Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

skkn Ren chu viet cho hS tieu hoc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (100.87 KB, 8 trang )

Báo cáo đổi mới về rèn chữ viết cho học snh
tiểu học.
Phần I: Lý do chọn đề tài
1. Cơ sở lý luận:
Nh chúng ta đã biết chữ viết có vai trò hết sức quan trọng trong cuộc sống
hàng ngày. Nó là công cụ để giao tiếp và trao đổi thông tin, là phơng tiện để ghi chép
và tiếp nhận những tri thức văn hoá, khoa học và đời sống. Chính vì vậy trong trờng
Tiểu học việc dạy cho học sinh biết chữ và từng bớc làm chủ công cụ chữ viết để giao
tiếp và học tập là mục tiêu hàng đầu của môn Tiếng Việt. Không những thế chữ viết
còn góp phần hoàn thiện nhân cách cho học sinh. Lúc sinh thời cố vấn Phạm Văn
Đồng đã từng nói: Chữ viết là một biểu hiện của nết ngời. Dạy cho học sinh viết
đúng, viết cẩn thận, viết đẹp là góp phần rèn luyện cho các em tính cẩn thận, lòng tự
trọng đối với mình cũng nh đối với thầy và bạn đọc bài vở mình .
Thực hiện yêu cầu đổi mới giáo dục, trong nhiều năm qua việc rèn cho học
sinh viết chữ đẹp, giữ vở sạch ở trờng Tiểu học đã đợc các cấp lãnh đạo quan tâm
đúng mức, nó trở thành điểm nóng thúc đẩy mỗi một ngời giáo viên chúng ta phải
thật sự có ý thức trách nhiệm với học sinh của mình. Có lẽ vì thế mà chất lợng chữ
viết của học sinh ngày càng đợc nâng lên đáng kể. Song trên thực tế không ít giáo
viên của chúng ta cha nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của chữ viết hay cha có
kinh nghiệm trong việc rèn chữ cho nên vẫn còn một bộ phận không nhỏ học sinh của
chúng ta viết chữ cha đúng, viết chậm và cha đẹp. Điều này đã gây khó khăn không
nhỏ đến quá trình học tập của các em. Vậy làm thế nào để chữ viết trở thành một ph-
ơng tiện hỗ trợ đắc lực trong quá trình học tập, lĩnh hội tri thức và giao tiếp hàng
ngày của các em, làm thế nào để các em có đợc kỹ năng và thói quen viết đẹp, biết
trình bày một bài viết có thẩm mỹ, có khoa học? Tất cả những câu hỏi đó đã trở thành
mối băn khoăn, trăn trở của bản thân tôi và có lẽ cũng là mối quan tâm của tất cả
những ngời làm nghề dạy học.
2. Cơ sở thực tiễn:
Thực tế cho thấy rằng các kỹ năng viết đúng, nhanh, đẹp chỉ có thể hình thành
bằng khổ luyện. Về phơng pháp dạy tập viết chắc hẳn thầy cô nào cũng biết nhng
không mấy ai kiên trì thực hiện. Đó là sự tỷ mỷ, kiên nhẫn làm đi làm lại dới sự hớng


dẫn của giáo viên, từ một đến nhiều lần, lần nào cũng với tất cả tấm lòng yêu thơng.
Hiện nay, rất nhiều em học sinh có cách cầm bút và t ngồi viết không đúng quy
định. Thực lòng mà nói đó là trách nhiệm của ngời giáo viên dạy các em cầm bút đầu
tiên. Các em không đợc uốn nắn ngay từ đầu, về sau rất khó chữa. Nhiều giáo viên
cha coi đây là việc làm thờng xuyên, việc luyện t thế ngồi viết đòi hỏi giáo viên phải
kiên nhẫn, nhẹ nhàng. Việc luyện kỹ năng tập viết phải đợc tiến hành đồng bộ ở lớp
cũng nh ở nhà, ở phân môn tập viết (cũng nh các phân môn khác của bộ môn Tiếng
Việt), cũng nh môn học khác. Thế nhng có một bộ phận không nhỏ giáo viên chỉ mới
coi trọng rèn chữ trong giờ tập viết - Một số phụ huynh coi đó là việc làm của nhà tr-
1
ờng trong khi đó với các em phải cần nhắc nhở thờng xuyên, luyện tập liên tục. Học
sinh tiểu học thờng hay bắt chớc. Chữ mẫu của giáo viên trên bảng lớp giúp học sinh
định hớng về cách viết cách nối nét - quy trình và các yêu cầu viết liền mạch. Trong
thực tế nhiều giáo viên chữ viết còn xấu, cha đúng mẫu làm sao để có mẫu đúng cho
các em học tập? Sự lựa chọn giấy vở, chọn bút cho học sinh tập viết cũng là việc làm
rất cần thiết có vai trò không nhỏ quyết định đến chất lợng chữ viết của học sinh. Tuy
nhiên trên thực tế đời sống kinh tế của nhiều phụ huynh còn quá khó khăn cha đáp
ứng kịp yêu cầu của nhà trờng của cô giáo Bấy nhiêu lí do thôi cũng đủ để gây khó
khăn trở ngại cho giáo viên trong phong trào rèn chữ viết cho học sinh. Thực tế còn
bao nhiêu trở ngại trớc mắt. Ngời giáo viên phải làm gì đây trong khi yêu cầu của
phong trào giữ vở sạch viết chữ đẹp ngày càng cao và đang dấy lên thành cao trào ?
Tôi đã hết sức băn khoăn trăn trở và cố gắng tìm cho mình những giải pháp tốt. Đó
chính là lý do tôi chọn đề tài này để nghiên cứu.
Phần II: Thực trạng và giải pháp
1. Thực trạng tình hình:
Năm học 2009-2010 tôi đợc phân công giảng dạy lớp 2. Qua thực tế khảo sát
đầu năm học tôi đã tổng kết thực trạng chữ viết của học sinh lớp tôi nh sau:
- Nhìn chung các em nắm đợc các chữ, biết cách viết chữ .
Về cơ bản các em cũng đã viết đúng mẫu các chữ để ghi âm, vần, tiếng và đảm bảo
đúng cỡ chữ quy định.

- Phần lớn các em cha nắm đợc luật chính tả và viết đúng chính tả. Khi viết các em
cha thể hiện đợc tính thẩm mỹ, cha biết cách trình bày một bài viết theo yêu cầu.
- Bên cạnh đó vẫn còn một bộ phận không nhỏ học sinh viết chữ cha đúng
mẫu, các chữ cái để ghi âm, vần, tiếng, không đúng cỡ chữ (độ cao, độ rộng), khoảng
cách giữa các con chữ, ghi dấu thanh không đúng vị trí Ví dụ: Học sinh thờng viết
sai mẫu chữ nhất là những chữ dễ lẫn nh: n với u, ô với â, k với h, Dấu thanh ghi
không đúng vị trí nh: phừơng, ngọai,
- Một số học sinh cha nắm chắc luật chính tả nên còn viết sai lỗi chính tả rất
nhiều. Đặc biệt phần lớn học sinh viết chữ cha đẹp, cha có tính thẩm mỹ các nét chữ,
con chữ cha đều, sự kết hợp các con chữ cha hài hoà, cha mềm mại. Chữ viết còn
nghiêng ngả (lúc bên phải, lúc bên trái) một cách tuỳ tiện.
- Một số học sinh cha biết cách trình bày một bài viết vừa đảm bảo tính khoa
học vừa thể hiện tính thẩm mỹ, cha biết trình bày một bài văn xuôi khác với bài thơ,
hay thơ lục bát khác với thơ tự do.
Dới đây là số liệu điều tra cụ thể:
SL
học
sinh
Biết cách
trình bày
Viết đúng
mẫu
Viết đúng
tốc độ
Viết đúng
chính tả
Viết đẹp, có sáng tạo
35
SL % SL % SL % SL % SL %
15 43,0 15 43,0 16 45,7 15 43,0 0 0

2
Qua tìm hiểu thực tế tôi thấy đây không chỉ thực trạng chữ viết của riêng học
sinh lớp tôi mà là thực trạng chung của học sinh Tiểu học.
Xuất phát từ tình hình thực tế học sinh và yêu cầu về chữ viết đối với học sinh
lớp 2 bản thân tôi đã không ngừng nghiên cứu, tìm tòi để tìm ra các giải pháp thực
hiện và bớc đầu học sinh có đã có sự tiến bộ rõ rệt. Vì thế tôi mạnh dạn nêu lên
những việc đã làm của bản thân mình trong quá trình rèn chữ ở lớp tôi.
2. Giải pháp về công tác rèn chữ và xây dựng bộ hồ sơ vở sạch chữ đẹp:
2.1. Nâng cao nhận thức của ngời dạy:
Trớc hết tôi nhận thức đợc tầm quan trọng của phân môn Tập viết, chính tả đặc
biệt tôi không hề xem nhẹ việc rèn kỹ năng viết đúng, viết đẹp cho học sinh. Từ nhận
thức đó, tôi luôn tìm tòi tích cực cải tiến và đổi mới phơng pháp dạy học để gây hứng
thú cho học sinh tạo điều kiện thuận lợi cho việc hình thành kỹ năng viết đúng, viết
đẹp của học sinh.
2.2. Bồi dỡng cho học sinh lòng say mê và tinh thần quyết tâm rèn chữ:
Thiết nghĩ khi chúng ta làm bất cứ việc gì nếu có lòng say mê thì tất yếu sẽ có
kết quả cao. Viết chữ cũng vậy, nếu học sinh có lòng say mê rèn chữ, thích viết chữ
đẹp thì việc rèn chữ cho các em sẽ dễ dàng hơn. Để làm đợc việc này tôi thờng kể cho
các em nghe về các gơng viết chữ đẹp nh: Cao Bá Quát, Nguyễn Văn Ký, các gơng
viết chữ đẹp của các học sinh lớp trớc. Tôi cũng su tầm các bài viết chữ đẹp sau đó
cho các em tham khảo để từ đó kích thích sự nỗ lực kiên trì của mỗi học sinh, bồi d-
ỡng cho các em niềm tin và sự quyết tâm trong việc rèn chữ giữ vở.
2.3. Thực hiện đúng quy định khi viết chữ:
Tập viết là môn học của bàn tay và cơ thể đòi hỏi sự chính xác của nét bút, sự
khéo léo trong trình bày, sự nhạy cảm về mỹ thuật khi viết chữ. Chính vì thế, tôi đặc
biệt quan tâm đến việc hớng dẫn học sinh thực hiện đúng quy định khi viết chữ, cụ
thể:
- Về t thế ngồi viết: Học sinh cần ngồi viết với t thế lng thẳng không tì ngực
vào bàn, đầu hơi cúi, mắt cách vở khoảng 25-30cm. Nên cầm bút tay phải, tay trái tì
nhẹ lên mép vở để trang viết không bị xê dịch. Với cách để tay nh vậy, khi viết bàn

tay và cánh tay phải có thể dịch chuyển thuận lợi từ trái sang phải dễ dàng.
- Về cách cầm bút: Khi viết học sinh cầm bút và điều khiển bút bằng 3 ngón
tay (ngón trỏ, ngón cái, ngón giữa) với độ chắc vừa phải (không cầm bút chặt quá hay
lỏng quá). Khi viết dùng 3 ngón tay di chuyển bút nhẹ nhàng từ trái sang phải, cán
bút nghiêng về bên phải, cổ tay, khuỷu tay và cánh tay cử động theo mềm mại, thoải
mái.
- Về cách để vở, xê dịch vở khi viết: Thực hiện đúng quy định về cách để vở,
xê dịch vở khi viết tôi hớng dẫn các em trong quá trình viết chữ đứng cần để vở ngay
ngắn trớc mặt. Nếu tập viết chữ nghiêng (kiểu chữ tự chọn) cần để vở hơi nghiêng sao
cho mép vở phía dới cùng với mép bàn tạo thành một góc 15
o
. Khi viết độ nghiêng
của nét chữ cùng với mép bàn sẽ tạo thành một góc vuông 90
o
. Nh vậy, dù các em
3
viết chữ đứng hay chữ nghiêng nét chữ luôn thẳng đứng trớc mặt các em. Tôi cũng lu
ý các em trong trờng hợp viết chữ bên phải quá xa lề vở, cần xê dịch vở sang bên trái
để mắt các em có thể nhìn thẳng nét chữ, tránh ngoài ngời về bên phải để viết tiếp.
- Về cách trình bày bài: Để giúp các em biết cách trình bày và có thói quen
trình bày bài đẹp, khoa học tôi đã hớng dẫn, tạo cho các em có thói quen không viết
dở dang chữ ghi tiếng hoặc viết chòi ra mép vở không có dòng kẻ li, khi viết sai chữ
không đợc xoá mà cần để cách một khoảng ngắn rồi viết lại.
2.4. Chữ mẫu của giáo viên phải mẫu mực trong mọi trờng hợp:
- Chữ mẫu của giáo viên mà học sinh đợc nhìn thấy hàng ngày chính là cái
đích hình thành kỹ năng mà học sinh cần vơn tới. Từ nhận thức đó bản thân cũng
không ngừng rèn luyện để viết đúng, viết đẹp. Trong mọi trờng hợp tôi luôn cố gắng
viết chữ mẫu mực để học sinh noi theo. Chẳng hạn khi viết trên bảng, khi chấm chữa
bài, ghi sổ liên lạc, ghi nhận xét ở học bạ Thể hiện rõ nhất câu chủ điểm hàng tháng
ở trên lớp, thứ ngày và cách trình bày bảng của giáo viên. Bởi vậy khi viết mẫu trên

bảng giáo viên phải viết chậm rãi, liền mạch các nét trong một chữ. Để tạo điều kiện
cho các em nắm đợc thứ tự viết các nét chữ của từng chữ cái, cách nối của các chữ cái
trong một chữ nhằm đảm bảo yêu cầu viết liền mạch. Ví dụ: Khi viết mẫu chữ h viết
thờng, điểm đặt bút thấp hơn đờng kẻ ngang giữa một chút (1/3 ô) để viết nét khuyết
thẳng xuống đờng kẻ ngang dới. Sau đó rê bút ngợc lên để viết nét móc hai đầu. Chữ
mẫu của giáo viên có vai trò quan trọng nh vậy cho nên nếu giáo viên thực hiện tốt
khâu này trong quá trình luyện viết của các em sẽ đạt đợc chất lợng cao hơn.
2.5. Phối hợp với gia đình học sinh:
Ngay từ đầu năm học tôi đã có những hớng dẫn cụ thể đối với phụ huynh học
sinh để có thể đáp ứng những yêu cầu tối thiểu cho con em khi bớc vào năm học nh:
Vở ghi của học sinh, bút viết, bảng con, phấn viết, thớc kẻ, vở luyện chữ ở lớp, vở
luyện chữ ở nhà, Đây là những phơng tiện thiết yếu để nâng cao chất lợng chữ viết
của học sinh.
Tôi cũng đã phối hợp với phụ huynh có sự kèm cặp sâu sát và thờng xuyên khi
các em học ở nhà (mỗi em có các mẫu chữ hiện hành treo ở góc học tập) để tạo cho
các em có thói quen viết đúng, viết đẹp ở mọi lúc, mọi nơi.
2.6. Đổi mới phơng pháp dạy học:
Muốn học sinh viết đẹp, viết đúng tôi luôn tận tình, tâm huyết, có sự dạy dỗ
công phu theo một phơng pháp khoa học. Trong quá trình dạy và luyện chữ cho học
sinh tôi đặc biệt chú trọng đến phơng pháp thực hành luyện tập giúp học sinh hình
thành và trau dồi kỹ năng viết chữ, cần tạo điều kiện để học sinh chủ động tiếp nhận
kiến thức (tự quan sát, tự nhận xét, tự ghi nhớ), tự giác luyện tập và rút kinh nghiệm
qua thực hành luyện viết dới sự hớng dẫn của giáo viên.
2.7. Tạo không khí thi đua:
Để bồi dỡng cho học sinh một số đức tính và thái độ cần thiết trong việc rèn
luyện chữ viết nh: Lòng say mê, ý chí quyết tâm, tính cẩn thận, chính xác, có óc
4
thẩm mỹ, lòng tự trọng và tinh thần trách nhiệm cao tạo đợc hứng thú cho học sinh
hăng say tập viết và có ý thức viết đúng và viết đẹp hàng tháng tôi đều tổ chức thi vở
sạch chữ đẹp trong lớp với nhiều hình thức khác nhau nh thi vở viết hàng ngày, thi

một bài viết theo yêu cầu của giáo viên Nhờ vậy đã tạo đợc không khí sôi nổi thiết
thực lòng say mê luyện chữ của các em.
2.8. Phân loại các nhóm chữ viết để luyện:
Nếu bớc đầu mà đòi hỏi các em viết đúng và đẹp ngay là điều không thực tế,
khó có thể thực hiện đợc. Do vậy, tôi có kế hoạch mỗi tuần rèn cho các em một loại
chữ nhất định. Rèn viết đúng loại chữ này mới chuyển sang rèn loại chữ khác. Tôi đặt
ra kế hoạch rèn chữ cụ thể. Cứ nh thế, học sinh rất phấn khởi và say mê rèn luyện.
Căn cứ vào đặc điểm cấu tạo nét và mối quan hệ về cách viết các chữ cái tôi
chia ra các nhóm chữ nh sau:
a) Chữ thờng (3 nhóm):
* Nhóm 1: n, m, i, u, , v, r, t (8 chữ cái):
- Trọng tâm để rèn các chữ này là luyện nét móc: Móc ngợc, móc xuôi và móc
hai đầu. Từ các nét cơ bản trên, nếu viết đẹp 8 chữ cái ở nhóm 1 ta dễ dàng viết đợc
các chữ cái khác nh: h, b, p, y,
* Nhóm 2: l, b, h, k, p, y (6 chữ cái):
- Năm chữ cái l, b, h, k, y đều giống nhau ở một nét cơ bản là nét khuyết cho
nên trọng tâm của nhóm chữ này là rèn luyện nét khuyết trên và nét khuyết dới. Tôi
bắt đầu rèn từ nét sổ dọc, khi học sinh đã viết đợc nét sổ ngay ngắn tôi mới tiến hành
luyện viết nét khuyết.
- Viết đợc các chữ cái ở nhóm 1, nhóm 2 học sinh viết các chữ khác có phần
thuận lợi hơn.
* Nhóm 3: o, ô, ơ, a, ă, â, d, đ, q, g, c, x, e, ê, s (15 chữ cái):
- Đối với nhóm chữ này nhiều ngời nghĩ rằng đơn giản, nhng thực tế hầu hết
học sinh viết sai từ chữ o. Vì thế tôi bắt đầu rèn từ chữ o. Tôi kẻ một ô vuông trên
bảng, chia ô vuông thành 3 phần bằng nhau, đánh dấu 4 điểm giữa các cạnh của các
hình chữ nhật dùng phấn màu chấm chấm các điểm thành hình chữ o, sau đó tô lên
các dấu chấm chấm. Giáo viên vừa viết vừa hớng dẫn các em quan sát. Viết đúng,
viết đẹp chữ o học sinh sẽ viết đẹp, viết đúng các chữ cái khác trong nhóm 3.
Khi các em viết đúng, đẹp tất cả các chữ cái tôi lại bắt đầu rèn cho học sinh
viết từ, câu ứng dụng. Ngoài việc làm cho học sinh hiểu đợc ý nghĩa của từ, câu sẽ

viết bằng những lời giải thích ngắn gọn tôi còn hớng dẫn các em nối liên kết liền
mạch các chữ cái. Theo tôi đây là một việc làm hết sức quan trọng. Viết liền mạch
không chỉ làm cho tốc độ viết đợc nâng lên mà còn đảm bảo tính cân đối và yêu cầu
thẩm mỹ của chữ viết. Trên cơ sở quan sát chữ mẫu, giáo viên còn giúp học sinh phân
tích xem trong từ có bao nhiêu chữ cái có độ cao nh nhau, khoảng cách giữa các chữ
cái nh thế nào? Trong từ có bao nhiêu điểm nối các chữ cái? Điểm đặt bút, điểm nối
và điểm dừng bút ở đâu?.
5
Ví dụ: Khi hớng dẫn học sinh viết chữ hoan các điểm liên kết đợc tạo bởi 3
chỗ nối các chữ cái. Chỗ nối thứ nhất giữa h và o là liên kết một đầu. Điểm liên
kết là điểm dừng bút của chữ h, chỗ nối thứ hai giữa o và a, ở đây không có
liên kết vì vậy phải tạo liên kết bằng cách thêm nét phụ. Chỗ nối thứ ba liên kết thuận
chiều giữa a và n. Vì điểm kết thúc của a và điểm bắt đầu n không cùng vị
trí. Do đó tạo liên kết bằng cách kéo dài điểm kết thúc của a sao cho đi qua điểm
bắt đầu của chữ cái n. Điểm đặt bút của chữ hoan là điểm bắt đầu của chữ h.
Điểm kết thúc của chữ hoan là điểm kết thúc của chữ n.
Quy trình viết từng chữ cái các em đã nắm đợc, ngoài ra các em còn biết cách
nối các con chữ. Trên cơ sở đã đợc luyện viết ở lớp, về nhà các em có thể vận dụng để
viết các bài viết đúng và đẹp.
b) Chữ hoa (5 nhóm):
Đối với kiểu chữ hoa tôi cũng phân nhóm tơng tự theo cấu tạo nét giống nhau.
* Nhóm 1: U, Ư, Y, V, X.
* Nhóm 2: A, Ă, Â, N, M.
* Nhóm 3: C, G, E, Ê, T.
* Nhóm 4: P, R, B, D, Đ, I, K, H, S, L, V.
* Nhóm 5: O, Ô, Ơ, Q.
Phần III: Kết quả đạt đợc
Sau một thời gian trực tiếp giảng dạy với tất cả sự tâm huyết của mình bản thân
tôi đã tự tìm tòi học hỏi và đúc rút kinh nghiệm khắc phục những tồn tại nên đã thu
đợc một số kết quả sau:

1. Về giáo viên:
Tôi đã thành thạo trong việc sử dụng các biện pháp luyện chữ cho học sinh. Biết
kết hợp nhuần nhuyễn và đồng thời hai yếu tố: bồi dỡng về tình cảm và hình thành
kiến thức, quy định khi viết chữ. Dạy học theo nguyên tắc đi từ dễ đến khó, từ cụ thể
đến khái quát. Chẳng hạn muốn luyện các con chữ trớc tiên tôi luyện các nét cấu tạo
cơ bản của con chữ đó. Triệt để khai thác khả năng tự nhận xét của học sinh đối với
sản phẩm của mình. Một khi học sinh đã biết nhận xét tức là các em đã nắm đợc
chuẩn mực thế nào là chữ đẹp. Từ đó giáo viên sẽ dễ dàng uốn nắm hơn (Tất nhiên
những hoạt động nhận xét của học sinh đều diễn ra dới sự hớng dẫn của giáo viên).
Nhờ vậy, trong học kỳ vừa qua chất lợng chữ viết của học sinh lớp tôi đã tiến bộ rõ
rệt.
* Đó là những thành công nhất định mà bản thân tôi đã đạt đợc trong năm học
này.
2. Về học sinh:
a) Về tốc độ: Đa số các em đều đã viết đúng theo tốc độ quy định
(60chữ/15phút).
b) Về kỹ năng viết: Các em đã khắc phục đợc tình trạng viết sai lỗi chính tả,
viết đúng mẫu chữ quy định, nhiều em có nét chữ rất mềm mại và đã thể hiện đợc nét
6
thanh nét đậm. Thậm chí nhiều em còn biết viết cách điệu các con chữ hoa để bài viết
có tính sáng tạo hơn.
c) Về kỹ năng trình bày: 71,4% học sinh biết cách trình bày bài hợp lý, bố cục
cân đối, nhan đề nổi rõ so với bài viết. Biết cách trình bày các thể thơ, đoạn văn hay
một đoạn hội thoại.
Điều đáng nói ở đây là các em rất có hứng thú và say mê luyện chữ. Các em đã
chủ động tự giác tham gia, biết cách học hỏi bạn bè và cô giáo. Cuối học kỳ II lớp tôi
có 25 em đạt loại A chiếm 71,4%.
Dới đây là kết quả khảo sát cụ thể:
SL
học

sinh
Biết cách
trình bày
Viết đúng
mẫu
Viết đúng tốc độ
Viết đúng chính
tả
Viết đẹp, có
sáng tạo
35
SL % SL % SL % SL % SL %
25 71,4 20 57,1 34 97,1 31 88,6 20 57,1
Phần IV: Kết luận
1. Bài học kinh nghiệm:
- Rèn chữ viết cho học sinh Tiểu học nói chung và học sinh lớp 3 nói riêng là
nhiệm vụ rất quan trọng của ngời giáo viên. Các em có đợc kỹ năng viết tốt mới có
thể học tốt các môn học khác.
- Nắm vững cấu tạo của từng con chữ, khoảng cách giữa các con chữ để trình
bày bài viết của mình có thẩm mỹ.
- Để giúp học sinh viết đúng, đẹp giáo viên cần tổ chức cho các em rèn chữ th-
ờng xuyên, ngay trong từng buổi học, tiết học,
- Khuyến khích động viên có bài viết đẹp, chính xác nhằm nâng cao khả năng
cảm nhận cái đẹp của chữ viết.
- Chú trọng đến từng đối tợng học sinh khi rèn chữ.
- Chữ viết của giáo viên phải mẫu mực ở bất cứ nơi nào.
2. Đề xuất:
Quá trình nghiên cứu đề tài này tôi đã lấy vai trò của chữ viết làm căn cứ và đã
khảo sát chữ viết của học sinh trên nhiều phơng diện khác nhau. Trên cơ sở đó, tôi
xin đề xuất một vài ý kiến nhằm góp phần nâng cao chất lợng viết chữ đẹp, giữ vở

sạch cho học sinh tiểu học nh sau:
2.1. Các cấp lãnh đạo cần có sự quan tâm chỉ đạo sâu sát và bồi dỡng cho đội
ngũ giáo viên có nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của việc rèn chữ.
2.2. Nên tổ chức nhiều cuộc hội thảo, chuyên đề về việc rèn chữ đẹp giữ vở
sạch. Nhiều kinh nghiệm quý báu từ các đơn vị trờng học khác nhau sẽ giúp cho các
đồng chí lãnh đạo có nhiều giải pháp khả thi để áp dụng vào cơ sở mình có hiệu quả
hơn. Mặt khác, cũng thông qua các cuộc hội thảo, chuyên đề ngời lãnh đạo sẽ nắm rõ
đợc thực trạng tình hình từ đó có hớng chỉ đạo, điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp,
thống nhất trong toàn cơ sở.
7
2.3. Cần có sự quan tâm về trang thiết bị, cơ sở vật chất và các phơng tiện dạy
học đảm bảo yêu cầu, cụ thể: phòng học đủ ánh sáng, bàn ghế vừa tầm vóc học sinh,
bảng chống loá
Trên đây là một vài kinh nghiệm mà tôi đã đúc rút đợc trong quá trình rèn chữ
viết và xây dựng bộ hồ sơ vở sạch chữ đẹp trên thực tế đã đạt đợc những thành công
nhất định. Tôi mạnh dạn nêu ra để hội đồng khoa học xem xét, bổ sung, góp ý kiến
để tôi có thêm những báo cáo kinh nghiệm trong giảng dạy nhằm nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ. Từ đó, góp phần nâng cao chất lợng giáo dục toàn diện cho
học sinh.
Xin chân thành cảm ơn sự đóng góp ý kiến của các cấp lãnh đạo và đồng
nghiệp.
Đánh giá của hội đồng khoa học trờng.
Tuyên Quang,ngày 14tháng 4 năm 2010
Ngời viết báo cáo

Bùi Thị Hơng
8

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×