịch sử của văn đồn này. Khẳng định vị trí
của Tự lực văn đồn trong tiến trính phát triển nền văn học dân tộc.
- Có thể trở thành tài liệu tham khảo hữu ích cho mọi người (nhất là học
sinh, sinh viên) quan tâm, tìm hiểu sự nghiệp văn chương Tự lực văn đồn.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong q trình triển khai đề tài, chúng tôi đã sử dụng một số phương
pháp khác nhau như phương pháp so sánh, phương pháp loại hình, phương
pháp lịch sử, phương pháp hệ thống… để từ đó rút ra những nét đặc trưng về
cảm quan và tư duy nghệ thuật của các nhà văn Tự lực văn đoàn so với thế hệ
nhà văn lớp trước cũng như các nhà văn cùng thời.
Ngoài ra, chúng tơi cịn vận dụng những phương pháp truyền thống
khác như: phân tích, tổng hợp, chứng minh để lí giải vấn đề và xác lập luận
điểm, luận cứ.
6. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
Tự lực văn đoàn là một hiện tượng văn học độc đáo nhưng phức tạp.
Các cây bút chủ chốt của Tự lực văn đoàn như Nhất Linh, Khái Hưng, Hồng
Đạo thời kỳ đầu có nhiều ý tưởng tốt, tư tưởng tiến bộ. Điều này biểu hiện
12
khá rõ ở những hoạt động xã hội và văn chương của họ. Nhưng từ năm 1940
trở đi, họ xa dần con đường văn chương để đi vào con đường hoạt động
chính trị thân Nhật, tham gia nhiều hoạt động, đảng phái chống lại cách
mạng. Sự kiện đó đã gây khơng ít khó khăn, phức tạp cho việc đánh giá văn
phẩm của họ.
Ngồi ra, cịn có một hiện tượng phức tạp trong văn chương. Cùng một
tơn chỉ của văn đồn nhưng nhân sinh quan - quan điểm thẩm mĩ, phong cách
nghệ thuật của các nhà văn khơng giống nhau, có trường hợp cùng một tác giả
nhưng những tác phẩm viết vào thời kỳ Mặt trận Dân chủ giá trị hơn hẳn
những cuốn viết về sau. Sự nghiệp văn chương của Tự lực văn đoàn bao gồm
nhiều thể loại: thơ, truyện ngắn, kịch và cả lý luận phê bình… Do yêu cầu của
đề tài, chúng tôi chỉ giới hạn nhiệm vụ nghiên cứu của mình trong phạm vi
tiểu thuyết.
Văn chương Tự lực văn đồn có nhiều ưu điểm đáng trân trọng, nhưng
cũng cịn có những mặt hạn chế và nhược điểm. Trong bản luận văn này,
chúng tơi có lưu ý đến mặt yếu đó nhưng khơng đi sâu mà chủ yếu tập trung
khai thác phần đóng góp của văn đồn cho sự phát triển của nền tiểu thuyết
hiện đại.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngồi phần Mở đầu, Kết luận vµ Tµi liƯu tham kh¶o, nội dung chính
của luận văn được triển khai thành ba chương:
Chương 1. Những đóng góp về nội dung tư tưởng của tiểu thuyết Tự
lực văn đoàn
Chương 2. Cốt truyện và kết cấu trong tiểu thuyết Tự lực văn đồn.
Chương 3. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật trong tiểu thuyết Tự lực
văn đoàn.
13
Chương 1
NHỮNG ĐÓNG GÓP VỀ NỘI DUNG TƯ TƯỞNG
CỦA TIỂU THUYẾT TỰ LỰC VĂN ĐỒN
1.1. Giải phóng con người ra khỏi sự ràng buộc của lễ giáo phong kiến và
chế độ đại gia đình phong kiến, khẳng định cái “tơi” cá nhân
Phẩm chất tư tưởng nổi bật trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn là chống
lễ giáo phong kiến, khẳng định cái tôi cá nhân trong đời sống văn học xã hội.
Chủ đề sáng tác trong các tác phẩm tiêu biểu của Nhất Linh, Khái Hưng là
khẳng định cái tôi cá nhân của những con người được hấp thụ một nền văn
minh Âu hố, địi tự do u đương, tự do kết hôn, chống lại sự can thiệp thô
bạo, sự cấm đốn vơ lý của lễ giáo phong kiến và đại gia gia đình phong kiến.
Quan niệm về cá nhân trong văn học là ý thức về sự tồn tại, về giá trị,
về ý nghĩa quyền lợi của cá nhân trong xã hội, không đồng nhất với các phạm
trù cộng đồng như đẳng cấp, dòng họ, quốc gia được phản ánh và biểu đạt
trong văn học.
Trong văn học Việt Nam từ thế kỷ XVIII - XIX con người cá nhân với
nhu cầu hưởng hạnh phúc lứa đơi, đã có mặt qua nhiều tác phẩm. Trước kia
khi nói đến vấn đề tình yêu trong tiểu thuyết văn chương, người ta thường ca
ngợi tinh thần tha thiết với hạnh phúc, với tự do, với tinh thần chống lễ giáo
phong kiến. Đó là loại nho sỹ quý trọng tài, tình, sắc đẹp hơn phúc ấm công
danh; mong ước gặp lại giai nhân hơn cả minh quân, lương tướng. Chính
những “đứa con hư” của giai cấp phong kiến đó đã sáng tác ra những khúc
ngâm chứa chan tình cảm, những chuyện nơm ca tụng tình u, những bài ca
trù ngang tàng phóng túng. Mối tình giữa Dao Tiên và Lương Sinh (Hoa
Tiên), giữa Thuý Kiều và Kim Trọng (Truyện Kiều) không hề gặp vật cản lễ
giáo chắn ngang. Lễ giáo phong kiến chưa biểu hiện ra dưới bộ mặt tàn bạo
và tác giả cũng chưa rõ đường sau số phận là cái gì chói buộc con người. Vào
những năm 20 đầu của thế kỷ này với Tản Đà, Nguyễn Khắc Hiếu một cái tôi
cá nhân “man mác vô định” (Xuân Diệu) đã bước vào văn học. Giấc mộng
14
con của Nguyễn Khắc Hiếu và Chu Kiều Oanh vẫn tự do yêu nhau ở một
vùng đất lạ không bị một thế lực nào ngăn cấm… Nhưng những hiện tượng
đó chỉ tồn tại trong khát vọng tự do và ảo mộng. Trong thực tế lễ giáo phong
kiến tồn tại bao đời, bám rễ rất sâu vào ý thức của nhiều thế hệ trong thời đại
phong kiến, vẫn còn là lực cản đối với sự phát triển của ý thức cá nhân, trở
thành chướng ngại vật trên cuộc hành trình tiến đến vương quốc tự do của
tình yêu. Điều này đã được phản ánh trong Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách.
Đạm Thuỷ và Tố Tâm yêu nhau nồng nàn, say đắm tưởng rằng họ có
thể vượt qua lễ giáo phong kiến để đến đích cuối cùng của tình u. Nhưng họ
đã bị chặn đứng, ý thức cá nhân đầu thế kỷ XX chưa đủ mạnh để bắt lễ giáo
phong kiến khuất phục. Cuối cùng Đạm Thuỷ đã khuyên Tố Tâm đầu hàng:
“Em ơi, sinh ra gái mưa sa là phận, rủi may âu cũng sự giời, ai biết
hay đâu mà tìm, biết dở đâu mà tránh, trước sau cũng một lượt, chả sớm thì
chầy, một mình em ở đời như chiếc bách giữa dòng, chống sao cho nổi
những khi mưa sa, gió táp, chi bằng em theo cái lệnh “đặt đâu ngồi đấy” là
hơn” [51, 67]. Vì vậy, Tố Tâm phải miễn cưỡng xuất giá, lấy một người
chồng mà nàng không yêu, sau đó ốm tương tư và chết. Cái chết của Tố Tâm
đã lên án thứ lễ giáo phong kiến trái mùa phong tỏa chết tình cảm của tuổi
trẻ. Thừa kế truyền thống nhân văn của những nhà tiền bối, Tự lực văn đoàn
tiếp tục giương cao ngọn cờ đấu tranh nhằm chống lễ giáo, giải phóng con
người, nhất là người phụ nữ ra khỏi sự ràng buộc của lễ giáo và chế độ đại
gia đình phong kiến. Tác giả khun răn thanh niên khơng nên đắm say vào
ái tình nhưng thực ra đã ca ngợi mối tình tự do, đặt ra u cầu địi hỏi giải
phóng cá nhân, chứng minh cho chủ nghĩa nhân đạo vốn đã trở thành truyền
thống trong văn học Việt Nam trước đó. Tuy nhiên, cái tơi cá nhân trong Tố
Tâm cịn nép mình trước những thế lực rất mạnh của phong kiến và cuối
cùng phải chịu đầu hàng theo lệnh phải “đặt đâu ngồi đấy là hơn”. Chủ
nghĩa cá nhân giai đoạn “Tố Tâm” trở về trước chưa phải là “chủ nghĩa cá
nhân lộ liễu và kiêu hãnh”.
15
Đến thơ mới và đặc biệt là văn xuôi Tự lực văn đoàn, xuất hiện trong
một thời điểm xã hội khác với một tư thế mới, con người cá nhân đã được ý
thức trên một cấp độ mới hẳn: một vấn đề xã hội, một vấn đề triết lý nhân
sinh. Bởi vì, sang những năm của thập kỷ 30 “Sự gặp gỡ với Phương Tây là
cuộc biến thiên lớn trong lịch sử Việt Nam từ mấy mươi thế kỷ” [33, 17]…
Từ đó cái tơi cá nhân xuất hiện, con người khát khao, mong muốn được tự do
vận động sáng tạo.
Trong cuốn Xã hội trong bước quá độ Mác Hoóc.Cơhainơ viết: “với sự
quá độ của giai đoạn tự do của chế độ tư sản đầu thế kỷ trong giai đoạn nền
công nghiệp thâm nhập toàn bộ xã hội, sự thay đổi của con người gắn liền với
tình hình đó cũng hồn toàn trở nên rõ ràng”. Con người cá nhân trong tiểu
thuyết Tự lực văn đoàn từng bước tách ra khỏi cộng đồng, và trở thành chủ
thể hoạt động độc lập. Quá trình hình thành và xác định các cá nhân là một
bước tiến quan trọng trong lịch sử vận động tư tưởng của nhân loại. Dưới chế
độ phong kiến, giáo lý phong kiến không công nhận cá nhân, con người bị gọt
đẽo cho vừa các khuôn của trật tự xã hội, phải tuân theo những nguyên tắc,
những quy phạm nghiệt ngã. “Con người chỉ là những yếu tố đồng tính của
một đám đơng là xã hội, hay cái tơi chìm đắm trong cái ta vô nghĩa” [49, 29].
Phải tới những năm 30 của thế kỷ này tiếng nói của cá nhân địi giải phóng
mới lại cất lên mạnh mẽ, quyết liệt hơn bao giờ hết. Tác giả Thi nhân Việt
Nam nói rất đúng đắn về đại thể rằng: “Tất cả tinh thần thơ mới gắn lại một
chữ tôi với các nghĩa tuyệt đối của nó”. Điều đó cũng đúng với sáng tác của
nhóm Tự lực văn đồn. Con người cá nhân ở đây được chú ý, ý thức trong
mối tương quan với các phạm trù xã hội, và có thể nhận ra ba cấp độ nối tiếp
nhau trong thời gian như sau:
1.1.1. Sự tung phá những ràng buộc của gia đình phong kiến để
khẳng định cuộc sống của con người cá nhân về mặt xã hội
Sự khẳng định ý thức cá nhân bằng việc phủ định những ràng buộc
phong kiến trong cuộc xung đột cá nhân với xã hội là một đề tài phổ biến