Tải bản đầy đủ (.docx) (88 trang)

Sự cố tràn dầu và các phương pháp xử lý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.04 MB, 88 trang )

1
LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành nhất đối với giáo viên hướng
dẫn ThS. Hồ Văn Sơn (Bộ môn Lọc Hóa Dầu, Khoa Dầu khí, Trường Đại Học Mỏ -
Địa Chất). Mặc dù rất bận với công tác chuyên môn nhưng thầy đã tận tình hướng
dẫn giúp đỡ em hoàn thành đồ án này.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong Trường Đại Học Mỏ - Địa Chất
đặc biệt các thầy cô Bộ môn Lọc Hóa Dầu đã chỉ dậy chúng em trong suốt quá trình
học tập tại nhà trường.
Tôi cũng xin cảm ơn các bạn đồng môn trong lớp đã giúp đỡ tôi trong quá trình
học tập cũng như trong thời gian hoàn thành đồ án này.
Tuy nhiên, do còn hạn chế về mặt kiến thức chuyên môn cũng như thời gian
hoàn thành đồ án có gấp rút nên đồ án không tránh khỏi còn thiếu sót. Kính mong
được quý thầy cô và các bạn đóng góp ý kiến để em có thể hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn! Hà nội, tháng 12, năm 2014
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Hoài
1
1
2
Mục Lục
2
2
3
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT TỪ VIẾT TẮT Ý NGHĨA
1 GDP Gross Domestic Product (tổng thu nhấp quốc dân)
2 HST Hệ Sinh Thái
3 LPG Liquefied petroleum gas (khí dầu mỏ hóa lỏng)
4 TCVN Tiêu chuẩn Việt Nam
5 SS Suspended Solids (chất rắn lơ lửng)


6 VSV Vi Sinh Vật
3
3
DANH MỤC HÌNH VẼ TRONG ĐỒ ÁN
STT Hình vẽ Tên hình vẽ Tran
g
1 Hình 1.1 Giàn khoan dầu khí 3
2 Hình 1.2
Vụ tràn dầu do hãng BP gây ra.
5
3 Hình 1.3 Con tàu chở dầu Amoco Cadiz đã bị chìm ngoài
khơi Pháp
7
4 Hình 1.4 Chiếc tàu chờ dầu Atlantic Empress đã bốc chảy 8
5 Hình 1.5 Vụ tràn dầu đã làm lan tràn 140 triệu gallons ra mặt biển
vịnh Campeche
9
6 Hình 1.6 Quân đội Iraq đã phá hoại các đường ống dẫn dầu 10
7 Hình 1.7 Tàu cứu hộ sử dụng vòng quây ngăn vệt dầu loang 11
8 Hình 1.8
Con tàu M/T Haven cháy và chìm dần
12
9 Hình 1.9 Hình ảnh về vụ tràn dầu trên vịnh Mexico 13
10 Hình 1.10 Du lịch thảm họa 14
11 Hình 1.11 Tàu Racer Express đã gây ra sự cố tràn dầu FO tại cảng
Dung Quất
15
12 Hình 1.12
Nhiều vết dầu loang ở vùng biển Quảng Ngãi
16

13 Hình 1.13 Brad Mizell chỉ những vết lở loét trên cánh tay của
ông
18
14 Hình 1.14 Một con bồ nông mắc kẹt trong dầu 20
15 Hình 1.15 Hơn 2000 con chim cánh cụt bị ảnh hưởng bởi
dầu tràn
21
16 Hình 2.1 Phao quây dầu tự
phồng
24
17 Hình 2.2 Phao quây dầu bơm khí 25
18 Hình 2.3 Phao quây dầu
24/24.
25
19 Hình 2.4 Phao quây dầu tự nổi dạng
dẹp
26
20 Hình 2.5 Máy hút dầu loại Multi 27
21 Hình 2.6 Máy hút dầu loại weir 27
22 Hình 2.7 Băng
chuyền
27
23 Hình 2.8 Phao chứa dầu 29
24 Hình 2.9
Cano ứng cứu sự cố tràn dầu
29
25 Hình 2.10
Bao rơm dùng đ
ể quây dầu 30
25 Hình 2.11 Sự hoạt động của chất phân

tán
30
26 Hình 2.12 Sử dụng máy bay cung cấp chất phóng xạ tới
nơi xảy ra sự cố tràn dầu
31
27 Hình 2.13 Chất phân tán dầu tràn 33
28 Hình 2.14 Quá trình hoạt động của chất phân tán hóa học 34
29 Hình 2.15 Chất phân tán cũng có khả năng phân tán dầu
nặng:
35
30 Hình 2.16 Phun chất phân tán bằng thuyền và canô
chuyên dụng
35
31 Hình 2.17 Sản phẩm Enretech
cellusorb
40
32 Hình 2.18 Sử dụng Enretech cellusorb để hấp thụ
dầu
42
33 Hình 2.19 Sự phân hủy
ankan
46
34 Hình 2.20 Sự phân hủy của benzen bằng oxy phân
tử
47
35 Hình 2.21 Sự phân hủy của Toluene với 5 cách khác nhau 48
36 Hình 2.22 Sự phân hủy kỵ khí của
Toluene
49
37 Hình 2.23 Sản phẩm

enretech-1
51
38 Hình 2.24 Xử lý cát nhiễm dầu do sự cố tràn dầu từ ngoài biển
vào
52
39 Hình 2.25 Vi khuẩn Alcanivorax Borkumensis 52
40 Hình 2.26 Mô hình một nhiễm sắc thể của vi khuẩn
Alcanivorax
54
41 Hình 3.1 Vụ tràn dầu từ tàu VLCC SS Atlantic Empress
42 Hình 3.2 Sơ đồ khối xử lý nước biển nhiễm dầu
Hình 3.3
Dầu tràn, mùn cưa và Enretech-1 được trộn đều với
nhau
Hình 3.4
Các chuyên giá Australia lấy mẫu định kì để phân
tích
Hình 3.5
Khu vực thử nghiệm sau 2 tháng

DANH MỤC BIỂU ĐỒ, BẢNG BIỂU TRONG ĐỒ ÁN
ST
T
Bảng biểu
Sơ đồ
Tên bảng biểu, sơ đồ
Trang
1 Biểu đồ
1.1
Kim ngạch xuất khẩu dầu thô qua các năm gần đây

(2004-2012)
4
2 Sơ đồ
khối 3.1
Xử lý nước biển nhiễm dầu 74
3 Bảng 3.1
Đặc điểm nước bị tràn dầu
64
4 Bảng 3.2
Chỉ tiêu nước thải công nghiệp
68
5 Bảng 3.3 Khả năng hòa tan của các hydrocacbon, dầu thô trong
nước
67
6 Bảng 3.4
Ngưỡng chất thải nguy hại quy định các chỉ tiêu về
dầu(theo QCVN 07:2009)
7 Bảng 3.5
Kết quả
phân tích mẫu sau 4 tháng thử nghiệm
(21/07/2009 đến 25/11/2009)
8
LỜI MỞ ĐẦU
Trong cuộc sống hiện đại của chúng ta ngày nay, với sự phát triển không ngừng
của khoa học kỹ thuật và các ngành công nghiệp hiện đại khác trên toàn thế giới thì
việc sử dụng những nguồn nguyên liệu để tạo năng lượng cũng ngày càng gia tăng.
Nước ta có nguồn tài nguyên rất quý giá đó là dầu khí. Nó là nguồn tài nguyên hoá
thạch không thể tái tạo được. Dầu khí không chỉ mang lại nhiều lợi ích kinh tế to
lớn mà còn là một trong những ngành công nghiệp mũi nhọn giúp các nước đang
phát triển trở thành một nước có nền công nghiệp phát triển tiên tiến trên thế giới.

Với nhu cầu sử dụng ngày càng tăng cao thì việc khai thác và vận chuyển dầu cũng
ngày càng phát triển. Nó được khai thác và vận chuyển đến khắp các châu lục và
quốc gia để phục vụ cho các ngành sản xuất công nghiệp. Tuy nhiên việc khai thác
và vận chuyển nguồn “vàng đen” gặp rất nhiều vấn đề bất cập mà hậu quả thường
rất nghiêm trọng. Những sự cố như nổ giàn khoan, vỡ ống dẫn dầu, chìm tàu chở
dầu đã gây tác động xấu đến môi trường biển, đe dọa đến hệ sinh thái biển, ngoài ra
còn gây thiệt hại nặng nề về kinh tế, sức khỏe… Số lượng và quy mô các vụ tràn
dầu ngày càng tăng mà hậu quả của nó khó có thể thống kê nổi. Đây là mối quan lo
ngại của ngành dầu khí nói riêng và toàn nhân loại nói chung.
Trong thời đại ngày nay việc tìm ra hướng xử lý và khắc phục sự cố tràn dầu là
vấn đề tất yếu và cấp bách hơn lúc nào hết, một mặt tránh gây lãng phí trong thời
điểm nguồn tài nguyên này đang bị cạn kiệt và quan trọng hơn là tránh gây tổn hại
tới môi trường, việc bảo vệ môi trường chính là bảo vệ cuộc sống của mỗi chúng ta
và thế hệ con cháu tương lai. Do vậy, nước ta cũng cần có các biện pháp nhằm bảo
vệ môi trường bền vững và hiệu quả nhất. Chúng ta cần thay đổi tư duy từ trong
tiềm thức của mỗi người để thấy được trách nhiệm và sự quan trọng của việc gìn
giữ thiên nhiên bảo vệ môi trường.
Xuất phát từ thực tế trên em đã lựa chọn đề tài: "Sự cố tràn dầu và các
phương pháp xử lý" cho đồ án tốt nghiệp của em. Qua đó chúng ta sẽ có thêm
nhận thức về tác hại cũng như các phương pháp xử lý các sự cố tràn dầu gây ra.
Đồ án được bố cục theo 3 chương :
Chương 1. Tổng quan.
9
Chương 2. Các phương pháp xử lý sự cố tràn dầu
Chương 3. Đánh giá và lựa chọn công nghệ xử lý sự cố tràn dầu
Kết luận.
10
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ SỰ CỐ TRÀN DẦU
1.1 Sự cố tràn dầu
1.1.1 Định nghĩa tràn dầu

Tràn dầu là sự giải phóng hydrocarbon dầu mỏ lỏng vào môi trường do các hoạt
động của con người. Tràn dầu thường xảy ra trong các hoạt động tìm kiếm, thăm
dò, khai thác, vận chuyển, chế biến, phân phối và tang trữ dầu khí và các sản phẩm
của chúng. Ví dụ, các hiện tượng rò rỉ, phụt dầu, vỡ đường ống, vỡ bể chứa, tai nạn
đâm và gây thủng tàu, đắm tàu, sự cố tại các dàn khoan dầu khí, nhà máy lọc hóa
dầu v.v… làm cho dầu và các sản phẩm dầu (mà dưới đây sẽ được gọi tắt là dầu)
thoát ra ngoài gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng xấu đến sinh thái và thiệt hại đến
các hoạt động kinh tế, đặc biệt là các hoạt động có liên quan đến khai thác và sử
dụng các dạng tài nguyên thủy sản.
Mặt khác, tràn dầu cũng được xem như sự giải phóng vào môi trường do rò rỉ tự
nhiên từ các cấu trúc địa chất chứa dầu dưới đáy biển do các hoạt động của vỏ trái
đất gây nên như động đất…
Số lượng dầu tràn ra ngoài tự nhiên khoảng vài trăm lít trở lên có thể coi là sự
cố tràn dầu.
1.1.2 Nguồn phát sinh sự cố tràn dầu
Dầu khí là nguồn nguyên liệu hoá thạch không thể tái tạo được. Dầu khí đã
đem lại những lợi ích kinh tế to lớn cho đất nước ta và nó là ngành công nghiệp
mũi nhọn giúp cho đất nước trong giai đoạn phát triển kinh tế hiện nay và sẽ tiếp
tục đóng vai trò là ngành kinh tế then chốt, phát triển trong tương lai.
11
Hình 1.1.Giàn khoan dầu khí. [6]
Hiện nay trên thế giới, dầu khí là nguồn năng lượng quan trọng bậc nhất
đang đóng góp 64% tổng năng lượng đang sử dụng toàn cầu, 36% năng lượng còn
lại là gỗ, sức nước, sức gió, địa nhiệt, ánh sáng mặt trời, than đá, và nhiên liệu hạt
nhân.
Ngành dầu khí đóng góp phần lớn ngoại tệ cho quốc gia với các sản phẩm
phục vụ nền kinh tế là điện khí, xăng dầu, khí nén cao áp và năng lượng sạch.
Trong giai đoạn vừa qua, Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (PVN) đã cung
cấp gần 35 tỷ m
3

khí khô cho sản xuất, 40% sản lượng điện của toàn quốc, 35-
40% nhu cầu ure và cung cấp 70% nhu cầu khí hóa lỏng cho phát triển công
nghiệp và tiêu dùng dân sinh.
Biểu đồ 1.1. Kim ngạch xuất khẩu dầu thô qua các năm gần đây (2004-2012)
[6].
Xuất khẩu dầu thô có tốc độ tăng trưởng cao và ổn định, đóng góp phần lớn
kim ngạch xuất khẩu cả nước, đặc biệt là giai đoạn trước đây, bình quân khoảng
15%. Hiện nay, tỷ trọng này đã giảm và chỉ còn chiếm khoảng 7,5%. Trong 8
tháng đầu năm 2012, kim ngạch xuất khẩu của ngành đạt 5,5 tỷ USD, tăng 9,3%
so với cùng kỳ, chiếm 7,5% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Trong những năm
trước đây, ngành luôn dẫn đầu về mức đóng góp vào ngân sách nhà nước. Mặc dù
12
tổng kim ngạch xuất khẩu đang giảm dần song ngành dầu khí Việt Nam vẫn là
đơn vị duy trì mức đóng góp khoảng 18-22% tổng GDP cả nước, 6 tháng đầu năm
2012, tổng doanh thu của PVN đạt 380,6 nghìn tỷ đồng và nộp ngân sách 81,2
nghìn tỷ đồng[1].
Bên cạnh những nguồn lợi do dầu khí đem lại thì những vấn đề tràn dầu do
ngành công nghiệp này gây ra cũng đang trở thành vấn đề bức xúc với môi trường
toàn cầu. Điển hình nhất là gần đây sự cố của giàn Deepwater Horizon là một sự
cố nổ giàn khoan bán tiềm thủy di động của hãng dầu khí BP. Vị trí giàn khoan
khoảng 64 km về phía tây nam bờ biển Louisiana trong khu vực mỏ dầu khí
Macondo Prospect. Sự cố xảy ra vào ngày 20 tháng 4 năm 2010 đã khiến 11 người
thiệt mạng và làm 17 người khác bị thương. Tai nạn này khiến cho giàn khoan này
bị bốc cháy và chìm, gây ra tràn dầu ở một khu vực rộng lớn trong vịnh Mexico
gây ảnh hưởng nặng nề đến đời sống hoang dã trong khu vực, đến ngành ngư
nghiệp và du lịch các nước trong khu vực chịu ảnh hưởng. Vụ tràn dầu ở Vịnh
Mexico là thảm họa môi trường khủng khiếp nhất mà Hoa Kỳ từng phải đối phó.
Theo các chuyên gia tư vấn năng lượng thì "Lượng dầu đổ vào Vịnh Mexico lớn
hơn so với bất kỳ lần nào trước đây." 5.000 tới 6.000 thùng dầu mỗi ngày.
Hình 1.2. Vụ tràn dầu do hãng BP gây ra.[9]

Nguyên nhân tràn dầu
 Trên đất liền:
13
 Rạn nứt các thể tích các ống dẫn dầu: có thể do động đất, các mối
hàn không đảm bảo chất lượng nên xảy ra trường hợp rạn nứt mối
hàn… khiến dầu bị tràn ra môi trường.
 Do phụt bể chứa: các bể chứa chỉ có một thể tích nhất định, khi
lượng dầu được xả vào bể quá mức sẽ gây ra hiện tượng tràn hoặc
do sự thay đổi thời tiết làm cho diện tích dầu tăng lên cũng là
nguyên nhân làm dầu từ các bể chứa trào ra.
 Cơ sở hạ tầng phục vụ khai thác và lưu trữ dầu khí không đảm bảo
tiêu chuẩn nên dẫn đến tràn dầu, thậm chí ở các cực của trái đất các
nhà sản xuất còn thải cả nước lẫn dầu và các chất hóa học nguy
hiểm ra biển.
 Hành vi cố ý của những kẻ khủng bố, các nước có chiến tranh,
những kẻ phá hoại, hoặc xe chở rác bất hợp pháp.
 Rò rỉ từ quá trình tinh chế lọc dầu.
 Rò rỉ từ quá trình khai thác, thăm dò trên đất liền.
 Ngoài ra các nguyên nhân khách quan nói trên còn phải nói nguyên
nhân chủ quan do hành động thiếu ý thức của con người đã trực tiếp
hoặc gián tiếp khiến dầu tràn ra ngoài.
 Trên biển:
 Trên mặt nước biển. Rò rĩ từ các tàu thuyền hoạt động ngoài biển:
chiếm khoảng 50% nguồn ô nhiễm dầu trên biển. Do tàu chở dầu
trong vùng ảnh hưởng bị sự cố ngoài ý muốn hoặc cố ý súc rữa, xả
dầu xuống biển…
 Trong lòng nước biển. Do rò rĩ các ống dẫn dầu, các bể chứa dầu
trong lòng nước biển…
 Dưới đáy biển. Do quá trình khoan thăm dò, khoan khai thác, túi dầu bị
rách do địa chấn hoặc do nguyên nhân khác…Trong tự nhiên có những

túi dầu nằm rất sâu dưới đáy biển nên việc khoan thăm dò gặp nhiều khó
khăn. Tuy nhiên nếu động đất xảy ra ở ngay khu vực có túi dầu thì khả
năng túi dầu bị vỡ, bị xì là hoàn toàn có thể. Mặt khác trong lòng đất có
rất nhiều vi sinh vật yếm khí, một số loài có khả năng nhã ra axit làm
bào mòn các lớp trầm tích nằm phía trong hoặc ngoài các túi dầu, khí.
 Các tàu thuyền không đảm bảo chất lượng lưu hành trên biển là
nguyên nhân chính dẫn tới rò rĩ dầu từ các tàu thuyền (tàu của các
ngư dân và các tàu chở dầu), đắm tàu do va vào đá ngầm.
14
1.2.Các vụ tràn dầu ở Việt Nam và trên thế giới, hậu quả của sự cố tràn
dầu
Trên thế giới và ở Việt Nam từ khi con người phát hiện và khai thác dầu
mỏ một cách công nghiệp đã để xảy ra tình trạng tràn dầu trên biển. Do sự phát
triển ngày càng tăng của các ngành công nghiệp cần nhiều năng lượng nên sự ô
nhiễm đó cũng gia tăng theo. Dưới đây là một số vụ tràn dầu điển hình trên Thế
giới và ở Việt Nam đã xảy ra và được ghi nhận.
1.2.1 Các vụ tràn dầu trên thế giới
 Một số vụ tràn dầu lớn
Vụ tràn dầu Amoco Cadiz năm 1978, đây là vụ tràn dầu gây ra hậu quả
nghiêm trọng nhất đối với các loài sinh vật biển. Chiếc tàu chở dầu Amoco Cadiz
đã mắc cạn ngoài vùng biển Brittany sau khi thất bại trong việc cập bờ trong cơn
bão biển. Cùng với vụ tàu chìm là 68,7 triệu gallons dầu nhẹ đã tràn ra vùng biển
của Pháp. Việc xử lý dầu tràn gặp rất nhiều khó khăn, thậm chí là hoàn toàn thất
bại do điều kiện gió lớn và biển động dữ dội. Chỉ khoảng 3.300 tấn chất lỏng phân
tán được sử dụng. Chính vì vậy, chỉ trong một tháng sau vụ tràn dầu, 320km²
đường bờ biển của Pháp đã nhiễm bẩn dầu. Rất nhiều máy xúc được huy động để
xúc dầu.
Hình 1.3. Con tàu chở dầu Amoco Cadiz đã bị chìm ngoài khơi Pháp [9]
Vụ tràn dầu vào tháng 7/1979, tại vùng biển Carribe thuộc địa phận của
Tobago, hai chiếc tàu chở dầu cực lớn đã đâm vào nhau gây ra vụ tràn dầu do tai

15
nạn tàu lớn. Bị hỏng hóc do cú va chạm, cả hai thuyền bắt đầu chảy dầu qua các lỗ
rò và bắt lửa. Ngọn lửa trên tàu Aegean Captain được kiểm soát. Con tàu được di
chuyển ngay tới Curacao, nơi mà các thùng dầu được bảo vệ. Nhưng chiếc
Atlantic Empress đã không có được số phận may mắn. Nó đã bốc cháy, được
hướng ra biển và nổ tung khi cách bở biển khoảng 300 hải lý. Toàn bộ thuyền
viên của tàu Atlantic Empress thiệt mạng, cộng thêm gần 90 triệu gallon dầu tràn
ra biển.
Hình 1.4. Chiếc tàu chờ dầu Atlantic Empress đã bốc chảy cách bờ biển 300
hải lý, giảm thiểu nguy cơ tác động xấu tới hệ sinh thái bờ biển. [9]
Vụ tràn dầu tại giếng dầu Ixtoc năm 1979 Vào tháng Sáu định mệnh năm 1979,
một giếng dầu ở Vịnh Campeche đã sụp đổ sau một vụ nổ khủng khiếp. Từ đó đến
10 tháng kế tiếp, ước tính có 140 triệu gallons dầu đã tràn lan trên Vịnh Mexico.Để
hạn chế và làm chậm sự chảy dầu từ giếng dầu, chính phủ Mexico cho thả bùn, sau
đó là những quả bóng bằng thép, chì xuống giếng dầu. Theo phát ngôn của chính
phủ, một nửa số dầu từ giếng bốc cháy khi nó nổi lên mặt nước, một phần ba đã bay
hơi. Công ty dầu mỏ Mexico, PEMEX đã thuê một công ty phun chất lỏng để phân
tán 1800 km2 dầu loang. Loại hóa chất được phun hoạt động khá hiệu quả, phân tán
và làm dầu có thể hòa trộn với nước. Như vậy sẽ giúp giảm ảnh hưởng của dầu tràn
lên bờ biển. Ở phía bờ bên kia của Vịnh, thuộc bang Texas (Mỹ), Mỹ trang bị các
máy lọc và máy khoanh vùng dầu nhằm bảo vệ vịnh quanh quần đảo Barrier.
16
Hình 1.5.Vụ tràn dầu đã làm lan tràn 140 triệu gallons ra
mặt biển vịnh Campeche [9]
Vụ tràn dầu, trong tháng 3/1989 tàu chở dầu Exxon Valdez của công ty Mỹ
Exxon bị mắc cạn tại vịnh Prince Williams bên bờ biển Alaska. Một lỗ thủng trên
thành tàu đã làm tràn xuống biển 48.000 tấn dầu. Hậu quả là, làm nhiễm bẩn hơn
2.500 km
2
mặt biển, 28 loài sinh vật bị đe dọa tuyệt chủng. Khu vực xảy ra tai

nạn rất khó tiếp cận (chỉ có thể đến bằng đường biển hoặc bằng trực thăng) gây
khó khăn cho các dịch vụ cứu hộ. Kết quả thảm họa là khoảng 40,9 triệu lít dầu
(trong số 54 triệu lít trên tàu) tràn biển, tạo thành một thảm dầu trên 28.000
km
2
và gây ô nhiễm khoảng 2000 km dọc bờ biển. Vụ tràn dầu Exxon Valdez làm
chấn động cả nước Mỹ. 21 năm sau, hãng tàu Exxon vẫn chưa trả hết tiền bồi
thường. 8.000 ngư dân đã chết trong khi chờ đợi nhận tiền bồi thường.
Vụ tràn dầu,trong chiến tranh vùng vịnh năm 1991, khi quân đội Iraq rút khỏi
Kuwait, họ đã mở tất cả các van của giếng dầu và phá vỡ các đường ống dẫn dầu
nhằm ngăn cản bước tiến của quân đội Mỹ. Kết quả một lượng dầu lớn nhất trong
lịch sử đã phủ lên Vịnh Ba Tư ước tính, số dầu loang tương đương 240 triệu
gallon dầu thô. Diện tích dầu loang có kích thước tương đương đảo Hawaii. Một
liên minh được thành lập nhằm ngăn chặn và cách ly thảm họa dầu loang khủng
khiếp này. Họ cố gắng hạn chế sự lây lan bằng cách đóng các ống dẫn dầu bị hở
bằng các loại bom thông minh. Tuy nhiên, mọi cố gắng phục hồi đều phải đợi đến
chiến tranh kết thúc. Để bảo vệ nước khỏi bị nhiễm bẩn, họ đã phải huy động
17
khoảng 40km thanh hút dầu nỗi trên mặt nước và 21 máy tách dầu khỏi nước.
Cùng với hàng loạt xe hút dầu, họ đã thu được 58,8 triệu gallon dầu.
Theo Hội nghị hải dương học liên quốc gia, vụ tràn dầu lớn nhất thế giới đã
gây ra những hậu quả vĩnh viễn lên hệ sinh thái của san hô và cá. Khảo sát cũng
cho thấy, một nửa số dầu đã bay hơi, chỉ một phần tám được thu lại, còn một phần
tư khác dạt vào đất liền.
Hình 1.6.Quân đội Iraq đã phá hoại các đường ống dẫn dầu [9]
Vụ tràn dầu, trong tháng 1/2000, một sự cố tràn dầu lớn đã xảy ra tại
Brazil. Trong vùng biển vịnh Guanabara, đối diện với thành phố Rio de Janeiro,
đường ống dẫn dầu thuộc công ty Petrobras đã đổ ra hơn 1,3 triệu lít dầu, gây
ra thảm họa môi trường lớn nhất cho một vung gần siêu đô thị. Theo các nhà sinh
vật học, phải mất gần một phần tư thế kỹ mới có thể khôi phục hoàn toàn môi

trường do tổn thất sinh thái gây ra. Các nhà sinh vật học Brazil so sánh mức độ
thảm họa sinh thái giống như với những hậu quả của chiến tranh ở Vịnh Ba Tư.
May mắn là dầu đã được ngăn lại sau khi dòng dầu đã chảy qua được bốn hàng
rào phao chặn và đến phao thứ năm thì chặn lại được.
Vụ tràn dầu ABT Summer năm 1991, Trên hành trình tới cảng Rotterdam, con
tàu chở dầu ABT summer bất ngờ xảy ra vụ nổ trên tàu, gây bắt lửa khi nó vừa rời
khỏi bờ biển Angola 1.400 km. Toàn bộ số dầu đã tràn lan trên một diện tích lên
18
tới 120 km2. Tàu chở dầu ABT cũng đã cháy liên tục trong vòng ba ngày trước
khi chìm.Dựa trên số lượng dầu chở lúc đó, ước tính có khoảng 80 triệu gallons
dầu thô đã bị chìm hoặc bị đốt. Điều may mắn là tác động của nó lên đời sống con
người không lớn do vụ nổ diễn ra cách xa bờ biển.
Hình 1.7.Tàu cứu hộ sử dụng vòng quây ngăn vệt dầu loang. [9]
Vụ tràn dầu M/T Haven Tanker năm 1991, Con tàu chở dầu M/T Haven
Tanker đã bị nổ ngoài khơi bờ biển Italy vì lí do kỹ thuật. Con tàu bị nổ, kèm theo
là cái chết của 6 thủy thủ.Ngay sau vụ tai nạn, chính phủ Italy đã nỗ lực kéo tàu ra
xa khơi nhưng thất bại. Ngày nay, chúng trở thành một địa điểm du lịch, với danh
hiệu, chiếc tàu mắc cạn nổi tiếng nhất thế giới, nằm cách bờ biển 250 m.Vào thời
điểm xảy ra vụ việc, các đơn vị cứu hộ Italy sử dụng các biện pháp cứu hỏa để
kiểm soát đám cháy và sự lan tràn của dầu.
19
Hình 1.8. Con tàu M/T Haven cháy và chìm dần, mang theo hơn 40 triệu
gallons dầu xuống đáy biển.
Vụ tràn dầu, ngày 11/11/2007, cơn bão tại eo biển Kerch gây ra thảm họa
chưa từng có tại biển Đen và biển Azov, trong một ngày bão đã đánh chìm bốn
tàu, làm sáu tàu mắc cạn, hư hỏng hai tàu chở dầu. Trong số đó, có tàu chở dầu
Volgoneft-139 đã đổ vào biển hơn 2.000 tấn dầu mazut, và trong khoang tàu có
chứa khoảng 7.000 tấn lưu huỳnh. Theo cơ quan Rosprirodnadzor thiệt hại môi
trường gây ra do sự cố của một số tàu tại eo biển Kerch là 6,5 tỷ rúp và tổn hại
đến các loại chim và cá tại eo biển Kerch khoảng 4 tỷ rúp (theo những thông số

thống kê cho biết).
Vụ tràn dầu, ngày 20/4/2010, lúc 22h 00 giờ địa phương trên giàn khoan
Depwater Horizon, một vụ nổ xảy ra đã gây ra cháy lớn trong 36 giờ, làm cho 11
công nhân khoan thiệt mang, giàn khoan bị chìm, dầu khí từ giếng tràn ra
biển. Ước tính trong Vịnh Mexico trong nước được đổ lên đến 5.000 thùng (700
tấn) dầu mỗi ngày. Tuy nhiên, các chuyên gia không loại trừ rằng trong tương lai
gần con số này có thể đạt 50.000 thùng/ngày, một thảm dầu dài 16 km có
chiều dày 90 mét. Vào đầu tháng 5/2010 Tổng thống Mỹ Barack Obama đã gọi
sự số vịnh Mexico là “một thảm họa sinh thái tồi tệ nhất trong lịch sử nước Mỹ”.
Công ty BP đã phải ra điều trần trước Quốc hội Mỹ và phải lập Quỹ dự phòng hơn
32 tỉ USD đền bù về thiệt hại do vụ tràn dầu gây ra, chưa kể phải ra trước tòa án
liên quan đến vụ tràn dầu này.
20
Hình 1.9. Hình ảnh về vụ tràn dầu trên vịnh Mexico: các thuyền cứu hộ với
dàn khoan đang rực cháy.[9]
1.2.2 Các vụ tràn dầu ở Việt Nam
Vụ tràn dầu,ngày 20 tháng 9 năm 1993 tàu Pan Harves mang cờ Đài Loan va
vào tàu Sài Gòn Ship làm tàu Pan Harves bị chìm cùng với khối lượng hàng hoá
và gần 300 tấn dầu tràn ra biển, làm ô nhiễm vùng biển rộng lớn khoảng 640 km
2
ngoài khơi Bà Rịa_Vũng Tàu. Tại khu vực xảy ra sự cố nồng độ dầu trong nước
biển cao hơn mức cho phép hàng trăm lần, vết dầu loang bị đẩy vào bờ gây ô
nhiễm các vùng cửa sông thuộc tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, TP Hồ Chí Minh, Long
An, Tiền Giang.
Vụ tràn dầuxảy ra vào tháng 10 năm 1994 tàu chở dầu của Singapore đâm vào
cầu cảng Cát Lái trên sông Sài Gòn gần thành phố Hồ Chí Minh làm tràn hơn
1700 tấn dầu. Vùng bị ảnh hưởng bao gồm khu vực cảng và hơn 30.000 ha ruộng
lúa, trại cá, trại vịt của các hộ nông dân.
Vụ tràn dầu, ngày 24/8/2006, tàu La Palmas (quốc tịch nước ngoài) có trọng
tải 31.000 tấn, chuyên chở 23.000 tấn dầu DO trong lúc cập cảng Sài Gòn đã va

vào cầu cảng và làm tràn hơn 1500 tấn dầu ra môi trường. Ngoài ra, còn có 150
tấn xăng tràn ra từ hệ thống ống dẫn của cầu cảng. Dù đã ứng phó sự cố kịp thời,
nhưng chỉ sau 9 giờ, váng dầu đã lan rộng cách khu vực xảy ra sự cố 40- 50 km
21
theo phía hạ lưu sông Sài Gòn. Tiếp đó, do thủy triều lên, váng dầu bị đẩy ngược
lên thượng lưu cách nơi xảy ra sự cố 4-5 km. Sau 15 ngày, diện tích bị ảnh hưởng
bởi tràn dầu là 60.000 ha bao trùm một khu vực lớn dọc theo sông Sài Gòn, trong
đó diện tích bị ô nhiễm nặng nhất là 40.000 ha.
Vụ tràn dầu, ngày 30/01/2007, hàng ngàn khách du lịch và người dân đang
tắm biển tại bãi biển Cửa Đại, Hội An (Quảng Nam), du khách hốt hoảng chạy dạt
lên bờ, khi phát hiện ra một lớp dầu đen kịt ồ ạt tràn vào đất liền. Thảm dầu kéo
dài gần 20km từ khu vực biển Đà Nẵng đến Quảng Nam. Một thảm họa sinh thái
đang hiển hiện trên bờ biển được đánh giá đẹp nhất hành tinh.
Sự cố tràn dầu tại cảng Dung Quất, vào lúc 2 giờ 30 phút sáng cùng ngày, tàu
Racer Express (quốc tịch Panama), tải trọng hơn 43.000 tấn, chủ tàu là một công
ty ở Trung Quốc, do Zhang Cheng Yu làm thuyền trưởng, neo đậu tại cảng Dung
Quất để nhận dăm gỗ.Trong khi bơm chuyển lượng dầu FO từ téc dầu này sang
téc dầu kia để cân chỉnh trạng thái cân bằng của tàu trước khi xuất bến thì van
điều chỉnh bị bung ốc làm dầu tràn ra biển. Sau 30 phút, các thuyền viên trên tàu
Racer Express mới khắc phục được sự cố tại van điều chỉnh.Theo ước tính ban
đầu, lượng dầu FO từ tàu Racer Express tràn ra biển khoảng gần 1.000 lít và loang
ra diện tích mặt nước biển khoảng 300 - 350 m
2
.Tại khu vực nơi con tàu Racer
Express neo đậu, mặt nước biển nhiều chỗ lềnh bềnh váng dầu đặc quánh, đen sì,
gây ô nhiễm nghiêm trọng. Ngay sau khi xảy ra sự cố tràn dầu, Công ty CP dịch
vụ dầu khí Quảng Ngãi PTSC (đơn vị quản lý, khai thác cảng Dung Quất) đã huy
động đội ứng cứu sự cố tràn dầu cảng Dung Quất nhanh chóng dùng phao quây,
khoanh vùng không cho dầu FO lan ra diện rộng, đồng thời sử dụng máy hút thu
gom lượng dầu tràn.Đến 16 giờ chiều cùng ngày, công việc thu gom dầu tràn ra

biển cơ bản hoàn thành.
22
Hình 1.11. Tàu Racer Express đã gây ra sự cố tràn dầu FO tại cảng Dung
Quất [7]
Vụ tràn dầu, đêm 23/12/2007, trên vùng biển cách mũi Ba Làng An, xã Bình
Châu, huyện Bình Sơn, tỉnh Quãng Ngãi khoảng 3 hải lý, hai chiếc tàu chở hàng
đã đâm nhau, làm hơn 170m³ dầu diesel tràn ra biển. Đây là vụ tai nạn giữa hai tàu
chở hàng có trọng tải lớn đầu tiên trên vùng biển quãng ngãi. Tuy nhiên đến chiều
24/12 vẫn chưa có biện pháp khắc phục.
Vụ tràn dầu,Tháng 6/2009, tàu Nhật Thuần đã chìm sâu xuống biển Vũng Tàu
sau khi bùng cháy trong khoảng 2 giờ liền. Theo Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh
Bà Rịa-Vũng Tàu, tại thời điểm xảy ra tai nạn, trong tàu Nhật Thuần có chứa
khoảng 1.795m
3
dầu cặn và chất thải lẫn dầu Các sự cố tràn dầu thường để lại
hậu quả rất nghiêm trọng làm ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến môi trường
sinh thái, tài nguyên thủy sinh, tài nguyên nước, tài nguyên đất trên một khu vực
khá rộng, gây thiệt hại đến các hoạt động kinh tế. Điều này đòi hỏi cần thiết phải
có những biện pháp mang tính đồng bộ và hiệu quả để khắc phục tình trạng trên.
Vụ tràn dầu, ngày 19 và 20 tháng 4 năm 2011 công ty cổ phần đường Quảng
Ngãi đã làm tràn dầu ra sông Trà Khúc thuộc khu vực cầu Trường Xuân, phường
Quảng Phú, TP Quảng Ngãi gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, khoảng 14,5
tấn dầu FO đã gây ra ô nhiễm trên diện rộng. Hiện Trung tâm đang lên phương án
để nhanh chóng khắc phục sự cố tràn dầu, tránh gây ô nhiễm môi trường biển
nghiêm trọng.
23
Hình 1.12. Nhiều vết dầu loang ở vùng biển Quảng Ngãi [7]
1.2.3 Hậu quả của sự cố tràn dầu
1.2.3.1 Ảnh hưởng tới sức khỏe con người
Ảnh hưởng lên sức khỏe con người của sự cố tràn dầu đang là đề tài được các

khoa học gia để tâm nghiên cứu.
Trong hai ngày 22 và 23 tháng 6, 2013 vừa qua, một số bác sĩ y khoa và khoa
học gia đã gặp nhau tại thành phố New orleans, tiểu bang Louisiana để thảo luận và
tìm cách để đối phó với hậu quả của vụ tràn dầu tại vùng vịnh Mexixco đối với sức
khỏe của dân chúng. Cuộc hội thảo do Viện Y học Quốc Gia tổ chức theo lời yêu
cầu của Bộ Y Tế Hoa Kỳ. Ảnh hưởng của dầu tràn đối với sức khỏe là điều dân
chúng địa phương cũng như công nhân đều hết sức e ngại, muốn biết.
Bác sĩ Cyrus Rangan, Phó Giám đốc cơ quan Kiểm soát Độc chất California
cho hay: “Tiếp cận ngắn hạn không gây khó khăn gì, nhưng nếu tiếp cận lâu dài và
với nhiều dầu có thể gây bệnh. Nếu hít, nuốt dầu hoặc dầu ngấm vô da, chúng sẽ
gây ra chóng mặt, nhức đầu, mệt mỏi và thay đổi tâm trạng.”
Theo bác sĩ Nalini Sathiakumar, các nghiên cứu về hậu quả dầu tràn cho thấy có
tổn thương thần kinh, ngoài da, mắt miệng khi tiếp cận với hợp chất hữu cơ bay hơi
trong dầu. Nạn nhân có thể bị rối loạn nhận thức, mất định hướng, suy yếu tứ chi.
Dầu cũng gây ảnh hưởng ngắn hạn tới các chức năng của thận, phổi và gan.
Dầu thô mang nhiều rủi ro ho sức khỏe và những ai tiếp cận gần gũi nhất với
chúng sẽ bị ảnh hưởng. Nếu xâm nhập phổi, dầu có thể gây ra tổn thương như viêm
24
phổi, bác sĩ Jeff Kalina, bệnh viện Methodist ở Houston, cho biết. Vị bác sĩ này
cũng báo động rằng, có những rủi ro rõ ràng và không rõ ràng. Chúng ta không biết
6 tháng hoặc một năm sau, tổn thương nào sẽ xẩy ra.
Vể rối loạn tinh thần, bác sĩ Howard Osofsky, phân khoa Tâm trí đại học LSU
cho hay vì hậu quả dầu tràn, số người dùng rượu gia tăng, nhiều bạo hành gia đình
và bất an xã hội. Bác sĩ Tâm bệnh Keith Ablow, tác giả sách Living the Truth, đồng
ý rằng vụ tràn dầu đưa tới nhiều rủi ro bị bệnh Hậu chấn Thương Căng Thẳng
PTSD và trầm cảm.
Về rủi ro ung thư, khoa học gia Blanca Lafflon, Đại học A Coruna, Spain, đã
nghiên cứu hậu quà dầu tràn năm 2002 từ tầu dầu Prestige tại quốc gia này. Bà ta
nhận thấy dầu có thể gây thay đổi DNA trong nhân nhiễm thể, là bước đầu đưa tới
ung thư. Nhưng kiểm chứng mấy tháng sau ở các nạn nhân này thì sự thay đổi

không còn nữa. Bác sĩ Scott Barnhar, Đại học Washington cũng cùng ý tưởng là
tiếp cận với dầu có thể đưa tới rủi ro ngắn hạn như ngứa mắt, viêm da, ho, chóng
mặt nhưng không có hậu quả lâu dài, như ung thư.
 Một điểm cần lưu ý là trẻ em chịu ảnh hưởng của dầu tràn nhiều hơn người lớn vì:
Chúng sống và thở gần với mặt đất, nơi mà khí nặng của dầu tụ hợp nhiều, đồng
thời trẻ em lại có nhịp thở nhiều hơn người lớn.
Trẻ em có bề mặt da rộng hơn người lớn, so sánh với sức nặng cơ thể, cho nên da sẽ
dễ dàng hấp thụ dầu.
Trẻ em hay cố tình nhét vật lạ vô miệng.
Trẻ em không có hệ thống bảo vệ cơ thể mạnh như người lớn.
Bác sĩ Brenda Eskenazi đại học California ở Berkeley cũng đưa ra ý kiến dè dặt
với phụ nữ có thai sống ở vùng dầu tràn khi ăn cá bắt từ nơi đây, vì chúng có thể bị
nhiễm dầu. May mắn là nhiều cơ quan nghiên cứu cho hay thức ăn hải sản đang bán
tại vùng vịnh đều an toàn, vì nhập cảnh từ các địa phương khác.
Bác sĩ Lawrence Palinkas, Đại học Southern California, đã nghiên cứu hậu quả
của tràn dầu tầu Exxon Valdez năm 2008 tại 22 cộng đồng ở tiểu bang Alaska. Ông
cho biết là hậu quả khá trầm trọng. Dân chúng không nói chuyện với nhau, không
tham gia, tổ chức sinh hoạt cộng đồng. Bệnh trầm cảm, PTSD gia tăng, kèm theo
lạm dụng rượu, thuốc cấm, quyên sinh, ly dị và từ đó tỷ lệ dân chúng bị cao huyết
áp, tiểu đường, bệnh hô hấp cũng nhiều hơn. Đã có trường hợp một ngư dân Hoa
Kỳ tự tử vì quá căng thẳng, thất vọng.
25
Bộ trưởng Y tế Louisiana Alan Levine đã yêu cầu BP chi ra 10 triệu đô la để
cung cấp dịch vụ tư vấn, điều trị tâm thần cho dân chúng bị ảnh hưởng vì tràn dầu.
Khi sự cố dầu tràn xảy ra sẽ làm cho tổng hàm lượng hydrocarbon trong môi
trường không khí cao hơn giới hạn cho phép nhiều lần. Hơi dầu tác động trực tiếp
đến môi trường không khí xung quanh khu vực xảy ra sự cố tràn dầu ảnh hưởng tới
sức khỏe cộng đồng. Các biểu hiện như là gây cay mắt, chảy nước mắt và đau đầu,
dẫn đến tình trạng mệt mỏi. Sự cố ô nhiễm dầu mỏ xảy ra cũng sẽ gây ảnh hưởng
nhiều tới sức khoẻ của những người trực tiếp thu gom và xử lý hậu quả do ô nhiễm

dầu gây ra. Do đó khi thu gom xử lý ô nhiễm cần trang bị đầy đủ các thiết bị bảo hộ
cần thiết để đảm bảo sức khoẻ.
Hình 1.13. Brad Mizell chỉ những vết lở loét trên cánh tay của ông trước khi
tham gia cuộc họp dành cho những người ở Vịnh Mexico bị ảnh hưởng đến sức
khỏe do dầu tràn vào ngày 18/04/2001 [5]
1.2.3.2 Tác hại đến môi trường và hệ sinh thái
Theo nghiên cứu, trong dầu có chứa 6% lượng hợp chất hydrocacbon thơm.
Tuy có tỉ lệ ít nhưng hydrocacbon thơm rất độc, là thành phần chính gây ung thư.
Hydrocacbon thơm tích luỹ trong thuỷ sinh vật có thể gây ra nhiều hậu quả
nghiêm trọng. Ngoài ra, một tấn dầu mỏ tràn ra biển có thể loang phủ 12 km
2
mặt
nước, tạo thành lớp váng dầu ngăn cách nước và không khí, làm thay đổi tính chất
của môi trường biển, cản trở việc trao đổi khí oxi và cacbonic với bầu khí quyển.

×