Tải bản đầy đủ (.doc) (119 trang)

Luận văn Thạc sỹ Biện pháp quản lý sinh viên nội trú tại Trường Đại học Hàng hải Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (558.69 KB, 119 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, giáo dục và đào tạo
của mỗi quốc gia đóng vai trò then chốt, trọng yếu trong việc đào tạo nguồn
nhân lực phục vụ cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Trải qua gần 30 năm
đổi mới, Đảng sớm thấy được vai trò to lớn của nguồn nhân lực đối với phát
triển kinh tế - xã hội và việc phát triển nguồn nhân lực thông qua giáo dục và
đào tạo. Đảng ta giáo dục và đào tạo coi cùng với khoa học và công nghệ là
quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực của CNH, HĐH. Cương lĩnh
chính trị xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH năm 2011 (tại
Đại hội XI) xác định: “Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,
nhất là nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược”. Đặc biệt, tháng
11 năm 2013, tại Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
XI đã thông qua Nghị quyết số 29-NQ/TW “Về đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo”. Trong đó, “phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt
Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực”.
Giáo dục Đại học có một sứ mệnh rất to lớn là đào tạo nguồn nhân lực
để phát triển đất nước theo yêu cầu của Đảng. Giáo dục Đại học không chỉ
nghiêng về đào tạo kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp mà phải hết sức chú ý đến
giáo dục đạo đức, lý tưởng làm người. Muốn vậy Nhà trường Đại học phải
coi trọng quản lý công tác sinh viên, đây là một nhiệm vụ quan trọng, phức
tạp, nặng nề có tác dụng mạnh mẽ đối với chất lượng đào tạo của các Trường đại
học.
Trường Đại học Hàng hải được thành lập theo Quyết định số 2624/QĐ-
TC ngày 7 tháng 7 năm 1976 của Bộ trưởng Bộ giao thông vận tải. Ngày 03
tháng 7 năm 2013, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 1056/QĐ-TTg về
việc đổi tên Trường Đại học Hàng hải thành Trường Đại học Hàng hải Việt
Nam. Là một Trường công lập, tọa lạc tại Thành phố Hải Phòng, một thành
phố đang ra sức hội nhập, phát triển, một thành phố năng động nhưng cũng bị
tác động thường xuyên của mặt trái cơ chế thị Trường. Một Nhà trường có


tính chất quản lý theo phương thức bán quân sự, có 2 khu KTX để sinh viên
2
ở nội trú, gần 20% SV của Nhà trường ở trong KTX, do vậy, Trường
ĐHHHVN luôn coi CTSV là một trong những nhiệm vụ trọng tâm. Nhà
trường chăm lo, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho SV trong học tập, nghiên cứu
và sinh hoạt, nhằm thực hiện mục tiêu là đào tạo con người phát triển toàn
diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe và ý thức nghề nghiệp cao, trung thành
với lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH, sớm có khả năng đáp ứng thích nghi
với yêu cầu và thực tiễn của ngành Hàng hải. Quản lý CTSV được xây dựng
trên cở sở cụ thể hóa Thông tư, Quyết định của Bộ Giáo dục và Đào tạo và
bổ sung thêm một số điều khoản để phù hợp với những đặc điểm của Nhà
trường bán quân sự.
Từ năm 2010, Tổ chức Hàng hải Quốc tế (IMO) triển khai kiểm tra việc
thực hiện các công ước quốc tế quy định về vấn đề đào tạo thuyền viên, việc
cấp các chứng chỉ có liên quan cho thuyền viên tại các cơ sở đào tạo có đáp
ứng các yêu cầu đề ra trong công ước quốc tế không?. Như vậy, việc rèn
luyện SV có tác phong quân sự của Trường ĐHHHVN ngày càng trở nên cấp
thiết nhằm đáp ứng nhu cầu công việc trên các tàu trong khu vực và trên thế giới.
Đã có các công trình nghiên cứu về việc nâng cao công tác QLSV
nhằm theo dõi, đánh giá ý thức học tập, rèn luyện của SV, tuy nhiên việc
phân tích, đánh giá hiện trạng và đề ra giải pháp nhằm QLSV nội trú tại
Trường ĐHHHVN thì chưa có công trình nào được công bố. Là một người
trực tiếp làm công tác quản lý sinh viên, với mong muốn ứng dụng những
kiến thức đã học cao học cũng như với kinh nghiệm của bản thân, góp phần
nâng cao chất lượng đào tạo và hiệu quả quản lý của Nhà trường, vì vậy, tôi
chọn đề tài nghiên cứu: “Biện pháp quản lý sinh viên nội trú tại Trường
Đại học Hàng hải Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và kết quả khảo sát, đánh giá thực trạng
quản lý CTSV ở Trường ĐHHHVN, nghiên cứu đề xuất các biện pháp QLSV

nội trú tại Trường ĐH nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác QLSV, góp phần
nâng cao chất lượng đào tạo của Trường.
3
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xác định cơ sở lý luận về QLSV nội trú tại các Trường ĐH.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng công tác QLSV nội trú ở Trường
ĐHHHVN.
- Đề xuất các biện pháp QLSV nội trú tại Trường ĐHHHVN.
- Thăm dò tính khả thi của biện pháp QLSV nội trú.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu: CTSV ở Trường ĐH.
- Đối tượng nghiên cứu: QLSV nội trú tại Trường ĐHHHVN.
5. Vấn đề nghiên cứu
Đề tài tập trung vào nghiên cứu hai vấn đề cơ bản sau:
- QLSV gồm những nội dung nào?. Nói cách khác đề tài phải làm rõ các
nội dung trong QLSV nội trú.
- Để đảm bảo hiệu quả trong quản lý CTSV nội trú có cần thiết phải có
các biện pháp quản lý phù hợp hay không và biện pháp như thế nào thì hợp lý
và có tính khoa học?.
6. Giả thuyết khoa học
Hiện nay, nếu có các biện pháp quản lý CTSV nội trú phù hợp với quy
luật khách quan, xây dựng và triển khai đồng bộ thì sẽ góp phần nâng cao
hiệu quả quản lý CTSV nội trú ở Trường ĐHHHVN.
7. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
- Đề tài giới hạn ở phạm vi học tập và rèn luyện tại KTX của SV nội trú.
- Khảo sát và sử dụng số liệu từ năm 2009 trở lại đây.
8. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Ý nghĩa lý luận: Hệ thống hóa các lý luận QLSV nội trú, chỉ ra những
bài học thành công và mặt hạn chế, cung cấp cơ sở khoa học để có đề xuất các
biện pháp QLSV.

- Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu có thể được áp dụng cho các
Trường ĐH khác đang quản lý sinh viên. Luận văn là tài liệu tham khảo có giá
trị cho các nhà quản lý giáo dục.
4
9. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: Phân tích tổ hợp các công
trình khoa học về QLSV và biện pháp quản lý CTSV; các văn kiện của Đảng,
chính sách, pháp luật của nhà nước, Quy chế, Quy định của Bộ Giáo dục và
Đào tạo, Bộ Giao thông vận tải.
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Phương pháp điều tra bằng
phiếu hỏi; quan sát, khảo sát thực tế; phương pháp tham vấn chuyên gia;
phương pháp phỏng vấn, trao đổi giữa cán bộ quản lý và SV.
- Nhóm phương pháp xử lý thông tin nghiên cứu: Phương pháp sử dụng
các ứng dụng tin học, toán thống kê; phương pháp phân tích, so sánh, tổng
hợp.
10. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, tài liệu tham khảo và phụ
lục, nội dung luận văn được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý sinh viên ở các Trường Đại học
Chương 2: Thực trạng công tác quản lý sinh viên nội trú tại Trường
Đại học Hàng hải Việt Nam
Chương 3: Các biện pháp quản lý sinh viên nội trú tại Trường Đại học
Hàng hải Việt Nam
5
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ
SINH VIÊN Ở CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Giáo dục là một chức năng của xã hội loài người, được thực hiện một

cách tự giác, vượt qua ngưỡng “tập tính” của các giống loài động vật bậc
thấp khác. Cũng như mọi hoạt động khác của xã hội loài người, sự ra đời
của hoạt động giáo dục gắn liền với sự ra đời của hoạt động quản lý giáo
dục và từ đó cũng xuất hiện khoa học về QLGD. Người học vừa là đối
tượng đào tạo, vừa là mục tiêu đào tạo. Để nâng cao chất lượng đào tạo
ngoài việc xem xét các yếu tố người dạy, nội dung, chương trình, cơ sở vật
chất thì không thể không nghiên cứu trực tiếp là đối tượng người học.
Xung quanh vấn đề người học có rất nhiều vấn đề cần nghiên cứu trong đó
có vấn đề người học trong quá trình đào tạo tại các cơ sở giáo dục ở trong
KNT.
Năm 1997, Bộ GD&ĐT ban hành “Quy chế học sinh, SV nội trú trong
các Trường ĐH, cao đẳng, TCCN” nhằm quy định rõ trách nhiệm và quyền
hạn của các Trường trong việc tổ chức quản lý KNT, quyền và nghĩa vụ
của học sinh, SV trong các khâu liên quan đến việc ăn, ở, học tập, sinh
hoạt trong khuôn viên nội trú của các trường đào tạo.
Để phù hợp với mục tiêu đào tạo trong tình hình mới, ngày 18 tháng
10 năm 2002, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT đã ký Quyết định số 41/2002/QĐ-
BGD&ĐT về việc sửa đổi bổ xung công tác HSSV nội trú.
Trên cơ sở các văn bản quy định của Nhà nước, quy chế về công tác
HSSV của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành kèm theo Quyết định số
42/2007/QĐ-BGDĐT ngày 13 tháng 8 năm 2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục
và Đào tạo, các quy chế về QLSV nội trú, ngoại trú; Quy chế đánh giá kết quả
rèn luyện của SV, các văn bản về việc thực hiện chế độ ưu đãi trong giáo dục
đối với SV diện đối tượng chính sách, chế độ miễn giảm học phí
Ngày 26/7/2011 Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ký Thông tư số
27/2011/TT-BGD&ĐT về việc Ban hành Quy chế công tác HSSV nội trú
6
tại các cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân. Thông tư này có
hiệu lực thi hành ngày 10 tháng 8 năm 2011 và thay thế Quyết định số
2137/GD-ĐT ngày 29/6/1997 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về

việc ban hành Quy chế công tác HSSV nội trú trong các Trường ĐH, Cao
đẳng, Trung học chuyên nghiệp và dạy nghề; Quyết định số 41/2002/QĐ-
BGDĐT ngày 18 tháng 10 năm 2002 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào
tạo.
Trước đây, phần lớn SV đến học tại các Trường ĐH, Cao đẳng hầu hết
đều được ở trong KTX nhưng hiện nay nhu cầu ở KTX của SV tại các cơ sở
GDĐH không đáp ứng được vì quy mô đào tạo của các Trường ĐH, Cao đẳng
trong những năm gần đây phát triển không ngừng. Vấn đề nghiên cứu về quản
lý SV nội trú ít được đề cập; có chăng cũng chỉ là những nghiên cứu liên quan
đến việc tổ chức giáo dục ngoài giờ lên lớp ở các bậc học khác nhau như:
Nguyễn Hữu Hợp (chủ biên), Nguyễn Dục Quang - “Công tác giáo dục ngoài
giờ lên lớp ở Trường tiểu học” (Giáo trình dành cho hệ tại chức đào tạo giáo
viên tiểu học) - Trường ĐH Sư phạm Hà Nội, Hà Nội, 1995.
Quản lý SV nội trú là vấn đề mới chưa được nghiên cứu nhiều tuy nhiên
có một số tác giả nghiên cứu đề cập đến những khía cạnh khác nhau về quản
lý người học. Có thể kể đến các công trình sau: Đề tài luận văn thạc sỹ
QLGD: “Biện pháp quản lý học sinh nội trú ở Trường trung cấp kỹ thuật
nghiệp vụ Hải Phòng” của Nguyễn Thị Xuân năm 2011 đã đánh giá thực
trạng công tác quản lý học sinh nội trú tại Trường Trung cấp kỹ thuật nghiệp
vụ Hải Phòng và đề xuất một số giải pháp thích hợp nâng cao công tác quản
lý đối với SV nội trú; Đối với đề tài nghiên cứu việc QLSV nội trú vùng miền
núi phía bắc có công trình nghiên cứu của Nguyễn Thanh Bình: “Biện pháp
QLSV nội trú ở Trường CĐSP Yên Bái” năm 2012 đã đánh giá thực trạng
công tác quản lý SV nội trú của Trường CĐSP Hòa Bình và đề xuất một số
giải pháp thích hợp nâng cao biện pháp quản lý SV nội trú; luận văn thạc sĩ
QLGD: “Biện pháp quản lý CTSV tại Trường Cao đẳng du lịch Hà Nội” của
tác giả Nguyễn Huyền Trang năm 2012 đề cập đến một số biện pháp hoàn
thiện công tác QLSV tại Trường Cao đẳng du lịch Hà Nội. Một số nghiên cứu
trên đã tìm hiểu thực trạng công tác QLSV trên nhiều lĩnh vực của các Nhà
7

trường và đề xuất các biện pháp quản lý, góp phần vận dụng những hiểu biết
về quản lý, quản lý giáo dục vào công tác QLSV trong các Trường ĐH, cao
đẳng để từng bước nâng cao chất lượng Giáo dục và Đào tạo theo yêu cầu
phát triển và hội nhập của đất nước.
Công tác học sinh, SV là một trong những nội dung quan trọng trong
việc nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo Nhà trường Muốn phát triển
kinh tế - xã hội thì trước hết phải xây dựng và thực hiện tốt chiến lược phát
triển toàn diện con người. Ở Việt Nam hiện nay, khi chuyển sang nền kinh tế
thị trường, đời sống vật chất của dân ta được cải thiện và ngày càng được
nâng cao, nhân cách của con người đã có những biến đổi, bên cạnh mặt tích
cực cũng có những mặt tiêu cực, có ảnh hưởng đến công tác giáo dục trong
Nhà trường. Tình trạng suy thoái về lối sống, đạo đức của một bộ phận SV,
ảnh hưởng của lối sống thực dụng, chán học, hay bỏ học, động cơ học tập
chưa rõ ràng, các tệ nạn xã hội len lỏi vào Nhà trường, đây cũng là một trong
những vấn đề xã hội trong thời gian gần đây.
Những nghiên cứu trên đã tìm hiểu thực trạng công tác QLSV trong
đó có QLSV nội trú và từ đó đề xuất các biện pháp quản lý. Tuy nhiên
những nghiên cứu cụ thể áp dụng trong những môi trường cụ thể, của từng
Trường trong khi đó công tác quản lý SV nội trú lại phụ thuộc vào đặc thù
của từng Nhà trường
Trường ĐHHHVN cũng gặp phải vấn đề trong công tác quản lý SV
như các Trường khác nói chung nhưng xuất phát từ đặc điểm riêng của
Trường nên không thể áp dụng biện pháp quản lý của một Trường khác. Do
vậy, vấn đề “Biện pháp quản lý sinh viên nội trú tại Trường Đại học Hàng
hải Việt Nam” là vấn đề cần được nghiên cứu.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Quản lý
Quản lý là một hoạt động xuất hiện từ lâu trong xã hội loài người và hoạt
động ngày càng phát triển trong xã hội. Trong quá trình lãnh đạo, đấu tranh
với thiên nhiên để sinh tồn và phát triển, con người cần phải hợp sức nhau lại

để tự bảo vệ và kiếm kế sinh sống. Những hoạt động tổ chức, chỉ đạo, điều
khiển các hoạt động của con người nhằm thực hiện những mục tiêu chung là
8
những dấu hiệu đầu tiên của quản lý.
Như vậy, hoạt động quản lý xuất hiện từ rất sớm và trải qua tiến trình
phát triển từ xã hội lạc hậu đến xã hội văn minh, thì hoạt động quản lý cũng
ngày càng phát triển, hoàn thiện và trở thành một hoạt động phổ biến.
F.W. Taylor và Henri Fayol thường được xem là cha đẻ của thuyết quản
lý khoa học. Các ông đã khẳng định hoạt động quản lý ở bất kỳ tổ chức nào
cũng đều có các hoạt động cơ bản liên quan đến các chức năng kế hoạch, tổ
chức, chỉ đọa và kiểm tra trên cơ sở thu thập và xử lý thông tin. Khoa học
quản lý phát triển khá mạnh trong giai đoạn cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI
và nhiều quan điểm mới đã xuất hiện.
Còn nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học về nội dung,
thuật ngữ “quản lý”, có thể nêu một số định nghĩa như sau:
- Theo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về quản lý: Quản lý xã hội một
cách khoa học là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý đối với toàn bộ
hay những hệ thống khác nhau của hệ thống xã hội trên cơ sở nhận thức và
vận dụng đúng đắn những quy luật khách quan vốn có của nó nhằm đảm bảo
cho nó hoạt động và phát triển tối ưu theo mục đích đặt ra.
- Quản lý là nghệ thuật biết rõ ràng, chính xác cái gì cần làm và làm cái
đó như thế nào, bằng phương pháp tốt nhất, rẻ nhất (William - Tay Lor).
- Chủ tịch Hồ Chí Minh không để lại một tác phẩm riêng nào về quản lý,
nhưng bằng những lời dạy của Người, đặc biệt qua tác phẩm “Sửa đổi lối làm
việc”, viết tại chiến khu Việt Bắc năm 1947, “Ngục trung nhật ký” viết năm
1942 - 1943, và một số bài nói; Đặc biệt là tấm gương đạo đức ứng xửu của
Người trong suốt cuộc đời, Người đã tạo nên một tập “Đại thành” về quản lý.
Với Hồ Chí Minh: Quản lý là sự đi thức tỉnh tâm hồn con người (mỗi con
người đều có cái thiện, cái ác trong người, ta phải làm thế nào cho phần thiện
tốt tươi như hoa mùa xuân và phần xấu mát dần đi); Quản lý phải đúng và

khéo; Quản lý phải cần song phải cẩn (Cần là siêng năng, cẩn là cẩn thận).
- Xuất phát từ các loại hình hoạt động quản lý, các tác giả Nguyễn
Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc cho rằng: “Quản lý là quá trình đạt đến
mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các hoạt động (chức năng) kế hoạch
hóa, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra” [3, tr. 1].
9
- Tác giả Đặng Xuân Hải - Nguyễn Sỹ Thư: Quản lý là một hoạt động
thiết yếu, nó đảm bảo phối hợp những nỗ lực hoạt động cá nhân nhằm đạt
được mục đích của nhóm (tổ chức). Mục tiêu của quản lý là hình thành một
môi trường mà trong đó con người có thể đạt được các mục đích của nhóm
với thời gian, tiền bạc, vật chất và sự bất mãn cá nhân ít nhất”.
- Quản lý là dạng dao động đặc biệt của người lãnh đạo, mang tính tổng
hợp các loại lao động trí óc, liên kết các bộ máy thành chỉnh thể thống nhất,
điều hoà, phối hợp các khâu, các cấp quản lý, hoạt động nhịp nhàng đểtạo
hiệu quả quản lý (Mai Hữu Khuê - Học viện Hành chính quốc gia).
- Quản lý là một hệ thống xã hội mang tính khoa học và nghệ thuật tác
động vào từng thành tố của hệ bằng phương pháp thích hợp nhằm đạt mục
tiêu đã đề ra (Nguyễn Văn Lê - ĐH Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh).
- Tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc: “Quản lý là sự tác
động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý (người quản lý) đến
khách thể quản lý (người bị quản lý), trong tổ chức - nhằm làm cho tổ chức
vận hành và đạt được mục đích của tổ chức”. Cũng theo đó các tác giả còn
phân định rõ hơn về hoạt động quản lý: là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ
chức bằng cách vận dụng các hoạt động (chức năng) kế hoạch hoá, tổ chức,
chỉ đạo (lãnh đạo) và kiểm tra [10, tr. 1].
- Trong cuốn: “Khoa học tổ chức và quản lý” của nhiều tác giả: Đặng
Quốc Bảo, Nguyễn Văn Bình, Nguyễn Quốc Chí, cho rằng: “Hoạt động quản
lý nhằm làm cho hệ thống vận động theo mục tiêu đặt ra tính đến trạng thái có
chất lượng mới” [3, tr. 176].
Mặc dù có nhiều cách hiểu khác nhau, cách diễn đạt khác nhau về quản

lý, song một cách tổng quát nhất có thể khái quát: Quản lý là cách thức tác
động (sự tác động có tổ chức, có mục đích ) của chủ thể quản lý lên chủ thể
bị quản lý bằng các chế định xã hội, bằng tổ chức nguồn nhân lực, tài lực và
vật lực, phẩm chất, uy tín của cơ quan quản lý hoặc người quản lý nhằm sử
dụng có hiệu quả nhất các tiềm năng, các cơ hội của tổ chức để đạt được mục
đích trong điều kiện môi trường luôn biến động.
* Chức năng quản lý:
- Lập kế hoạch (thiết kế mục tiêu, chương trình hành động).
10
- Tổ chức thực hiện (phân công công việc, sắp xếp con người).
- Chỉ đạo điều hành.
- Kiểm tra (giám sát hoạt động của bộ máy nhằm kịp thời điều chỉnh sai
sót, đưa bộ máy đạt mục tiêu đã xác định).
- Thông tin (là công cụ không thể thiếu trong hoạt động quản lý, cần
thiết cho tất cả các chức năng quản lý. Đây là quá trình hai chiều, trong đó
mỗi người vừa là nguồn phát vừa là nguồn thu nhận) [26, tr. 2].
Có bốn chức năng cơ bản của quản lý liên quan mật thiết với nhau, đó
là: lập kế hoạch; tổ chức, chỉ đạo thực hiện; kiểm tra đánh giá, trong đó thông
tin là trung tâm của quản lý.
Bốn chức năng trên quan hệ với nhau tạo thành một chu trình quản lý,
được biểu diễn bằng sơ đồ sau:
Sơ đồ 1.1: Chu trình quản lý
- Lập kế hoạch: Bao gồm việc xác định sứ mệnh, nhiệm vụ, dự báo xu
hướng trong tương lai của tổ chức trên cơ sở thu thập và phân tích các thông
tin và điều kiện thực tế của tổ chức. Từ đó, xác định các mục tiêu, các kế
hoạch mang tính chiến lược, chiến thuật dựa trên việc tính toán về điều
kiện thực tế các nguồn lực của tổ chức và xây dựng các giải pháp thực
hiện. Thực chất của việc lập kế hoạch là xác định mục tiêu của tổ chức và
cách thức hoạt động, thực hiện của tổ chức để đặt được mục tiêu đó trong
điều kiện nhất định.

- Tổ chức: Chức năng này được xem như là công cụ của quản lý và có ý
Kế hoạch
Thông tin
quản lý
Kiểm tra Tổ chức
Chỉ đạo
11
nghĩa quan trọng nhất trong hoạt động quản lý. Hoạt động quản lý có đạt
được mục tiêu hay không, có thực hiện được kế hoạch hoặc không thì công
tác tổ chức giữ vai trò quyết định, đó chính là việc sắp xếp, lựa chọn các
nguồn lực và xây dựng một cơ cấu hợp lý dựa trên việc phân tích các nhiệm
vụ nhằm thực hiện được kế hoạch mục tiêu đã đề ra.
- Lãnh đạo: Việc thống nhất một đường lối hành động mà mọi bộ phận
của tổ chức phải tuân theo nhằm hoàn thành các mục tiêu cần thiết. Tuy
nhiên, để thực hiện được mục tiêu này thì chức năng lãnh đạo của nhà quản lý
phải được thực hiện một cách có hiệu quả. Đó là quá trình điều hành, điều
khiển người bị lãnh đạo hoạt động theo sự lãnh đạo thống nhất thông qua việc
hướng dẫn, động viên giúp cho họ nhiệt tình, hăng say và có ý thức tự giác
sáng tạo, hoàn thành các công việc được giao.
- Kiểm tra: Đối với hoạt động quản lý thì kiểm tra, đánh giá là khâu
quan trọng, then chốt giúp nhà quản lý đánh giá được kết quả thực hiện mục
tiêu kế hoạch trên cơ sở so sánh với các tiêu chuẩn theo quy định. Mặt khác,
kiểm tra đánh giá cũng giúp cho các nhà quản lý phát hiện được những hạn
chế của hệ thống để kịp thời điều chỉnh hoạt động và trong những Trường hợp
cần thiết có thể phải điều chỉnh cả mục tiêu để thông qua việc điều chỉnh kế
hoạch, tổ chức, lãnh đạo để hoạt động quản lý đạt được mục tiêu quản lý.
Bên cạnh 4 chức năng cơ bản của quản lý, còn rất nhiều vấn đề liên
quan khác như: Dự đoán; động viên; điều chỉnh, đánh giá, thông tin phản hồi,
ra quyết định Các chức năng cơ bản của quản lý tạo thành một hệ thống
thống nhất, không được coi nhẹ một chức năng nào. Để các chức năng của

quản lý vận hành có hiệu quả, vấn đề thông tin đóng vai trò là trung tâm; tất
cả các chức năng của quản lý thực hiện được đều phải đảm bảo sự thu thập
thông tin; phân tích thông tin và ra quyết định quản lý cho đúng đắn. Vì thông
tin có vai trò là huyết mạch của hoạt động quản lý đồng thời cũng là tiền đề
của một quá trình quản lý tiếp theo.
Công tác kiểm tra có 3 yếu tố cơ bản:
+ Xây dựng chuẩn kiểm tra.
+ Đánh giá việc thực hiện trên cơ sở so sánh với chuẩn kiểm tra.
+ Điều chỉnh hoạt động hoặc điều chỉnh mục tiêu (trong Trường hợp
12
cần thiết).
- Ngoài 4 chức năng quản lý cơ bản trên, trong thực hiện quá trình quản
lý không thể không đề cập đến thông tin quản lý và quyết định quản lý.
+ Thông tin quản lý là những dữ liệu về tình hình thực hiện các
nhiệm vụ đã được xử lý giúp người quản lý hiểu đúng về đối tượng quản
lý mà họ đang quan tâm để phục vụ cho việc đưa ra các quyết định quản
lý cần thiết.
+ Quyết định quản lý, là sản phẩm của người quản lý trong quá trình
thực hiện các chức năng quản lý. Mỗi chức năng có vị trí, vai trò riêng, song
nó luôn quan hệ khăng khít, tác động qua lại lẫn nhau tạo thành chu trình
quản lý, trong đó chất xúc tác và liên kết giữa các chức năng cơ bản này là
thông tin quản lý và quyết định quản lý.
* Phương pháp quản lý: Phương pháp quản lý là cách thức tác động của
chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý nhằm đạt được mục đích đặt ra. Trong
quản lý hiện đại, phương pháp quản lý được đúc kết từ nhiều lĩnh vực khác
nhau của khoa học xã hội và khoa học hành vi. Phương pháp quản lý rất
phong phú, đa dạng và tùy theo từng tình huống cụ thể mà sử dụng các
phương pháp khác nhau hoặc kết hợp các phương pháp với nhau.
- Phương pháp thuyết phục: là phương pháp dùng lý lẽ để tác động đến
nhận thức của con người.

- Phương pháp kinh tế: là sự tác động của chủ thể đến đối tượng thông
qua các lợi ích kinh tế.
- Phương pháp hành chính tổ chức: là cách thức tác động của chủ thể tới
đối tượng trên cơ sở quan hệ tổ chức và quyền lực hành chính.
- Phương pháp tâm lý, giáo dục: đây là cách thức tác động đến đối tượng
thông qua tâm lý, tình cảm, tư tưởng.
1.2.2. Quản lý giáo dục
Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt, bản chất của nó là sự truyền
đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử - xã hội của các thế hệ loài người, nhờ có
giáo dục mà các thế hệ nối tiếp nhau phát triển, tinh hoa văn hóa dân tộc và
nhân loại được kế thừa, bổ sung và trên cơ sở đó mà xã hội loài người không
ngừng tiến lên [41, tr. 9].
13
Quản lý giáo dục là một loại hình quản lý xã hội, tức là quản lý mọi hoạt
động giáo dục trong xã hội.
Có nhiều tác giả đưa ra khái niệm về quản lý giáo dục theo cách tiếp cận
khác nhau:
Theo tác giả Khuđôminski: “Quản lý giáo dục là tác động có hệ thống,
có kế hoạch, có ý thức và có mục đích của chủ thể quản lý ở các cấp khác
nhau đến tất cả các khâu của hệ thống nhằm mục đích đảm bảo việc giáo dục
cộng sản chủ nghĩa cho thế hệ trẻ, đảm bảo sự phát triển toàn diện và hài hòa
của họ. Trên cơ sở nhận thức và sử dụng các quy luật chung vốn có của
CNXH cũng như những quy luật khách quan của quá trình dạy học - giáo dục,
của sự phát triển về thể chất và tâm lý của trẻ em, thiếu niên cũng như thanh
niên” [22, tr. 10].
Có tác giả nói: Quản lý giáo dục theo nghĩa tổng quát là hoạt động điều
hành, phối hợp các lực lượng trong xã hội nhằm thúc đẩy mảng công tác đào
tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển xã hội. Bên cạnh đó có tác giả cho quản
lý giáo dục là quản lý Trường học, thực hiện đường lối giáo dục của Đảng
trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa Nhà trường vận hành theo

nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với
ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và với từng học sinh. Từ các quan điểm trên có
thể khái quát rằng: Quản lý giáo dục là hệ thống những tác động có mục đích,
có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý trong hệ thống giáo dục, là sự
điều hành hệ thống giáo dục quốc dân, các cơ sở giáo dục nhằm thực hiện
mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Quản lý giáo
dục là hoạt động điều hành, phối hợp các lực lượng giáo dục nhằm đẩy mạnh
công tác giáo dục và đào tạo thể hệ trẻ theo yêu cầu phát triển xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh thời luôn coi trọng giáo dục, Người đã dày
công chỉ đạo và xây dựng nền giáo dục Việt Nam phát triển trong sự gắn bó
với quá trình bảo vệ đất nước, xây dựng nền văn hóa mới, nền kinh tế mới.
Với sự chỉ đạo của Người, Việt Nam đã xây dựng nhanh được nền giáo dục
toàn dân, quán triệt tính dân tộc, tính đại chúng, tính nhân văn, tính khoa học
với mục tiêu cao cả là phát triển giáo dục vì lợi ích của đất nước, lợi ích của
người học. Tư tưởng giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành cơ sở lý
14
luận cho đường lối chính sách giáo dục, cho sự phát triển khoa học giáo dục
Việt Nam, cho việc phát triển Nhà trường Tư tưởng của Người là kim chỉ nam
cho quan điểm hành động của mỗi cán bộ giáo dục từ người điều hành vĩ mô,
người làm chính sách giáo dục, người quản lý Nhà trường đến mỗi thầy cô
giáo trên bục giảng. Do đó công tác quản lý giáo dục càng cần được coi trọng.
Nói một cách khái quát: Quản lý giáo dục là một hiện tượng xã hội, đồng
thời là một dạng lao động đặc biệt, mà những nét đặc trưng của nó là tính tích
cực sáng tạo, năng lực vận dụng những tri thức đã có để đạt mục đích đặt ra
có kết quả là sự cải biến hiện thực. Do đó chủ thể quản lý phải biết sử dụng
không chỉ những chuẩn mực pháp quyền, mà còn sử dụng cả những chuẩn
mực đạo đức, xã hội, tâm lý nhằm đảm bảo sự thống nhất và những mối
quan hệ trong quá trình quản lý [23, tr. 18].
Chính sách quản lý nhà nước về giáo dục được quy định tại Điều 14 của
luật giáo dục năm 2005 là: Nhà nước thống nhất quản lý hệ thống giáo dục

quốc dân về mục tiêu, chương trình, nội dung, kế hoạch giáo dục, tiêu chuẩn
nhà giáo, quy chế thi cử, hệ thống văn bằng, chứng chỉ; tập trung quản lý chất
lượng giáo dục, thực hiện phân công, phân cấp QLGD, tăng cường quyền tự
chủ, tự chịu trách nhiệm của cơ sở giáo dục.
Quản lý giáo dục có những đặc trưng sau đây:
- Sản phẩm giáo dục là nhân cách, là sản phẩm có tính đặc thù nên quản
lý giáo dục không phải dập khuôn, máy móc trong việc tạo ra sản phẩm, cũng
như không được phép tạo ra phế phẩm.
- Quản lý giáo dục chú ý đến sự khác biệt giữa đặc điểm sư phạm so với
lao động xã hội nói chung.
- Quản lý giáo dục đòi hỏi những yêu cầu cao về tính toàn diện, tính
thống nhất, tính liên tục, tính kế thừa, tính phát triển.
- Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng, quản lý giáo dục phải quán triệt
quan điểm vì quần chúng [32, tr. 7].
Tuỳ theo việc xác định đối tượng quản lý mà quản lý giáo dục có nhiều
cấp độ khác nhau cả về tầm vĩ mô và tầm vi mô. Ở tầm vĩ mô, người ta
thường nói đến quản lý hệ thống giáo dục quốc dân ở tầm quốc gia, trong
phạm vi một cơ sở giáo dục, người ta thường nói đến quản lý Nhà trường hay
15
còn gọi là quản lý Trường học.
1.2.3. Quản lý Nhà trường
Tại Điều 48, Luật Giáo dục năm 2005 quy định Nhà trường trong hệ
thống giáo dục quốc dân được tổ chức theo các loại hình sau đây:
- Trường công lập do Nhà nước thành lập, đầu tư xây dựng cơ sở vật
chất, đảm bảo kinh phí cho nhiệm vụ chi thường xuyên.
- Trường dân lập do cộng đồng dân cư ở cơ sở thành lập, đầu tư xây
dựng cơ sở vật chất và đảm bảo kinh phí hoạt động.
- Trường tư thục do các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ
chức kinh tế hoặc cá nhân thành lập, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và bảo
đảm kinh phí hoạt động bằng vốn ngoài ngân sách nhà nước.

Trong hệ thống giáo dục quốc dân thuộc mọi loại hình đều được thành
lập theo quy hoạch, kế hoạch của Nhà nước nhằm phát triển sự nghiệp giáo
dục. Nhà nước tạo điều kiện để trường công lập giữ vai trò nòng cốt trong hệ
thống giáo dục quốc dân.
Nhà trường là thiết chế xã hội, là một tổ chức chuyên biệt trong xã hội
thực hiện chức năng tái tạo nguồn nhân lực phục vụ cho sự duy trì và phát
triển của xã hội bằng các con đường giáo dục cơ bản.
Quản lý Nhà trường thực chất là quản lý giáo dục trên tất cả các mặt liên
quan đến hoạt động giáo dục trong phạm vi Nhà trường. Đó là một hệ thống
những hoạt động có mục đích, có kế hoạch hợp quy luật của chủ thể quản lý
giáo dục để đạt tới mục tiêu giáo dục đặt ra trong từng giai đoạn phát triển của
đất nước.
Quản lý Nhà trường là một khoa học được thực hiện trên những quy luật
chung của khoa học quản lý, đồng thời có nét đặc thù riêng. Đó cũng là những
nét quy định của bản chất của sự lao động.
Theo tác giả Phạm Minh Hạc: “Quản lý Nhà trường ở Việt Nam là
thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của
mình, tức là đưa Nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục, để tiến tới
mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục với thế hệ trẻ
và từng học sinh” [17, tr. 34].
Tác giả Nguyễn Ngọc Quang cho rằng: “Quản lý Nhà trường là quản lý
16
quá trình dạy và quá trình học, tức là đưa hoạt động đó từ trạng thái này sang
trạng thái khác để dần dần tiến tới mục đích giáo dục” [26, tr. 34].
Lao động ở môi trường giáo dục là lao động sư phạm của người giáo
viên mà đối tượng tác động chính là học sinh. Học sinh vừa là chủ thể, khách
thể của hoạt động dạy và hoạt động. Sản phẩm đào tạo của Nhà trường
chính là nhân cách, phẩm chất. Nói cách khác quản lý Nhà trường chính là
quá trình tổ chức giáo dục và đào tạo nhằm hoàn thiện và phát triển nhân
cách của học sinh một cách khoa học, có hiệu quả, đạt chuẩn để đáp ứng

nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Vậy bản chất của quản lý Nhà trường là
quản lý hoạt động dạy và hoạt động học, tức là tác động làm sao đưa hoạt
động đó từ trạng thái này tới trạng thái khác để dần tiến tới hoàn thành mục
tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo trên phạm vi của một Trường.
1.2.4. Sinh viên và sinh viên nội trú
Sinh viên
Điều 83 Luật giáo dục năm 2005 quy định: Người học là người đang học
tập tại cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân. Người học bao gồm:
a) Trẻ em của cơ sở giáo dục mầm non;
b) Học sinh của cơ sở giáo dục phổ thông, lớp dạy nghề, trung tâm dạy
nghề, Trường trung cấp, Trường dự bị ĐH;
c) SV của Trường Cao đẳng, Trường ĐH;
d) Học viên của cơ sở đào tạo thạc sỹ;
đ) Nghiên cứu sinh của cơ sở đào tạo tiến sỹ;
e) Học viên theo học chương trình giáo dục thường xuyên.
Như vậy, SV là người đang học tại các Trường ĐH và cao đẳng [38, tr.
116]. SV là một trong các thành tố quan trọng, là yếu tố trung tâm của quá
trình giáo dục [38, tr. 19].
Như vậy, tất cả những người học ở bậc Cao đẳng và ĐH đều được gọi
là SV.
Ngày nay, “Học, học nữa, học mãi” (V.I.Lênin) là khẩu hiệu của toàn xã
hội và học tập là công việc suốt đời. Các Trường Cao và ĐH mở rộng cửa cho
tất cả những ai có nguyện vọng và điều kiện không phân biệt lứa tuổi, giới
tính, giàu nghèo đều có thể học bằng nhiều con đường, hình thức khác
17
nhau: chuyên tu, tại chức, văn bằng 2 Do đó, với khái niệm SV như trên thì
ngoại diên của nó rất rộng.
Tuy nhiên, trong giới hạn của đề tài này chỉ nghiên cứu với đối tượng là
SV hệ chính quy thì có thể thu hẹp nội hàm của khái niệm này như sau:
- Đó là những người đã tốt nghiệp trung học phổ thông

- Người đã vượt qua kỳ thi tuyển sinh vào Trường ĐH và đỗ vào Trường
- Người thuộc nhóm thanh niên, nam nữ từ 18 đến 25 tuổi
- Người chưa có nghề nghiệp, việc làm xác định do đó còn lệ thuộc gia
đình về kinh tế
- Người là nhóm xã hội đặc biệt gồm những thanh niên xuất thân từ các
tầng lớp xã hội khác nhau đang trong quá trình học tập, chuẩn bị nghề nghiệp
chuyên môn để bước vào một nhóm xã hội mới là tầng lớp tri thức trẻ.
Sinh viên nội trú
SV nội trú là những SV ĐH hệ chính quy đang học tập tại Trường, hiện
đang ở trong KNT của Trường. SV đăng ký ở nội trú nếu số người có nguyện
vọng vào ở nội trú lớn hơn khả năng tiếp nhận của KNT thì thứ tự ưu tiên
theo đối tượng HSSV như sau:
1. Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, anh hùng lao động, thương
binh bệnh binh, người hưởng chính sách như thương binh, SV khuyết tật
2. Con liệt sỹ, con thương binh, con bệnh binh, con của người hưởng
chính sách thương binh, con của người có công.
3. SV có hộ khẩu thường trú tại vùng cao, vùng có điều kiện kinh tế xã
hội đặc biệt khó khăn.
4. Người cha hoặc người mẹ là dân tộc thiểu số.
5. Con mồ côi cả cha lẫn mẹ.
6. SV là con hộ nghèo, cận nghèo theo quy định hiện hành của nhà nước.
7. SV nữ.
8. SV tích cực tham gia các hoạt động do Nhà trường, Đoàn TNCS Hồ
Chí Minh, Hội SV, KNT hoặc các tổ chức xã hội tổ chức [33, tr. 4].
SV nội trú phải chịu sự quản lý của Nhà trường, có nghĩa vụ thực hiện
nghiêm túc các chủ trương, chính sách pháp luật của Nhà nước và Quy định
CTSV nội trú hiện hành của Nhà trường
18
1.2.5. Biện pháp quản lý sinh viên nội trú
Biện pháp quản lý SV nội trú là nội dung, cách thức giải quyết vấn đề

SV nội trú của Nhà trường cùng những lực lượng ngoài Nhà trường có liên
quan đến SV nội trú nhằm hình thành nhân cách của SV theo yêu cầu, mục
tiêu đào tạo.
Chủ thể chính thực hiện biện pháp quản lý SV nội trú là phòng CTSV,
BQL KNT, chịu trách nhiệm phối hợp với các tổ chức đoàn thể trong Nhà
trường, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Hội SV, các khoa, bộ môn chuyên môn,
chính quyền địa phương nhằm thực hiện các biện pháp quản lý do mình
hoạch định đối với đối tượng chịu quản lý là SV nội trú theo yêu cầu của công
tác này.
Để đạt các mục tiêu quản lý, chủ thể quản lý phải tổ chức, phối hợp,
khích lệ động viên, dẫn dắt, định hướng hoạt động của đối tượng quản lý vào
mục tiêu đã được xác định trước thông qua việc sử dụng hệ thống các công cụ
quản lý.
Như vậy, xét cho cùng thì biện pháp quản lý SV nội trú chính là một loại
công cụ quản lý, nhằm từng bước đưa SV nội trú đi đến mục tiêu của công tác
SV nội trú. Bởi công cụ quản lý là những phương tiện, những giải pháp của
chủ thể quản lý nhằm định hướng, dẫn dắt, khích lệ, điều hòa, phối hợp hoạt
động của con người và cộng đồng trong việc đạt được mục tiêu đề ra.
1.3. Công tác quản lý sinh viên ở các trường Đại học
1.3.1. Vị trí, vai trò của công tác quản lý sinh viên trong các trường
Đại học
CTSV là một trong những công tác trọng tâm của Nhà trường Trường
chăm lo, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho SV trong học tập, nghiên cứu và sinh
hoạt, nhằm thực hiện mục tiêu là đào tạo con người phát triển toàn diện, có
đạo đức, tri thức, sức khỏe và ý thức nghề nghiệp cao, trung thành với lý
tưởng độc lập dân tộc và CNXH, sớm có khả năng đáp ứng, thích nghi với
yêu cầu và thực tiễn lao động sản xuất.
CTSV phải thực hiện đúng đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước, các quy định của Bộ giáo dục và Đào tạo và các quy định khác
của Trường.

19
CTSV phải đảm bảo khách quan, công bằng, công khai, minh bạch, dân
chủ trong các khâu có liên quan đến SV.
Trong số những người được giáo dục - đào tạo để có thể đủ sức làm chủ
nền khoa học, cộng nghệ hiện đại của đất nước sau này thì SV là người tiêu
biểu, là những người đang được đầu tư, đang được đào tạo trong Nhà trường
một cách có hệ thống. Đó là nguồn lực con người lao động có chất lượng và
trình độ cao, có chuyên môn sâu, là lực lượng ưu tú về học vấn trong thanh
niên, được Đảng, Nhà nước, các tổ chức đoàn thể, gia đình và toàn thể xã hội
quan tâm chăm sóc và đặt nhiều tin tưởng, hy vọng.
Trong lĩnh vực diáo dục và đào tạo nói chung và trong các Trường ĐH,
Cao đẳng nói riêng thì công tác quản lý SV góp phần hỗ trợ tích cực cho
giảng dạy (thầy) và học tập (trò), cũng như đảm nhận mọi mặt của công tác
quản lý. Quản lý SV từ các khâu hành chính, giáo vụ, đến giáo dục ngoài giờ
lên lớp giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức và tổ chức phong trào SV (kết
hợp với Đoàn Thanh niên, Hội SV ) sẽ hỗ trợ và tạo điều kiện về vật chất và
tinh thần học tập để SV rèn luyện trở thành nguồn nhân lực có chất lượng và
trình độ cao. Công tác quản lý SV có ý nghĩa quyết định trong việc đổi mới và
phát triển bền vững yếu tố con người về chất lượng nhận thức, tri thức và
hành động. Quản lý SV là mảng công tác trọng tâm thiết yếu của nền giáo dục
ĐH trong việc đảm bảo kỷ cương pháp luật Nhà trường và rèn luyện SV.
Công tác này do Phòng (Ban) chính trị và công tác SV (hoặc Phòng Quản lý
SV), Phòng (Ban) đào tạo phụ trách (đơn vị tham mưu cho Ban Giám hiệu
trong công tác SV).
1.3.2. Nội dung của quản lý sinh viên trong các trường Đại học
SV là nhân vật trung tâm trong Nhà trường Vì vậy, cần phải quản lý
được đối tượng này theo mục đích quản lý để hướng SV vào mục tiêu đào tạo
của Nhà trường Chính vì vậy, bên cạnh công tác đào tạo thì công tác quản lý
SV là một hoạt động lớn của Nhà trường
Nội dung CTSV được tập trung vào các nội dung chính như sau:

* Công tác tổ chức hành chính
1. Tổ chức tiếp nhận thí sinh trúng tuyển vào học theo quy định của Bộ
Giáo dục và Đào tạo và Nhà trường, sắp xếp bố trí vào các lớp khóa học; chỉ
20
định Ban cán sự lớp lâm thời (lớp trưởng, lớp phó) trong thời gian đầu khoá
học; làm thẻ cho SV.
2. Tổ chức tiếp nhận SV vào ở tại KNT theo quy định.
3. Thống kê, tổng hợp dữ liệu, quản lý hồ sơ của SV.
4. Tổ chức phát bằng tốt nghiệp cho SV.
5. Giải quyết các công việc hành chính có liên quan cho SV.
* Công tác tổ chức, quản lý hoạt động học tập và rèn luyện của sinh viên
1. Theo dõi, đánh giá ý thức học tập, rèn luyện của SV; phân loại, xếp
loại SV cuối mỗi học kỳ và cuối mỗi năm học, khoá học; tổ chức thi đua,
khen thưởng cho tập thể và cá nhân SV đạt thành tích cao trong học tập và rèn
luyện; xử lý kỷ luật đối với SV vi phạm quy chế, nội quy.
2. Tổ chức “Tuần sinh hoạt công dân SV” vào đầu khoá học, định kỳ
hàng năm theo kế hoạch và cuối khóa học. Tổ chức đối thoại định kỳ giữa
Hiệu trưởng Nhà trường, Trưởng các khoa chuyên môn trực tiếp QLSV.
3. Tổ chức cho SV tham gia các hoạt động nghiên cứu khoa học, thi
Olympic các môn học, tham gia các câu lạc bộ học thuật và các hoạt động
khuyến khích học tập khác.
4. Tổ chức triển khai công tác giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống cho SV; tổ chức cho SV tham gia các hoạt động văn hoá, văn nghệ,
TDTT và các hoạt động ngoài giờ lên lớp khác.
5. Theo dõi công tác phát triển Đảng trong SV; tạo điều kiện thuận lợi
cho SV tham gia tổ chức Đảng, các đoàn thể trong Trường ; phối hợp với
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Hội SV và các tổ chức chính trị - xã hội khác có
liên quan trong các hoạt động phong trào của SV, tạo điều kiện cho SV có
môi trường rèn luyện, phấn đấu.
6. Tổ chức tư vấn về học tập, nghề nghiệp và việc làm cho SV. Tổ chức

gặp mặt giữa các nhà tuyển dụng lao động với SV.
* Công tác y tế, thể thao
1. Tổ chức thực hiện công tác y tế Trường học; tổ chức khám sức khoẻ
cho SV khi vào nhập học; chăm sóc, phòng chống dịch, bệnh và khám sức
khoẻ định kỳ cho SV trong thời gian học tập theo quy định; xử lý những
Trường hợp không đủ tiêu chuẩn sức khoẻ để học tập. Đối với SV ngành đi
21
biển, khi nhập học nếu không đủ tiêu chuẩn sức khoẻ theo yêu cầu thì Nhà
trường sẽ bố trí chuyển sang ngành học khác cùng nhóm ngành tuyển sinh.
2. Tạo điều kiện cơ sở vật chất cho SV luyện tập thể dục, thể thao; tổ
chức cho SV tham gia các hoạt động thể dục, thể thao.
3. Tổ chức nhà ăn tập thể cho SV bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm.
* Thực hiện các chế độ, chính sách đối với sinh viên
1. Tổ chức thực hiện các chế độ chính sách của Nhà nước quy định đối
với SV về học bổng, học phí, trợ cấp xã hội, bảo hiểm y tế, tín dụng đào tạo
và các chế độ khác có liên quan đến SV.
2. Tạo điều kiện giúp đỡ SV tàn tật, khuyết tật, SV diện chính sách, SV
có hoàn cảnh khó khăn theo quy định của Nhà nước.
* Thực hiện công tác an ninh chính trị, trật tự, an toàn, phòng chống
tội phạm và các tệ nạn xã hội
1. Phối hợp với các ngành, các cấp chính quyền địa phương trên địa bàn
Thành phố Hải Phòng, các quận, huyện, các phường lân cận Trường có SV
nội trú xây dựng kế hoạch đảm bảo an ninh chính trị, trật tự và an toàn cho
SV; giải quyết kịp thời các vụ việc liên quan đến SV.
2. Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về an toàn giao thông,
phòng chống tội phạm, ma tuý, mại dâm, HIV/AIDS và các hoạt động khác
có liên quan đến SV; hướng dẫn SV chấp hành pháp luật và nội quy, quy chế.
3. Tư vấn pháp lý, tâm lý, xã hội cho SV.
* Thực hiện công tác quán lý sinh viên nội trú, ngoại trú
1. SV sống tại KNT thực hiện theo quy chế QLSV nội trú của Nhà

trường. BQL KNT cùng với các đơn vị chức năng của Nhà trường có trách
nhiệm kiểm tra, đôn đốc để đảm bảo an ninh, trật tự nội vụ, vệ sinh tại KNT.
2. CTSV nội trú thực hiện theo quy định hiện hành của Bộ Giáo dục và
Đào tạo và các quy định phân cấp hiện hành của Nhà trường. Trưởng phòng
CTSV, Trưởng BQL KNT chịu trách nhiệm trước Hiệu trưởng về việc tổ
chức quản lý, theo dõi và kiểm tra việc học tập, ăn, ở của SV nội trú; phối hợp
với các đơn vị chức năng của Nhà trường, với chính quyền và công an địa
phương giải quyết các vụ việc có liên quan đến SV nội trú.
1.4. Công tác quản lý sinh viên nội trú trong các trường Đại học
22
1.4.1. Mục đích của công tác quản lý sinh viên nội trú trong các
trường Đại học
Theo Quy chế công tác HSSV nội trú tại các cơ sở giáo dục thuộc hệ
thống giáo dục quốc dân do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành theo
Thông tư số 27/2011/TT-BGDĐT ngày 27 tháng 6 năm 2011 thì công tác SV
nội trú trong các cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân nhằm các
mục tiêu sau:
- Góp phần rèn luyện SV nội trú thực hiện nhiệm vụ của người học theo
quy định của Luật giáo dục, điều lệ Nhà trường và quy chế cụ thể của từng
Trường.
Mục tiêu cuối cùng của công tác quản lý SV nói chung và công tác quản
lý SV nội trú nói riêng là hướng SV vào hoạt động học tập và rèn luyện để
thực hiện mục tiêu đào tạo của Nhà trường.
- Xây dựng nề nếp kỷ cương trong việc quản lý SV nội trú: bảo đảm nắm
bắt kịp thời thực trạng SV nội trú.
Thực trạng SV nội trú tương đối phức tạp: Các hoạt động của SV ra sao,
diễn biến tư tưởng như thế nào, đời sống ăn ở có những khó khăn, thuận lợi
gì Công tác quản lý SV nội trú đòi hỏi phải nắm bắt được thực trạng này để
có những biện pháp điều chỉnh kịp thời nhằm hướng các em vào việc thực
hiện tốt nhiệm vụ của người học.

- Ngăn chặn, đẩy lùi, xóa bỏ cơ bản những biểu hiện tiêu cực, không
lành mạnh trong SV nội trú, đặc biệt là các tệ nạn xã hội.
Với môi trường sống đông đúc, với những suy nghĩ giản đơn của tuối
trẻ, thường xuyên chịu ảnh hưởng của những mặt trái của nền kinh tế thị
trường, do vậy nguy cơ bị nhiễm các tệ nạn xã hội và có những biểu hiện tiêu
cực, không lành mạnh trong SV nội trú là không thể tránh khỏi. Vì vậy công
tác quản lý SV nội trú phải nhằm mục đích là ngăn chặn, đẩy lùi, xóa bỏ cơ
bản những biểu hiện tiêu cực không lành mạnh trong SV nội trú, đặc biệt là
các tệ nạn xã hội.
1.4.2. Nội dung quản lý sinh viên nội trú
Điều 8. Tiếp nhận sinh viên vào ở nội trú
23
Căn cứ đơn xin ở nội trú của SV viết theo mẫu của Nhà trường : đối
tượng ưu tiên theo quy định tại Điều 4 có xác nhận hợp lệ kèm theo và điều
kiện của KNT, Nhà trường xem xét, ký hợp đồng xắp xếp chỗ ở nội trú với
SV.
Điều 9. Công tác quản lý sinh viên nội trú
1. Phổ biến các quy định của Bộ giáo dục và Đào tạo và nội quy của Nhà
trường về công tác SV nội trú.
2. Làm thủ tục đăng ký tạm trú cho SV ở nội trú với công an xã (phường,
thị trấn) hoặc hướng dẫn SV làm thủ tục đăng ký tạm trú theo quy định hiện
hành của pháp luật.
3. Lập sơ đồ các phòng ở và lập sổ theo dõi SV nội trú theo mẫu quy
Định (tại Phụ lục số II của Quy chế này), cập nhật đầy đủ, kịp thời việc thay
đổi chỗ ở của SV nội trú.
4. Phân công cán bộ trực trong KNT 24/24 giờ trong ngày để giải quyết
kịp thời các vụ việc xảy ra. Thường xuyên kiểm tra việc thực hiện nôi quy của
SV trong KNT và sử lý các vi phạm.
5. Tổ chức các hoạt động tự quản của SV để phát huy vai trò chủ động
trách nhiệm với bản thân và tôn trọng tập thể của SV nội trú.

6. Hàng quý tổ chức đối thoại giữa Ban giám hiệu Nhà trường hoặc BQL
KNT với đại diện SV nội trú để kịp thời phát hiện, giải quyết nguyện vọng
chính đáng của SV nội trú.
7. Xây dựng tiêu chí thi đua giữa các nhà, các phòng trong KNT về bảo
đảm an ninh, trật tự, vệ sinh môi trường, mỹ quan trong phòng ở.
Điều 10. Công tác bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn, phòng chống dịch
bệnh và các tệ nạn xã hội trong khu nội trú
Có kế hoạch định kỳ kiểm tra, kịp thời nâng cấp, sửa chữa, tu bổ các
công trình hạ tầng cơ sở, công trình phục vụ sinh hoạt của SV và các thiết bị
khác trong KNT.
Phân công nhiệm vụ cụ thể cho cán bộ quản lý và đội tự quản trong công
tác an ninh, trật tự, phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội trong khu vực nội
trú.
24
Phát huy hiệu quả vai trò của các tổ chức đoàn thể trong Nhà trường, các
hoạt động tự quản của SV trong công tác bảo đảm an ninh, trật tự trong KNT.
Tổ chức tuyên truyền, giáo dục, hướng dẫn SV bảo đảm an ninh, trật tự,
phòng chống ma tuý, HIV/AIDS và các tệ nạn xã hội khác.
Định kỳ phun thuốc về phòng dịch bệnh trong KNT. Khi phát hiện dấu
hiệu dịch bệnh phải báo ngay cho cơ quan y tế địa phương áp dụng các biện
pháp sử lý kịp thời.
Có cán bộ y tế thường trực để thực hiện sơ cấp cứu ban đầu kịp thời cho
SV nội trú.
Điều 11. Các hoạt động hỗ trợ cho sinh viên nội trú
1. Tổ chức các dịch vụ trông giữ xe, điện thoại công cộng, internet, khu
vui chơi, giải trí, thể thao trong KNT phù hợp với điều kiện cơ sở vật chất,
nhu cầu chính đáng của SV để tạo sân chơi lành mạnh, góp phần giáo dục
toàn diện cho SV nội trú.
2. Tổ chức các phòng học tự học, đọc báo, xem tivi, sinh hoạt văn hoá,
văn nghệ phục vụ SV nội trú.

3. Tổ chức nhà ăn, trung tâm dịch vụ, căng tin phục vụ cho SV nội trú
thuận tiện, phù hợp với điều kiện kinh tế của SV, bảo đảm vệ sinh an toàn
thực phẩm.
4. Tổ chức các hoạt động tư vấn về tâm lý, sức khoẻ, kỹ năng sống, học
tập, hướng nghiệp và việc làm cho SV trong KNT.
5. Tuỳ điều kiện từng Trường có thể tổ chức các khu vực hoặc phòng tự
nấu ăn chung cho SV trong KNT.
6. Xây dựng quy định cụ thể về các hoạt động dịch vụ để phục vụ SV
trong KNT.
Điều 12. Công tác phối hợp
Chủ động phối hợp với các cơ quan công an, chính quyền địa phương để
thực hiện có hiệu quả các biện pháp, phương án bảo đảm an ninh chính trị và
trật tự an toàn KNT, xử lý kịp thời các vụ việc liên quan xảy ra trong KNT.
Phối hợp với tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Hội SV Việt Nam, Hội Liên
25
hiệp thanh niên Việt Nam (nếu có) và các tổ chức đoàn thể khác trong Trường
để tổ chức các hoạt động rèn luyện cho SV nội trú, thực hiện nếp sống văn
minh trong KNT.
(Trích chương III - Nội dung công tác HSSV) [33, tr. 6 - 7]
Theo Quy chế công tác SV nội trú do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo
ban hành thì công tác quản lý SV nội trú của Nhà trường gồm 4 nội dung sau:
Nội dung 1: Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch quản lý SV nội trú đáp
ứng các mục tiêu, yêu cầu của công tác SV nội trú. Các yêu cầu đó là:
- Phải đảm bảo phối hợp chặt chẽ thường xuyên giữa các đơn vị trong
nội bộ Nhà trường, trước hết là phòng (ban) quản lý KTX với Đoàn TNCS
Hồ Chí Minh, Hội SV Nhà trường
- Phải đảm bảo phối hợp chặt chẽ thường xuyên giữa Nhà trường, gia
đình và chính quyền địa phương.
- Phải đảm bảo giám sát kịp thời trong việc nắm bắt thực trạng SV nội trú.
Nội dung 2: Ban hành các quy đinh cụ thể của Nhà trường về công tác

SV nội trú phù hợp với các quy định của quy chế công tác SV nội trú do Bộ
trưởng Bộ giáo dục và Đào tạo ban hành.
Trong các quy định cụ thể của Nhà trường về công tác SV nội trú trước
hết phải ban hành được quy định đối với bộ máy làm công tác quản lý SV nội
trú của Nhà trường (về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn…), sau đó là quy
định đối với SV nội trú (quyền hạn, trách nhiệm…). Làm việc với chính
quyền địa phương để ban hành được quy chế phối hợp giữa Nhà trường - địa
phương. Sau khi đã bàn bạc được các quy định này, cần phải tổ chức quán
triệt các quy định đó cho tất cả các thành viên trong bộ máy quản lý (chủ thể
quản lý) và các SV nội trú (đối tượng quản lý).
Việc soạn thảo các quy định cho công tác quản lý SV nội trú phải dựa
vào Quy chế của Bộ GD và ĐT, vào điều kiện cụ thể của Nhà trường, của địa
phương… sao cho các quy định ấy mang tính khả thi, động viên được cả
người quản lý và người bị quản lý.
Nội dung 3: Tổ chức bộ máy quản lý SV nội trú
Bộ máy quản lý SV nội trú phải được tổ chức như một chỉnh thể gồm
các bộ phận chức năng, quyền hạn, trách nhiệm khác nhau, có mối liên hệ phụ

×