Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

ODA đối với quá trình phát triển nền kinh tế Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (279.31 KB, 32 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Đối với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam, nguồn vốn ODA có vai
trò hết sức quan trọng vì đây là nguồn vốn ưu đãi, dùng để bù đắp ngân sách nhà
nước và đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, phát triển đất nước. Bên
cạnh đó, với nguồn ODA đa dạng của các đối tác song phương và đa phương, Việt
Nam khai thác được các thế mạnh về công nghệ, kinh nghiệm quản lý tiên tiến và
điều không kém phần quan trọng chính là ODA là cây cầu giao lưu văn hóa và con
người giữa nước tài trợ và Việt Nam.
Việt Nam bắt đầu chính thức nhận được sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế cho mục
tiêu phát triển thông qua nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA) từ năm 1993. Tuy
là quốc gia không phụ thuộc về viện trợ nhưng cũng như các nước đang phát triển
khác, ODA là nguồn ngoại lực bổ sung quan trọng đóng góp vào quá trình phát triển
kinh tế xã hội tại Việt Nam. Cùng với sự đóng góp cho đầu tư, ODA chảy vào Việt
Nam với nhiều chương trình, dự án liên quan đến cải cách thể chế và chính sách, tạo
điều kiện cải cách bộ máy hành chính, cải thiện môi trường kinh doanh, Không
những thế, các chương trình liên quan đến giáo dục, sức khỏe và bệnh tật, bình đẳng
giới, bảo vệ tài nguyên và môi trường… cũng là những nội dung mà ODA đóng góp
nhằm thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ tại Việt Nam.
Tuy nhiên, trên thực tế nghiên cứu quá trình quản lý và sử dụng ODA của Việt
Nam, chúng ta phải thừa nhận: ODA ở Việt Nam chưa thực sự phát huy hết tiềm lực
vốn có. Nguyên nhân một mặt là do quá trình quản lý và sử dụng ODA của Việt
Nam chưa thật tốt, mặt khác chưa có sự phối hợp đồng bộ giữa Chính phủ Việt
Nam và các nhà tài trợ. Trên cơ sở nghiên cứu vai trò của vốn ODA, nhóm chúng
tôi đưa ra đề tài: “ODA đối với quá trình phát triển nền kinh tế Việt Nam” nhằm
làm sáng tỏ tác động của vốn ODA, đồng thời đề xuất một số giải pháp hài hoà thủ
tục giữa Chính phủ Việt Nam và cộng đồng các nhà tài trợ nhằm nâng cao hiệu quả
thu hút và sử dụng ODA ở Việt Nam trong thời gian tới tương xứng với tiềm lực
vốn có của nó.
1
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGUỒN VỐN HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN
CHÍNH THỨC (ODA)


I. Khái niệm và phân loại ODA:
1. Lịch sử hình thành ODA:
Viện trợ nước ngoài khởi đầu bằng hoạt động tái thiết châu Âu sau thế chiến thứ hai với kế
hoạch Marshal của Mỹ và các khoản vay của Ngân hàng Thế giới vào năm 1947. Năm 1969,
Ủy ban Hỗ trợ Phát triển (DAC) đã đưa ra mục tiêu huy động viện trợ (còn gọi là nguồn hỗ trợ
phát triển chính thức (ODA)) là 0.7% GNI. Đến năm 2005, tỷ lệ ODA/GNI là 0,33% có mức
ngang bằng với tỷ lệ này vào năm 1990.
2. Khái niệm:
Hỗ trợ phát triển chính thức (hay ODA, viết tắt của cụm từ Official Development
Assistance), là một hình thức đầu tư nước ngoài. Gọi là Hỗ trợ bởi vì các khoản đầu tư
này thường là các khoản cho vay không lãi suất hoặc lãi suất thấp với thời gian vay
dài. Đôi khi còn gọi là viện trợ. Gọi là Phát triển vì mục tiêu danh nghĩa của các khoản
đầu tư này là phát triển kinh tế và nâng cao phúc lợi ở nước được đầu tư. Gọi là Chính
thức, vì nó thường là cho Nhà nước vay.
3. Đặc điểm:
Nguồn vốn: Toàn bộ hoặc một phần nguồn vốn thực hiện dự án ODA là do các tổ
chức/chính phủ nước ngoài, các tổ chức song phương tài trợ. Cơ chế tài chính trong
nước đối với việc sử dụng ODA là cấp phát, cho vay (toàn bộ/một phần) từ ngân sách
Nhà nước. Các dự án ODA thường có vốn đối ứng là khoản đóng góp của phía Việt
Nam bằng hiện vật và giá trị để chuẩn bị và thực hiện các chương trình, dự án (có thể
dưới dạng tiền được cấp từ ngân sách hoặc nhân lực, cơ sở vật chất). Nguồn vốn là
điểm khác biệt lớn nhất giữa dự án ODA với với các dự án khác; kèm theo nó là các
yêu cầu, quy định, cơ sở pháp lý về quản lý và thực hiện của nhà đầu tư và nhà tài trợ.
2
Tính tạm thời của dự án vốn ODA: Tính tạm thời có nghĩa là các dự án ODA có
khởi điểm và kết thúc xác định. Dự án không phải là loại công việc hàng ngày, thường
tiếp diễn, lặp đi lặp lại theo quy trình có sẵn. Dự án có thể thực hiện trong một thời
gian ngắn hoặc có thể kéo dài trong nhiều năm. Về mặt nhân sự, dự án không có nhân
công cố định, họ chỉ gắn bó với dự án trong một khoảng thời gian nhất định (một phần
hoặc toàn bộ thời gian thực hiện dự án). Khi dự án kết thúc, các cán bộ dự án có thể

phải chuyển sang/tìm kiếm một công việc/hợp đồng mới.
Tính duy nhất: mặc dù có thể có những mục đích tương tự, nhưng mỗi dự án ODA
phải đối mặt với những vấn đề về nguồn lực, môi trường và khó khăn khác nhau. Hơn
thế nữa, ở mức độ nhất định, mỗi dự án đem lại các sản phẩm, dịch vụ “duy nhất”,
không giống hoàn toàn với bất kỳ dự án nào khác.
Sự phát triển của dự án luôn luôn là sự chi tiết hoá: Đặc tính này đi kèm với tính
tạm thời và duy nhất của một dự án ODA. Trong suốt quá trình thực hiện dự án, ở mỗi
bước thực hiện cần có sự phát triển và liên tục được cụ thể hoá với mức độ cao hơn, kỹ
lưỡng, công phu hơn. Ví dụ như:
Mục đích ban đầu đặt ra của dự án “Đảm bảo an ninh lương thực và nước sạch cho
những người nông dân nghèo ở tỉnh X” có thể được cụ thể hoá là “Ưu tiên tập trung
nâng cao năng suất, sản lượng lương thực và tiếp thị, tiếp đến cung cấp nguồn nước
sạch cho người dân” khi nhóm thực hiện dự án phát triển các hiểu biết của mình về
mục đích, phạm vi, sản phẩm của dự án.
Tính giới hạn: Mỗi dự án ODA được thực hiện trong một khoảng thời gian, nguồn lực
và kinh phí nhất định. Các nhà quản lý cần phải liên tục cân bằng về nhu cầu, tài chính,
nguồn lực và lịch trình để hoàn thành dự án, đảm bảo yêu cầu của nhà đầu tư và nhà tài
trợ.
a. Ưu Điểm:
- Lãi suất thấp (dưới 20%, trung bình từ 0.25%/năm)
- Thời gian cho vay cũng như thời gian ân hạn dài (25-40 năm mới phải hoàn trả và
thời gian ân hạn 8-10 năm)
3
- Trong nguồn vốn ODA luôn có một phần viện trợ không hoàn lại, thấp nhất là
25% của tổng số vốn ODA.
b. Hạn chế:
• Về kinh tế, nước tiếp nhận ODA phải chấp nhận dỡ bỏ dần hàng rào thuế quan
bảo hộ các ngành công nghiệp non trẻ và bảng thuế xuất nhập khẩu hàng hoá
của nước tài trợ. Nước tiếp nhận ODA cũng được yêu cầu từng bước mở cửa thị
trường bảo hộ cho những danh mục hàng hóa mới của nước tài trợ; yêu cầu có

những ưu đãi đối với các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài như cho phép họ đầu
tư vào những lĩnh vực hạn chế, có khả năng sinh lời cao
• Nguồn vốn ODA từ các nước giàu cung cấp cho các nước nghèo cũng thường
gắn với việc mua các sản phẩm từ các nước này mà không hoàn toàn phù hợp,
thậm chí là không cần thiết đối với các nước nghèo. Ví như các dự án ODA
trong lĩnh vực đào tạo, lập dự án và tư vấn kỹ thuật, phần trả cho các chuyên gia
nước ngoài thường chiếm đến hơn 90% (khoản tiền thù lao cho chuyên gia nước
ngoài trong các dự án ODA thường cao ngất ngưởng so với chi phí thuê chuyên
gia trên thị trường lao động quốc tế, chưa kể các chi phí khác như nhà cửa, xe
cộ. Trong khi đó các dự án ODA, nhất là loại dự án tư vấn, hợp tác kỹ thuật,
việc thuê chuyên gia từ nước cấp vốn ODA là yêu cầu bắt buộc và chi phí thuê
chuyên gia chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng số vốn vay ODA. Chúng ta lại có
quy định cho các chuyên gia nước ngoài thực hiện dự án ODA tại Việt Nam
được miễn thuế thu nhập cá nhân đối với các khoản thu nhập, được chuyển đổi
ra ngoại tệ và mang ra khỏi Việt Nam các khoản thu nhập từ tiền lương thực
hiện dự án ODA hoặc các khoản thu hợp pháp khác. Đây chính là chỗ dựa cho
các công ty khai khống lương chuyên gia, nâng giá hợp đồng và thiệt hại cuối
cùng là do nơi tiếp nhận vốn ODA gánh chịu.).
• Nguồn vốn viện trợ ODA còn được gắn với các điều khoản mậu dịch đặc biệt
nhập khẩu tối đa các sản phẩm của họ. Cụ thể là nước cấp ODA buộc nước tiếp
nhận ODA phải chấp nhận một khoản ODA là hàng hoá, dịch vụ do họ sản xuất.
4
• Nước tiếp nhận ODA tuy có toàn quyền quản lý sử dụng ODA nhưng thông
thường, các danh mục dự án ODA cũng phải có sự thỏa thuận, đồng ý của nước
viện trợ, dù không trực tiếp điều hành dự án nhưng họ có thể tham gia gián tiếp
dưới hình thức nhà thầu hoặc hỗ trợ chuyên gia.
• Tác động của yếu tố tỷ giá hối đoái có thể làm cho giá trị vốn ODA phải hoàn
lại tăng lên.
• Ngoài ra, tình trạng thất thoát, lãng phí; xây dựng chiến lược, quy hoạch thu hút
và sử dụng vốn ODA vào các lĩnh vực chưa hợp lý; trình độ quản lý thấp, thiếu

kinh nghiệm trong quá trình tiếp nhận cũng như xử lý, điều hành dự án… khiến
cho hiệu quả và chất lượng các công trình đầu tư bằng nguồn vốn này còn
thấp có thể đẩy nước tiếp nhận ODA vào tình trạng nợ nần.
4. Phân loại ODA:
a. Theo tính chất:
• ODA không hoàn lại: là khoản chuyển giao bằng tiền hoặc hiện vật sao cho bên nhận
viện trợ sẽ không chịu khoản nợ pháp lý nào, bao gồm các khoản xóa nợ, hỗ trợ dưới
hình thức các Quỹ tư vấn, hỗ trợ kỹ thuật; hỗ trợ các tổ chức phi chính phủ; và các chi
phí trong quá trình thực hiện chương trình.
• ODA vay ưu đãi: là khoản chuyển giao mà bên nhận viện trợ phải chịu khoản nợ
mang tính pháp lý với điều kiện ưu đãi về lãi suất và thời hạn vay. Các nhà tài trợ cung
cấp ODA vay ưu đãi thông qua các khoản vay: rút vốn nhanh bằng tiền, vay theo dự
án, chương trình ngành.
• ODA cho vay hỗn hợp: là các khoản chuyển giao bằng tiền hoặc hiện vật kết hợp một
phần ODA không hoàn lại và ODA vay ưu đãi theo các điều kiện của nhà tài trợ.
b. Theo mục đích:
- Hỗ trợ cán cân thanh toán: gồm các khoản ODA cung cấp để hỗ trợ ngân sách
của Chính phủ, thường được thực hiện thông qua các dạng: chuyển giao trực
tiếp cho nước nhận ODA hay hỗ trợ nhập khẩu (viện trợ hàng hóa).
5
- Tín dụng thương nghiệp: tương tự như viện trợ hàng hóa nhưng có kèm theo
điều kiện ràng buộc.
- Viện trợ chương trình (viện trợ phi dự án): nước viện trợ và nước nhận viện trợ
ký hiệp định cho một mục đích tổng quát mà không cần xác định tính chính xác
khoản viện trợ sẽ được sử dụng như thế nào.
- Viện trợ dự án: chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng vốn thực hiện ODA, điều
kiện được nhận viện trợ dự án là “phải có dự án cụ thể, chi tiết về các hạn mục
sẽ sử dụng ODA”.
c. Theo hình thức:
• Cứu trợ và viện trợ khẩn cấp: cung cấp nguồn lực cứu trợ khẩn cấp, giảm nhẹ tác

động và nâng cao mức sống cho người dân bị ảnh hưởng bởi thiên tai hay thảm họa
do con người gây ra. Hỗ trợ này chỉ tập trung vào viện trợ nhân đạo, không tập
trung vào hỗ trợ hợp tác phát triển.
• Hỗ trợ lương thực: cung cấp lương thực để tiêu dùng theo các Chương trình
Quốc gia và quốc tế với mục tiêu phát triển bao gồm viện trợ không hoàn lại và
viện trợ cho vay.
• Hỗ trợ hợp tác kỹ thuật độc lập: là hoạt động cung cấp nguồn lực với mục tiêu
chuyển giao công nghệ và năng lực quản lý, kỹ năng sản xuất và bí quyết công
nghệ theo các mục tiêu tăng cường năng lực tiến hành các hoạt động phát triển,
không liên quan đến việc thực hiện một dự án đầu tư cụ thể nào. Hỗ trợ này bao
gồm chi phí nhân sự, đào tạo và nghiên cứu, cũng như chi phí hành chính và trang
thiết bị.
• Hỗ trợ ngân sách/ chương trình hoặc hỗ trợ cán cân thanh toán: Hỗ trợ trong
trường hợp chương trình phát triển mở rộng và theo các mục tiêu kinh tế vĩ mô, với
mục đích cụ thể hỗ trợ cán cân thanh toán của nước tiếp nhận và cung cấp dự trữ
ngoại hối. Hỗ trợ này cũng bao gồm các khoản hỗ trợ nhằm cắt giảm nợ chính phủ.
6
• Hỗ trợ dự án: là hỗ trợ tài chính bằng tiền mặt hoặc hiện vật cho các dự án đầu tư
vốn cụ thể. Viện trợ này bao gồm những dự án tăng cường hoặc nâng cao nguồn
vốn vật chất của nước tiếp nhận; dự án cụ thể thông qua hợp phần hợp tác kỹ thuật
như dịch vụ tư vấn, bí quyết thực thi một dự án đầu tư, đóng góp nhân sự trực tiếp
thực hiện dự án.
d. Theo tính chất đối tác:
• ODA song phương: là các khoản viện trợ trực tiếp từ nước này đến nước khác
thông qua hiệp định được ký kết giữa hai chính phủ.
• ODA đa phương: là viện trợ phát triển chính thức của các định chế tài chính quốc
tế và các quỹ như Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng
Phát triển châu Á (ADB), … hay các tổ chức quốc tế và liên chính phủ như Ủy ban
châu Âu, Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực (FAO), Tổ chức Y tế thế giới
(WHO)

Ngoài ra, các tổ chức phi chính phủ (NGOs) cũng cung cấp ODA cho các nước nghèo
và đang phát triển. Hoạt động của NGOs chủ yếu mang tính nhân đạo và chủ yếu là
viện trợ không hoàn lại.
II. Vai trò của ODA đối với các quốc gia đang và chậm phát triển
Thứ nhất, nguồn vốn ODA mang lại nguồn lực cho đất nước thông qua những
tác động tích cực của nó đối với sự phát triển kinh tế-xã hội ở những nước chậm và
đang phát triển, đáp ứng những nhu cầu cấp bách về cân đối ngân sách và cán cân xuất
nhập khẩu của các nước nghèo
- Đối với những dự án phát triển hạ tầng cơ sở, ODA giúp nước nhận viện trợ
có điều kiện tốt hơn để xây dựng những công trình đòi hỏi vốn lớn, mức sinh lời thấp
như đướng xá, cầu, cảng, sân bay…nhưng lại là những dự án mang lại lợi ích kinh tế-
xã hội lớn, tạo nền móng cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng cho đầu tư lâu dài, tạo ra sức
hấp dẫn cho các nhà đầu tư quốc tế
7
- Nguồn vốn ODA trực tiếp giúp cải thiện điều kiện vệ sinh, y tế, cung cấp nước
sạch, bảo vệ môi trường, đồng thời góp phần tích cực trong việc phát triển nông
nghiệp, xóa đói giảm nghèo
Thứ hai, ODA là nguồn vốn quan trọng giúp các nước lâm vào tình trạng khủng
khoảng có thể phục hồi giá trị đồng nội tệ thông qua khoản hỗ trợ lớn của các tổ chức
tài chính quốc tế, như viện trợ khẩn cấp của IMF cho Mêxico 40tỷ USD đã cứu nước
này thoát khỏi khủng khoảng nghiêm trọng vào năm 1994. Năm 1998 các tổ chức tài
chính quốc tế cũng đã hỗ trợ giúp Thái Lan, Hàn Quốc vượt qua khủng khoảng tài
chính nặng nề.
Thứ ba, ODA giúp các nước nhận viện trợ nhập khẩu thiết bị từ các nước phát
triển, thông qua kỹ thuật viện trợ ODA, nước nhận viện trợ có cơ hội tiếp xúc, sử dụng
những thiết bị mới.
Thứ tư, ODA giúp các nước nghèo cải cách hành chính kinh tế thông qua các
chương trình viện trợ dự án, làm cho cơ chế quản lý kinh tế ở những nước này tiếp cận
với những chuẩn mực chung quốc tế.
Thứ năm, lượng vốn ODA nhận được từ các tổ chức tài chính quốc tế càng cao,

càng chứng tỏ độ tin cây của cộng đồng quốc tế đối với nước tiếp nhận viện trợ càng
lớn. Và thông qua bên cung cấp ODA, nước nhận viện trợ có thêm cơ hội tham gia vào
các tổ chức tài chính quốc tế, đạt được sự giúp đỡ lớn hơn về vốn từ các tổ chức này.
Nước viện trợ ODA đóng vai trò là chiếc cầu nối giữa nước cần vốn với các tổ chức
quốc tế.
Thứ sáu, ở các nước mới phát triển, tình trạng nợ tồn đọng do những khoản vay
từ trước đã tới thời hạn hoàn trả, nhưng chính phủ chưa có đủ khả năng chi trả sẽ được
ODA giúp đỡ, tạo điều kiện để các nước này có thể vay thêm vốn của các tổ chức quốc
tế, thực hiện việc thanh toán nợ đến hạn.
III. Những nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA:
8
1. Các nhân tố tác động đến nguồn vốn ODA từ phía các nhà tài trợ:
- Mục tiêu chiến lược cung cấp ODA của nhà tài trợ. Trong từng thời kỳ, căn cứ
vào mục tiêu chiến lược mà nhà tài trợ xác định tập trung vào khu vực nào, quốc gia
nào, theo phương thức nào. Nếu mục tiêu chiến lược cung cấp ODA của nước tài trợ
thay đổi thì nó sẽ ảnh hưởng đến quốc gia tiếp nhận về cả cơ cấu nguồn vốn ODA và
cơ chế chính sách quản lý.
- Tình hình kinh tế, chính trị cũng như các biến động bất thường có thể xảy ra
ở phía nhà tài trợ. Khi có những sự biến động bất thường thì chính sách và các quy
định về quản lý ODA cũng có thể thay đổi, dựa vào những đánh giá về các khoản ODA
đã được thực hiện trong thời gian qua của từng nhà tài trợ.
- Bầu không khí quốc tế và sự phát triển các mối quan hệ kinh tế, chính trị
giữa hai phía tài trợ và nhận tài trợ. Nếu bầu không khí và mối quan hệ này mà mang
tính tích cực thì sẽ tạo thuận lợi cho việc giữ vững và mở rộng quy mô nguồn vốn
ODA và cả đối với việc hài hòa thủ tục giữa hai bên và ngược lại.
2. Các nhân tố tác động đến nguồn vốn ODA từ phía nhận tài trợ.
- Sự ổn định của thể chế chính trị. Thực tế đã chỉ ra rằng, nếu thể chế chính trị ổn
định sẽ tạo điều kiện cho việc thu hút và quản lý tốt nguồn vốn ODA.
- Mức độ ổn định kinh tế vĩ mô trong từng giai đoạn phát triển kinh tế, đặc biệt
là chính sách tài chính, thuế, mức độ mở cửa của nền kinh tế cũng có ảnh hưởng rất

lớn đến công tác quản lý. Nếu các chính sách này ổn định trong thời gian dài và hợp lý
sẽ góp phần cho quản lý nguồn vốn ODA tốt và ngược lại, sẽ gây ảnh hưởng đến việc
quản lý nguồn vốn này.
- Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến tổ chức quản lý, sử
dụng nguồn vốn ODA. Nếu các văn bản này ổn định và phù hợp sẽ góp phần cho công
tác quản lý tốt nguồn vốn ODA và ngược lại, sẽ làm ảnh hưởng rất nhiều đến công tác
quản lý nguồn vốn này theo chiều hướng không tốt.
- Trình độ phát triển kinh tế (đặc biệt là trình độ phát triển hệ thống thể chế kinh
tế), các điều kiện có liên quan đến năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ hay tốc độ tăng
9
trưởng kinh tế qua từng thời kỳ. Nhận thức của cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý và cả
người dân về nguồn vốn ODA mà trước hết là các ngành, các cấp, các địa phương, các
cơ sở thụ hưởng trực tiếp cũng đóng vai trò là các nhân tố có ảnh hưởng rất nhiều
đến công tác quản lý nguồn vốn ODA này của bên nhận tài trợ.
Ngoài ra còn có các nhân tố đặc thù liên quan đến lĩnh vực xây dựng kết cấu hạ
tầng. Các nhân tố đặc thù này thể hiện ở điều kiện và trình độ phát triển kinh tế - xã
hội.
10
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG SỬ DỤNG NGUỒN VỐN ODA Ở VIỆT NAM
THỜI GIAN QUA
I. Tổng quan tình hình thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA ở Việt Nam
1. Khái quát số liệu qua các năm
1.1. Tình hình cam kết ODA cho Việt Nam
Năm 1993 được lấy làm mốc kể từ khi Việt Nam bắt đầu tiếp nhận nguồn viện trợ phát
triển chính thức (ODA) từ các nhà tài trợ song phương, đa phương cũng như các tổ
chức phi chính phủ. Đa phần vốn vay ODA ưu đãi đều dùng cho công cuộc xoá đói
giảm nghèo, phát triển nông nghiệp nông thôn, giao thông vận tải và thông tin liên lạc.
Hiện nay, ngân hàng thế giới là cơ quan viện trợ đa phương lớn nhất, Nhật Bản là quốc
gia viện trợ song phương lớn nhất cho Việt Nam. Xét về viện trợ không hoàn lại thì
Pháp là lớn nhất và Đan Mạch là thứ nhì. Ngoài ra theo số liệu đến năm 2008 , hiện có

trên 50 Nhà tài trợ song phương và đa phương đã cung cấp nguồn Hỗ trợ phát triển
chính thức (ODA) cho Việt Nam với mức cam kết năm sau cao hơn năm trước tổng
cộng trên 42 tỷ USD.
Các ngành nghề được hưởng ODA nhiều nhất ở VN là các ngành thuộc hạ tầng
Số liệu về tình hình cam kết ODA và thực hiện ODA của nước ta
từ năm 2000 - 2009
Đơn vị: tỷ usd
Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
Cam kết 2.4 2.4 2. 5 2.83 3.44 3. 44 3.75 4.5 5.426 5.914
Thực hiện 1.65 1.5 1.53 1.42 1.65 1.853 1.8 2 2.2 3
%Thực
hiện
68.8 62.5 61.1 50.2 48 53.9 48 44.44 40.55 50.73
Qua bảng trên ta nhận thấy tốc độ tăng trưởng khả năng thu hút vốn ODA của nước ta
tăng với tốc độ khá nhanh và ổn định trong suốt giai đoạn từ 2000- 2009
11
Tại Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam 2009, con số cam kết từ các
nhà tài trợ là hơn 8,063 tỷ USD trong năm 2010, tăng 30% so với mức viện trợ của
năm 2009. Đây là con số cam kết tài trợ cao kỷ lục đối với Việt Nam và là minh chứng
cho thấy Việt Nam luôn được các nhà tài trợ đánh giá cao về hiệu quả sử dụng nguồn
vốn ODA. WB, ADB và Nhật Bản tiếp tục là những nhà tài trợ lớn nhất của Việt Nam
với giá trị chiếm khoảng từ 70 -80 % tổng giá trị ODA ký kết.
Tại Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam năm 2010, cộng đồng các nhà
tài trợ đã cam kết tài trợ cho Việt Nam 7,9 tỷ USD.
1.2. Đàm phán và ký kết các Hiệp định vay nợ, viện trợ
Trên cơ sở số vốn ODA cam kết của các nhà tài trợ đa phương và song phương,
Chính phủ Việt Nam đã ký kết với các nhà tài trợ các Điều ước quốc tế về ODA (như
hiệp định, nghị định thư, dự án, chương trình). Cụ thể, tính đến cuối năm 2009, tổng số
vốn ODA đã đàm phán và ký kết các Hiệp định vay ODA và vay ưu đãi ước tính trị
giá 37,5 tỷ USD; giải ngân được 19,5 tỷ USD, chiếm 52% so với tổng số vốn ODA đã

ký vay. Phần lớn các hiệp định vay đều có lãi suất rất ưu đãi, thời hạn vay và ân hạn
dài. 48,8% số hiệp định vay đã ký có lãi suất dưới 1%/năm, thời hạn vay trên 30 năm,
trong đó có 10 năm ân hạn; 33,9% hiệp định vay đã ký có lãi suất từ 1 – 2,5%/năm;
khoảng 17,3% hiệp định vay đã ký có điều kiện vay kém ưu đãi hơn.
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tổng giá trị vốn ODA được ký kết thông qua các Hiệp
định với cá nhà tài trợ năm 2009 ước đạt 6.144,4 triệu USD, trong đó, vốn vay là
5.929,4 triệu USD, viện trợ không hoàn lại là 215,0 triệu USD. Tổng số vốn ODA giải
ngân năm 2009 ước đạt trên 3.600 triệu USD, bao gồm vốn vay khoảng 3.255 triệu
USD; vốn viện trợ không hoàn lại khoảng 345 triệu USD.Điểm đáng chú ý trong con
số ODA năm nay là những nhà tài trợ lớn đều dành cho Việt Nam số vốn ký kết cao
hơn so với cam kết trước đó. Thay đổi lớn nhất trong số này là số vốn ODA ký kết của
Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB). Thay cho cam kết gần 1,57 tỷ USD vốn ODA
trong năm 2009, ADB đã phê duyệt tổng cộng 2,15 tỷ USD vốn ODA cho Việt Nam.
Nhật Bản cũng đã ký kết tổng cộng trên 2,11 tỷ USD vốn viện trợ phát triển chính thức
12
cho Việt Nam, thay vì cam kết 0,9 tỷ USD mà Chính phủ nước này công bố sau khi nối
lại ODA vào tháng 2/2009.
Tại Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam 2009, năm 2010 những Hiệp
định dự kiến ký kết có giá trị lớn bao gồm: Dự án xây dựng nhà ga hành khách quốc tế
T2 (Nhật Bản), Dự án xây dựng đường cao tốc Đà Nẵng- Quảng Ngãi, Dự án xây dựng
cơ sở hạ tầng Khu công nghệ cao Láng - Hòa Lạc, Dự án xây dựng cầu Vàm Cống, dự
án xây dựng đường nối từ cầu Nhật Tân đi sân bay Nội Bài, Dự án giảm nghèo các tỉnh
miền núi phía Bắc,… Tổng giá trị vốn ODA được ký kết thông qua các Hiệp định ước
đạt 3,172 tỷ USD, trong đó vốn vay đạt 3,034 tỷ USD, viện trợ không hoàn lại đạt 138
triệu USD. Như vậy, mức ký kết ODA năm 2010 thấp hơn dự kiến (4,093 tỷ USD) chủ
yếu do chậm trễ trong việc chuẩn bị các thủ tục thẩm định và phê duyệt dự án, Bộ Kế
hoạch và Đầu tư cho hay.
1.3. Tình hình giải ngân
Trong thời kỳ 1993-2007, tổng giá trị ODA cam kết đạt 42,438 tỷ USD, tổng vốn ODA
ký kết đạt 32,109 tỷ USD, tương đương 75,66% tổng lượng ODA cam kết cùng kỳ;

tổng vốn ODA giải ngân đạt 19,865 tỷ USD, tương đương 61,86% tổng lượng ODA ký
kết cùng kỳ.Mức giải ngân ODA khác nhau giữa các nhà tài trợ và giữa các loại hình
dự án. Các dự án hỗ trợ kỹ thuật thường có mức giải ngân cao (chủ yếu là chi cho
chuyên gia, mua sắm thiết bị, máy móc và đào tạo). Các dự án đầu tư xây dựng thường
giải ngân chậm (chi phí nhiều thời gian cho công tác chuẩn bị như đền bù, di dân và tái
định cư).
Kết quả giải ngân năm 2009 đã vượt dự kiến mức 1,9 tỷ USD (bao gồm 1,6 tỷ vốn
ODA và 300 triệu USD viện trợ không hoàn lại) theo kế hoạch đặt ra trước đó. Giải
ngân vốn ODA năm 2009 đạt khoảng 3 tỷ USD, trong đó vốn vay đạt 2,7 tỷ USD, viện
trợ không hoàn lại đạt 300 triệu USD.
Năm 2009, mức giải ngân ODA đã được cải thiện, cụ thể là: Chương trình vay giảm
nghèo từ Ngân hàng Thế giới (WB) và tài trợ không hoàn lại của một số nhà tài trợ
13
khác, trị giá 350 triệu USD; Khoản vay khắc phục hậu quả khủng hoảng kinh tế từ
ADB, trị giá 500 triệu USD; Khoản vay kích thích kinh tế và tín dụng hỗ trợ giảm
nghèo lần thứ 8 trị giá 54,9 tỷ Yên (tương đương 609 triệu USD) do Nhật Bản tài trợ…
Tình hình kinh tế thế giới đã có những dấu hiệu khả quan cho thấy thế giới sẽ vượt qua
khủng hoảng trong thời gian tới, đặc biệt đối với các nền kinh tế lớn như Mỹ, Nhật
Bản, Trung Quốc, các nước châu Âu thành viên của Tổ chức Hợp tác và Phát triển
Kinh tế (OECD) và một số quốc gia Châu Á khác.
Năm 2010, Việt Nam tiếp tục nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ của cộng đồng các nhà
tài trợ quốc tế. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tổng giá trị giải ngân vốn ODA năm 2010 ước
đạt 3,5 tỷ USD, đạt xấp xỉ 144,2% so với kế hoạch cả năm.Trong đó, vốn vay khoảng 3,2 tỷ
USD, vốn viện trợ không hoàn lại khoảng 300 triệu USD. So với mức giải ngân ODA năm
2009, giải ngân theo các chương trình, dự án năm 2010 dự kiến tăng 30%, đạt 2,942 tỷ
USD.
2. Cơ cấu phân bổ ODA
2.1. Cơ cấu phân bổ nguồn vốn ODA theo ngành
14
2.2. Cơ cấu ODA theo vùng:

a) Vùng trung du miền núi Bắc Bộ: ưu tiên thu hút và sử dụng ODA để thực hiện các
chương trình và dự án trong các lĩnh vực như phát triển lâm nghiệp bền vững; tiếp cận
các dịch vụ cơ sở hạ tầng bao gồm điện, thủy lợi, nước sạch và giao thông nông thôn;
phát triển dân tộc thiểu số; xây dựng các trường dân tộc nội trú và tăng cường trang
thiết bị cho các trường đại học; tăng cường trang thiết bị cho bệnh viện tuyến tỉnh và
hình thành các trung tâm y tế; phát triển cơ sở hạ tầng nhằm đẩy mạnh quan hệ kinh tế
với Trung Quốc; tăng cường năng lực quản lý hành chính các cấp;
b) Vùng đồng bằng sông Hồng và khu vực kinh tế trọng điểm phía Bắc: ưu tiên thu
hút và sử dụng ODA để hỗ trợ thực hiện các mục tiêu phát triển trong các lĩnh vực như
hiện đại hóa kết cấu hạ tầng; cải tạo các dịch vụ cơ sở hạ tầng khác; hỗ trợ xây dựng và
trang bị một số trường đại học; phát triển hệ thống các trường đào tạo nghề; hỗ trợ đa
dạng hóa thu nhập cho các hộ nông dân; tăng cường trang thiết bị cho hệ thống bệnh
viện tuyến tỉnh, thành phố; phòng, chống ô nhiễm môi trường; tăng cường năng lực
quản lý hành chính các cấp;
c) Vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung: ưu tiên thu hút và sử dụng ODA để
thực hiện các chương trình, dự án trong các lĩnh vực như quản lý bền vững tài nguyên
thiên nhiên và tài nguyên rừng; các hệ thống thủy lợi; giảm thiểu thảm hoạ thiên tai;
giao thông nông thôn; hỗ trợ ngư dân ven biển và đồng bào thiểu số; phát triển cơ sở
hạ tầng để thúc đẩy thương mại với các vùng khác trong nước và quốc tế; phát triển hệ
thống các trường dạy nghề; phát triển hệ thống y tế; tăng cường năng lực quản lý hành
chính các cấp;
d) Vùng Tây Nguyên: ưu tiên thu hút và sử dụng ODA cho các lĩnh vực như trồng
rừng và bảo vệ các vườn quốc gia; xây dựng các công trình thủy lợi; phòng chống
thiên tai, dịch bệnh; nâng cấp các quốc lộ nối các tỉnh duyên hải miền Trung, nâng cấp
các tuyến đường sang Campuchia và Lào; cải thiện khả năng tiếp cận các cơ sở hạ tầng
nông thôn; tăng cường các cơ hội tạo thu nhập cho người dân nông thôn; tăng cường
năng lực quản lý hành chính các cấp;
15
đ) Vùng Đông Nam Bộ, bao gồm khu kinh tế trọng điểm phía Nam: ưu tiên thu hút và
sử dụng ODA để thực hiện các chương trình, dự án trong các lĩnh vực thích hợp như

hỗ trợ về khoa học, công nghệ để phát triển nông nghiệp; đẩy mạnh trồng rừng phòng
hộ ven biển; xây dựng hệ thống giao thông bao gồm các đường vành đai quanh thành
phố Hồ Chí Minh, hiện đại hoá hệ thống đường sắt và đường thủy, xây dựng cảng hàng
không quốc tế mới và hệ thống giao thông công cộng ở thành phố Hồ Chí Minh; hoàn
thiện và xây dựng hệ thống cấp và thoát nước nhằm cải thiện môi trường đô thị; tăng
cường trang thiết bị y tế cho các bệnh viện tỉnh; xây dựng các trường đào tạo nghề;
tăng cường năng lực quản lý đô thị;
e) Vùng đồng bằng sông Cửu Long: ưu tiên thu hút và sử dụng ODA cho các lĩnh vực
như: quản lý bền vững tài nguyên thiên nhiên; các hệ thống thủy lợi; giao thông nông
thôn; phát triển giao thông đường thủy; khôi phục tuyến đường sắt thành phố Hồ Chí
Minh đi Mỹ Tho; phát triển cơ sở hạ tầng thành phố Cần Thơ; phát triển cơ sở hạ tầng
môi trường; đầu tư vào phát triển nông thôn tổng hợp; cải thiện các dịch vụ y tế, giáo
dục; phát triển các trường dạy nghề; xây dựng trường Đại học Cần Thơ thành trường
trọng điểm quốc gia; tăng cường năng lực quản lý hành chính các cấp.
Bảng 4 : Cơ cấu phân bổ vốn ODA theo vùng miền
Ngành, lĩnh vực
Hiệp định ODA ký kết
1993 - 2007
Tổng Tỷ lệ %
1. Vùng Đồng bằng Sông Hồng
3.500,83
13,69
2. Vùng Trung du miền núi Bắc Bộ 2.063,78 8,07
3. Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Miền Trung 3.278,19 12,82
4. Vùng Tây Nguyên 1.132,39 4,43
5. Vùng Đông Nam Bộ 3.995,60 15,62
6. Vùng Đồng bằng sông Cửu Long 2.394,67 9,36
7. Liên vùng 9.211,33 36,01
Tổng số 25.576,79 100%
16

II. Kết quả đạt được
1. Vốn ODA làm thay đổi đáng kể bộ mặt của cơ sở hạ tầng kinh tế:
Cũng giống như các nước đang phát triển khác, Việt Nam thường được nhận
nhiều ODA nhằm mục tiêu cải thiện cơ sở hạ tầng, đặc biệt là trong lĩnh vực giao
thông vận tải, truyền thông và năng lượng.
Hơn 5,4 tỷ USD vốn ODA với 101 dự án do Trung ương quản lý đã và đang
được thực hiện để phát triển ngành giao thông vận tải, chủ yếu tập trung cho đường bộ,
đường biển và giao thông nông thôn.
Vốn ODA đã được sử dụng để khôi phục, nâng cấp và xây dựng mới 3.676km
đường Quốc lộ; khôi phục và cải tạo hơn 1.000km đường tỉnh lộ; Quốc lộ 5, Quốc lộ
1A (đoạn Hà Nội – Vinh; đoạn TP.HCM – Cần Thơ; đoạn TP.HCM – Nha Trang); làm
mới và khôi phục 188 cây cầu, chủ yếu trên các Quốc lộ 1, Quốc lộ 10, Quốc lộ 18 với
tổng chiều dài 33,8 km; cải tạo và nâng cấp 10.000 km đường nông thôn và khoảng 31
km cầu nông thôn quy mô nhỏ; Xây dựng cầu Mỹ Thuận, cầu Cần Thơ; xây dựng mới
111 cầu nông thôn với tổng chiều dài 7,36 km (khẩu độ bình quân khoảng 25 – 100m);
Vốn ODA đã đầu tư nâng cấp giai đoạn 1 cho cảng Hải Phòng để có thể bốc xếp
được 250.000 TEV/năm; nâng cấp Cảng Sài Gòn có công suất bốc xếp từ 6,8 triệu
tấn/năm lên 8,5 triệu tấn/năm; xây dựng mới cảng nước sâu Cái Lân; cải tạo cảng Tiên
Sa, Đà Nẵng;
Nguồn vốn ODA đầu tư cho việc phát triển ngành điện hiện chiếm 19% tổng vốn
đầu tư với 7 nhà máy điện lớn (Phú Mỹ 1, Phú Mỹ 2, Hàm Thuận – Đa Mi, Sông Hinh,
Đa Nhim, Phả Lại 2, Trà Nóc) có công suất thiết kế chiếm 40% tổng công suất các nhà
máy điện ở Việt Nam. Tổng công suất phát điện tăng thêm do đầu tư bằng nguồn vốn
ODA là 3.403 MW, bằng tổng công suất từ trước cho đến năm 1995. Trong ngành
năng lượng điện, nguồn vốn ODA còn đầu tư và phát triển hệ thống đường dây 500KV
Plâyku-Phú Lâm, đường dây 220Kv Tao Đàn – Nhà Bè, gần 50 trạm biến áp của cả
nước, cải tạo và nâng cấp mạng lước điện thành thị và nông thôn ở trên 30 tỉnh và
thành phố.
17
Ngoài ra, các nhà tài trợ ODA cũng rất chú trọng đến việc phát triển cơ sở hạ

tầng, mà cụ thể là nguồn ODA đã được tài trợ để nâng cấp tuyến đường sắt Bắc –
Nam, nâng cấp đô thị tại hai thành phố lớn là Hà Nội và TP.HCM, bảo vệ mội trường
(quản lý, xử lý rác và nước thải), phát triển nông thôn, cải thiện các dịch vụ y tế công,
nâng cấp và hiện đại hóa ngành tài chính.
2. Nguồn vốn ODA góp phần quan trọng vào sự phát triển cơ sở hạ tầng xã hội:
Tổng nguồn vốn ODA dành cho giáo dục và đào tạo ước khoảng 550 triệu USD
chiếm từ 8,5 – 10% kinh phí dành cho giáo dục và đào tạo của chính phủ, góp phần cải
thiện chất lượng và hiệu quả của công tác giáo dục và đào tạo, tăng cường một bước cơ
sở vật chất kỹ thuật cho việc nâng cao chất lượng dạy và học. Một số dự án tiêu biểu
như cải thiện chất lượng đào tạo tiểu học, trung học và đại học, các dự án đào tạo nghề,

Nguồn vốn ODA cũng đã đóng góp cho sự thành công của một số chương trình
xã hội có ý nghĩa như Chương trình dân số và phát triển, Chương trình tiêm chủng mở
rộng, chương trình dinh dưỡng trẻ em, Chương trình nước sạch nông thôn, Chương
trình chăm sóc sức khỏe ban đầu, Chương trình xóa đói giảm nghèo,… Nhờ vậy, thứ
hạng của nước ta trong bảng xếp hạng các quốc gia về Chỉ số Phát triển con người đều
có cải thiện hằng năm.
ODA không chỉ bổ sung nguồn lực cho các chương trình xã hội mà điều quan
trọng là đã góp phần thay đổi nhận thức và hành vi của con người trong các lĩnh vực xã
hội rộng rãi đòi hỏi có sự tham gia của đông đảo tầng lớp dân cư như Phòng chống đại
dịch HIV/AIDS, Phòng chống Ma túy, mại dâm,…
3. Nguồn vốn ODA đã có tác dụng tích cực trong tăng cường năng lực, phát triển
thể chế trên nhiều lĩnh vực, đào tạo nguồn nhân lực, xây dựng pháp luật, cải
cách hành chính,…
Nhiều cơ quan đã được tăng cường năng lực với một lượng lớn cán bộ được đào
tạo và tái đào tạo về khoa học, công nghệ và kinh tế. ODA cũng mang lại những kinh
nghiệm quốc tế có giá trị đối với sự nghiệp phát triển của nhiều lĩnh vực kinh tế, xã
hội, khoa học, pháp luật, công nghệ và bảo vệ môi trường, quản lý nhà nước,…
18
Với sự hỗ trợ kỹ thuật của ODA, một số bộ luật quan trọng đã được chuẩn bị

đúng hạn và được Chính phủ trình Quốc hội thông qua đáp ứng nhu cầu cải cách thể
chế trong tiến trình gia nhập WTO của Việt Nam như Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu,
Luật Phòng chống tham nhũng,…
Việc cải thiện và nâng cao chất lượng trang thiết bị cũng như trình độ khám chữa
bệnh thông qua các dự án viện trợ không hoàn lại tại hai bệnh viện lớn là Bệnh viện
Bạch Mai và Bệnh viện Chợ Rẫy và các dự án hợp tác kỹ thuật trong lĩnh vực y tế của
Nhật Bản cũng đã góp phần nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ y bác sĩ cũng như
trang thiết bị y tế, qua đó cải thiện đời sống nhân dân mà đặc biệt là dân nghèo thành
thị.
Thông qua chương trình tài trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ giai đoạn 1 do Nhật Bản
tài trợ, Ngân hàng Nhà nước đã hỗ trợ phát triển sản xuất cho hàng trăm doanh nghiệp,
tạo nhiều công ăn việc làm ổn định cho nhân dân. Ngoài số vốn 216 tỷ VND cho vay
lại, các Ngân hàng thực hiện tham gia đóng góp khoảng 130 tỷ VND và người vay cuối
cùng góp khoảng 256 tỷ VND, nâng tổng số vốn đầu tư cho nền kinh tế tăng lên
khoảng 602 tỷ VND.
4. Nguồn vốn ODA đã góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển nông nghiệp và
nông thôn, xóa đói giảm nghèo.
Theo số liệu điều tra mức sống dân cư trong thời gian qua cho thấy tỷ lệ dân
nghèo đã giảm từ 58% năm 1993 còn 28,9% vào năm 2002. Và năm 2010 cũng là năm
đánh dấu Việt Nam chính thức vượt qua ngưỡng nghèo khi mức thu nhập bình quân
vượt 1.000USD/năm.
Khoảng 200 dự án với tổng vốn ODA hơn 3 tỷ USD đầu tư cho phát triển Nông
nghiệp và Nông thôn chiếm xấp xỉ 15% vốn ODA cam kết. Các dự án ODA đã góp
phần cung cấp nguồn tín dụng cho nông dân, tạo ra các ngành nghề phụ, phát triển
công tác khuyến nông, khuyến ngư, khuyến lâm, phát triển giao thông nông thôn, cung
cấp nước sạch, phát triển điện lưới sinh hoạt, trạm y tế, trường học.
Điển hình là thông qua viện trợ không hoàn lại của chính phủ Nhật Bản, trên 30
cây cầu trên các trục giao thông huyện lộ và tỉnh lộ đã được cải tạo và xây mới. Thông
19
qua các dự án sử dụng vốn vay ưu đãi, đã xây mới và nâng cấp hơn 1.700 km tuyến

đường giao thông nông thôn, 13 nhà máy nước và 357 dự án điện. Các dự án này đều
có tầm quan trọng rất lớn trong công tác xóa đói giảm nghèo ở nông thôn nước ta.
III. Tồn tại và nguyên nhân
1. Tồn tại
- Tình hình thực hiện các dự án (DA) thường bị chậm ở nhiều khâu: chậm thủ tục,
chậm triển khai, giải ngân chậm, tỷ lệ giải ngân thấp. Do vậy, thời gian hoàn thành dự
án kéo dài làm phát sinh các khó khăn, đặc biệt là vốn đầu tư thực tế thường tăng hơn
so với dự kiến và cam kết; đồng thời cũng làm giảm tính hiệu quả của dự án khi đi vào
vận hành khai thác.
- Công tác theo dõi, đánh giá tình hình đầu tư ODA chưa đầy đủ, còn nhiều hạn chế.
Đặc biệt là công tác theo dõi, thống kê, kiểm tra và đánh giá hiệu quả của công trình
sau đầu tư còn bỏ ngõ, ngoại trừ các dự án vay lại và đang trong thời gian trả nợ. Kết
quả quản lý thường được đánh giá chỉ bằng công trình (mức độ hoàn thành, tiến độ
thực hiện) mà chưa xem xét đến hiệu quả sau đầu tư một khi công trình được đưa vào
vận hành khai thác. Quan điểm và cách làm này gây khó khăn cho việc đánh giá, định
hướng đầu tư từ nguồn ODA tạo nên sự lãng phí và né tránh trách nhiệm của những bộ
phận liên quan.
- Có sự chồng chéo trong thủ tục chuẩn bị và triển khai đầu tư. Theo Bộ Tài chính, chỉ
có 4% lượng vốn ODA áp dụng các quy định về đấu thầu và 3% sử dụng hệ thống
quản lý tài chính công của Việt Nam, còn lại là theo cách thức của nhà tài trợ. Vì vậy,
nhiều dự án cùng một lúc phải thực hiện 2 hệ thống thủ tục, một thủ tục để giải quyết
vấn đề nội bộ trong nước, một thủ tục với nhà tài trợ. Như ông Dương Đức Ưng -Cố
vấn cao cấp của Chương trình nâng cao năng lực toàn diện về quản lý ODA tại Việt
Nam – đã nêu: điều này làm kéo dài thời gian thực hiện dự án, gia tăng chi phí (chi phí
chuẩn bị dự án, tăng chi phí đầu tư do lạm pháp bởi thời gian kéo dài) tăng khả năng
rủi ro vì có thể bị lợi dụng cho các hoạt động phi pháp.
- Vấn đề quản lý nguồn vốn ODA tránh thất thoát và lãng phí cũng là điều phải đặc
biệt quan tâm, một số trường hợp như PMU18 và gần đây là dự án Đại lộ Đông Tây
v.v… khiến cho công luận và Quốc hội đặc biệt quan ngại về việc quản lý chặt chẽ
20

đồng vốn ODA và hiệu quả của nguồn tài trợ này, đòi hỏi Chính phủ cần phải có ngay
những giải pháp triệt để.
- Nhân sự và kỹ năng nhân sự trong công tác điều hành sử dụng vốn ODA ở những cấp
khác nhau hiện đang thiếu về số lượng và yếu về chất lượng dẫn đến làm cho hiệu quả
sử dụng vốn ODA giảm.
- Tham nhũng trong sử dụng ODA đã và đang trở thành vấn nạn mà Chính phủ cần
thiết phải có biện pháp mạnh để chấn chỉnh kịp thời khi chưa quá muộn. Không chỉ ở
Việt Nam mà ngay cả thế giới, tham nhũng trong các lĩnh vực sử dụng nguồn vốn
ODA đã từng được cảnh báo, nhưng có lẽ do mải say sưa với những lượng vốn ODA
được cam kết ngày càng gia tăng mà chúng ta đã sao nhãng để tình trạng PMU 18 -
một trong những đơn vị được ưu ái giao cho quản lý hàng trăm triệu USD từ nguồn
vốn ODA, vốn trái phiếu Chính phủ để đầu tư phát triển hạ tầng giao thông, trở thành
nơi sử dụng lãng phí nhất nguồn vốn ODA và là nơi chứa đựng những hành vi tham
nhũng lớn và trắng trợn chưa từng có ở Việt Nam từ trước đến nay với hàng loạt những
dự án lớn nhưng đầy tai tiếng như cầu Hoàng Long (Thanh Hoá) (thất thoát 4,5 tỷ đồng
trong tổng kinh phí đầu tư 224 tỷ đồng), phà Minh Châu (Ba Vì, Hà Tây) do PMU 18
tự ý đưa vào dự án giao thông nông thôn - WB 2 với kinh phí trị giá 64.000USD, thế
nhưng khi vừa đưa vào sử dụng đã hư, hay như Quốc lộ 2 đã xuống cấp nghiêm trọng
sau 3 tháng sử dụng
- Doanh nghiệp tư nhân còn kém minh bạch, thiếu công khai về quản lý tài chính trong
nhiều công ty tư nhân ở Việt Nam hiện nay. Rất nhiều công ty tư nhân chưa thực hiện
hoặc thực hiện chưa đầy đủ chế độ báo cáo tài chính theo quy định. Các báo cáo tài chính
gửi đến cơ quan đăng ký kinh doanh cũng rất sơ sài, hình thức, số liệu thường thiếu chính xác
và không đầy đủ.
2. Nguyên nhân
2.1. Về phía các nhà tài trợ
- Một trong những nguyên nhân khiến các dự án sử dụng nguồn vốn ODA có chất
lượng dự án thấp là do lựa chọn sai tư vấn hoặc chất lượng tư vấn kém ngay từ khâu
chuẩn bị dự án và các khâu sau đó. Ngoài lý do chọn sai tư vấn, thì việc nhà thầu
21

không đảm bảo chất lượng và công tác đánh giá nhu cầu dự án không chính xác cũng
ảnh hưởng đến chất lượng các dự án này.
- Đôi khi nhà tài trợ đặt ra những yêu cầu rất chi tiết và chuẩn mực trong khi Việt Nam
chưa có đủ kinh nghiệm tiếp nhận và kỹ thuật cần thiết để đáp ứng những nhu cầu đó.
- Thủ tục giải ngân do các nhà tài trợ đề ra khá phức tạp. Thực tế khảo sát, để rút vốn
thì bộ hồ sơ gồm ít nhất 7 loại tài liệu; để quyết toán phải nộp 8 loại tài liệu mới được
thẩm tra. Bất cập do chủ đầu tư chịu trách nhiệm trước pháp luật về dự án và dự án còn
chịu kiểm toán của phía Việt Nam và kiểm toán độc lập của nhà tài trợ.
- Một số dự án do các các nhà tài trợ thiết kế không sát với tình hình thực tiễn ở Việt
Nam nên phía Việt Nam lại mất thời gian để điều chỉnh cho phù hợp hơn.
2.2 Về mặt chủ quan
- Một số giới lãnh đạo của Chính phủ, của chính quyền địa phương và chủ đầu tư có
quan điểm nhìn nhận chưa đúng về nguồn vốn tài trợ ODA. Đúng là trong nguồn vốn
ODA có một phần là viện trợ không hoàn lại, song phần này chỉ chiếm khoảng 20-
30%, phần còn lại là vốn vay. Do thời hạn vay dài, thời hạn ân hạn dài, lãi suất thấp, áp
lực trả nợ chỉ phát sinh sau thời gian dài sau này nên dễ tạo nên sự chủ quan trong
quyết định, lựa chọn nguồn tài trợ ODA. Ngoài ra, cơ quan đàm phán trực tiếp với nhà
tài trợ thường là các bộ, ngành trong Chính phủ nên chủ đầu tư chưa thấy hết tác động
của những điều kiện khó khăn mà nhà tài trợ ràng buộc.
- Chưa có chiến lược vận động và sử dụng ODA một cách rõ ràng và phù hợp với
chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Thủ tướng Chính phủ cũng đã giao
trách nhiệm hoạch định chiến lược nợ dài hạn, soạn thảo danh mục các chương trình,
dự án được đầu tư từ nguồn vốn vay nước ngoài hàng năm của quốc gia. Song thiết
nghĩ như thế là chưa đủ. Cách thức huy động và đầu tư bằng vốn ODA có những điểm
đặc thù rất khác biệt. Do đó, Chính phủ cần phải hoạch định chiến lược vận động sử
dụng ODA một cách phù hợp, dù đây là vấn đề khó khăn phụ thuộc phần nhiều vào ý
định, khả năng của các nhà tài trợ. Đối với các địa phương, vấn đề hoạch định chiến
lược; quy hoạch thu hút và sử dụng ODA là hết sức nan giải do có rất ít sự chủ động
của địa phương trong vấn đề này, và năng lực đội ngũ quản lý ODA ở địa phương là
yếu kém chưa đáp ứng được yêu cầu.

22
- Khuôn khổ thể chế pháp lý chưa hoàn thiện và đồng bộ. Nhìn chung, Chính phủ chưa
xây dựng được cơ chế thống nhất giữa nợ trong nước và nợ nước ngoài của quốc gia.
Các quy định pháp lý quản lý nợ nói chung, nguồn ODA nói riêng chủ yếu điều chỉnh
và kiểm soát các quan hệ trước và trong quá trình đầu tư. Còn giai đoạn sau đầu tư, các
chế định pháp lý hầu như còn rất sơ lược, có thể nói là còn bỏ ngỏ.
- Cơ chế vận động và sử dụng nguồn ODA quá phức tạp liên quan đến nhiều cấp bộ
ngành, địa phương. Hơn nữa, điều này còn phụ thuộc vào cách thức của từng nhà tài
trợ. Do vậy, một dự án đầu tư bằng nguồn vốn ODA không thành công (không tìm
kiếm và vận động được nhà tài trợ, thủ tục chậm, vốn bị thất thoát, công trình vận hành
và khai thác không hiệu quả) thường liên quan đến trách nhiệm nhiều cấp, nhiều bộ
phận khác nhau. Do vậy, chúng ta gặp khó khăn khi muốn xác định nguyên nhân đích
thực để có biện pháp tháo gỡ kịp thời.
- Vấn đề quan trọng nữa chứa đựng bất cập là phân cấp quản lý vốn ODA giữa trung
ương và địa phương. Nguồn ODA là của Chính phủ nước ngoài và các tổ chức quốc tế
dành cho Việt Nam qua Chính phủ nên Chính phủ phải thống nhất quản lý. Song, rõ
ràng Chính phủ không thể trực tiếp quản lý toàn bộ các dự án ODA, nên nhất thiết phải
có sự phân cấp cho chính quyền địa phương. Song hiện nay, chúng ta chưa có hệ thống
tiêu chí phân cấp rõ ràng, chỉ mới dựa vào qui mô của dự án để quyết định phân cấp:
Chính phủ trực tiếp quản lý các dự án lớn, còn chính quyền địa phương được phân cấp
quản lý một số dự án quy mô nhỏ. Sự không rõ ràng trong phân cấp quản lý vốn ODA
là một trong những nguyên nhân gây nên sự chậm trễ và đùn đẩy trách nhiệm lẫn nhau
giữa các cấp.
- Nhìn chung, năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý ODA - như đã nêu qua ở trên là khá
yếu kém chưa đáp ứng được nhu cầu. Năng lực của đội ngũ cán bộ trong lĩnh vực này
ở các bộ ngành còn tương đối khả dĩ do được chuyên môn hóa, được đào tạo bồi
dưỡng và có điều kiện tiếp cận các nguồn thông tin cần thiết một cách thường xuyên.
Còn ở các địa phương, đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý ODA chưa được chuyên
môn hóa, ít được bồi dưỡng và không có điều kiện tiếp cận các nguồn thông tin chuyên
biệt. Nếu có chăng cũng chỉ là cho từng dự án một, trong khi trình độ của cán bộ địa

phương lại không đồng đều nên gặp khá nhiều khó khăn. Chẳng hạn ở Bắc Giang, để
23
triển khai một dự án xóa đói giàm nghèo do WB tài trợ, địa phương đã mất hơn 2 năm
cho công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực quản lý của cán bộ địa phương.
24
CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG NGUỒN
VỐN ODA TẠI VIỆT NAM
ODA không phải là nguồn vốn dễ kiếm, không phải là khoản cho không, nó phải được
nhìn nhận như một bộ phận của ngân sách nhà nước. Các cấp quyết định, cơ quan chủ
quản và chủ đầu tư các dự án ODA phải chịu trách nhiệm trước toàn dân không chỉ với
thế hệ hôm nay mà cả mai sau về hiệu quả sử dụng nguồn vốn này. Hơn nữa, nguồn
vốn ODA là không chắc chắn. Vì vậy, quốc gia tiếp nhận vốn ODA không nên quá kỳ
vọng vào nguồn vốn này.
Vai trò của ODA là nguồn lực bổ trợ và xúc tác cho quá trình phát triển. Nhận thức
đúng đắn này sẽ khắc phục tư tưởng thụ động, trông chờ vào viện trợ và giúp phát huy
vai trò chủ động, sáng tạo trong phát triển.
Sau đây là một số giải pháp nhằm tăng cường tính hiệu quả khả năng thu hút và sử
dụng nguồn vốn ODA tại Việt Nam:
1. Hoàn thiện môi trường pháp lý:
Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện chính sách tổng thể về quản lý, giám sát vay và
trả nợ nước ngoài, được hoạch định trong mối tương quan chặt chẽ với các chính sách
và mục tiêu phát triển kinh tế xã hội ở tầm vĩ mô và vi mô.
Tạo sự đồng bộ về chính sách phân cấp trong quản lý, sử dụng vốn ODA, trước
hết là quy trình, thủ tục theo hướng tăng cường năng lực, quyền hạn cụ thể cho các địa
phương, hoàn chỉnh khung pháp luật về quản lý ODA trong thực hiện các giai đoạn
của một chu trình dự án cũng như thể chế hóa quy trình tổ chức thực hiện phân cấp ở
địa phương và các bộ, ngành.
Xây dựng và thực hiện qui trình kỹ thuật dự án theo hướng chuyên nghiệp hóa: từ
khi xác định dự án, chuẩn bị dự án, đánh giá dự án, phê duyệt dự án, đàm phán, ký kết,
đấu thầu, thi công, giám định, đánh giá sau dự án và kiểm toán, mỗi khâu phải được

đảm nhiệm bởi cơ quan chuyên trách. Ban hành hệ thống các hướng dẫn chi tiết trong
từng khâu, từ đó phân định rõ trách nhiệm và quyền hạn của các cấp liên quan. Đặc
biệt, cần có những hướng dẫn cụ thể thực hiện quá trình đánh giá dự án sau hoàn
25

×